11/4/12

Harry Potter và Hoàng Tử Lai (C13)

Katie đã được chuyển đến bệnh viện Thánh Mungo vì những Chứng Bệnh và Chấn Thương Phù Thuỷ vào ngày sau đó, vào thời gian đó tin tức về việc cô bé bị trúng bùa ếm đã lan ra khắp trường, mặc dù chi tiết thế nào vẫn còn bị lẫn lộn và không một ai ngoài Harry, Ron, Hermione, và Leanne có vẻ biết rằng bản thân Katie không phải là mục tiêu ban đầu.

“Ôi trời, và chắc chắn là Malfoy biết,” Harry nói với Ron và Hermione, trong khi hai đứa vẫn tiếp tục cái chính sách giả vờ điếc của mình mỗi khi Harry nhắc đến cái lý thuyết Malfoy-là-Tử-Thần-Thực-Tử.

Harry rất phân vân không hiểu thày Dumbledore đã về chưa từ cái nơi mà thày đã đến cho buổi học tối thứ Hai, nhưng mà không thấy thày nói gì, nó vẫn đến cửa văn phòng của thày Dumbledore vào tám giờ tối, gõ cửa, và được gọi vào. Ở đó thày Dumbledore ngồi với vẻ mệt nhọc khác thường; tay của thày vẫn còn cháy đen như trước, nhưng thày vẫn cười khi giơ tay mời Harry ngồi xuống. Cái Tưởng Ký lại xuất hiện ở trên bàn, chiếu những đốm sáng bàng bạc lên trần nhà.

“Con đã có một thời gian rất bận rộn khi ta đi vắng,” Dumbledore nói. “Ta tin rằng con đã tận mắt chứng kiến tai nạn của Katie.”

“Vâng thưa thày. Bạn ấy thế nào rồi?”

“Vẫn còn tồi tệ lắm, mặc dù cô bé đã rất may mắn đấy. Cô bé xem ra đã chạm vào cái vòng cổ với khả năng nhỏ nhất có thể; có một cái lỗ rất nhỏ ở găng tay của nó. Nếu như nó đeo cái vòng vào, nếu như nó cầm cái vòng bằng đôi tay trần, có thể nó đã chết rồi, thậm chí ngay lập tức cơ đấy. Thật là may, Giáo sư Snape đã làm đủ cách để ngăn cản sự phát tán của bùa mê…”

“Tại sao lại là thày ấy?” Harry hỏi ngay lập tức. “Tại sao lại không phải là Bà Pomfrey?”

“Xấc láo quá,” một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên từ một trong những bức chân dung ở trên tường, và Phineas Nigellus Black, kỵ của chú Sirius, ngẩng đầu lên từ bàn tay mình, nơi mà cụ có vẻ như là đang ngủ. “Ta sẽ không bao giờ chấp nhận một học sinh hỏi về cách Hogwarts được quản lý thế nào ở thời của ta.”

“Vâng, cám ơn ngài, Phineas,” Dumbledore nói một cách kìm nén. “Giáo sư Snape biết về Nghệ Thuật Hắc Ám nhiều hơn bà Pomfrey nhiều Harry à. Dù sao thì nhân viên của bệnh viện Thánh Mungo đang gửi cho ta những bản báo cáo hàng giờ và ta mong rằng cô bé sẽ kịp hồi phục hoàn toàn.”

“Cuối tuần vừa rồi thày ở đâu vậy thưa thày?” Harry hỏi, bất chấp cái cảm giác mạnh mẽ rằng nó đang đẩy vận may của mình đi quá xa, một cảm xúc mà rõ ràng Phineas Nigellus cũng đang gặp phải, cụ hít hơi nhẹ nhàng.

“Ta sẽ không nói ngay bây giờ đâu,” Dumbledore nói. “Nhưng ta sẽ kể cho con lúc hợp lý nhất.”

“Thày sẽ kể chứ?” Harry nói, giọng run run.

“Đúng, ta cho là như vậy,” Dumbledore nói, lấy ra một dòng trí nhớ sáng loáng bàng bạc từ bên trong áo choàng và thả nó ra bằng một cái vẫy nhẹ vào đũa thần.

“Thưa thày,” Harry ậm ừ, “Con đã gặp Mundungus ở làng Hogsmeade.”

“À, đúng, ta nhận thấy rằng Mundungus đã phản ứng với việc thừa kế của con bằng một số hành động ăn cắp vặt xấu xa,” Dumbledore nói, hơi có vẻ giận dữ. “Hắn đã đến khu nhà kể từ khi con bắt chuyện với hắn ở ngoài cửa hiệu Ba Cây Chổi Thần; ta thì nghĩ rằng hắn sợ phải giáp mặt với ta. Dù sao thì cứ an tâm rằng hắn sẽ không thể thoát được cùng với bất cứ thứ tài sản nào của Sirius nữa đâu.”

“Cái thằng con lai dơ dáy đó đã ăn cắp đồ gia truyền dòng họ Black à?” Phineas Nigellus nói, điên tiết lên; và cụ đã chui khỏi bức tranh của cụ, chắc chắn là để đến bức chân dung của cụ ở số 12, Quảng trường Grimmauld.

“Thưa thày,” Harry nói, sau một thời gian ngắn im lặng, “Giáo sư McGonagall đã nói cho thày cái mà con đã nói cho Giáo sư biết sau khi Katie bị thương chưa ạ? Về Draco Malfoy ấy?”

“Bà đã nói với ta về những nghi ngờ của con rồi,” Dumbledore nói.

“Thế thày có…?”

“Ta sẽ xem xét tất cả những biện pháp phù hợp nhất để điều tra bất cứ ai có dính líu đến tai nạn của Katie,” Dumbledore nói. “Nhưng mà điều mà ta quan tâm bây giờ là buổi học của chúng ta, Harry à.”

Harry cảm thấy hơi không bằng lòng về việc này: Nếu như những buổi học của họ thật sự quan trọng, tại sao lại có một khoảng thời gian rất dài giữa tiết học thứ nhất và thứ hai? Dù sao chăng nữa, nó cũng không nói thêm một lời nào về Draco Malfoy, mà chỉ quan sát khi thày Dumbledore trút những ký ức mới vào trong cái Tưởng Ký và bắt đầu quay cái chậu đá một lần nữa bằng hai bàn tay dài của mình.

“Con sẽ vẫn còn nhớ, ta chắc chắn vậy, rằng chúng ta đã dừng câu chuyện về sự khởi đầu của chúa tể Voldermort tại thời điểm mà một Muggle đẹp trai, Tom Riddle, đã từ bỏ cô vợ phù thuỷ của anh ta, Merope, và trở về ngôi nhà của gia đình ở Little Hangleton. Merope đã bị bỏ một mình ở London,chờ ngày ra đời của đứa trẻ mà một ngày nào đó sẽ trở thành chúa tể Voldermort.”

“Tại sao thày lại biết bà ấy ở London, thưa thày?”

“Bởi vì có một bằng chứng về Caractacus Burke” Dumbledore nói, “người mà, bằng một sự trùng hợp kỳ lạ, đã giúp tìm ra cái cửa hiệu bán có chiếc vòng cổ mà chúng ta vừa bàn tới lúc nãy.”

Thày trộn đều cái dung dịch ở trong cái Tưởng Ký giống như Harry đã nhìn thấy mấy lần trước, giống như một người đãi vàng đang tìm kiếm những hạt vàng vậy. Ở phía trên của vòng xoáy, một khối bạc làm nổi lên một người đàn ông nhỏ bé quay chầm chậm ở trong chiếc Tưởng Ký, trắng sáng như một con ma nhưng mà có vẻ đặc hơn, với một mái tóc bờm xờm hoàn toàn che lấp đôi mắt của ông ta.

“Phải, chúng tôi đã có nó trong những trường hợp thật gây trí tò mò. Nó đã được một nữ phù thuỷ trẻ mang đến ngay trước Giáng sinh, ồ, tất nhiên là từ rất nhiều năm về trước rồi . Cô ta nói rằng cô ấy cần tiền vàng gấp, ừm, điều đó là quá rõ ràng. Bao bọc bởi những miếng giẻ rách và khá xa đằng kia… Sẽ có một đứa con, thấy chưa. Cô ta nói rằng cái mề đay đó đã từng sở hữu bởi Slytherin. Xem nào, chúng ta lúc nào mà chả được nghe những câu chuyện như vậy, ‘Ồ, cái này của Merlin đấy, nó đã là cái ấm trà ưa thích của ông ta,’ nhưng mà khi ta nhìn vào đó, nó đúng là có dấu ấn của ông ta, và một vài bùa chú đơn giản là đủ để nói cho ta biết sự thật là gì. Tất nhiên rằng điều đó làm cho nó gần như vô giá. Cô ta đã không hề biết rằng nó đáng giá thế nào. Bằng lòng với 10 Galleon cho nó, đúng là cuộc mặc cả lời nhất mà ta từng thực hiện!”

Dumbledore lắc cái chậu mạnh hơn nữa và Caractacus Burke chìm xuống vào trong cái khối ký ức đang xoáy tròn, nơi mà ông đã hiện ra.

“Ông ấy chỉ cho bà có 10 Galleon thôi à?” Harry căm phẫn.

“Caractacus Burke không hề nổi tiếng về tính hào phóng của mình,” Dumbledore nói. “ Vậy chúng ta biết đựợc rằng, trong thời kỳ cuối mang thai của mình, Merope đã ở một mình ở London và rất cần tiền vàng, cần đến mức phải bán tài sản giá trị duy nhất của mình, cái mề đay mà đã từng là tài sản gia truyền của Marvolo.”

“Nhưng mà bà có thể dùng ma thuật chứ!” Harry thiếu bình tĩnh. “Bà có thể có thức ăn và mọi thứ bà muốn bằng phép thuật phải không?”

“À,” Dumbledore nói, “có thể bà ta có khả năng đó. Nhưng theo ta nghĩ - ta chỉ đoán thôi nhé, nhưng mà ta chắc chắn rằng ta đúng - rằng khi chồng bà bỏ đi, Merope đã ngừng sử dụng ma thuật. Ta không nghĩ rằng bà còn muốn tiếp tục là một phù thuỷ. Tất nhiên rằng, cũng có khả năng là tình yêu không được đáp lại cùng nỗi thất vọng rất lớn đã rút mòn phép thuật ra khỏi bà ta; điều đó cũng có thể lắm chứ. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, giống như con sẽ thấy đây, Merope từ chối việc giơ đũa thần lên ngay cả để cứu mạng sống của chính bà.”

“Bà không thể sống vì con trai của bà sao?”

Dumbledore nhướn lông mày. “Con có thể cảm thấy thương Chúa tể Voldermort cơ à?”

“Không,” Harry trả lời nhanh chóng, “nhưng mà bà có sự lựa chọn cơ mà, không giống như mẹ của con…”

“Mẹ của con cũng có sự lựa chọn,” thày Dumbledore nói nhẹ nhàng. “Đúng, Merope Riddle chọn lấy cái chết thay cho đứa con đang cần có bà, nhưng mà đừng có xét đoán quá khắc nghiệt nhé Harry. Bà đã yếu đi rất nhiều bởi sự chịu đựng trong thời gian dài và bà không hề có sự dũng cảm của mẹ con. Và bây giờ, nếu như con có thể đứng lên…”

“Chúng ta đi đâu thế?” Harry hỏi khi thày Dumbledore đứng cùng nó ở trước cái bàn.

“Lần này,” Dumbledore nói, “chúng ta sẽ đi vào ký ức của ta. Ta nghĩ là con sẽ thấy điều đó thật chi tiết và chính xác. Con đi trước đi Harry…”

Harry cúi xuống cái Tưởng Ký; mặt của nó chạm vào bề mặt của khối ký ức và sau đó nó lại rơi vào khoảng không tối mù mịt… Vài giây sau, chân nó đáp xuống mặt đất cứng; nó mở mắt ra và thấy rằng nó cùng thày Dumbledore đang đứng trong một con phố ở London, nhộn nhạo và cũ kỹ.

“Ta ở đó kìa,” Dumbledore nói vui vẻ, chỉ về phía trước họ vào một hình dáng cao cao đang qua phố ở đằng trước một chiếc xe chở sữa có vẽ hình một con ngựa.

Mái tóc và râu dài của Albus Dumbledore trẻ có màu vàng nâu. Đã đến được phía này của con phố, ông ta bước nhanh trên vỉa hè, kéo theo rất nhiều cái nhìn tò mò vì cái áo ngắn sặc sỡ bằng nhung màu mận mà ông đang mặc.

“Cái áo đẹp đấy thưa thày,” Harry nói trước khi nó có thể tự mình dừng lại, nhưng mà Dumbledore chỉ cười khẽ khi họ đi theo cái bản sao trẻ của ông ở một khoảng cách gần, cuối cùng đi qua một lũ những cánh cửa sắt để vào một cái sân xác xơ, đứng trước một toà nhà hình khối, tiều tuỵ, bao bọc bởi hàng rào chắn khá cao. Ông bước thêm một vài bước tới cửa trước và gõ một lần. Sau một vài khoảnh khắc ngắn ngủi, cánh cửa được mở ra bởi một cô bé lếch thếch đang đeo tạp dề.

“Chào cô. Ta có một cuộc hẹn với bà Cole, mà ta tin rằng bà là người quản lý ở đây?”

“Ồ,” cô bé bối rối, nói với vẻ bề ngoài kỳ dị của Dumbledore.

“Ừm… chờ một ch… BÀ COLE!” cô hét to ra đằng sau lưng mình.

Harry nghe thấy một tiếng trả lời gì đó ở xa xa. Cô gái quay lại chỗ thày Dumbledore. “Mời vào, bà chủ đang đến đây.”

Dumbledore bước vào một hành lang lát bởi màu đen và trắng; cả nơi này đều tồi tàn nhưng lại sạch không một hạt bụi. Harry và thày Dumbledore già hơn bước theo sau. Trước khi cửa chính đóng lại sau lưng họ, một người phụ nữ gầy gò, có vẻ phiền muộn nhiều, bước nhanh về phía họ. Bà có một nét mặt rất sắc mà có vẻ biểu hiện lo âu hơn là thiếu hiếu khách, và bà đang nói ra phía sau với một người giúp việc khác, cũng đeo tạp dề , khi bà đi về phía Dumbledore.

“… và đem lọ iốt lên gác cho Martha luôn nhé, Billy Stubbs thì cứ bong vảy nến ra, còn Eric Whalley thì vỡ mủ ra đầy giường - trị bệnh thuỷ đậu là trên hết,” bà không nói cho cụ thể một ai, sau đó mắt bà dừng lại ở Dumbledore, và bà đứng sững lại, bị bất ngờ như thể có một con hươu cao cổ vừa vào nhà của bà.

“Chào bà,” Dumbledore nói, hai bàn tay nắm vào nhau. Bà Cole vẫn há hốc mồm.

“Tên tôi là Albus Dumbledore. Tôi đã gửi cho bà một bức thư xin phép được hẹn gặp và bà đã rất tử tế mời tôi đến đây ngày hôm nay.”

Mà Cole chớp mắt. Rõ ràng bà đã chắc chắn rằng Dumbledore không phải là ảo giác, bà nói khẽ, “Ồ vâng. Thế thì… ông nên lên phòng tôi thì hơn. Đúng rồi.”

Bà dẫn Dumbledore đến một căn phòng nhỏ mà có lẽ nửa là phòng khách, nửa là văn phòng của bà. Nó cũng tồi tàn như hành lang vậy, và đồ đạc thì đã cũ và rất thiếu ăn nhập. Bà mời Dumbledore ngồi xuống một cái ghế ọp ẹp, còn tự mình ra đằng sau cái bàn làm việc bừa bộn, nhìn ông bồn chồn.

“Tôi ở đây, như đã nói trong thư rồi, để bàn về cậu Tom Riddle và sắp xếp cho tương lai của cậu ta,” Dumbledore nói.

“Ông là người trong gia đình à?” bà Cole hỏi.

“Không, tôi là một giáo viên,” Dumbledore nói. “Tôi đến để cho Tom một chỗ trong trường học của tôi.”

“Trường gì thế?”

“Nó được gọi là Hogwarts,” Dumbledore nói.

“Tại sao ông lại quan tâm đến Tom như vậy?”

“Chúng tôi tin rằng nó có những phẩm chất mà chúng tôi đang tìm.”

“Ông nói rằng nó có một suất học bổng à? Làm thế nào mà nó có được? Nó đã bao giờ đăng ký cho suất học bổng nào đâu?”

“Ừm, tên của nó đã được gửi đến trường của chúng tôi ngay khi nó sinh…”

“Ai đăng ký cho nó thế? Cha mẹ nó à?”

Không thể chối cãi rằng bà Cole là một người sắc sảo đến mức khó chịu. Rõ ràng Dumbledore cũng nghĩ vậy, vì Harry đã thấy ông đang kéo cây đũa thần ra khỏi bộ áo nhung của mình và cùng lúc, lấy một mẩu giấy trắng hoàn toàn trên bàn của bà Cole.

“Đây,” Dumbledore nói, vẫy đũa thần một lần khi ông đưa cho bà tờ giấy, “Tôi tin rằng cái này sẽ giải thích mọi thứ.”

Bà Cole mất tập trung và rồi lại nhìn chằm chằm vào tờ giấy trắng trong một lúc lâu.

“Tất cả đều đã được sắp xếp rất hợp lý,” bà nói khẽ, đưa nó lại cho ông. Sau đó mắt của bà dừng ở một chai rượu gin và hai chiếc ly mà chắc chắn đã không ở đó vài giây trước.

“Ờ… tôi mời ông một cốc rượu gin nhé?” bà nói với giọng hơi quá lịch sự.

“Cám ơn bà rất nhiều,” Dumbledore vui vẻ.

Chẳng mấy chốc mà ta có thể thấy rằng bà Cole không hề ngây thơ với việc uống rượu. Rót cho cả hai người hai cốc đầy rượu, bà đã uống phần của bà trong một hơi. Liếm môi một cách thoải mái, bà cười với Dumbledore lần đầu tiên trong ngày hôm đó, và ông đã không phân vân sử dụng ngay cái ưu thế của mình.

“Tôi phân vân không biết rằng bà có thể kể cho tôi nghe câu chuyện về cuộc đời của Tom Riddle được không? Tôi nghĩ rằng nó được sinh ra ở trại mồ côi này phải không?”

“Đúng đấy,” bà Cole nói, tự rót cho mình thêm một cốc rượu. “Tôi nhớ nó rõ như những thứ khác nữa, vì vào lúc đó tôi vừa mới mở cái trại mồ côi này thôi. Đêm Giao thừa, lạnh thấu xương, và tuyết nữa, ông biết không. Một đêm tồi tệ. Và cô gái đó, cũng chẳng lớn tuổi hơn tôi là mấy, đã lảo đảo ở cửa trước. Thực ra thì cô ta không phải là người đầu tiên. Tôi cho cô ta vào, và đỡ cho cô ta một giờ sau đó. Cô ta chết một giờ tiếp sau.”

Bà Cole gật gù và nhấp thêm một ngụm lớn rượu.

“Thế cô ta có nói gì trước khi chết không?” Dumbledore hỏi. “Có cái gì liên quan đến cha thằng bé, ví dụ thế?”

“Bây giờ, nếu đã vậy thì, cô có nói,” bà Cole có vẻ tự bằng lòng với chính mình, với cốc rượu trong tay và vị thính giả sốt sắng với câu chuyện của bà. “Tôi nhớ rằng cô ta đã nói với tôi, ‘Tôi mong rằng nó sẽ giống ba của nó,’ và tôi không nói dối đâu, cô ta đã rất đúng khi mong như thế, vì cô chẳng đẹp tí nào cả - và cô nói rằng thằng bé sẽ được đặt tên là Tom, giống bố nó, và Marvolo, giống bố của cô ta - đúng rồi, tôi biết, cái tên buồn cười thật phải không? Chúng tôi đã phân vân không biết có phải cô ta đến từ một gánh xiếc không - và cô nói rằng họ của đứa bé là Riddle. Rồi sau đó cô ta chết mà không nói thêm một lời nào.

“Thế nên chúng tôi đặt tên cho nó như cô ta nói, điều đó có vẻ rất quan trọng đối với cô gái tội nghiệp, nhưng mà chẳng có lão Tom hay Marvolo hay ai đó họ Riddle đến tìm nó cả, cũng chẳng có gia đình nào nữa luôn, nên nó ở lại trong trại mồ côi từ bấy đến giờ.”

Bà Cole lại rót thêm cho mình một cốc đầy rượu nữa, gần như là phản xạ không điều kiện. Hai nốt màu hồng đã xuất hiện ở trên gò má của bà. Rồi bà nói, “nó là một cậu bé vui tính đấy.”

“Vâng,” Dumbledore nói. “Tôi đã nghĩ rằng nó sẽ như vậy.”

“Nó cũng đã là một đứa bé vui vẻ. Nó chẳng khóc bao giờ. Nhưng sau đó, khi nó lớn dần lên, nó rất là… kỳ lạ.”

“Kỳ lạ thế nào thế?” Dumbledore hỏi nhẹ nhàng.

“Hừm, nó…”

Nhưng mà bà Cole dừng lại ngay lập tức, và chẳng hề có chút lơ mơ hay thiếu thận trọng nào trong cái nhìn xét đoán mà bà ném về phía Dumbledore qua cốc rượu của bà.

“Nó sẽ có được một chỗ trong trường của ông chứ, ông đã nói?”

“Chắc chắn là vậy,” Dumbledore nói.

“Và những gì tôi nói không thể thay đổi được điều đó?”

“Chẳng có gì cả,” Dumbledore nói.

“Ông có thể đem nó đi, bất kể điều gì?”

“Bất kể điều gì,” Dumbledore nhắc lại vẻ nghiêm trang.

Bà liếc sang ông như thể quyết định xem có nên tin tưởng ông hay không. Rõ ràng là bà đã quyết định rằng có, bởi vì bà nói ngay lập tức, “Nó làm những đứa trẻ khác sợ.”

“Ý bà nói nó là thằng côn đồ à?” Dumbledore hỏi.

“Tôi nghĩ là nó có thể như vậy,” bà Cole nói hơi có vẻ nghiêm trọng, “nhưng mà khó có thể bắt gặp nó trong những vụ như vậy. Đã có những bằng chứng… những thứ kỳ lạ…”

Dumbledore không giục bà, mặc dù Harry có thể nói rằng ông đang bị cuốn hút. Bà uống thêm một ngụm rượu và hai bên má ửng hồng của bà càng thêm đỏ.

“Con thỏ của Billy Stubbs… ừm, Tom nói là nó không làm vậy, và tôi cũng chẳng biết nó làm thế nào nữa, nhưng mà dù sao đi nữa thì con thỏ cũng không thể tự treo mình lên xà nhà được phải không?”

“Tôi không nghĩ là như thế, không thể,” Dumbledore nói khẽ.

“Nhưng mà tôi điên mất nếu như tôi biết nó làm thế nào để lên được trên đấy. Tất cả những gì tôi được biết là nó với Billy đã hục hoặc với nhau ngày hôm trước. Và sau đó thì…” bà Cole tớp thêm một ngụm rượu, làm vãi một chút ra cằm, “trong buổi đi chơi mùa hè, chúng tôi cho lũ trẻ ra ngoài, ông biết đấy, một năm một lần, đến vùng quê hoặc là ra bãi biển - xem nào, Amy Benson và Dennis Bishop đều kô còn bình thường sau đó , và tất cả những gì chúng tôi nghe được từ hai đứa là bọn nhỏ đã đi cùng Tom vào trong cái hang. Nó thề rằng bọn trẻ chỉ đi vào đó để thám hiểm chút thôi, nhưng mà có cái gì đó đã xảy ra trong cái hang, tôi chắc chắn đấy. Và thêm nữa, có rất nhiều thứ khác, rất buồn cười…”

Bà nhìn quanh vào Dumbledore một lần nữa, và mặc dù má của bà ta đã ửng đỏ lên rồi, cái nhìn của bà ta rất chắc chắn. “Tôi không nghĩ rằng có nhiều người sẽ hối tiếc khi được nhìn thấy lưng của nó.”

“Bà sẽ hiểu rằng, tôi chắc chắn vậy, chúng tôi không giữ nó liên tục đâu,” Dumbledore nói. “Nó sẽ trở lại đây, ít nhất là, mỗi kỳ nghỉ hè.”

“Ồ, điều đó ít ra còn khá hơn bị đập vào mặt bởi một cái que bẩn thỉu,” bà Cole nói trong một cái nấc nhẹ. Bà đứng lên, và Harry rất bất ngờ khi thấy bà vẫn có thể đứng vững được, mặc dù hai phần ba của chai rượu đã vơi đi. “Tôi cho rằng ông muốn gặp thằng bé?”

“Rất hân hạnh,” Dumbledore nói, cũng đứng dậy.

Bà đưa ông ra khỏi văn phòng và đến một cầu thang bằng đá, phát ra những lời chỉ dẫn và quở trách đến những người giúp việc và lũ trẻ khi bà đi qua. Những đứa trẻ mồ côi, theo Harry nhìn thấy, đều mặc cùng một thứ đồng phục màu xam xám. Bọn chúng có vẻ được chăm sóc rất tử tế, nhưng không thể chối cãi được đây là một nơi khắc nghiệt để lớn lên.

“Đây rồi,” bà Cole nói, khi họ rẽ sang khu thứ hai và dừng ở trước một cánh cửa trong một hành lang dài. Bà gõ hai cái và bước vào.

“Tom? Con có khách đến thăm này. Đây là ông Dumberton - xin lỗi, Dunberbore. Ông đến để nói với con rằng… thôi ta để ông tự nói thì hơn.”

Harry và cả hai ông Dumbledore đều vào phòng, và bà Cole đóng cửa lại sau lưng họ. Đó là một căn phòng nhỏ trống rỗng trừ một cái tủ quần áo cũ kỹ và một cái khung giường bằng sắt. Đứa bé đang ngồi ở trên một cái chăn màu xám, hai chân giơ ra ở phía trước để giữ một quyển sách.

Không hề có vẻ gì của gia đình Gaunt trên mặt của Tom Riddle. Merope đã có được lời ước nguyện cuối cùng trước khi chết: Nó có vẻ đẹp trai của bố, khá cao ở cái tuổi 11, tóc đen, và tai tái. Mắt của nó khẽ khép lại khi nó nhìn thấy cái vẻ kỳ lạ của Dumbledore. Có một khoảnh khắc im lặng.

“Chào con, Tom?” Dumbledore nói, bước lên trước và giơ tay ra. Cậu bé lưỡng lự, rồi cầm lấy nó, họ bắt tay nhau. Dumbledore mở cái ghế gỗ cứng ở bên cạnh Riddle, hai người họ trông giống như là bệnh nhân và người đến thăm bệnh vậy.

“Ta là Giáo sư Dumbledore.”

“Giáo sư à?” Riddle nhắc lại. Nó có vẻ đề phòng. “Thế có giống ‘bác sĩ’ không? Ông làm gì ở đây thế? Bà ấy cho ông vào để xem chừng ta à?”

Nó chỉ vào cánh cửa nơi mà bà Cole vừa mới rời khỏi.

“Không, không,” Dumbledore cười.

“Ta không tin ông đâu,” Riddle nói. “Bà ấy muốn xem chừng ta có phải không? Nói thật đi!” Nó nói ba từ cuối cùng với cái mãnh lực khiến cho người ta phải phát nghẹn. Đó là một mệnh lệnh, và nó được thốt ra như thể thằng bé đã nói như vậy rất nhiều lần rồi. Mắt nó trừng trừng nhìn vào Dumbledore, trong lúc đó không hề phản ứng gì cả ngoài việc tiếp tục cười thân mật. Sau đó vài giây Riddle không còn trừng mắt nữa, mặc dù nó có vẻ thận trọng hơn.

“Ông là ai?”

“Ta đã nói với con rồi. Tên ta là Giáo sư Dumbledore và ta làm việc tại một ngôi trường tên là Hogwarts. Ta đến để cho con một chỗ học trong trường của ta… trường học mới của con đấy, nếu như con muốn đến đó.”

Phản ứng của Riddle trước sự kiện này mới thật là bất ngờ. Nó trượt khỏi giường và lùi lại khỏi Dumbledore, có vẻ rất tức giận.

“Ông không lừa ta được đâu! Nhà thương điên là nơi ông làm việc phải không? ‘Giáo sư’ à, đúng không… ta không đi đâu, thấy chưa? Cái con mèo già đó mới phải vào nhà thương điên. Ta chẳng làm gì Amy Benson bé nhỏ hay Dennis Bishop cả, và ông có thể hỏi bọn nó, bọn nó sẽ kể cho ông nghe!”

“Ta không đến từ trại thương điên đâu,” Dumbledore nói điềm tĩnh. “Ta là một giáo viên, và nếu như con ngồi xuống bình tĩnh lại, ta sẽ kể cho con nghe về Hogwarts. Tất nhiên rằng nếu con không muốn đến trường thì chẳng có ai ép buộc con được cả…”

“Ta muốn xem bọn nó thử bắt ép ta xem thế nào,” Riddle gầm gừ.

“Hogwarts,” Dumbledore tiếp tục nói, tựa như ông không hề nghe thấy những lời cuối cùng của Riddle, “là trường học dành cho những đứa trẻ có những khả năng đặc biệt…”

“Ta không bị điên đâu!”

“Ta biết rằng con không bị điên. Hogwarts không phải là trường học cho những người điên. Đó là trường dạy phép thuật.”

Có một sự im lặng. Riddle đã đóng băng ở đó, mặt nó không hề có cảm xúc gì cả, nhưng mà mắt nó thì đưa đi đưa lại giữa hai mắt của Dumbledore, tựa hồ như cố gắng chứng minh rằng một trong hai cái đang nói dối.

“Phép thuật á?” nó hỏi lại bằng giọng thầm thì.

“Đúng đấy,” Dumbledore nói.

“Đó… đó là phép thuật, con có thể làm gì được chứ?”

“Thế còn làm được cái gì nào?”

“Tất cả mọi thứ,” Riddle thở hổn hển. Một dòng máu hào hứng đã trỗi dậy từ cổ nó lên đến hai gò má, nó có vẻ rất xúc động. “Con có thể làm cho những tờ giấy bay vù vù mà không cần phải động đến chúng. Con có thể sai khiến những con vật mà không cần phải dạy gì cả. Con có thể khiến cho những kẻ làm cho con bực mình phải chịu những điều tồi tệ. Con có thể làm cho bọn chúng đau nếu như con muốn.”

Đôi chân của nó run run. Nó vấp lên đằng trước và ngồi xuống giường, nhìn vào đôi tay của mình, đầu cúi gắm xuống như thể đang cầu nguyện.

“Con biết là con khác mọi người mà,” nó thì thầm vào những ngón tay lẩy bẩy của mình. “Con biết con là người đặc biệt. Lúc nào cũng vậy, con biết có một cái gì đó…”

“Đúng, con rất đúng,” Dumbledore nói, mặc dù không còn cười nữa mà nhìn chăm chú vào Riddle. “Con là một phù thuỷ.”

Riddle ngẩng đầu lên. Mặt nó tươi tỉnh hẳn: Có một niềm hạnh phúc dữ dội ở trên đó, nhưng mà vì lý do nào đó điều đó vẫn không làm cho nó dễ ưa hơn; ngược lại, cái nét mặt khắc khổ của nó có vẻ hung dữ hơn, gần như là độc địa.

“Ông cũng là một phù thuỷ à?”

“Đúng, ta là một phù thuỷ.”

“Chứng minh đi,” Riddle nói ngay lập tức, cũng với cái giọng ra lệnh như nó đã từng dùng. “Nói sự thật đi.”

Dumbledore nhướn lông mày. “Nếu như, theo như ta nghĩ, con chấp nhận vào học trường Hogwarts…”

“Tất nhiên con chấp nhận!”

“Thế thì con phải gọi ta là ‘Giáo sư’ hoặc ‘Thưa thày’”

Cảm xúc của Riddle cứng lại trong một khoảnh khắc trước khi nó nói, với một giọng lịch sự không thể ngờ được, “Con xin lỗi thưa thày. Ý con là… thưa Giáo sư, thày có thể cho con xem…?”

Harry đã chắc chắn rằng thày Dumbledore sẽ từ chối, rằng thày sẽ nói với Riddle là sẽ có rất nhiều cơ hội để thực hiện phép thuật ở Hogwarts, rằng họ đang ở trong một toà nhà đầy dân Muggle và vì thế có thể bị phát hiện. Nhưng bất ngờ nhất, Dumbledore đã rút gậy phép ra khỏi túi áo của ông, chỉ vào cái tủ áo tồi tàn ở góc phòng, và gõ nhẹ một cái.

Cái tủ bùng lên cháy.

Riddle nhảy dựng lên; Harry không thể trách nó vì vụ hét ầm lên trong sợ hãi và sốc; tất cả tài sản của nó đều ở trong đó. Nhưng ngay khi Riddle ôm lấy Dumbledore, ngọn lửa biến mất, để lại một cái tủ quần áo hoàn toàn không xây xước.

Riddle nhìn chằm chằm vào cái tủ rồi đến Dumbledore; sau đó, lòng đầy ham muốn, nó chỉ vào cái đũa thần. “Con có thể có một cái như thế ở đâu?”

“Rất đúng lúc đấy,” Dumbledore nói. “Ta nghĩ là có cái gì đó muốn thoát ra khỏi cái tủ của con đấy.”

Và rất rõ ràng, có một tiếng lục cục nhỏ có thể được nghe thấy phát ra từ trong cái tủ. Lần đầu tiên, Riddle có vẻ sợ hãi.

“Mở cửa ra đi,” Dumbledore nói.

Riddle ngập ngừng, rồi cũng chạy qua phía đó và mở toang cánh của tủ. Ở cái giá trên cùng, ở trên một dãy quần áo cũ kỹ, một cái hộp cát tông nhỉ đang lắc lư và kêu lên lục cục như thể có vài con chuột điên rồ đang bị nhốt trong đó.

“Lấy nó ra đây,” Dumbledore nói.

Riddle lấy cái hộp đang rung bần bật xuống. Nó có vẻ ngần ngại.

“Có cái gì trong cái hộp mà con không được phép có không?” Dumbledore hỏi.

Riddle ném một cái nhìn rõ ràng, xét đoán về phía Dumbledore. “Có, con đoán là vậy, thưa thày,” cuối cùng nó nói với một giọng thờ ơ.

“Mở nó ra,” Dumbledore nói.

Riddle mở nắp ra và đổ hết những thứ trong hộp lên giường mà không nhìn vào chúng. Harry, đang chờ đợi một cái gì đó thú vị hơn, nhìn thấy một lũ những đồ vật nhỏ được sử dụng hàng ngày: một cái yo yo, một cái vòng bạc, và một cái ácmônica bẩn thỉu ở giữa. Ngay khi ra khỏi cái hộp, bọn chúng thôi rung và nằm yên ở trên cái chăn mỏng.

“Con sẽ trả lại cho chủ của chúng với lời xin lỗi chứ,” Dumbledore nói điềm tĩnh, nhét cái đũa thần vào trong áo khoác của ông. “Ta sẽ biết điều đó có được làm hay không đấy. Và chú ý rằng: Ăn trộm không được chấp nhận ở Hogwarts.”

Riddle không hề bối rối; nó vẫn đứng nhìn chằm chằm vào Dumbledore một cách lạnh lùng và suy xét. Cuối cùng nó nói bằng một giọng bàng quan, “Vâng, thưa thày.”

“Tại Hogwarts,” Dumbledore tiếp tục, “chúng ta không chỉ dạy con cách sử dụng phép thuật, mà còn điều khiển nó nữa. Con đã, chẳng may, ta biết vậy, sử dụng khả năng của mình bằng cái cách mà sẽ không được dạy lẫn cho phép sử dụng ở Hogwarts. Con không phải là người đầu tiên, và cũng sẽ không phải là người cuối cùng, chấp nhận cho phép thuật trốn thoát cùng với mình. Nhưng con phải biết là Hogwarts có thể đuổi học sinh, và Bộ Phép Thuật - à, có hẳn một Bộ đấy - sẽ trừng phạt những kẻ phá luật lệ thậm chí còn khủng khiếp hơn nữa. Tất cả những phù thuỷ mới đều phải chấp nhận điều đó, khi gia nhập thế giới của chúng ta, họ phải tuân theo luật lệ.”

“Vâng, thưa thầy,” Riddle nói.

Khó có thể đoán được nó đang nghĩ gì; khuôn mặt nó gần như vô cảm khi nó đặt những thứ ăn cắp được vào trong cái hộp cát tông. Khi làm xong, nó quay sang Dumbledore nói một cách khẩn thiết, “Con chẳng có một đồng nào cả.”

“Điều đó dễ thôi,” Dumbledore nói, kéo ra một bao tiền nhỏ bằng da từ túi của ông. “Có một quỹ ở Hogwarts dành cho những người cần trợ giúp tiền mua sách và áo choàng. Con có thể sẽ phải mua một vài cuốn sách phép và những thứ đã dùng rồi, nhưng mà…”

“Con có thể mua sách phép ở đâu?” Riddle chen ngang, cầm lấy túi tiền nặng trịch mà không hề cảm ơn Dumbledore, và lúc này đang xem xét một đồng Galleon vàng to.

“Ở Hẻm Xéo,” Dumbledore nói. “Ta đã có danh sách những quyển sách và những dụng cụ con cần ở đây. Ta có thể giúp con tìm mọi thứ…”

“Thày đi cùng con à?” Riddle nhìn lên.

“Tất nhiên, nếu con…”

“Con không cần,” Riddle nói. “Con đã quen với việc tự làm mọi thứ rồi, lúc nào con cũng đi quanh London mà chẳng cần ai chỉ dẫn cả. Làm thế nào để con có thể đến cái Hẻm Xéo này… thưa thày?” nó hỏi thêm, nhìn vào mắt của Dumbledore.

Harry đã nghĩ rằng thày Dumbledore sẽ khăng khăng đề nghị đi cùng với Riddle, nhưng một lần nữa nó lại bị bất ngờ. Dumbledore đưa cho Riddle cái phong bì chứa danh mục những dụng cụ cần có, và sau khi dặn Riddle chính xác bằng cách nào để đến được quán Vạc Lủng từ trại mồ côi, ông nói, “Con sẽ nhìn thấy nó, mặc dù những Muggle xung quanh con - đó là những người không có phép thuật - không thể. Hãy hỏi Tom người phục vụ - dễ nhớ phải không, vì ông ta cùng tên với con.”

Riddle khịt mũi khó chịu, giống như đang cố gắng đuổi một con ruồi phiền nhiễu vậy.

“Con không thích cái tên Tom à?”

“Có nhiều Tom lắm,” Riddle càu nhàu. Sau đó, dường như là nó không thể dừng được câu hỏi này, giống như nó tự động vọt ra từ trong bản thân cậu bé, nó hỏi, “Bố con có phải là phù thuỷ không? Bố cũng tên là Tom Riddle, người ta bảo con thế.”

“Ta sợ rằng ta không biết điều đó,” Dumbledore nói, giọng dịu dàng.

“Mẹ của con không thể nào có phép thuật, nếu không thì mẹ đã không mất,” Riddle nói, tự với mình hơn là với Dumbledore. “Thế có lẽ là ông ấy. Thế thì, khi con đã có các thứ của con rồi, khi nào con đến Hogwarts?”

“Tất cả chi tiết đều ở tờ thứ hai của tấm da dê trong phong bì của con,” Dumbledore nói. “Con sẽ rời khỏi đây ở nhà ga Ngã Tư Vua vào ngày 1 tháng 9. Có một cái vé tàu trong đó nữa đấy.”

Riddle gật đầu. Dumbledore đứng dậy và giơ tay ra một lần nữa. Nắm lấy nó, Riddle nói, “Con có thể nói chuyện với rắn. Con phát hiện ra khi con đi cắm trại ra ngoại ô - bọn chúng tìm thấy con, thì thầm với con. Điều đó có bình thường đối với một phù thuỷ không?”

Harry có thể nói rằng thằng bé đã giữ không nói về khả năng kỳ lạ nhất cho đến lúc này, để gây ấn tượng.

“Điều đó là không bình thường đâu,” Dumbledore nói, sau một khoảnh khắc lưỡng lự. “nhưng mà không phải là chưa có bao giờ.” Giọng nói của ông vẫn bình thản những cặp mắt đã di chuyển một cách tò mò đến mặt của Riddle. Họ đứng đó một lúc, một người đàn ông và một cậu bé, nhìn chằm chằm vào nhau. Sau đó, họ buông tay nhau ra, Dumbledore ra cửa.

“Tạm biệt Tom. Ta sẽ gặp lại con ở Hogwarts.”

“Ta nghĩ thế đủ rồi,” thày Dumbledore tóc bạc ở bên cạnh Harry cất tiếng, và vài giây sau, hai người họ bay vút lên khoảng không tối om không trọng lượng một lần nữa, trước khi đặt chân vững vàng xuống văn phòng hiện tại.

“Ngồi xuống đi,” Dumbledore nói, ngồi xuống cạnh Harry.

Harry làm theo, tâm trí nó vẫn để ở những gì nó vừa nhìn thấy.

“Nó tin vào điều đó nhanh hơn con, ý con là, khi thày nói cho nó biết nó là một phù thuỷ,” Harry nói. “Đầu tiên con không tin bác Hagrid đâu, khi bác nói cho con biết.”

“Đúng vậy, Riddle đã hoàn toàn sẵn sàng để tin rằng nó - phải sử dụng từ này - ‘đặc biệt’” Dumbledore nói.

“Thế thày có biết không…?” Harry hỏi.

“Ta có biết rằng ta vừa mới gặp một Phù Thuỷ Hắc Ám nguy hiểm nhất mọi thời đại không à?” Dumbledore nói. “Không đâu, ta không hề biết rằng sau này nó lại trở thành như ngày nay. Dù sao thì, ta đã bị nó làm cho tò mò. Ta trở về Hogwarts, dự định sẽ để mắt đến nó, một thứ mà ta sẽ phải làm trong bất cứ trường hợp nào, vì nó hoàn toàn cô đơn và không bạn bè, nhưng ngay lập tức, ta cảm thấy rằng ta phải làm thế vì những người khác nữa.

“Khả năng của nó, như con nghe rồi đấy, đã được phát triển một cách bất ngờ trong người một cậu bé và - thú vị và đáng ngại nhất - nó đã phát hiện ra rằng nó có thể điểu khiển được mình theo cách nào đó, và đã bắt đầu sử dụng nó theo ý muốn. Và như con thấy đấy, chúng không phải là những hiện tượng bất chợt xảy ra như đối với những phù thuỷ khác: Nó đã sử dụng phép thuật để chống lại những người khác, để làm khiếp sợ, để trừng phạt, để điều khiển. Những câu chuyện nhỏ về con thỏ bị treo, và về hai đứa nhỏ nó lừa vào trong hang đã giải thích một cách rõ nhất… ‘Con có thể làm cho bọn chúng đau nếu như con muốn…’”

“Và nó nói được Xà Ngữ,” Harry chen ngang.

“Đúng đấy; một khả năng hiếm thấy, và đáng lý ra đó phải có mối liên quan đến Nghệ Thuật Hắc Ám, mặc dù như chúng ta đã biết, có những người dùng được Xà Ngữ trong những người xấu và cả người tốt nữa. Thực ra thì khả năng nói chuyện với rắn của nó không làm cho ta cảm thấy khó chịu như là cái bản năng rõ rệt của nó về sự tàn ác, bí mật và khả năng thống trị.

“Thời gian đã lại trêu ngươi chúng ta thêm một lần nữa,” Dumbledore nói, chỉ tay về phía bầu trời tối đen ngoài cửa sổ. “Nhưng trước khi ta chia tay, ta muốn con chú ý tới một vài đặc điểm của những cảnh mà ta vừa mới chứng kiến, vì chúng sẽ giải thích cho nhiều điều mà chúng ta sẽ bàn luận trong những lần gặp tới.

“Đầu tiên, ta muốn con để ý tới phản ứng của Riddle khi ta đề cập đến một người khác cùng tên với nó, ‘Tom’.”

Harry gật đầu.

“Đó là phản ứng của nó khi coi khinh bất cứ thứ gì liên quan giữa nó và những người khác, bất cứ thứ gì làm cho nó trở nên bình thường hơn. Thậm chí sau đó, nó ước mong trở nên độc lập, khác thường, và khét tiếng. Nó đã bỏ cái tên của nó, như con đã biết, trong vòng có vài năm sau buổi nói chuyện vừa nãy và tạo ra cái vỏ bọc Chúa Tể Voldermort mà nó đã ẩn chứa trong đó từ rất lâu rồi.

“Ta cũng tin là con có để ý đến rằng Tom Riddle đã đủ khả năng, bí mật, và rõ ràng là không có một bạn bè nào. Nó không muốn ta giúp nó hoặc ít ra đi cùng nó đến Hẻm Xéo. Nó thích được hành động một mình. Voldermort lớn cũng vậy. Con sẽ nghe thấy rất nhiều Tử Thần Thực Tử nói rằng bọn chúng ở trong lòng tin của hắn, rằng bọn chúng rất thân thiết với hắn, thậm chí hiểu lòng hắn. Bọn chúng bị đánh lừa cả đấy. Chúa Tể Voldermort không bao giờ có bạn, hoặc là theo ta tin rằng hắn không bao giờ muốn có.

“Và cuối cùng - ta mong rằng con không quá buồn ngủ để có thể tập trung vào điều này, Harry - Tom Riddle trẻ con thích thu thập những chiến lợi phẩm. Con đã nhìn thấy cái hộp mà nó giữ những đồ vật ăn cắp ở trong phòng rồi đấy. Đó là những thứ lấy được từ những nạn nhân chịu những hành động côn đồ của nó, những món quà, nếu con thích, từ những phần không mấy dễ chịu của phép thuật. Hãy nhớ rằng cái xu hướng giống chim ác là, đặc biệt là những biểu hiện này, sẽ rất quan trọng sau này.

“Còn bây giờ, đã đến lúc con phải lên giường ngủ rồi đấy.”

Harry đứng dậy. Khi nó đi qua sang bên kia căn phòng, mắt nó dừng lại ở trên cái bàn con mà cái nhẫn của Marvolo Gaunt đã ở đó lần trước nó nhìn thấy, nhưng cái nhẫn không còn ở đó nữa.

“Gì thế Harry?” Dumbledore nói, vì Harry đứng đó một lúc.

“Cái nhẫn đâu mất rồi,” Harry nhìn quanh. “Nhưng con nghĩ thày phải có cái đàn ácmônica hay cái gì đó chứ.”

Dumbledore cười rạng rỡ với Harry, nhìn qua đỉnh cái kính hình mặt trăng của ông.

“Rất tinh đó Harry, nhưng mà cái kèn lúc nào cũng chỉ là cái kèn mà thôi.”

Và sau lời nói đầy bí ẩn đó ông vẫy chào Harry, nó hiểu đó chính là mệnh lệnh rời khỏi đây.