Chương 9
Nhưng, sự yên tĩnh của Hạ lại bị khuấy động. Hạ hết còn được ngồi một mình dưới gốc dương để thì thầm hay mơ mộng. Những hàng dương của trường Hạ bây giờ trở thành nơi cư ngụ của những người tị nạn Cộng Sản. Sân trường, lớp học không còn là nơi duy nhất dành cho các cô gái học sinh áo trắng ngây thơ mà lẫn lộn đàn ông, đàn bà, trẻ em với những đôi mắt hoang mang, khuôn mặt khắc khổ và áo quần lam lũ, xốc xếch. Trong khi những người tị nạn khiêng những chiếc ghế dài trong các lớp học để xếp lại thành chỗ nằm, giăng dây từ nhánh dương này đến nhánh dương khác để treo quần áo, và chia nhau từng khu vực trong sân trường để nấu ăn; cô hiệu trưởng và các giáo sư trong trường lăng xăng vận động chính phủ cứu tế cho họ. Các giáo sư, lúc này, hầu như không quan tâm nhiều đến kỷ luật của học sinh, cũng không tập trung tinh thần cho việc giảng dạy như trước đây. Mỗi lần vào lớp, các giáo sư chỉ đề cập về chuyện xin lương thực, áo quần và thuốc men cho những người tị nạn. Không một người nào có thời giờ để nói về chiến tranh hay giải thích những gì đang xảy ra, bởi vì mỗi lần thầy, trò gặp nhau, các giáo sư thường chia lớp thành từng nhóm để đi thăm những gia đình tị nạn và ghi lại những gì họ cần để báo cho nhà trường biết.
Hạ linh cảm có một điều gì đó chẳng lành. Bạn bè Hạ, cũng như Hạ không bao giờ quan tâm gì đến chính trị hay chiến cuộc, nhưng đến lúc ấy, sau khi thăm các gia đình tị nạn xong, đứa nào cũng chụm năm, chụm bảy bàn tán xôn xao. Thoạt tiên, cả bọn lấy tin từ nhỏ Thanh Trang, Trang “chính chị, chính em”. Con nhỏ thường nghe lén đài Việt Cộng nên biết rõ mọi sự: “Việt Cộng đã chiếm Buôn Mê Thuột, Pleiku và đang tiến vào Nha Trang.”
Mỗi ngày, số dân tị nạn vào trường Hạ ở ngày càng tăng và giờ học các môn của các lớp càng ngày càng giảm. Có những tiết học phải hũy bỏ vì không có phòng học, hoặc không có giáo sư. Bạn bè lớp Hạ rủ nhau đi xin xăm để biết hậu vận. Cả bọn lóc cóc đạp xe qua cầu Xóm Bóng, đến tận Tháp Bà cầu xin. Nhóm “Ngũ cô nương” không ai được như ý, đứa nào, đứa nấy chỉ được quẻ “Hạ Hạ” hay “Trung Bình” mà thôi. Dị đoan thì ít mà tình hình di tản càng lúc càng nghiêm trọng khiến cho mấy đứa con gái buồn não ruột.
Vài ngày sau, các lớp của trường Nữ Trung Học Huyền Trân bị dời sang trường Nữ Tiểu Học Nha Trang. Sự xôn xao di chuyển từ trường này qua trường khác và cảnh ba mẹ của bạn Hạ đến đón con về khi lớp đang học đã tác động nhiều đến sự lo lắng và bồn chồn của Hạ. Dần dà, lớp học của Hạ chỉ còn chín người. Ngoài Hạ ra không còn một ai trong nhóm “Ngũ cô nương” đến lớp. Hạ càng hoang mang và lo lắng hơn khi thấy cô giáo chủ nhiệm kiêm dạy việt văn của mình cũng chào tạm biệt để vào Sài Gòn. Hôm ấy tan học về sớm, đến nhà Hạ nghe tin gia đình cô Mỹ chuẩn bị đưa bà nội vào Sài Gòn. Bà con xa gần tụ tập tại nhà nội, xôn xao bàn tán về viễn ảnh tệ hại nếu thành phố bị chiếm và tình hình khó khăn khi di tản để phân tích nên đi hay ở. Phần lớn mọi người quyết định ra đi. Gia đình nào cũng tìm cách chạy vào Sài Gòn vì tin đồn: “Nơi chia đôi đất nước không còn là vĩ tuyến thứ mười bảy mà sẽ là Phan Thiết.”
Nghe mọi người bàn tính bỏ đi mà Hạ cảm thấy như mình bị bỏ rơi mà buồn muốn khóc. Hạ rất muốn chạy theo mọi người vào Sài Gòn để được sống với những người thân của Hạ, với bạn bè, với thầy cô như đã từng. Vì tài chính khó khăn của má, Hạ không thể đòi hỏi gì hơn. Nghĩ đến Thảo Vy, nghĩ đến giấc mơ của hai đứa, Hạ thấy trái tim mình như tê liệt. Nhìn má giày vò, than khóc, Hạ không bao giờ còn có hy vọng gặp lại đứa em gái duy nhất của mình nữa.
Dồn dập các tin xấu đến: “Việt cộng sẽ tiến đến Nha Trang trong vài giờ”, “Tụi Việt cộng này có sức khỏe vô biên. Chúng có thể đu từ cành đu đủ này nhảy đến cành đu đủ khác”, “Chúng sẽ tẩy não những người dân miền Nam Việt Nam.”, “Chúng sẽ rút móng tay dài của những đứa con gái điệu đà và sẽ bắt những đứa con gái miền Nam gả cho phế binh Việt Cộng.”
Những tin này hoàn toàn làm Hạ khủng hoảng tinh thần. Mặc cho mọi người xôn xao lo lắng, Hạ muốn đi một vòng thành phố trước khi Việt Cộng tấn công.
Anh dường như là người bạn duy nhất của Hạ còn lại ở thành phố Nha Trang này. Con bé vẫn còn giữ cái lệ cũ là réo Hạ ơi ới ngoài bức thành:
- Hạ ơi! Hạ ơi!
Hạ thò đầu ra bức tường thành:
- Ủa, không phải Anh đã đi rồi sao?
- Đi không được vì bà ngoại Anh không muốn đi. Má Anh không nỡ để bà ngoại ở lại một mình.
- Hạ muốn đi một vòng thành phố. Anh muốn đi cùng không ?
Anh gật đầu:
- Anh xuống gặp Hạ cũng vì lý do này.
Như những lần trước, Anh đứng ngoài bức tường thành nơi cách xa cái cổng gỗ trước nhà bác cả để chờ Hạ ra khỏi nhà. Hôm ấy không như mọi hôm, Hạ ngang nhiên dắt xe ra khỏi khuôn viên nhà nội mà
không sợ sự kiểm soát nào. Những ngày này, người lớn trong nhà không quan tâm gì đến sự đi lại của Hạ. Tất cả tập trung nghe tin tức và các phóng sự của BBC hay VOA gì đó. Hạ có thể tạo tiếng kêu của cái khoen gài cổng thật to mà không ai buồn để ý, kể cả hai con chó Jack và Jick.
Như thói quen, Hạ và Anh đạp xe hướng về trường Nữ Trung Học Huyền Trân. Hôm ấy đáng ra là ngày mà tụi Hạ phải đến trường và ngồi trong lớp học, nhưng thời cuộc đã làm hai đứa lang thang ngoài đường. Con đường dẫn đến trường không còn thấy
những chiếc áo dài trắng thân thương mà còn lại chỉ là sự vắng vẻ đến kinh sợ. Những ngày này, mọi người thi nhau tìm cách rời thành phố, một số khác hoang mang không biết làm gì ngoài việc mua thực phẩm dự trữ và cố thủ trong nhà, cho nên đường dẫn đến trường hầu như không còn bóng người.
Thay vì xoay tay lái về phía đường Đinh Tiên Hoàng, Hạ và Anh tiếp tục đạp xe trên đường Bá Đa Lộc nơi mà trường Nam Trung Học Võ Tánh ngự trị. Dọc hai bên đường, hai hàng cây trước trường thẳng tắp dài hun hút đến tận đường biển Duy Tân. Các ngọn cây vươn cao vời vợi với cành lá sum suê đan vào nhau tạo thành một vòm cây rất nên thơ. Bọn con gái trường Hạ rất thích đi dưới con đường này bởi vì khi đi dưới vòm cây và nhìn biển xa xa trước mặt như thể đi vào động thần tiên. Tuy nhiên, bọn Hạ không bao giờ dám bạo gan đi trước trường Võ Tánh này khi trường có những đứa con trai quần xanh áo trắng. Bọn con trai “Võ Tánh” thích tập trung ở các quán chè trước cổng trường để chọc các “nạn nhân con gái” đi ngang. Bọn Hạ thường kháo nhau là bọn Nam Trung Học Võ Tánh “mua đứt” đường Bá Đa Lộc vì ban ngày chẳng có “ma” con gái nào dám bạo gan đi qua lại. Bọn Nữ Trung Học Huyền Trân vừa sợ bị chọc vừa sợ bị hiểu lầm đi ngang để “điệu”, không ai bảo ai, để mặc cho bọn Nam Sinh Trung Học Võ Tánh làm chủ con đường dễ thương nhất Nha Trang. Được đi trên con đường này trong giờ trưa như thế quả là đặc biệt đối với hai đứa Hạ. Cái tĩnh mịch và vắng lặng trên con đường không tạo cho Hạ cảm giác sung sướng khi được tự do đi lại. Trái lại, nó khiến cho Hạ nhớ lại hình ảnh quần xanh, áo trắng ngày nào và mong ước ngôi trường này sinh động ồn ào như xưa.
Anh đạp xe gần Hạ hơn và đưa tay với tới bàn tay trái của Hạ. Bóp mạnh vào nó, Anh nói:
- Hứa với Anh đi Hạ. Bất kể sau này như thể nào đừng bỏ nhau nghe.
Hạ nhìn Anh với tất cả thất vọng và buồn bã rồi lắc đầu. Hạ cảm thấy nhỏ bạn của Hạ thật tội nghiệp và đáng thương như bản thân của Hạ hiện tại. Làm sao Hạ có thể hứa với Anh được gì khi chính Hạ không hiểu những gì sẽ xảy ra cho Hạ trong những ngày sắp tới.
Im lặng đạp xe hướng về Cầu Đá, hai đứa gặp Khánh, một trong ba người con trai mà trường Nam Trung Học Võ Tánh gửi sang học Pháp Văn với nhóm Pháp văn lớp 12C của Hạ.
Khánh hoảng hốt:
- Đến giờ này mà Anh và Đan Hạ còn ở đây sao? Việt cộng sắp tấn công vào thành phố rồi đó. Hoặc là về nhà, hoặc là tìm cách nào vào Sài Gòn ngay. Nếu không, thì không kịp nữa đó. Khánh về nhà lấy đồ để ra cảng Cầu Đá theo tàu vào Sài Gòn hôm nay.
Hạ không muốn giải thích tình trạng của mình nên chỉ lắc đầu và yên lặng. Anh hỏi :
- Sao ở đây đông người quá vậy Khánh? Mọi người tính đến Cầu đá để đu tàu vào Sài Gòn hả?
Khánh hấp tấp :
- Một số thôi, còn lại là những người xuống kho vũ khí gần cảng Cầu Đá để lấy súng đạn. Người ta phá kho nạn từ tối hôm qua.
Hạ thảng thốt:
- Lấy vũ khí? Họ là thường dân mà lấy vũ khí để làm gì?
Khánh nhún vai rồi lắc đầu:
- Có thể là để chống lại Việt cộng, có thể là để tùy thân hay là để tự tử. Nhưng mà thôi, Khánh phải đi đây. Đan Hạ và Anh nhớ cẩn thận.
Nhìn anh ta khuất bóng mà Hạ buồn vô hạn. Còn nhớ những ngày trường Hạ chưa phải dời các lớp học đến trường Nữ Tiểu Học Nha Trang, ba người con trai “tá túc” học Pháp văn thường lấp ló, chờ tất cả bọn con gái của trường Huyền Trân vào các lớp mới chịu thò đầu vào lớp. Hôm nào ba anh chàng may mắn thì vào lớp trước thầy nhưng xui xẻo gặp hôm thầy đã vào lớp thì thể nào cũng nghe thầy giảng đạo. Thật sự là vào lớp sau khi thầy đã có mặt quả là bất lịch sự, nhưng đối với ba người này, hình như cái sợ thầy la không át nổi cái sợ khi đi giữa đám con gái trong trường Hạ. Chiều nay người bạn này sẽ vào Sài Gòn và sẽ gặp những người bạn cũ “Huyền Trân”, “Võ Tánh”, và những người Nha Trang khác, còn Hạ và Anh mãi mãi không còn có cơ hội nữa.
Hai đứa quay đầu xe lại và đạp xe đi dọc đường biển. Giống như những con đường, biển cũng hoàn toàn bị bỏ rơi. Mọi người trong thành phố lo sợ cho số phận và tính mạng của họ hơn là suy nghĩ đến những sự xa xôi. Riêng Hạ, biển gợi lên niềm an ủi còn lại.
- Mọi người bỏ đi nhưng tụi mình vẫn còn có biển.
Anh nhìn Hạ với ánh mắt biểu đồng tình.
Dọc đường biển không còn những chiếc xe bán cóc, ổi, xoài ngâm cam thảo và mực nướng. Cách hôm ấy vài ngày, Phong, người con trai thường hát “ngày nào cho tôi biết tương tư” trong lớp học tư thục, chào từ giã Hạ để vào Sài Gòn. Do buổi học thêm ở trường Kim Yến không có thầy, anh ta mời Hạ ra biển nói chuyện. Dựng hai chiếc xe kề nhau xong, Phong mua hai trái cóc, rồi trao cho Hạ một trái. Dù không một tình ý gì, lời chia tay của anh ta như là sự mất mát lớn trong Hạ. Cắm quả cóc ngâm cam thảo được cắt khía năm cạnh xuống bãi cát, Hạ rưng rưng:
- Thôi mình đi về đi. Hạ chúc anh đi ngày mai gặp nhiều may mắn!
Phong lặng lẽ cắm quả cóc của mình bên cạnh quả cóc của Hạ rồi nói:
-Ừ ! Thôi mình đi về!
Đẩy chiếc xe Honda lên đường, Phong dừng lại và nhìn xuống bãi cát.
- Đan Hạ nhìn lại xem! Hai trái cóc trên cát biển trông dễ thương không?
Hạ quay lại nhìn chúng rồi nhìn anh ta và lắc đầu.
-Mới chỉ vài ngày thôi mà bây giờ người bán cóc không còn thấy nữa, người mua cóc cũng đã ra đi xa và hai trái cóc có lẽ bị cát biển che lấp hết.
Hạ và Anh tiếp tục đạp xe hướng về đường phố Phan Bội Châu rồi Độc lập. Vài chiếc xe qua lại trên đường, vài người hấp tấp qua lại trên hè phố, các cửa tiệm đóng kín. Thành phố như đang từ từ chết trong sự hoang vắng và tiêu điều. Cuối đường Độc Lập hướng về phía Mã Vòng thì hoàn toàn ngược lại. Xe, người hoảng loạn, vội vã, chen chúc hướng về Quốc Lộ chính để tiến vào Sài Gòn. Anh nhìn Hạ với đôi mắt buồn bã và chán chường, rồi lên tiếng:
- Anh muốn ghé thăm một vài người bạn xem họ còn ở lại không. Hạ ghé nhà Quân với Anh nghe? Anh không hiểu Quân đã đi Sài Gòn chưa?
Hạ rất muốn nói “không” và từ chối nhưng vì sợ Anh đoán được sự thầm kín của mình nên im lặng tán thành.
***
Hạ còn nhớ cách đây một tuần, Hạ đã đến nhà chị họ của Anh ăn cưới. Chị Dạ Lan đã vội vã làm đám cưới với người yêu vì sợ những chuyện không may khi cuộc chiến xảy ra. Chồng chị là lính không quân nên đa số người dự tiệc là những người lính không quân rất cao ráo và đẹp trai. Một vài người ngồi cạnh Hạ rót rượư mời. Hạ ngần ngừ nhìn ly rượu trước mặt rồi nhìn người đối diện xa hơn. Hôm ấy Quân dự đám cưới một mình chứ không có Anh Thư. Anh ta nhìn Hạ với ánh
mắt chẳng thiện cảm gì. Hạ đưa ly rượu lên miệng để tránh bối rối.
Quân long mắt và lầm bầm:
- Con nhỏ ngu!
Những lời này làm Hạ điên tiết. Hạ liếc anh ta với cặp mắt thách thức rồi rủa thầm “Quyền gì?” Hạ bắt đầu nói chuyện và cười cợt với những người bên cạnh. Men rượu kích thích sự tức giận của Hạ thêm khi Hạ nhìn Quân. Hạ nâng chiếc ly rượu đầy ắp lên rồi nốc hết toàn bộ. Hai gò má của Hạ rần lên như chúng gần lửa. Hạ hiểu là mình không nên ngồi lâu ở tiệc cưới này vì men rượu sẽ làm Hạ say mèm. Hạ đứng dậy vội vã chào mọi người đi về. Đạp xe trên đường về, Hạ thấy lòng mình tê tái. Nhiều nỗi buồn hòa lẫn với men rượu gây Hạ cho Hạ choáng váng và đau thương. Đến góc chùa Nghĩa Phương, mọi vật trước mắt Hạ như mờ nhạt đi. Hạ cố gắng quẹo tay lái thật nhanh để mau đến nhà. Chiếc xe hơi bất thần thắng gấp trước mặt Hạ và người tài xế hét lớn:
- Đi xe kiểu này muốn chết hả?
Nước mắt Hạ dâng lên, miệng lẩm bẩm: “Phải về nhà! Phải về nhà!”
Dắt được chiếc xe đến cổng nhưng Hạ không kềm chế được cơn say. Chập choạng trên lối đi, Hạ té sóng xoài bên cạnh chiếc xe đạp. Tiếng ngã của chiếc xe kèm với tiếng sủa của hai con Jack và Jick đã làm cho tất cả những người trong nhà Hạ chạy ra. Ái phụ má dìu Hạ lên giường. Hạ muốn giải thích với má một vài lời nhưng cổ họng đắng nghét vì rượu cùng thức ăn trong bụng cứ tuôn ra mãi không ngừng. Trước mắt Hạ chỉ là những cái bóng mờ nhạt và xung quanh là những tiếng nói văng vẳng. Đầu Hạ nhức như búa bổ. Mặc cho mọi người chăm sóc ra sao, Hạ thiếp đi. Sáng hôm sau, Hạ cảm thấy ái ngại khi đối diện với má và cảm thấy hối hận rất nhiều khi nghe những tiếng thở dài. Không thể giải thích được nỗi niềm đau khổ của mình, Hạ như rơi vào tận vực thẳm cô đơn. Nước mắt Hạ tuôn rơi đầy gối. Hạ muốn có thêm một giấc ngủ thật dài để được quên đi những gì xảy ra cho Hạ. Người ta nói rượu làm quên buồn, nhưng thực tế nó làm Hạ đau khổ nhiều hơn. Đầu óc quay cuồng, Hạ không xác định được sự đau khổ dâng tràn là do nỗi buồn cũ hay do cảm giác mất mát mà Hạ đang đối diện hàng ngày. Bao điều vô vọng tràn ngập khiến Hạ không thể hứa với mình điều gì ngoài một ý nghĩ cố gắng làm má không buồn lòng nữa.
* * *
Đến trước chiếc cổng sắt dưới giàn hoa giấy, Anh dừng lại. Con nhỏ nghiêng đầu, ngó xuyên qua các song chắn rồi lên tiếng:
- Thưa bác, Quân có ở nhà không ạ?
Người đàn ông đứng tuổi đang đứng dưới giàn nho, nheo mắt nhìn Anh qua các khung sắt rồi trả lời:
- Có ! Để tôi gọi nó.
Anh liếng thoắng:
- Ba của Quân đó! Vậy là Quân vẫn còn ở lại
Hạ cảm thấy hồi hộp khi Quân xuất hiện trước cổng. Lẳng lặng theo hai người, Hạ bước vào căn phòng khách. Căn phòng khá đẹp nhưng sự bài trí thật đơn giản và không hòa hợp. Những ngày này mọi nhà trong thành phố cố gắng tạo ra cái vẻ thật nghèo nàn để tránh sự để ý của những người tấn công vào miền Nam. Nhớ cảnh dọn dẹp của mấy cô ở nhà, Hạ bật cười.
Quân nhíu mày nhìn Hạ cười với vẻ rất ngạc nhiên, rồi cất tiếng hỏi:
- Chưa đi sao?
Hạ nhìn thẳng vào mặt anh ta, rồi nhìn Anh mà không trả lời. Con nhỏ ríu rít nói đủ chuyện: nào là lính mũ đỏ về thành phố nhưng đã rút đi cả, nào là thiên hạ phải dùng những phương tiện nào để vào Sài Gòn, đứa bạn nào đã rời thành phố và đi lúc nào, bằng cách nào. Loáng thoáng qua đối thoại, Hạ lờ mờ hiểu rằng bạn bè của hai người bỏ đi rất nhiều, trong đó có cả Anh Thư.
Hạ lơ đễnh nhìn xung quanh căn phòng rồi lên tiếng:
- Mọi người đều bỏ đi. Buồn quá!
Quân lạnh lùng và cộc lốc:
- Buồn à? Có muốn mượn cái này không?
Quân bước vào phòng bên cạnh rồi trở ra với một vật đen thùi trên tay. Đặt chiếc súng lục trên bàn,
Quân nói:
-Nếu buồn và muốn tự tử tôi cho mượn khẩu súng này!
Hạ nhìn khẩu súng với vẻ khiếp sợ, nhưng cố trấn tĩnh với nụ cười nhạt.
- Buồn vì cảm xúc trước những thay đổi bất ngờ chứ ngu gì phải chết vì buồn.
Quân lặng lẽ cúi đầu xuống và không đối đáp một lời nào. Hạ thấy ngột ngạt vô cùng vì sự im lặng của anh ta. Hối thúc Anh về, Hạ từ chối không viếng thăm người bạn nào nữa.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chương 10
Tiếng nói xôn xao của mọi người trong nhà đã đánh thức Hạ dậy sớm hơn mọi ngày.
- Chuyện gì vậy má?
Tối hôm qua tụi cướp bắn phá và lấy đồ ở các tiệm trên đường Độc Lập và Phan Bội Châu. Má nghe bác Hiền nói chị Huế phải bỏ tiệm chạy qua nhà bác ở cạnh rạp hát Nha Trang trốn.
Chị Huế là người giúp việc của cô Mỹ, cô ruột thứ bảy của Hạ. Chị là người rất trung thành với gia đình cô. Ngày cô bảy Mỹ đưa gia đình và bà nội của Hạ vào Sài Gòn, đáng lý chị cũng đi cùng, nhưng vì lo cho tài sản của chủ và không muốn xa Nha Trang nên chị xin ở lại trông nhà. Trước khi rời Nha Trang, cô Mỹ thì muốn chị có căn nhà và toàn bộ tài sản nếu có sự thay đổi xảy ra. Còn chị Huế thì hy vọng là khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chiến thắng, gia đình cô trở về Nha Trang thì tài sản vẫn còn nguyên như cũ. Những ngày thành phố chộn rộn di tản và chuẩn bị đối phó với chiến cuộc, không ai nhớ là chị chỉ ở một mình trong căn nhà của cô Mỹ .
Hạ chạy qua khu vườn, gọi Ái:
- Bà nghe tin gì chưa?
Ái to miệng:
-Vụ cướp đường Độc Lập chứ gì ? Biết rồi!
Hạ nhắc Ái :
- Chị Huế ở một mình trong nhà Cô Mỹ đó! Bà muốn đi ra tiệm của cô xem sao không? Má tui đã cho tui đi rồi .
- Đi chứ nhưng chờ tui thay đồ đã!
- Mặc đồ bộ đại đi! Việt cộng gần vô rồi mà còn bày đặt quần áo ngoài đường, quần áo trong nhà.
- Không được! Tui là vậy. Bà mà không thay đồ tui không thèm đi chung.
- Được nhưng đi bộ chứ đừng đi xe đạp. Nếu không, tụi mình ra khỏi nhà không được đâu.
- Sao bà mới nói là má bà cho đi rồi?
- Tui đi thay đồ đây không cãi với bà nữa.
Chờ má vào nhà nội bàn luận tin nóng hổi của vụ cướp, Hạ vội vàng mở tủ lấy bộ đồ đồng phục học thể dục thay thật nhanh rồi cùng Ái đi bộ hướng về đường Độc Lập.
Đường phố Nha Trang bừa bộn và dơ dáy chưa từng thấy. Vật dụng, áo quần, giấy tờ, sách vở ngổn ngang dọc hai bên đường. Các cửa hiệu đóng cửa im lìm. Một vài cái được khép hờ, thấp thoáng một vài người ra vô. Trên các ổ khóa của các cửa sắt là dấu tích của vết đạn bắn xuyên qua. Đúng như lời đồn! Quả thật, đêm hôm qua các tiệm lớn trên các đường phố đều bị cướp. Đến trước tiệm Vĩnh Thạnh hai đứa thi nhau thò miệng vào chỗ ổ đạn bắn và réo to:
-Chị Huế ơi! chị Huế!
Ái nôn nóng:
-Bà có chắc chỉ ở đây một mình không?
Hạ bối rối:
- Chắc mà không chắc!
Ái tròn mắt:
-Là sao?
Hạ ấp úng và cố tìm cách giải thích :
- Tui biết chắc là chị ở đây một mình bởi vì hôm chia tay với gia đình cô Mỹ, tui nghe chị ở lại giữ tiệm. Nhưng mà tui lại nghe má tui nói là tối hôm qua có cướp nên hình như chị đã chạy trốn qua nhà bác Hiền rồi.
- Vậy bà gọi tui đi ra đây làm gì?
- Thì coi sự việc có đúng như lời đồn không? Hơn nữa, coi tụi cướp còn bỏ lại gì thì mình lấy chứ uổng!
Ái quan sát cái cửa sắt:
- khóa bị bắn như vầy là thật sự có cướp. Nhưng mà cửa được khóa lại với chiếc dây xích này chứng tỏ có người ở bên trong. Coi chừng có thằng ăn cướp nào còn ở trong đó nó ...
Chưa dứt lời thì tiếng động trong nhà làm hai đứa giật mình. Cả hai vội vàng chạy xa cánh cửa sắt hơn nhưng còn cố hét ngược trở lại:
- Chị Huế ơi! Chị Huế ơi!
- Chị đây! Chờ chị mở cổng!
Đẩy cánh cửa sắt cho vừa đủ chỗ một người lách mình, chị Huế hối hả giục hai đứa vào để chị xích cửa lại. Hạ bàng hoàng với những gì trước mặt. Cái mỹ thuật trưng bày của tiệm Vĩnh Thạnh ngày xưa đã bị hủy diệt đi bởi sự tàn phá khốc liệt và dữ dội Những tủ kính dọc theo tường chỉ còn là những mảnh vỡ loang lỗ mất trật tự. Tranh xà cừ, quần áo thêu, quà thủ công nghệ văng vãi lộn xộn khắp nơi trên nền nhà trộn lẫn với hàng ngàn mảnh chai bừa bãi, ngổn ngang.
Chị Huế lên tiếng dặn dò:
- Đi cẩn thận coi chừng đạp mảnh chai. Chị mới về nên chưa dọn dẹp được.
Ái nhìn lên trần nhà và hỏi:
- Tụi cướp chỉ cướp phá dưới nhà thôi hay các tầng trên nữa hả chị?
- Toàn bộ căn nhà!
Hạ lo lắng:
-Vậy là lúc tụi nó cướp chị còn ở trong nhà sao?
Giọng nói của chị trở nên lạt hơn:
- Ừ !
Đưa tay lùa số đồ bừa bộn trên chiếc ghế sa long, chị Huế ngồi xuống, bật khóc nức nở:
- Chị ở trong nhà khi chúng cướp.
Hạ và Ái đồng ngồi bệt trước mặt chị lo lắng hỏi dồn:
- Tụi nó đã làm gì?
- Chúng có hành hung chị không?
Chị Huế không trả lời mà chỉ nhìn hai đứa với đôi mắt thất thần, xa vắng. Một lát sau, chị từ từ thuật lại mọi chuyện
- Chiều tối hôm qua, khi ăn cơm tối xong chị nghe tiếng đập cửa và tiếng la hét trước nhà. Sợ quá, chị lén đi lên lầu và nhìn xuống đường. Nhìn thấy lóm nhóm những người đàn ông cầm súng trước các cửa tiệm, chị đoán ngay tụi cướp đang hành động nên chị chun ngay dưới gầm giường của cậu mợ Bảy để trốn.
- Như vậy là khi cướp chúng không biết chị ở trong nhà?
Chị Huế lắc đầu:
- Không phải, để chị kể tiếp. Khi không còn nghe tiếng la hét và đập cửa, chị nghe tiếng súng nổ rất lớn và rất lâu. Hình như chúng bắn lâu như vậy để phá ổ khóa cửa sắt. Sau đó, chị lại nghe tiếng súng nổ kèm theo tiếng vỡ của các tấm kính, tiếng đập phá, tiếng cười, tiếng la hét. Tụi nó tràn lên các phòng ở trên lầu, vừa đập phá vừa hét lớn “Người đâu ra đi!”. Chị cuộn mình trong cái mền dưới giường tưởng đâu chúng không tìm ra, nào ngờ, một thằng phát hiện được và kéo chị ra.
Hai đứa hồi hộp:
- Rồi nó làm gì chị?
- Nó gọi toàn bộ đồng bọn đến xung quanh chị và hỏi cung đủ thứ. Chị lạy tụi nó quá chừng vì thằng nào cũng có súng. Chị nói cho chúng biết đây là nhà chủ và chị chỉ là người làm công. Chị còn cho tụi nó biết gia đình chủ đã đi hết chỉ còn một mình chị ở lại trông nhà, nhưng mà tụi nó không tin. Một thằng ở lại canh chị, còn lại chúng đi lục lọi các phòng. Một lát sau, chúng vây quanh chị.
Hạ sốt ruột:
- Chúng hành hung chị phải không?
Chị Huế lắc đầu nhưng nước mắt tuôn trào không ngưng:
- Chúng ra lệnh chị cởi hết quần áo.
Hai đứa hồi hộp nín thở nhưng không dám ngắt lời, chờ chị ngưng khóc, nói tiếp:
- Chúng cười hô hố rồi đuổi chị ra khỏi nhà.
Hạ lo lắng:
- Chị có còn quần áo lót không?
- Không còn gì cả! Chị phải dùng tay che người và chạy đến nhà Bác Hiền ở gần rạp hát Nha Trang xin tá túc.
Hai đứa lặng người sau khi nghe chuyện. Nhìn cảnh vật xung quanh, Hạ tưởng tượng được cảnh hành hung của bọn cướp đối với chị như thế nào. Hạ thấy được cảnh chị quỳ lạy, bò từ chỗ này sang chỗ khác để xin từng thằng ăn cướp tha tội chết và được để yên thân. Hạ cũng tưởng tượng được cảnh chị trần truồng, vừa khóc lóc vừa lấy tay che thân đi trên đường phố, băng qua các góc đường để tới nhà người quen của chị. Hạ còn nghe được tiếng cười hô hố của tụi cướp văng vẳng bên tai mà thấy rùng mình. Hạ nhìn chị rã rượi và kinh hoàng mà cảm thấy thương chị hơn bao giờ hết.
Ái hỏi:
-Vậy chị về lại đây lúc nào?
-Sáng sớm nay. Chị về thấy nhà tang hoang từ trên xuống dưới. Chị lấy cái xích khóa xe của cậu để xích cửa sắt lại.
Nơm nớp lo sợ, Hạ quay lại nhìn cái khóa xích nơi cánh cửa sắt sau lưng, rồi nhăn mặt:
- Chị không sợ còn thằng nào nằm trong nhà sao? Sao chị gan quá vậy?
- Ở nhà người ta lâu chị ngại. Hơn nữa, chị không nỡ bỏ nhà và tiệm của cậu mợ. Nếu cậu mợ được trở về, bị mất nhà, mất của, thì tội nghiệp lắm.
Ngưng một lúc chị nói tiếp:
- Nhưng mà chị chỉ nghĩ vậy thôi chứ không hy vọng gì gia đình cậu mợ trở lại. Tụi Việt Cộng vào thì cũng mất cả thôi. Hai em coi có gì lấy được thì lấy đi.
Chị đưa hai đứa lên các phòng đến tận lầu thượng. Tất cả mọi nơi đều lưu lại dấu tích của sự phá hoại, lục lọi và vơ vét của bọn cướp. Dấu tích tàn phá của trận cướp quá kinh khủng đến độ Ái và Hạ không muốn lấy một thứ gì. Hạ tự hỏi tại sao trong thành phố biển dễ thương này lại có những người bỉ ổi như thế. Câu chuyện chị Huế kể hoàn toàn ám ảnh trong tâm trí Hạ. Hạ có cảm giác sợ và hồi hộp khi đi ngang các phòng và đạp lên các đồ vật ngổn ngang. Hạ không hiểu chị Huế làm sao mà dọn dẹp hết cái bừa bộn của căn nhà và làm sao can đảm để tiếp tục ở một mình với cái cảnh như thế.
Trong lúc chị lượm lặt những thứ tương đối có giá trị như một vài xấp vải, cây viết, hay cái kẹp tóc,
Hạ cất lời khuyên:
- Chị nên vào ở trong nhà nội với tụi em đi. Ở đây một mình nguy hiểm lắm. Biết đâu tụi nó lại đến cướp nữa.
- Chị không đi đâu. Hai em đi về đi, chứ mấy o trông. Chị đã hứa điều gì thì chị làm đúng như vậy.
Từ giã cửa tiệm Vĩnh Thạnh mà lòng hai đứa nặng trĩu. Cả hai không sợ những người lớn trong gia đình chất vấn đi đâu chỉ cảm thấy buồn mãi vì câu chuyện vừa được nghe kể.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chương 11
Tiếng cười hô hố, tiếng vỡ của thủy tinh, tiếng súng nổ chiếm cứ hoàn toàn trong cơn ác mộng của Hạ. Tất cả những âm thanh hỗn độn này làm Hạ không còn phân biệt được tiếng kêu thất thanh của má:
- Hạ dậy ngay đi! Hạ! Hạ dậy nhanh đi con.
Hạ mở mắt nhưng vẫn nằm yên. Một vài tiếng nổ ở đâu đó rất to. Hạ cố lục lọi trí nhớ xem mình đang ở nơi nào. Má thò đầu vào trong mùng và kéo Hạ dậy.
- Mau đi con! Mình phải chạy vào nhà nội để tránh bom. Máy bay đang bỏ bom đó.
Hạ bật dậy ngay và kéo tay má chạy ra khỏi nhà. Ngang qua khu vườn tối, Hạ trông thấy những vệt sáng trên đầu. Tiếng máy bay đang bay vòng xung quanh thành phố. Lại nghe những tiếng nổ thật gần.
Hạ đập cửa nhà nội, cầu cứu:
- Cô ơi mở cửa mau cho má con và con tránh bom.
Cô Sáu vội vã mở cửa và hối thúc:
-Vô nhà mau! Mau lên!
Dưới tấm phản là tất cả những người trong gia đình Hạ. Mọi người đã chui vào núp từ lúc nào. Người nào, người nấy run cầm cập và không nói gì với nhau. Khum người dưới tấm phản đông đúc chật chội, Hạ mới nhớ ra chuyện nghe lời má chạy vào nhà nội tránh bom chung với toàn gia đình không phải là việc làm thích đáng. Nếu tránh bom thì ở nhà Hạ vẫn tránh được; chỉ cần chui dưới gầm giường là được ngay, hơn nữa, biết bom rơi chỗ nào đâu mà tránh. Hạ cảm thấy bực má nên nhăn nhó và phàn nàn về cái chật chội của chỗ núp. Một lúc sau nghe má, các cô và bác gái thì thầm bàn tán, Hạ hiểu được má muốn gì. Nếu những trái bom kia có vô tình rơi trong khu vườn nhà nội thì tất cả sẽ cùng chết chung. Trước đó mấy ngày, cô Út khuyên má nên dọn đến một trong những căn nhà đẹp mà hàng xóm bỏ đi. Má kiên quyết không bằng lòng. Hạ hiểu tính má không thích lấy những gì không thuộc về mình. Hơn nữa, má không bao giờ muốn rời căn nhà kỷ niệm do ba để lại. Và lúc đó, Hạ chỉ nghĩ là má luôn luôn vì ba, vì những kỷ niệm của ba để lại chứ không bao giờ nghĩ má muốn chết chung với những người trong gia đình nội. Người lớn có nhiều cái khó hiểu!
Hạ dựa người vào sát bức tường sau lưng rồi từ từ chìm vào giấc ngủ.
Tờ mờ sáng các cô rón rén ra lấy nước rửa mặt. Hạ lờ đờ làm biếng không muốn đi đâu. Lúc này không còn nghe tiếng động cơ của máy bay, cũng không còn nghe tiếng bom nổ. Những người lớn sau khi rửa mặt xong, chụm lại bàn tán. Cô Sáu mở hé cánh cửa để nhìn ra ngoài. Trời đã sáng hẳn lên nhưng không một người lớn nào nghĩ đến chuyện đi làm hay buôn bán. Cái sạp hàng của cô Sáu ở chợ Đầm đã bị tụi cướp lấy phá tan tành. Tuy nhiên, nếu có còn cô cũng không đi bán làm gì. Khi quyết định ở lại, cô Sáu thực sự không muốn mọi người biết cô là người có tiền. Những ngày này, sinh hoạt hàng ngày hoàn toàn bị xáo trộn. Những người bỏ đi rối rít hoảng sợ tính mạng khi đi đường đã đành, những người ở lại còn phập phồng hơn vì không hiểu chết lúc nào và sống như thế nào mới được yên.
Ánh nắng chiếu vào căn phòng làm Hạ thấy rõ từng người hơn. Bác gái, cô Sáu, cô Út và má Hạ ngồi co rúm mỗi người mỗi góc với một túi nhỏ trong lòng. Mặt người nào cũng hốc hác và phờ phạc. Có lẽ suốt đêm qua không ai ngủ được.
Cô Út ngồi cạnh Hạ thì thầm :
- Nghe con Ái nói tụi Việt Cộng mà vào Nha Trang, tụi nó sẽ tẩy não người miền Nam mình phải không Hạ?
Thấy Hạ gật đầu, cô tiếp tục:
- Nó còn nói là họ sẽ mổ đầu mình ra rồi lấy cục “gôm” để “gôm” cho sạch, rồi may lại.
Hạ nheo mắt nghi kỵ nhìn Ái, bật cười và nói vào tai cô:
- Cô đừng nghe lời con Ái! Nó chọc cô đó!
Con nhỏ này thì tỉnh bơ như không chứng kiến việc gì đã xảy ra. Không hiểu tối hôm qua nó núp ở góc nào dưới tấm phản mà sáng ngày nó đã ngồi chễm chệ trên ghế sa lông. Mặc cho mọi người ngồi co rúm mọi nơi trên nền nhà, Ái co chân lên dũa và sơn phết các móng chân như không có chuyện gì xảy ra trên đời. Trước mặt nó là những chai nước rửa móng tay và nước sơn giăng đầy trên bàn.
Bác gái la:
-Giờ này mà còn để móng tay dài! Tụi nó mà vô thì tụi nó rút móng tay hết.
Ái ngang bướng đáp lại:
- Khi nào tụi nó làm hẵng hay, còn giờ con thích, con vẫn để!
Hạ đưa mắt theo dõi từng động tác của nó. Con nhỏ có bàn tay thon mềm rất hợp với móng tay dài. Ái biết bàn tay mình đẹp nên thường trau chuốt và sơn màu hồng nhạt. Hạ thích nhìn Ái sơn móng tay như nhìn họa sĩ vẽ tranh. Tuy nhiên, Hạ cảm thấy tù túng khi phải ngồi co rúm trong căn phòng nên nằn nì má cho về nhà.
Hạ vừa về đến nhà là nghe tiếng gọi của Anh:
- Hạ ơi! Hạ ơi!
Hạ thò đầu ra khỏi tường:
- Anh không sợ sao mà xuống đây vậy?
- Anh nghe máy bay bỏ bom ở Cầu Xóm Bóng, không hiểu Hạ có bị gì không, nên xuống tìm. Nhiều người bị thương vào bệnh viện Nha Trang lắm đó, Hạ có muốn đến đó thăm họ không?
- Muốn!
Lần này, Hạ xin phép má:
- Cho con đi vào bệnh viện thăm những người bị thương và tìm hiểu tin tức ra sao nghe má?
Má gằn giọng:
- Tình hình như vầy mà con muốn đi sao?
Hạ khẩn khoản:
- Anh đạp xe từ Phước Hải xuống đây không có gì, huống hồ nhà mình gần bệnh viện. Cho con vào đó để con giúp những người bị thương mà má!
Năn nỉ một lúc, rốt cuộc má chìu ý cho Hạ đi cùng Anh.
***
Chiếc xe đạp vừa được tựa vào góc cột của khu chứa xe là Hạ và Anh vội vàng chạy về phía khu cấp cứu. Nhân viên Hồng Thập Tự, trong áo trắng, lăng xăng đi lại khiêng các bệnh nhân vào các phòng khám.
Hai đứa hớn hở bước nhanh chân hơn đến chỗ họ với hy vọng trở thành những người cộng sự có ích. Chưa đến bậc tam cấp của khu khám bệnh, cả hai phải khựng bước và đứng lặng người. Người bị thương nằm ngồi la liệt trên lối đi hướng về cổng của phòng khám.
Lần đầu tiên trên đời, Hạ nhìn thấy nhiều người bị thương và máu người chảy đầm dề. Toàn bộ các dây thần kinh trên đầu Hạ như cứng đờ khiến Hạ thấy chóng mặt và choáng váng. Nhắm mắt lại một lúc để lấy bình tĩnh, Hạ rị tay Anh rồi cùng len lỏi nhích dần đến phòng bệnh. Một người con trai trong y phục Hồng Thập Tự hét thật to:
- Mấy cô làm gì ở đây?
Hai đứa lí nhí:
- Dạ, chúng tôi đến đây để giúp người bị thương.
- Giúp người bị thương sao đứng xớ rớ một chỗ vậy? Hai cô lo tìm khăn lau máu cho các bệnh nhân đi.
- Dạ lấy khăn ở đâu và chăm sóc người nào trước?
- Nhiều người quá biết ai trước, ai sau được? Các cô xem ai cần thì giúp không cần phải hỏi. Hai cô theo tôi vào đây lấy khăn lau và thuốc sát trùng. Khuôn mặt của người nói khoảng độ tuổi của bọn Hạ, nhưng có lẽ vì công việc hiện tại đã tạo cho anh ta tính khí cứng rắn và thẳng thừng không khác gì người chỉ huy lính. Hạ cảm thấy ức vì không dưng bị con trai nạt nộ, nhưng cố gắng bỏ khuôn mặt bất mãn để bước theo anh ta. Hai đứa len lỏi bước ngang qua những người bệnh và theo anh ta vào tận căn phòng trong cùng.
Một người đàn ông ở trần để lộ nhiều mảnh bom trên mình với máu me loang lổ, lết theo anh và kéo chân anh lại .
- Bác sĩ ơi, cứu dùm tôi. Tôi đau quá!
- Bác bình tĩnh ngồi một chỗ đi. Cháu không phải là bác sĩ nhưng cháu và các bạn cháu sẽ cố gắng chăm sóc hết tất cả.
Hạ cảm thấy xây xẩm hơn khi nghe những tiếng khóc than và rên xiết xung quanh, nhưng Hạ cố gắng giữ bình tĩnh để còn được giao nhiệm vụ.
Cầm chiếc khăn lau và thuốc khử trùng trong tay, Hạ và Anh đi hai hướng khác nhau để lau máu và chăm sóc cho những người bị thương. Thoạt tiên, Hạ chùi máu cho người đàn ông có nhiều mảnh bom trên người. Chân ông bị một mảnh bom rất lớn làm cho máu ứ đọng xung quanh. Cố ra vẻ là người chuyên nghiệp, tay Hạ thoăn thoắt dùng khăn chấm thuốc khử trùng để làm sạch vết thương nhưng Hạ lại không dám đụng mạnh vào nó vì cảm tưởng nó như là vết thương ở trên da thịt mình. Hạ từ từ lau những chỗ máu đã khô rồi bậm gan lau lần vào đường nứt trên làn da tím bầm gần đầu gối nơi mà mảnh bom đen nằm ẩn dưới. Có lẽ mảnh bom sát vào xương chân làm người đàn ông này đau đớn khiến ông ta rên xiết không ngừng. Lau xong các vết thương ở chân ông ta, Hạ bắt đầu lau lên người. Có quá nhiều mảnh bom nhỏ li ti gắn chặt vào da thịt ông ta đến độ Hạ không giữ nổi ý nghĩ trong đầu:
- Sao bác bị thương gì mà nhiều quá vậy?
-Họ bỏ bom bi mà cô! Bom này mà nổ là nó vỡ ra thành ngàn mảnh!
Hạ nhíu mày ngạc nhiên vì không hiểu sao thành phố mới bị bỏ bom mà ông ta biết loại bom gì. Muốn hỏi nhiều hơn nhưng vì sợ mấy người Hồng Thập Tự, Hạ thì thầm:
-Ai bỏ bom vậyhả bác?
- Thì lính Cộng Hòa mình muốn bỏ bom cho sập cầu Xóm Bóng để tụi Việt Cộng không thể tiến chiếm Nha Trang được chứ ai. Nhưng mà, cầu không sập, bom lại nổ dưới chân Tháp Bà.
Hạ hốt hoảng:
-Vậy Tháp Bà có sao không? Có bị sập không?
- Không sao! Chỉ có những người chạy tị nạn từ miền Trung vào như chúng tôi, sống ở đầu cầu thì mới bị thôi.
Rên vài tiếng như thể cho đở bớt đau nhức, ông ta lo lắng hỏi:
- Không biết khi nào bác sĩ mới đến hả cô? Tôi sợ nếu vết thương để lâu quá, chân tôi phải bị cưa!
Lúc này Hạ nhìn ông ta kỹ hơn. Khuôn mặt lo lắng, hốc hác như trải qua một cơn khủng hoảng kinh hoàng lắm. Chiếc quần cộc bạc thếch với những vết bẩn của đất và vết loang của máu. Những vết thương ở chân và người chứng tỏ ông là người bị thương nặng thế mà ông lại phải ngồi ở một góc phòng. Những chiếc giường trắng của khu cấp cứu là nơi dành cho những người bị thương trầm trọng hơn. Vài cái giường chen chúc bởi hai, ba người hoặc hai, ba gia đình. Người bị nặng được ngồi hoặc nằm. Người bị nhẹ hơn thì đứng tựa gần đó. Nghĩ đến thân phận của những người miền Trung phải bỏ nhà chạy vào tị nạn ở Nha Trang mà không được yên thân, Hạ buồn bã trả lời:
- Cháu không biết gì cả bác ơi! Có lẽ mấy anh đó sẽ kiếm bác sĩ cho bác.
Chào ông ta để đi đến chăm sóc cho người khác mà tâm trí Hạ không được tập trung. Hạ không hiểu mấy anh Hồng Thập Tự làm sao tìm được bác sĩ cho hết thảy số người bị thương la liệt. Những ngày này, bác sĩ cũng như y tá thật là khó tìm trong thành phố. Nhưng mà, nếu lúc này thực sự có bác sĩ hay y tá thì Hạ cũng không biết ai là bác sĩ, ai là y tá, bởi vì mọi người ăn mặc như nhau ngoài trừ những anh chàng Hồng Thập Tự “hung dữ” này. Hạ không rành về y học và cứu thương, vì vậy Hạ cảm thấy bất lực và thua sút với những người đồng trang lứa. Với chai thuốc khử trùng và chiếc khăn, Hạ chỉ biết đi đến người này sang người khác và lau máu. Ngoài những câu an ủi qua loa, Hạ không thể làm gì khác hơn nữa. Hạ không dám quyết định việc gì ngay cả khi họ đòi uống nước. Hạ cũng không dám hỏi là nên hay không vì sợ bị la. Cho đến khi nghe mấy người mặc áo trắng la lớn, cảnh cáo: “Không được cho bệnh nhân uống nước!” thì Hạ lập tức không chiều theo ý của bệnh nhân nữa.
Khác với những người bị thương xung quanh, một đứa bé khoảng mười tháng nhoẻn miệng cười trong lòng mẹ. Hạ ngạc nhiên bước đến và ngồi xụp xuống bên người mẹ trẻ, Hạ nói:
- Cho em bế em bé một tí nghe!
Nhăn mặt vì đau đớn, nhưng chị bằng lòng chuyền đứa bé sang cho Hạ. Hạ đưa thẳng đứa bé lên quan sát, rồi xoay nó từ trước ra sau và cẩn thận tìm vết thương khắp người. Ngạc nhiên và mừng rỡ, Hạ nói to:
- Em bé không bị thương chỗ nào cả chị ơi!
Chị gật đầu:
- Chị biết rồi! Bởi vì khi máy bay bỏ bom chị ôm nó gọn trong lòng và lấy lưng đè nó xuống cho nên chị lãnh hết những mảnh bom trên lưng.
Xúc động với những điều nghe được, nước mắt Hạ tuôn trào. Hạ nghẹn ngào chưa biết nói sao, chị kể tiếp:
- Nhưng mà chị có hai đứa con, chị chỉ ôm được một đứa, còn con chị của nó thì bị thương.
- Chồng chị có ở đây không?
- Không! Anh ấy đi lính không biết giờ ở đâu.
Giao vội đứa bé lại cho chị, Hạ chồm người sang đứa bé gái khoảng bốn tuổi đang nằm bên cạnh mẹ. Hạ lật áo nó lên để tìm những vết thương và chùi máu. Con bé nằm yên thiêm thiếp. Thỉnh thoảng nó rên khóc rồi kêu mẹ đòi nước. Khuôn mặt con bé đờ đẫn với cặp mắt mất thần sắc. Lau những vết thương có mảnh bom nằm dưới làn da non, Hạ cảm thấy chua xót và tội nghiệp cho con bé, còn nhỏ mà phải chịu đau đớn do chiến tranh gây ra. Chăm sóc cho con xong, Hạ tiếp tục tìm vết thương và lau máu cho mẹ. Người thiếu phụ nức nở với câu chuyện kể:
- Biết “mấy ổng” vào Nha Trang, tôi định đưa mấy đứa con tôi trở về Buôn Mê Thuột rồi, nhưng vì không có đủ tiền nên mẹ con còn nấn ná ở lại, không ngờ đến nông nỗi này.
Hạ ngạc nhiên:
- Việt Cộng đã vào thành phố Nha Trang rồi sao? Sao em không thấy gì cả? Hôm qua em còn ra phố mà!
Chị khẳng định:
- Họ đã vào rồi cho nên bây giờ người ta chen nhau thuê xe về lại quê cũ. Tiền xe mắc như lúc di tản.
Hạ nhìn chị và ái ngại vì không có tiền để giúp chị. Nhìn cảnh chị đơn thân dắt hai con chạy giặc, Hạ chợt nhớ đến má của Hạ. Trưa quá rồi! Chắc là má trông ở nhà và nóng lòng lắm. Hạ đứng lên đi tìm Anh, cho con nhỏ biết tin là Việt Cộng đã vào thành phố rồi hối Anh chở Hạ về.
Má Hạ đứng chờ trước cổng nhà. Đưa cho Hạ một cái túi nhỏ, bà nói một cách cương quyết:
- Con vào chọn áo quần và những thứ cần thiết để đi ngay.
- Đi ngay? Mình đi đâu hả má?
- Đi Thanh Minh với hai cô. Mình sẽ ở nhà dì Tư.
-Còn hai bác và Ái thì sao?
- Bác gái đã đi Thanh Minh với bà con của bác rồi. Chỉ còn bác trai ở lại với con Ái.
Hạ nằn nì:
- Con không muốn đi! Con muốn ở lại.
- Nha Trang bây giờ là chỗ giao chiến. Mình ở đây không yên đâu. Con đừng chướng!
Hạ cố hỏi vặn:
- Thế tại sao bác cả và Ái ở lại được?
Má Hạ không trả lời. Bà hối hả gọi hai cô rồi giục Hạ mau ra khỏi nhà để khóa cửa. Đến trước cổng, gặp Ái đứng trên hiên nhà bác cả, má Hạ khuyên nó:
-Lấy đồ chạy với bác đi con!
Ái lắc đầu:
- Con không nỡ để bác trai ở lại một mình. Hơn nữa, con không sợ chết.
Hạ không thuyết phục Ái, cũng không chen vào đối thoại của hai người. Hạ trầm ngâm với ý nghĩ : “Mình không anh hùng như Ái. Mình không những sợ chết mà còn sợ bị thương như những người trong bệnh viện ngày hôm nay. Tuy nhiên, dù chết hay bị thương, bị ngay tại nhà vẫn còn tốt hơn là ở đâu đâu.”
Dù ý nghĩ có là ước muốn của Hạ, Hạ cũng không thể nào quyết định độc lập như Ái. Má Hạ quá đau lòng khi mất Thảo Vy, Hạ không nỡ để bà bận lòng thêm nữa.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chương 12
Bốn người may mắn đón được chiếc xe lam để đi về Thành. Xuống bến xe Thành, cô Sáu, cô Út, má Hạ và Hạ tiếp tục mướn xe đi về phía Thanh Minh. Những người lớn than van với nhau về cái giá cắt cổ mà mấy ông tài xế “chém.” Hạ thì buồn hơn những người này vì chiếc nhẫn vàng tây có hình trái tim rỗng của Hạ bị rơi mất khi chen chúc trên những chiếc xe đò và xe lam. Chiếc nhẫn này là vật kỷ niệm của Hạ. Hạ sắm nó với số tiền dành dụm mà Hạ móc “crochet” những cái khăn trải bàn và khăn màn cửa gửi cho cô Sáu bán. Hạ muốn nói về chuyện đánh mất chiếc nhẫn và trách má sao nỡ bỏ nhà đi, nhưng Hạ cảm thấy lười biếng nên im lặng và bước theo mọi người vào căn nhà có cái sân xi măng rộng và xung quanh có những khóm hoa trang. Vào đến phòng khách, Hạ vâng lời má chào từng người trong nhà. Thoạt tiên là bà lão có mái tóc bạc, rồi đến người đàn ông vạm vỡ có giọng to và vồn vã, rồi người đàn bà có nụ cười hiền lành, rồi một anh con trai cao lớn, một đứa bé gái và ba đứa con trai nhỏ.
Qua giới thiệu, Hạ biết được người đàn ông vạm vỡ kia là chồng của dì Tư. Dì Tư là bạn buôn bán với má Hạ. Ông bà có năm người con. Bốn người con trai và duy nhất một cô gái út. Bà lão là mẹ của ông dượng Tư.
Tất cả mọi người trong gia đình này đều hiếu khách nên má và hai cô của Hạ tự nhiên như ở nhà. Còn Hạ vẫn nhăn nhó như lúc rời Nha Trang. Hạ cảm thấy không tự nhiên khi ở chung một nhà với người con trai bằng tuổi mình và nhất là phải nằm ngủ trống trải trong phòng khách với má và các cô.
Mỗi ngày, Hạ phụ giúp những người lớn nấu ăn, rửa chén rồi ngồi yên nhìn những đứa nhỏ chơi đùa trước sân. Thỉnh thoảng Hạ đến cái góc bên cạnh bàn thờ tìm sự yên lặng với quyển nhật ký, những bài thơ, những vật kỷ niệm và hình của bạn bè. Hạ cảm thấy nhớ Nha Trang, nhớ bạn bè, nhớ thầy cô và những buổi dạ vũ. Nhớ nhất là nhỏ Anh thân thương với giọng kêu ơi ới ngoài bức thành. Chìm đắm trong nỗi nhớ, Hạ tìm những bài thơ dễ thương với chữ viết tuyệt đẹp của Anh trao cho Hạ ngày nào. Hạ thích đọc đi đọc lại bài thơ “ Răng Khểnh” được tặng để mơ mộng như thể đang ngồi trên ghế xích đu bên cạnh khóm hồng nhà Anh:
“Ơi cái răng khểnh dễ thương dễ ghét.
Ơi tiếng cười rúc rích như chuột gặm nát trái tim anh.
Nhỏ trông buồn cười như trái ớt.
Ớt xanh nho nhỏ đo đỏ mà cay khôn cùng.
Cay mờ mắt anh.
....
Nhỏ, cho nhỏ chùm tỉ muội.
Đừng chớp mắt tội tình anh...”
Bên cạnh những cánh hoa ép khô, những bài thơ, bài nhạc và hình vẽ, bài thơ năm chữ của người con trai mang kính cận trong lớp cha Phương vô tình gợi lại cho Hạ những ngày thân ái xa xưa:
“O nớ mang răng khểnh.
Trông mê mệt vậy thê.
Mỗi khi cô nhích lệch
Mình cảm thấy lạnh tê
Bữa kia bạn cho kẹo
Cô vội cười mỉm chi
Nhưng trông lại cô héo
Cục kẹo có tí ti...”
Nhìn lại những kỷ vật, Hạ thấy nhớ Nha Trang và bạn bè rất nhiều. Không biết bạn bè Hạ bấy giờ lưu lạc ở những nơi nào? Có phải họ đang nhớ kỷ niệm cũ, những ngày xưa cũ như Hạ đang khoắc khoải mong nhớ không? Ngày mai của Hạ ra sao và tương lai của Hạ như thể nào khi Hạ không thể kết thúc kỳ thi tú tài? Còn Thảo Vy nữa, có phải chị em Hạ mãi mãi không bao giờ được gặp nhau không? Hạ không tìm được câu trả lời cho bao nhiêu câu hỏi trong đầu. Niềm hy vọng trong Hạ càng lúc, càng trở nên nhỏ bé và mong manh. Nỗi buồn thầm kín quyện với cái mất mát lớn lao của hiện tại làm Hạ cảm thấy chơi vơi và đơn độc. Hạ muốn khóc thật nhiều để được vơi buồn và nỗi u uất trong tâm trí. Như hiểu lòng Hạ, mỗi ngày má và hai cô của Hạ luôn nhắc khéo: “Tới ở nhà người lạ phải luôn luôn vui vẻ nghe con.” Cho nên, Hạ không làm gì khác hơn là im lặng và im lặng.
Buổi trưa thật là yên lặng. Những người lớn tụ họp ở vệ đường trước mặt nhà để bàn tán về tin tức ở Nha Trang và túc trực nghe truyền thanh để biết tin tức ở Sài gòn. Hạ thờ ơ nhìn những đứa nhỏ chơi đùa trước sân. Mỗi buổi trưa, tụi nhỏ trong xóm thường tụ lại trước nhà để chơi lò cò hay nhảy dây.
Con bé gái của dì Tư lân la đến làm quen:
- Chị Hạ muốn chơi với tụi em không?
Hạ lắc đầu:
-Không! Cảm ơn các em!
Con bé và bạn nó ngồi sát vào Hạ :
- Tóc chị Hạ rối quá. Chị muốn tụi em chải cho chị không?
Thấy Hạ gật đầu, hai đứa nhỏ bỏ mặc bạn bè nhảy nhót trên sân, chạy vào nhà tìm lược. Một lát sau, chúng chạy đến bên Hạ, chia ranh giới trên đầu để chải bới . Mấy đứa khác thấy ngộ, ngừng chơi, lân la tới nhìn Hạ. Chúng cười nói đủ chuyện rồi chia nhau hái hoa lá. Những bàn tay non, mềm mại mơn trớn trên mái tóc, những chiếc răng lược quyện trong tóc, cộng với gió hiu hiu thơm mát của vùng quê làm Hạ muốn rơi vào giấc ngủ.
- Chị Hạ, nhìn trong gương xem! Chị có giống công chúa hay cô dâu không?
Liếc vào tấm gương, Hạ bật cười khi thấy khuôn mặt mình thật tếu. Hạ không bao giờ thích đeo bông tai hay gắn bất cứ kiểu hoa nào trên đầu, vậy mà tụi nhỏ gắn trên tóc Hạ đủ các loại hoa. Màu sắc rực rỡ của những đóa hoa tương phản trên làn da nâu xẫm đã tạo cho Hạ một khuôn mặt giống cô gái của người thiểu số. Nhìn những ánh mắt chờ đợi của chúng, Hạ gật đầu và nói dối:
- Đẹp! Chị thích lắm.
Cả bọn căn dặn:
- Chị đừng gỡ tóc xuống nghe! Tụi em làm lâu lắm mới được như vậy đó!
Hạ gật đầu và mỉm cười.
- Chị có thích ăn trái cây không?
- Chị thích lắm.
- Chị ngồi yên đây nghe. Tụi em về nhà hái trái cây cho chị.
Mấy đứa nhỏ con dì Tư chạy theo bạn hái trái. Hạ nhìn theo chúng và mỉm cười bâng quơ. Đây là ngày ở trên Thanh Minh mà Hạ cảm thấy vui. Câu nói ngây ngô, nụ cười hồn nhiên và việc làm vô vị lợi của những đứa nhỏ đã làm cho Hạ vơi bớt buồn.
Suốt buổi chiều hôm ấy, Hạ ăn trái cây với mấy đứa nhỏ con dì Tư và những đứa nhỏ trong xóm. Hết ổi, lại xoài, mít, rồi đu đủ. Tụi nhỏ cố gắng lục lọi các loại trái cây trong vườn để làm Hạ vui và Hạ thì không từ một loại trái nào mà chúng cho. Mê nhứt là những múi mít dừa! Hạ vô tư ăn hết nửa trái mít và nghĩ bụng ăn để thế cho bữa cơm chiều. Tác hại thay, tối hôm ấy, tất cả trái cây mà Hạ ăn biểu tình dữ dội. Hạ bị đau bụng và muốn ói nhưng lại không thể ói ra được. Má Hạ, các cô và những người lớn trong nhà dì Tư lăng xăng tìm cách chữa cho Hạ. Người cắt lể, người cạo gió, người xoa dầu. Mọi người xúm xít bàn tán:
- Nó bị trúng thực rồi. Ăn nhiều trái cây mà không tiêu là bị vật.
- Mít độc lắm, ăn nhiều không tiêu đâu. Bụng yếu mà ăn nhiều mít thì làm sao tiêu được!
Dì Tư lo lắng:
- Cầu cho nó mửa ra. Chỉ có mửa ra được thì nó mới khỏe lại thôi.
Những cơn ói khan làm Hạ kiệt sức. Dì Tư và dượng Tư quyết định đưa Hạ lên nằm trên giường của người con trai lớn của ông bà. Hạ quá yếu nên không thể từ chối. Người con trai lớn của dì Tư đã chạy đi tìm các loại lá cây và vỏ măng cụt như lời mẹ anh ta nói: “ Trúng thực thì chỉ có nước uống nước vỏ măng cụt sao mới khỏi thôi.”
Khi anh ta đến bên giường và đưa cho Hạ chén nước thuốc do chính anh ta làm, Hạ thấy sợ. Nhìn màu nâu xẩm của nước thuốc, Hạ muốn quay mặt đi, nhưng rồi vị tình, nên Hạ đành nhận và cố uống cho xong.
Cô Sáu nói:
- Uống đi con. Anh Hùng phải đi tìm suốt buổi tối mới có mấy cái vỏ măng cụt này đó. Tình hình bây giờ đâu có thể đi chợ được mà tìm thuốc dễ dàng.
Nuốt đến ngụm thuốc thứ hai, chất đắng và mùi hôi của thuốc làm cổ họng Hạ khó chịu. Hạ càng cố nén thì mùi nồng của thuốc càng kích thích mạnh hơn khiến cho nước thuốc bộc mạnh lên cổ rồi ào tuôn ra khỏi miệng kèm theo vô số thức ăn. Mọi người xúm xít dọn dẹp giường chiếu và cho Hạ uống nước nóng. Lúc này cổ họng Hạ vừa chua, vừa đắng nhưng Hạ bớt mệt và không còn bị ngạt thở để bắt đầu cho một giấc ngủ bình yên.
***
Sáng hôm sau Hạ tỉnh táo hơn. Nằm yên nhìn mọi người lui tới chăm sóc, Hạ cảm động nhưng không nói gì. Mấy đứa nhỏ bẽn lẽn đến cạnh giường xem Hạ ra sao và tỏ ý muốn nói chuyện. Lúc này, Hạ cởi mở hơn và nói chuyện với từng đứa. Hạ không nhớ là đã nói với chúng những gì và đã kể cho chúng nghe những gì . Nhìn những đôi mắt thơ ngây chăm chú nghe chuyện, Hạ thấy thích thú, nghĩ rằng mình đã thu hút chúng bằng giọng nói Nha Trang chứ không phải vì câu chuyện kể. Mấy đứa nhỏ dường như hãnh diện khi được làm bạn với Hạ. Chúng cười vui tíu tít quanh giường và rủ Hạ đi sang nhà hàng xóm chơi với chúng.
Những người lớn xầm xì, bàn tán về công lao của anh Hùng. Cô Sáu nói bóng gió:
- Người lo cho mình lúc hoạn nạn sẽ là người chồng tốt. Mình ơn nghĩa với gia đình chị Tư này không biết đến bao giờ mới trả được?
- Gia đình ảnh, chỉ thật tốt và phước đức ghê. Ai làm dâu nhà này sướng lắm đó.
Chồng con? Lập gia đình? Chưa bao giờ Hạ nghĩ đến điều này. Hạ vẫn còn rất nhiều ước mơ. Hạ vẫn còn chờ đợi và hy vọng. Hạ chỉ muốn kiếm lời nào đó để cảm ơn người tìm thuốc cho Hạ , chứ không muốn nghĩ gì xa xôi. Ơn nghiã của các cô con gái với các chàng trai nảy sinh tình yêu, và kết thúc bằng đám cưới thường xảy ra trong truyện tiểu thuyết. Các câu truyện viết thường được đơn giản hóa. Còn trong thực tế, Hạ thấy nhiều thứ tình cảm khác biệt nhau mà không thể lầm lẫn được. Tình thương hại và ơn nghĩa không phải là tình yêu và không thể nào khỏa lấp được tình yêu.
Niềm vui trong chốc lát của Hạ biến mất ngay sau đó và nỗi buồn cũ lại trở về. Hạ thấy nhớ da diết Nha Trang và những ngày vui đùa cùng nhóm bạn dễ thương. Hạ còn nhớ những người bạn không phải học sinh của Nữ Trung học Huyền Trân và ao ước được đi dự những buổi dạ vũ để còn thấy được niềm đau hơn là mất tất cả. Cảm giác không muốn ngồi dậy, không muốn đi đâu, Hạ xin lỗi mấy đứa nhỏ để tiếp tục nằm yên trên giường.
***
Niềm vui hay nỗi buồn cũng phải bỏ lại sau lưng khi dượng Tư báo cho mọi người về cuộc họp mặt với quân đội niềm Bắc ở đình làng.
Buổi tối hôm ấy, ngoài những đứa nhỏ ra, tất cả mọi người phải tập họp ở sân làng để nghe “ bộ đội” miền Bắc nói chuyện.
Một số đông đàn ông mặc đồng phục xanh rêu bạc màu, đội nón cối sắt ngồi thành một nhóm lớn trước những người dân làng. Hai người đại diện thay phiên nói về những việc họ đã làm và sắp làm. Quan sát họ, Hạ không cảm thấy sợ như lời đồn, nhưng khi nghe họ nói chuyện với những từ dùng mạnh mẽ và lạ lùng như “ cách mạng”, “giải phóng”, “tích cực”, “phấn đấu”, “bác Hồ”, “Đảng và nhà nước” thì Hạ cảm thấy sợ. Hạ cảm thấy sợ hơn và khó chịu hơn khi họ dùng từ “Mỹ Ngụy đồi trụy” mà lờ mờ không hiểu mình có phải là “Ngụy” như họ ám chỉ không. Chưa bao giờ Hạ nghe tiếng Bắc với âm thanh rắn chắc và nặng nề như giọng nói mà họ sử dụng. Hạ thất vọng khi biết họ đã thật sự chiếm Nha Trang và chuẩn bị tiến vào Sài Gòn. Hạ hồi tưởng lại hình ảnh người lính Cộng Hòa với quân phục gọn gàng hùng dũng ngày xưa, nhưng rồi cảm thấy chán nản vì linh tính là những người lính miền Nam không giữ được những sự nguyên vẹn cũ.
Má và các cô của Hạ quyết định trở về nhà. Trước khi trở lại Nha Trang, má Hạ căn dặn: “Từ nay con phải giữ miệng, không được nói năng bừa bãi, không được kêu Việt cộng mà phải là mấy ông Cách Mạng . Áo quần tây, tàu cũ cũng bỏ hết đi, má sẽ mua vải đen hay nâu về may đồ cho con mặc.”
***
Vừa đến nhà là Hạ tìm Ái ngay. Con nhỏ sống thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra bên ngoài khu vườn nhà nội. Con nhỏ khoe các món bánh mà nó làm và mấy chiếc áo “hoa hoè, hoa sói” tự may. Đi ngang khi vườn thấy một cái hố nhỏ có đậy tấm cửa gỗ cũ bên trên, Hạ hỏi:
- Cái gì đây?
- Chỗ tránh bom của bác trai.
- Ai đào lỗ này cho bác.
- Tui phụ bác đào.
Hạ ngẫm nghĩ về điều Ái tiết lộ mà không tìm câu trả lời thích đáng. Ngày Nha Trang bị bỏ bom, bác cả của Hạ không hốt hoảng chạy trốn như những người trong nhà, nhưng những ngày sau đó lại cố sức đào cái
hố nhỏ trong vườn để tránh bom. Quan sát nhìn cái “hầm tránh bom”tí tẹo ấy, Hạ hỏi:
- Chỗ này chỉ đủ cho một người ngồi à! Vậy bà ở đâu?
- Tui ở trong phòng chứ ở đâu! Chạy trốn ở đâu chi cho mệt. Bom rớt xuống, chết trên giường nệm sướng hơn ở cái hố cát này!
Hạ gật đầu:
- Đi đâu rồi cũng trở lại chỗ cũ nhưng mà cái sợ làm người ta thiếu bình tĩnh.
Hạ không ngạc nhiên về tính bất cần của Ái. Biến cố Mậu Thân năm1968 và mùa hè đỏ lửa 1972 đã làm con nhỏ quá quen thuộc với chiến tranh. Mệt mỏi và chán chường với tàn khốc đã từng chứng kiến, Ái thực sự xem thường những gì mà người khác sợ hãi.