Ðám người đó, mỗi người kể một đoạn, sau khi ghép lại thì mối nghi ngờ trong lòng mọi người đã tan đi quá nửa. Chỉ phải nỗi cái đói dày vò, càng uống trà càng cồn cào ruột gan.
Ðào Bách Tuế lớn tiếng nói:
- Bây giờ sự việc đã nói rõ ra rồi, thanh bảo đao này do chính tay Ðiền Quy Nông trao cho con trai tôi, các vị khỏi cần tranh giành nữa chứ?
Lưu Nguyên Hạc cười:
- Ðiền đại ca chỉ trao một cái hộp rỗng cho Ðào thế huynh mà thôi. Nếu huynh muốn lấy cái hộp rỗng đó, tại hạ không có gì để nói. Còn thanh bảo đao thì huynh làm gì có phần?
Ân Cát nói:
- Thanh đao này nên trở về với Nam Tông Thiên Long Môn chúng tôi, điều đó chẳng còn nghi vấn gì nữa.
Nguyễn Sĩ Trung nói:
- Hồi đó Ðiền sư huynh đã làm lễ trao đao đâu? Ðao này vẫn thuộc Bắc Tông Thiên Long Môn?
Tiếng tranh cãi ngày càng một to. Bảo Thụ bỗng cao giọng hỏi:
- Các vị tranh nhau thanh đao này để làm gì?
Mọi người ngớ ra, không biết trả lời ra sao. Bảo Thụ cười nhạt:
- Lúc trước các vị chỉ biết thanh đao này chém sắt như bùn, sắc ngọt không bì,nhưng chưa biết rõ nó còn liên quan đến một kho báu rất lớn. Bây giờ có người nói,nên ai nấy mới vằn mắt lên, mới nảy lòng ham muốn. Có điều lão hoà thượng tôi đây muốn thỉnh giáo: nếu không có bản đồ kho báu thì riêng thanh đao này dùng được vào việc gì?
Mọi người hơi thất vọng, dồn mắt nhìn vào chiếc thoa ngọc trên mái tóc Miêu Nhược Lan mảnh mai yếu ớt, muốn lấy chiếc thoa trên đầu cô dễ như trở bàn tay,song nghĩ cha cô lừng danh thiên hạ, nếu ai đó dám xúc phạm sàm sỡ với cô thì cha cô sẽ truy cứu đến cùng, cho nên ai còn dám động đến? Mắt thấy chiếc thoa rung rung, song chẳng ai lên tiếng trước. Lưu Nguyên Hạc nhìn xéo mọi người một cái, vẻ mặt ngạo nghễ đến trước mặt Miêu Nhược Lan, bất chợt thò tay rút luôn chiếc thoa ngọc trên mái tóc cô.
Miêu Nhược Lan vừa thẹn vừa tức giận, tái mặt đi,lùi về phía sau hai bước. Mọi người thấy Lưu Nguyên Hạc dám cả gan như vậy thì đều thất sắc.
Lưu Nguyên Hạc nói:
- Ta đây phụng chỉ làm nhiệm vụ, sợ quái gì Miêu đại hiệp với Mầm đại hiệp? Vả chăng lúc này Kim Diện Phật sống hay chết, hừm, cũng còn là điều chưa biết kia!
Mọi người ồ lên hỏi:
- Sao thế?
Lưu Nguyên Hạc mỉm cười, đáp:
- Xem ra lúc này Kim Diện Phật vẫn còn ở trên đời, nhưng có đến chín phần mười đang bị cùm chân khoá tay ngồi trong ngục rồi đấy!
Miêu Nhược Lan kinh hãi, quên cả nỗi nhục bị lấy mất thoa ngọc, chỉ nghĩ đến an nguy của cha nên vội hỏi:
- Ông... ông bảo cha tôi làm sao?
Bảo Thụ nói:
- Ông nói cho rõ đi!
Lưu Nguyên Hạc nghĩ đến lúc lên núi bị lão kéo ngược kéo xuôi trên tuyết,không ra thể thống gì, nhưng khi nói đến việc phụng chỉ thi hành thì thần sắc Bảo Thụ thay đổi hẳn, bây giờ nghe lão hỏi vậy bèn hỏi lại:
- Bảo Thụ đại sư này, tại hạ hỏi ông trước đã, chủ nhân nơi này là ai?
Mọi người lên núi đã nửa ngày mà vẫn không biết chủ nhân là ai, nay nghe Lưu Nguyên Hạc hỏi đúng với ý mình, đều cùng nhìn vào Bảo Thụ. Lão cười rồi nói:
- Các vị đã không giấu giếm thì lão tăng cũng không cần giả bộ làm gì. Chủ nhân nơi đây họ Ðỗ tên Hi Mạnh, là nhân vật lừng danh trong giới võ lâm.
Ai nấy đưa mắt nhìn nhau, nhẩm thầm "Ðỗ Hi Mạnh? Ðỗ Hi Mạnh?" song không nhớ ra người này là ai. Bảo Thụ cười nói thêm:
- Vị lão anh hùng họ Ðỗ đánh giá cao về mình lắm, ngày thường không giao du với ai, cho nên võ công tuy cao cường song người thường đâu có biết. Còn những nhân vật đứng đầu chốn giang hồ thì ai nấy đều rất khâm phục vị lão anh hùng này.
Chỉ mấy câu nói qua thế thôi nhưng khiến tất cả đều mếch lòng. Rõ ràng có ý cho mọi người thực chẳng đáng kể gì. Bọn Ân Cát, Nguyễn Sĩ Trung đều giận lắm,nhưng lại nghĩ trên câu đối Miêu Nhân Phượng gọi ông ta là "Hi Mạnh nhân huynh", còn bản thân họ quả chưa đủ gọi huynh xưng đệ với Kim Diện Phật, cho nên tuy bực với câu nói của Bảo Thụ song không dám bắt bẻ. Lưu Nguyên Hạc lại nói:
- Lúc chúng ta lên núi, viên quản gia nơi này có nói chủ nhân anh ta tới tháp Ninh Cổ để mời Kim Diện Phật, lại cử người đi mời bang chủ họ Phạm của Hưng Hán Cái Bang nữa. Câu này có điều không thật, bởi Phạm bang chủ bị bắt ở phủ Khai Phong tỉnh Hồ Nam rồi. Tại hạ cũng góp chút sức lực trong vụ này.
Ai nấy kinh ngạc hỏi:
- Phạm bang chủ bị bắt rồi sao?
Lưu Nguyên Hạc cười nhạt:
- Vụ này chính Trại tổng quản, Tổng quản ngự tiền thị vệ ra tay. Xem ra Phạm bang chủ tuy cũng được kể là một nhân vật có cỡ song bất tất phải làm phiền đến Trại tổng quản. Chúng tôi tóm Phạm bang chủ coi như làm miếng mồi thơm dùng để nhử con kim ngao lớn hơn, con kim ngao ấy tất nhiên là Kim Diện Phật rồi. Ðỗ trang chủ định mời Miêu Nhân Phượng để đối phó với Tuyết Sơn Phi Hồ nào đó,nhưng làm sao mời nổi? Lúc này Miêu Nhân Phượng hẳn đi Bắc Kinh để nghĩ cách giải cứu Phạm bang chủ. Hừm, Trại tổng quản đã bố trí thiên la địa võng ở Bắc Kinh, chỉ còn đợi Miêu Nhân Phượng đến mà thôi. Nếu Miêu Nhân Phượng không trúng kế này thì chúng tôi cũng không thể làm gì được, còn nếu ông ta tới Kinh cứu bạn thì thế gọi là chim gõ kiến mổ gỗ hoàng liên, tự mình chuốc lấy quả đắng.
Khi chia tay với cha, Miêu Nhược Lan quả có nghe cha nói có việc lên Kinh,dặn cô lên núi tuyết trước, đếm ở tạm nhà họ Ðỗ. Lúc này nghe Lưu Nguyên Hạc nói thế, cô chỉ sợ cha mình lành ít dữ nhiều, bất giác tái mặt đi. Lưu Nguyên Hạc dương dương đắc ý, nói tiếp:
- Chúng ta đã có bản đồ và cả bảo đao nữa, hãy đi đào kho báu của Lý Tự Thành dâng lên thánh thượng. Mọi người ở đây sẽ đạt được công danh, vợ con cũng đều được phong tặng.
Thấy có người mừng ra mặt, có người do dự. Lưu Nguyên Hạc thầm biết những người như Ðào Bách Tuế chẳng hạn, coi thăng quan nặng hơn phát tài, nên nói thêm:
- Hẳn kho báu ấy của cải chất cao như núi, mọi người tiện tay nhặt lấy ít nhiều cũng đủ ăn thừa thãi cả đời, chảng hay lắm sao?
Mọi người khen phải ầm ĩ, không còn nói đi nói lại gì nữa.
Ðiền Thanh Văn từ lúc nãy xấu hổ quá tránh vào phòng, nay nghe ngoài sảnh không ngớt tiếng khen, biết rằng họ không còn bình luận về chuyện xấu xa của mình nữa bèn rón rén đi ra đứng bên ngoài cửa. Lưu Nguyên Hạc nhổ một sơi tóc trên đầu xuống thong thả xỏ qua mỏ con phượng trên chiếc thoa ngọc, rồi theo cách làm của Miêu Nhân Phượng nhìn thấy hôm đó, khẽ kéo sợi tóc. Cái lẫy trên đầu con phượng bật ra, quả nhiên có viên giấy nhỏ rơi ra, mọi người kêu ồ lên. Lưu Nguyên Hạc trải mảnh giấy trên bàn, ai nấy xúm lại xem. Mảnh giấy ấy mỏng như cánh ve, tuy lâu năm nhưng được cất giữ kín trong chiếc thoa nên không hề bị rách mủn. Trên giấy có vẽ một đỉnh núi thẳng đứng cao chót vót, bên cạnh đỉnh núi có viết chín chữ: "Sau ngọn Ngọc Bút, núi Ô Lan, Liêu Ðông".
Bảo Thụ kêu to:
- A¨i chà, trong thiên hạ sao lại có chuyện khéo đến thế? Nơi chúng ta đang đứng đây chẳng phải là ngọn Ngọc Bút núi Ô Lan hay sao?
Mọi người nhìn hình vẽ trên giấy quả nhiên thấy giống hệt ngọn núi tuyết này;cả ba cây thông già cỗi bên vách núi trông thấy khi leo núi cũng được vẽ rành rành trên đấy, ai nấy đều tấm tắc khen lạ. Bảo Thụ nói:
- Lão anh hùng họ Ðỗ trên trang trại này nghe nhiều biết rộng, hẳn là có nghe tin về kho báu ở nơi này nên mới xây riêng trang trại ở đây, nếu không, nơi đây khí hậu lạnh giá, lên xuống khó khăn, hà tất phải tốn phí nhiều công của đến thế?
Lưu Nguyên Hạc giật mình vội nói:
- Trời ơi, thế thì hỏng rồi! Trang trại này xây dựng đã lâu, ông ta lại chẳng khoắng sạch kho báu từ trước rồi sao?
Bảo Thụ mỉm cười nói:
- Chưa hẳn thế đâu! Lưu đại nhân nghĩ coi, ông ta đã tìm được nơi để kho báu thì nhất định đã sớm dọn đi nơi khác rồi, quyết không khi nào còn ở lại đây.
Lưu Nguyên Hạc vỗ đùi kêu lên:
- Phải lắm, phải lắm! Mau đến sau núi đi!
Bảo Thụ chỉ vào Miêu Nhược Lan:
- Còn tiểu thư đây với người của trang trại thì sao?
Lưu Nguyên Hạc quay người lại, thấy viên quản gia và người giúp việc trên trang trại đã tản đi đâu hết cả. Ðiền Thanh Văn từ cửa sau đi ra nói:
- Không biết làm sao, bon đàn ông đàn bà trên trang trại đều trốn mất tăm cả rồi!
Lưu Nguyên Hạc iật lấy một thanh đao, tới trước mặt Miêu Nhược Lan nói:
- Việc chúng ta nói ra, ngươi đã nghe hết từng câu một. Mầm họa này phải diệt!
Nói rồi giơ đao lên toan bổ xuống đầu Miêu Nhược Lan. Cầm Nhi từ sau lưng ghế nhảy ra, ôm chặt lấy tay của Lưu Nguyên Hạc ra sức cắn cho một miếng. Lưu Nguyên Hạc bất ngờ bị đau điếng ở tay, thanh đao rơi xoảng xuống đất. Cầm Nhi la mắng:
- Ðồ độc ác chết toi này, mi dám động đến một sợi lông chân của tiểu thư thì lão gia ta lên đến núi sẽ rút gân mi, lột da mi! Còn những kẻ khác cũng không khỏi bị liên can đấy!
Lưu Nguyên Hạc giận quá, trở tay định đấm cho Cầm Nhi một cái vào mặt thì Hùng Nguyên Hiến đã giơ tay phải gạt nắm đấm đó, nói:
- Sư huynh, việc cần nhất của chúng ta là tìm kho báu, bất tất làm tổn thương đến tính mệnh người khác.
Phải biết rằng Hùng Nguyên Hiến cả đời làm bảo tiêu xưa nay vốn nhát gan sợ liên lụy, cẩn thận chín chắn, không như sư huynh họ Lưu làm đến thị vệ của hoàng đế, giết vài mạng dân đen chẳng coi ra gì. Hắn nghe Cầm Nhi nói, cũng nghĩ nếu động đến Miêu Nhược Lan, vạn nhất cha cô thoát khỏi cầm tù thì thật là khó tránh khỏi tai vạ.
Ân Cát cũng nghĩ như hắn nên nói:
- Lưu sư huynh, chúng mau đi tìm kho báu thôi!
Lưu Nguyên Hạc trừng mắt, chỉ vào Miêu Nhược Lan nói:
- Còn con bé này thì thế nào?
Bảo Thụ mỉm cười bước tới hai bước, vén tay áo lên, giơ ngón tay điểm vào huyệt "thiên đột" ở cổ, vào huyệt "thần thông" ở lưng Miêu Nhược Lan. Toàn thân cô té nhũn ngồi phịch xuống ghế, tuy vừa thẹn vừa tức nhưng không thốt lên lời.
Cầm Nhi tưởng tiểu thư bị người đánh, liền liều nắm chặt lấy tay tên sư già định cắn một miếng.
Bảo Thụ cứ để cho cô gái nắm chặt tay phải đưa lên miệng, lão chỉ hơi đông đậy là ngón tay điểm luôn vào huyệt "nghênh hương" bên mũi và huyệt "địa thương" bên mép, khiến Cầm Nhi rùng mình một cái là ngã lăn xuống đất.
Ðiền Thanh Văn nói:
- Tiểu muội nhà họ Miêu ngồi đây thì khó coi quá!
Liền nghiêng mình đỡ lấy Miêu Nhược Lan, vừa dìu sang phòng phía Ðông vừa nói:
- Ngươi nhẹ thật, như không có xương vậy!
Phòng phía Ðông vốn là phòng khoản đãi khách khứa của Ðỗ trang chủ, nào giường màn bàn ghế cùng các vật dụng khác đầy đủ, đồ bầy biện cũng rất sang.
Ðiền Thanh Văn khoá cửa lại, giúp Miêu Nhược Lan cởi bỏ áo ngoài, giày tất ra,chỉ để lại quần áo lót, rồi quấn cô vào trong chăn, buông màn xuống. Từ tuổi lên bảy, lên tám, Miêu Nhược Lan đã không khi nào cởi bỏ quần áo trước mặt người lạ, nay người lạ tuy là nữ song cô vẫn thẹn đỏ cả mặt. Ðiền Thanh Văn nhìn thân hình cô, mỉm cười nói:
- Sợ tỉ tỉ nhìn à? Muội này, muội xinh đẹp quá khiến ngu tỉ cũng không cầm lòng cảm động được đấy?
Nói xong, Ðiền Thanh Văn ôm đống quần áo của Miêu Nhược Lan ra ngoài sảnh nói:
- Tôi đã cởi bỏ quần áo cô ta đây rồi, nếu giờ huyệt đạo được giải thì cô ta cũng chẳng dám đi ra ngoài đâu.
Mọi người cười ầm cả lên. Bảo Thụ nói:
- Tất cả lại đây mà xem đi! Từ thanh đao này tìm đến kho báu ra sao đây?
Nói xong, lão lấy ra chiếc hộp sắt, mở hộp sắt cầm lấy thanh đao, thấy ngoài mấy chữ khắc trên bao da ra, chẳng có gì khác lạ cả. Một tay nám bao da, một tay nắm đốc đao, lão rút soạt thanh đao ra, chợt thấyluồng sáng xanh chiếu ra bốn phía, lạnh đến rợn người, bất giác lão rùng mình mấy cái liền. Cả bọn cùng lúc kêu ầm lên.
Bảo Thụ đặt thanh đao xuống bàn, ai nấy vây quanh xem, thấy thân đao một phía nhẵn thín, một phía chạm hoa văn hai rồng tranh nhau một hạt ngọc. Ðôi rồng này một to một nhỏ, hình dáng xấu xí, rồng không ra rồng, rắn không ra rắn mà như hai con sâu róm, nhưng hạt ngọc chúng tranh nhau lại là một viên ngọc, sáng long lanh, đúng là vật quý.
Tào Vân Kỳ cầm đao lên nhìn kỹ hỏi:
- Ðao này có gì lạ đâu?
Bảo Thụ đáp:
- Hai con vật này nhất định có liên quan đến kho báu, chúng ta đi ra sau núi ngắm xem rồi hãy nói. Ðưa đao đây cho ta!
Nói xong lão giơ tay toan đỡ thanh đao. Tào Vân Kỳ lẳng lặng rút đao về che lấy người rồi chạy bổ ra ngoài.
Bảo Thụ quát đuổi theo:
- Ngươi định làm gì đấy!
Ra đến cổng, thấy Tào Vân Kỳ xách đao chạy rảo chân về phía trước, lão giơ tay phải lên, thế là một hạt tràng sắt bay ra, trúng vào xương bả vai bên phải của Tào Vân Kỳ. Cánh tay hắn tê dại đi, nắm không chắc, thanh đao rơi xoảng xuống nền đất băng giá. Bảo Thụ bước nhanh tới, nhặt thanh bảo đao lên. Tào Vân Kỳ không dám tranh nữa, lùi sang một bên, ngây mắt nhìn Bảo Thụ và Lưu Nguyên Hạc,người cầm bảo đao, người cầm bản đồ, sánh vai cùng bước về mé sau núi. Lúc này cả bọn cũng ùa ra khỏi cổng, đi theo. Bảo Thụ vừa cười, vừa nói:
- Lưu đại nhân, lúc nãy bần tăng có lỡ mạo phạm, xin đừng trách!
Lưu Nguyên Hạc thấy lão cười tạ lỗi thì vui vẻ đáp:
- Ðại sư võ nghệ cao cường, tại hạ rất cảm phục, sau này còn có lúc nhờ vả đến ngài!
- Không dám - Bảo Thụ đáp.
Hai người đi được một thôi, thấy đỉnh núi đã hết đường đi, nhìn ra xung quanh toàn một màu tuyết trắng xoá. Tuy biết kho báu chỉ ở dưới ngọn Bút Phong này thôi nhưng đỉnh núi lớn nhường kia, khắp nơi tuyết phủ, không dể lại chút dấu vết nào, thì biết tìm ở đâu? Nếu phải xúc hết băng tuyết đi, thì dù có sức lực hàng trăm người, hàng tháng trời cũng chưa chắc đã dọn hết, huống hồ xúc hôm nay, ngày mai tuyết lại phủ đầy. Nghĩ tới Ðỗ Hi Mạnh đã ở trên đỉnh núi tuyết này mấy chục năm, ắt ngày đêm khổ công suy nghĩ trăm phương ngàn kế để tìm ra kho báu mà đến nay vẫn chưa thành công, đủ biết việc tìm kiếm kho báu quả không dễ dàng gì.
Cả bọn đứng cạnh vách núi nhìn đông ngó tây, đành chịu bó tay. Ðiền Thanh Văn bỗng chỉ một dải núi nhỏ lên xuống uốn lượn dưới đỉnh núi mà kêu lên:
- Các vị trông kìa!
Mọi người nhìn theo hướng tay chỉ vẫn không nhận ra có gì lạ. Ðiền Thanh Văn lại gọi:
- Trông xem kìa, hình dáng dải núi này có giống hoa văn chạm trổ trên thanh đao không nào?
Ðược nhắc nhở, mọi người ngắm kĩ dải núi. Chỉ thấy một dải từ Ðông Bắc chạy sang Tây Nam, một dải khác chạy từ chính Nam lên Bắc, chỗ hai dải gặp nhau có một ngọn núi thấp hình tròn như cái nồi.
Bảo Thụ nâng đao lên xem rồi lại ngắm dải núi, quả nhiên thấy vị trí và thế đi của dải núi giống hệt bức hình lưỡng long tranh ngọc chạm trổ trên thân đao, bất giác reo lên:
- Ðúng rồi, đúng rồi, kho báu nhất định ở đỉnh núi tròn tròn kia!
- Ta mau xuống đó đi - Lưu Nguyên Hạc giục.
Lúc này, cả bọn chỉ chăm chăm tìm kho báu nên có thể gọi là đồng tâm hiệp lực,không ai cón có ý nghi ngờ làm hại người khác. Ai nấy xé vạc áo lấy vải quấn vàobàn tay, nắm lấy dây thừng từ từ tụt xuống núi. Người đầu tiên xuống là Lưu Nguyên Hạc, người cuối cùng là Ân Cát.
Ân Cát toan cắt thừng đi, để tránh mối lo,nhưng thấy mọi người đi đã xa, sợ khi tìm thấy kho báu thì mình mất phần, bèn không dám chậm trễ nữa, giở khinh công đuổi cho kịp.
Từ ngọn Bút Phong nhìn xuống thì đỉnh núi tròn thấp ở ngay trước mặt, nhưng đường bộ để tới nơi thì chẳng gần chút nào, cũng phải tới chừng hai chục dặm. Cả bọn đều giỏi khinh công, chưa tới nửa giờ đã tới được đỉnh núi tròn. Họ quanh đi quẩn lại nơi này để tìm vị trí kho báu. Ðào Tử An bỗng chỉ sang trái kêu lên:
- Kia là ai?
Nghe tiếng kêu gấp gáp, mọi người cùng nhìn theo, chỉ thấy một bóng người áo trắng nhờ đang đi rất nhanh trên tuyết, thân pháp nhanh nhẹn thực khó hình dung.
Chỉ trong chớp mắt, cái bóng trắng đó đã chạy lên phía đỉnh Ngọc Bút.
Bảo Thụ kêu thất thanh:
- Tuyết Sơn Phi Hồ! Con trai của Hồ Nhất Ðao ghê gớm thật!
Trong lúc thốt lên câu này, mặt lão tối sầm, rõ ràng là trong lòng lo lắng lắm.
Lão còn đang trầm tư, chợt nghe Ðiền Thanh Văn kêu ré lên, vội vàng quay đầu lại nhìn: trên đỉnh núi tròn hổng ra một lỗ lớn, chẳng thấy Ðiền Thanh Văn đâu cả.
Ðào Tử An và Tào Vân Kỳ vẫn luôn ở bên Ðiền Thanh Văn, nay thấy cô ta sẩy chân rơi xuống hố. đều không hẹn mà cùng gọi to:
- Thanh muội!
Cả hai toan nhảy xuống cứu nhưng Ðào Bách Tuế đã kịp giữ con trai mình lại,quát lên:
- Làm gì thế?
Ðào Tử An không đáp và ra sức vùng ra rồi cùng Tào Vân Kỳ nhảy xuống. Nào ngờ cái hố này rất nông, hai người nhảy xuống đều đè lên Ðiền Thanh Văn. Cả ba kêu oai oái khiến người đứng trên đều bật cười, giơ tay kéo cả ba lên. Bảo Thụ nói:
- Có thể kho báu ở ngay dưới hố cũng chưa biết chừng. Ðiền cô nương thấy gì ở dưới đó?
Ðiền Thanh Văn xoa những chỗ đau do va phải đá ở trên người, lên tiếng ca cẩm:
- Tối thui, có nhìn thấy gì đâu!
Bảo Thụ nhảy xuống, giơ đuốc lên soi, thấy cái hố đó bề ngang chưa quá một trượng, trong hố toàn là nham thạch và băng đá rất cứng, ngoài ra không còn gì khác, lão đành tung thân nhảy lên.
Bỗng Chu Vân Dương và Trịnh Tam Nương hoảng hốt kêu ré lên rồi kẻ trước người sau sa xuống hai cái hố, một đằng đông, một đằng nam ở trong tuyết.
Nguyễn Sĩ Trung và Hùng Nguyên Hiến phải chia nhau kéo họ lên. Xem ra trên đỉnh núi tròn này xung quanh đều là hố, ai nấy đều sợ sẩy chân rơi xuống những cái hố sâu hơn và nguy hiểm hơn nên chẳng ai dám đi bừa mà chỉ đứng nguyên tại chỗ.
Bảo Thụ than thở:
Ðỗ trang chủ ở trên ngọn núi Bút Phong này đến mấy chục năm cũng không biết kho báu ở đâu. Ông ta không có bảo đao và bản đồ, không biết đầu mối ở đâu mà tìm nên chẳng kể làm gì. Còn chúng ta biết rõ là ở trên ngọn đồi tròn này, vậy mà vẫn không biết bắt tay từ chỗ nào, thật đúng là vô dụng.
Ðứng mãi cũng mỏi, mọi người đành ngồi xuống, bụng càng đói cồn cào, mệt mỏi và chán nản ra mặt. Vết thương của Trịnh Tam Nương lại đau, bà ta phải nghiến răng lấy tay ấn chặt xuống. Trong lúc quay đầu, bà ta thấy viên ngọc trên thanh đao trong tay Bảo Thụ loé sáng dưới ánh tuyết, trông càng lóng lánh tuyệt mĩ.
Trịnh Tam Nương nhiều năm cùng chồng làm nghề bảo tiêu, tận mắt trông thấy không ít của quý hiếm, lúc này thấy viên ngọc kia phát sáng khác thường, nảy ý muốn xem, bèn nói:
- Ðại sư, xin ngài cho tôi mượn xem thanh bảo đao một lát.
Bảo Thụ nghĩ thầm: "Mụ ta là đàn bà, chân lại bị thương, có ngại gì!". Nghĩ thế,bèn đưa bảo đao cho Trịnh Tam Nương cầm đao xem kĩ, quả nhiên thấy viên ngọc ấy được gắn mặt trái vào đao. Ðá quý vốn phân biệt giữa mặt phải và mặt trái, mặt âm và mặt dương. Một số nghệ nhân giỏi có thể chuốt mài cả hai mặt như nhau,nhưng con mắt người sảnh sỏi vẫn phân biệt được ngay. Trịnh Tam Nương bèn nói:
- Ðai sư, viên ngọc này mặt trái lộn ra ngoài, có thể bên dưới có gì lạ chăng?
Bảo Thụ đang lúc lúng túng vô kể, nghe Trịnh Tam Nương nói vậy bèn nghĩ:
"Bất kể mụ ta nói đúng hay sai, cứ cậy ra xem sao đã!", bèn cầm lấy đao, rút dao găm rồi dùng mũi dao khêu nhẹ viên ngọc một cái, viên ngọc rơi bật xuống đất.
Bảo Thụ nhặt viên ngọc lên, xem kỹ cả hai mặt chẳng thấy có gì lạ. Nhìn đến chỗ lõm lắp viên ngọc trên thân đao, lão bỗng kêu lạc cả giọng:
- Ðây rồi!
Thì ra trong vết lõm đó có khắc một mũi tên, đầu mũi tên chỉ theo hướng Ðông Bắc nhưng lệnh về phía Bắc, tận đầu mút có một vòng tròn nhỏ xíu. Bảo Thụ mừng khôn xiết, đoán giữa vết lõm là đỉnh núi tròn. Lão ước lượng cự li khoảng cách,nhằm đúng hướng từng bước một tiến tới; khi sắp bước tới nơi dự tính, quả nhiên đất dưới chân tơi xốp, người lún xuống ngay. Lão đã phòng bị sẵn, hai chân vừa tới chỗ đất chắc là huơ đuốc gạt băng, lộ ra một đường hầm dài ngay trước mặt, bèn đi ngay vào. Bọn Lưu Nguyên Hạc cũng nhảy xuống theo sau.
Ðuốc cháy được một lúc thì tắt, còn hang núi thì quanh co, vòng vèo, ngoặc liền mấy chỗ mà vẫn chưa tới nơi.
Tào Vân Kỳ nói:
- Tôi đi kiếm ít cành cây khô.
Nói rồi chạy trở ra ngoài, ôm vào một mớ cành khô, châm lửa thành bó đuốc khác. Tuy nóng này, nhưng hắn cũng có mặt tốt là làm việc mạnh bạo dứt khoát.
Tay cầm đuốc, Tào Vân Kì dẫn đầu đi trước.
Trong hang, khắp nơi toàn là băng đóng dày chắc từ rất lâu, một số nơi có những lưỡi băng chìa ra nhọn hoắt như lưỡi kiếm. Ðào Bách Tuế vác một hòn đá to, đập vỡ hết những lưỡi băng cản đường. Khi lên núi, ai nấy đều coi chừng nhau, nhưng lúc này đều mong tìm thấy kho báu nên dìu đỡ nhau đi cùng hội cùng thuyền.
Ngoặt qua mấy khúc quanh nữa, Ðiền Thanh Văn bỗng: "ối trời" một tiếng, chỉ tay vào một vật vàng choé ngay dưới đất trước mặt Tào Vân Kỳ.
Tào Vân Kỳ cúi nhặt lên, thì ra là một cây bút đúc bằng vàng, cán bút khắc chữ "An", giống hệt cây bút trong tay Ðiền Thanh Văn trước khi lên núi. Tào Vân Kỳ nghi hoặc, ngoảnh đầu lại nghiêm giọng bảo Ðào Tử An:
- Hừm, thì ra là ngươi đã đến đây!
Ðào Tử An nói:
- Ai bảo ta từng đến đây? Ngươi xem, lối vào có vết chân người đâu nào?
Tào Vân Kỳ nghĩ thầm: "Trong hang này quả không thấy dấu chân người, nhưng sao cây bút bằng vàng của hắn lại rơi ở đây được?". Hắn đã nghĩ việc gì là không sao để bụng được, bèn lập tức xoè tay ra cho thấy cây bút vàng, miệng nói:
- Ðây chẳng phải vật của ngươi là gì? Rành rành khắc tên ngươi đây này!
Ðào Tử An liếc nhìn vội lắc đầu:
- Ta chưa thấy vật này bao giờ!
Tào Vân Kỳ nổi giận, ném ngay bút xuống đất, rồi túm áo Ðào Tử An nhổ luôn một bãi nước bọt, quát to:
- Còn định chối hả? Rõ ràng ta thấy Thanh muội cầm cây bút ngươi tặng mà?
Hang núi này không tiện xoay trở người, Ðào Tử An sao tránh kịp? Bãi nước bọt ấy trúng ngay cạnh mũi anh ta. Ðào Tử An giận quá, phi chân phải ra đá trúng bụng dưới Tào Vân Kỳ, đồng thời hai tay ra chiêu "Yến quy sào" đánh trúng ngực đối phương.
Tào Vân Kỳ rùng người, vứt luôn bó đuốc, tay phải đánh trả một quyền, "bịch" một phát vào giữa mặt Ðào Tử An. Ðuốc tắt, trong hang tối om, chỉ nghe tiếng hai người giận giữ chửi rủa nhau xen lẫn những tiếng "bịch", "bịch". Cả
hai tay đấm chân đạp, chiêu nào cũng trúng đối phương, sau đó vồ lấy nhau lăn lộn dưới đất.
Mọi người vừa bực lại vừa buồn cười, đều lên tiếng can ngăn. Hai người nào có chịu nghe.
Ðiền Thanh Văn bỗng cao giọng nói:
- Người nào không chịu dừng tay, từ nay tôi không thèm nói chuyện với nữa!
Tào Vân Kỳ, Ðào Tử An đều khựng lại, bất giác buông nhau ra đứng bên. Trong bóng tối chỉ nghe Hùng Nguyên Hiến nhỏ nhẹ nói:
- Tôi là Hùng Nguyên Hiến tìm đuốc thắp lên đây. Hai vị chớ có ghen xằng mà đấm đạp vào người tại hạ nhé.
Hắn đưa tay khua dưới đất tìm được đuốc, đốt lên soi rõ Tào, Ðào hai người mắt tím mũi sưng, bàn tay nắm chặt, thở hồng hộc, giận dữ nhìn nhau.
Ðiền Thanh Văn lấy từ trong áo ra cây bút vàng, nhặt cây bút vàng dưới đất cầm lên, nói với Tào Vân Kỳ:
- Hai cây bút này quả thật là một đôi, nhưng ai bảo với huynh rằng Ðào huynh cho muội?
Tào Vân Kỳ ngớ ra, lắp bắp đáp:
- Không phải hắn cho muội, vậy sao muội lại có? Tại sao trên bút có tên hắn?
Ðào Bách Tuế cầm bút lên xem, hỏi Tào Vân Kỳ:
- Sư phụ ngươi là Ðiền Quy Nông, còn sư tổ ngươi là ai?
Tào Vân Kỳ ngẩn ra đáp:
- Sư tổ ư? Sư tổ là cha sư phụ tôi, sư tổ tên húy là An Báo.
Ðào Bách Tuế cười nhạt:
- Ðúng rồi! Ðiền An Báo. Ông ta dùng thứ ám khí gì?
- Tôi... tôi chưa từng được gặp sư tổ - Tào Vân Kỳ đáp.
Ðào Bách Tuế nói:
- Ngươi chưa gặp nhưng võ nghệ của Nguyễn sư thúc ngươi là do Ðiền An Báo đích thân truyền thụ, ngươi cứ hỏi ông ta.
Tào Vân Kỳ chưa kịp đáp thì Nguyễn Sĩ Trung đã nói:
- Vân Kỳ đừng gây lộn xộn nữa! Cây bút bằng vàng này là ám khí của sư tổ ngươi sử dụng đó.
Tào Vân Kì cứng họng, không nói được nhưng trong lòng vẫn không nguôi nghi ngờ. Bảo Thụ nói:
- Hai người muốn đọ tài cao thấp thì xin mời ra ngoài kia mà sống mái với nhau,còn chúng ta đi tìm kho báu đã.
Hùng Nguyên Hiến giơ cao đuốc đi trước dẫn đường, ngoặc qua một khúc quanh nữa.
Ðường vào hang ngày càng hẹp, ai nấy đều phải khom lưng mà đi, có lúc đầu va vào những nhũ băng rắn chắc đau điếng, nhưng nghĩ đến sắp được có được kho báu nên không còn thấy khổ sở nữa.
Ði hết khoảng uống cạn chung trà, trước mắt đã hết lối, chỉ thấy một tảng đá to hình tròn chồng lên một tàng đá hình tròn khác. Hai tàng đá này chắn hết lối đi,giữa hai tảng đá đều là băng đông cứng.
Hùng Nguyên Hiến giơ tay đẩy, tàng đá không hề nhúc nhích, liền quay lại hỏi Bảo Thụ:
- Làm sao đây?
Bảo Thụ lắc đầu không đáp. Trong đám cao thủ này, Ân Cát là người nhiều mưu trí nhất.
Ân Cát trầm ngâm giây lát rồi nói:
- Hai tảng đá tròn chồng lên nhau ắt phải đẩy được, chỉ do băng đông cứng lại mà thôi.
- Ðúng vậy, chỉ cần làm tan băng ra là được - Bảo Thụ vui mừng nó.
Hùng Nguyên Hiến bèn giơ đuốc đến gần một tảng đá, hơ cho băng đóng giữa hai tảng đá này chảy ra. Bọn Tào Vân Kì, Chu Vân Dương đi trở ra ngoài nhặt thêm cành khô chụm vào. Ngọn lửa cháy càng to, băng tan thành nước, chỉ nghe thấy những tiếng rạn lách tách rồi từng đám băng vụn rơi xuống nền đất.
Chừng thấy băng đóng quanh hai tảng đá tròn đã tan được quá nửa, Bảo Thụ nôn nóng vận lực lên hai tay đẩy đá nhưng đá vẫn đứng trơ trơ. Lại hơ một chập nữa,băng tan ra nhiều hơn, Bảo Thụ lại đẩy. Lần này tảng đá nhúc nhích mầy cái rồi từ từ chuyển dịch đẻ lộ một kẽ hở, chẳng khác gì cánh cửa đó do trời đất tạo nên vậy.
Cả bọn mừng quá, reo hò ầm lên. Nguyễn Sĩ Trung hợp sức cùng Bảo Thụ đẩy tiếp cho khe hở rộng thêm ra. Bảo Thụ nhặt một cành củi cháy đi vào trước, ai nấy cũng cầm đuốc ào ào vào theo. Vừa qua cửa đá, một luồng ánh sáng chiếu ra chói mắt khiến ai nấy đều im hơi nín thở, miệng há hốc ra.
Thì ra trước mặt là một cái hang cực lớn, xung quanh xếp kín nhưng khối vàng bạc, đá quý không biết bao nhiêu mà kể, nhưng số vàng bạc đá quý này đều ẩn sau những tảng băng trong suốt. Xem ra năm ấy, sau khi thuộc hạ của Sấm Vương cất giấu châu báu vàng bạc xing, đã tưới nước vào. Nơi đây quanh năm lạnh giá, băng tuyết không tan, thành thử châu báu vàng bạc như được giấu sau một lớp thủy tinh vậy. Tiếng reo vui ồn ào hẳn lên. Bảo Thụ, Ðào Bách Tuế cùng nhiều người khác đều nhào tới, chẳng còn biết nói gì lúc này. Chợt Ðiền Thanh Văn hoảng hốt kêu
lên:
- Có người!
Cô chỉ tay vào vách hang. Dưới ánh lửa soi, quả nhiên là có hai bóng đen đứng sát bên vách. Mọi người kinh sợ quá chừng, không ngờ có người ở trong hang. Lẽ nào còn có lối khác vào hang? Ai nấy cầm chắc vũ khí trong tay và bất giác đứng tụm lại với nhau. Một lúc lâu sau, hai bóng đen kia vẫn không hề động đậy, Bảo Thụ bèn quát to:
- Ai?
Nhưng hai bóng đen kia không đáp. Thấy hai người không có động tĩnh gì, mọi người càng nghi hoặc hơn. Bảo Thụ nói to:
- Không biết hai vị tiền bối cao nhân nào, xin mời ra đây tương kiến!
Tiếng lão đập vào bốn vách hang dội lại, vang đến nỗi ù cả tai rất khó chịu,nhưng hai người kia vẫn không đáp, cũng chẳng bước ra.
Bảo Thụ giơ cao đuốc lên, tiến lại gần mấy bước, nhìn rõ hai bóng đen kia ở ngoài một lớp băng. Lớp băng này thẳng đứng như một bức tường thuỷ tinh, ngăn thành hai gian trong và gian ngoài. Bảo Thụ lấy hết cam đảm tiến sát đến bức tường băng, thấy hai người kia dáng vẻ kì cục mà không hề động cựa, rõ ràng là bị điểm trúng huyệt đạo. Lúc này, lão không sợ nữa, gọi to:
- Tất cả đến đây!
Lão sải chân bước quanh bức tường, tay phải giơ đao, tay trái cầm đuốc soi vào mặt hai người, bất giác hít một hơi thật sâu. Thì ra hai người này đã chết từ lâu,mặt mũi gớm ghiếc, các thớ thịt trên mặt nhăn nhúm lại. trông thật dễ sợ.
Trịnh Tam Nương và Ðiền Thanh Văn thấy xác chết thì đều sợ hãi rú lên.
Những người khác tới gần xem, thấy hai người tay phải đều cầm dao găm đâm vào người đối phương, một mũi trúng vào bụng dưới, một mũi trúng ngực, đều là đâm chết lẫn nhau.
Nguyễn Sĩ Trung nhìn rõ mặt một xác chết, bèn phủ phục xuống đất khóc rống:
- Ân sư ơi, thì ra sư phụ ở chốn này!
Mọi người thấy hắn gọi thế đều kinh ngạc xúm lại hỏi:
- Thế nào, hai người này là ai?
- Sư phụ của ngươi sao?
- Làm sao lại chết ở đây chứ?
Nguyễn Sĩ Trung gạt nước mắt, chỉ vào cái xác hơi thấp hơn nói:
- Vị này là Ðiền ân sư của tôi. Chiếc bút bằng vàng vừa nãy Vân Kỳ nhặt được là của sư phụ tôi.
Mọi người nhìn mặt Ðiền An Báo chỉ chừng dưới bốn mươi tuổi, còn trẻ hơn cả Nguyễn Sĩ Trung, song nghĩ lại thì hiểu ra ngay. Hai người này thật ra đã chết mấy chục năm, chỉ vì trong hang giá rét nên xác vẫn còn nguyên vẹn như vừa mới chết mấy ngày vậy.
Tào Vân Kỳ chỉ vào cái xác thứ hai, hỏi:
- Sư thúc, còn người này là ai? Làm sao hắn lại dám giết sư tổ của chúng ta?
Nói xong, hắn đá một phát vào cái xác kia. Mọi người thấy xác này cao gầy,chân tay rất dài thì cũng đoán ra được tám chín phần. Nguyễn Sĩ Trung nói:
- Ông này là cha Kim Diện Phật, hồi nhỏ tôi vẫn gọi là Miêu gia. Ông rất thân với ân sư tôi. Có một năm hai người rủ nhau ra ngoài quan ải, lúc ấy chúng tôi không biết là có việc gì, chỉ thấy hai người vui vẻ lắm, song từ đấy không thấy họ trở về nữa. Sau này các huynh đệ trong giới võ lâm truyền nhau là họ bị Hồ Nhất Ðao ở
Liêu Ðông làm hại, cho nên Kim Diện Phật và Ðiền sư huynh mới nhất quyết báo thù Hồ Nhất Ðao. Nào ngờ cái người họ Miêu... nảy lòng tham, thấy châu báu trong động liền hạ độc thủ đối với ân sư tôi.
Nói xong, Nguyễn Sĩ Trung đá một phát vào đùi cái xác ấy. Người họ Miêu và họ Ðiền sau khi chết, toàn thân đông cứng nên dù Nguyễn Sĩ Trung có đá, cái xác vẫn đứng thẳng không đổ, còn ngón chân hắn đá lại đau ê ẩm. Cả bọn đều nghĩ "Biết đâu sư phụ ngươi nẩy lòng tham, hạ độc thủ trước cũng nên". Nguyễn Sĩ Trung giơ tay đẩy xác người họ Miêu, toan tách người đó ra khỏi sư phụ mình nhưng hai người bị dính với nhau đã mấy chục năm, tay liền với đao, đao liền với người, băng đóng cứng lại, sao có thể đẩy rời họ ra? Ðào Bách Tuế thở dài:
- Năm xưa, Hồ Nhất Ðao có nhờ người báo cho Ðiền Quy Nông và Miêu đại hiệp hay rằng ông ta biết ông cha của hai dòng họ bị chết vì nguyên nhân gì. Có điều hai người này chết không được đẹp mặt cho lắm nên ông ta không tiện nói ra, chỉ muốn đưa họ đến tận nơi xem mà thôi. Bây giờ chúng ta đã tận mắt thấy cả rồi, lời Hồ Nhất Ðao không sai. Như vậy Hồ Nhất Ðao ắt đã tới hang này, song thấy kho báu mà bỏ qua, thực không biết vì sao?
Ðiền Thanh Văn bỗng nói:
- Hôm nay tôi gặp một chuyện rất lạ...
- Chuyện gì thế?- Nguyễn Sĩ Trung hỏi.
Ðiền Thanh Văn đáp:
- Sáng hôm nay chúng ta đuổi theo... - cô vừa nói vừa nhếch môi về phía Ðào Tử An, mặt hơi đỏ lên - Sư thúc, sư huynh phi ngựa trước, tiểu diệt tụt lại phía sau...
Tào Vân Kỳ không nén được, gằn giọng:
- Muội cưỡi con ngựa tốt nhất, làm sao tụt lại đằng sau được? Muội. . muội không muốn ra tay với tên họ Ðào chứ gì?
Ðiền Thanh Văn không thèm nhìn hắn, chỉ khẽ nói:
- Huynh hại cả một đời muội, lại còn muốn dằn vặt đến thế nào nữa thì cũng tùy.
Nhưng Ðào Tử An là chồng chưa cưới của muội, muội có lỗi với Ðào huynh. Tuy Ðào huynh không cần muội nữa, nhưng ngoài anh ấy ra, trong lòng muội cũng không thể có ai khác.
Ðào Tử An lớn tiếng nói:
- Không, huynh cần muội chứ! Thanh muội, huynh cần muội mà!
Ðào Bách Tuế và Tào Vân Kỳ cùng quát ầm lên. Một người quát:
- Mày muốn lấy con đê tiện đó à? Tao không cần thứ con dâu đó đâu!
Một người quát:
- Ngươi có giỏi thì hạ thủ ta trước đi!
Hai người cùng quát một lúc, tiếng vọng lại trong hang rất lớn, quyện vào nhau khiến chẳng ai nghe họ nói gì.
Ðiền Thanh Văn cúi nhìn xuống đất, chờ họ quát xong mới khẽ nói:
- Tuy chàng cần muội, nhưng muội còn mặt mũi nào mà về với chàng. Ra khỏi hang rồi, chàng đừng bao giờ tìm gặp muội nữa.
Ðào Tử An cuống lên nói:
- Không, không, Thanh muội, lỗi là do hắn. Hắn ức hiếp muội, dày vò muội, ta phải liều với hắn.
Nói xong xách đao sấn tới Tào Vân Kỳ. Lưu Nguyên Hạc ngăn lại, nói:
- Hai người ghen tuông thì ra ngoài kia mà đánh nhau.
Dứt lời, Lưu Nguyên Hạc vung bàn tay trái nhứ một cái, tay phải vươn ra nắm chặt lấy cổ tay Ðào Tử An vặn khẽ một cái, đoạt luôn được thanh đao trong tay ném xuống đất.
Còn phía bên kia, Tào Vân Kì nhảy đựng lên cũng bị Ân Cát cản lại. Ai nấy đều thấy Ðiền Thanh Văn lùi mà lại hoá tiến, làm cho hai chàng họ Tào và họ Ðào trở nên ngoan ngoãn dễ bảo thì đều cười thầm trong dạ. Bảo Thụ nói:
- Ðiền cô nương thương ai thì lấy người đó, chứ không thể nào lấy hoà thượng ta đây. Cho nên bần tăng muốn hỏi cô nương sáng nay gặp chuyện gì mà bảo là quái lạ?
Mọi người cười ha hả. Ðiền Thanh Văn cũng bật cười, đáp:
- Con ngựa tôi cưỡi đi rất chậm, không đuổi kịp sư thúc. Tôi đang đi chợt nghe có tiếng vó ngựa, một con ngựa từ phía sau vọt lên. Người cưỡi ngựa cầm trong tay một bầu rượu lớn, ngửa cổ lên tu. Tôi thấy y râu ria đầy mặt, say ngất ngưởng trên mình ngựa mà còn tu rượu ừng ực nữa, bất giác cười thành tiếng. Y quay đầu lại hỏi: "Cô nương là con gái Ðiền Quy Nông, phải không?". Tôi đáp: "Phải, tôn giá là ai?". Y nói: "Cho cô cái này!". Ngón tay vừa búng một cái thì cây bút vàng này bay sạt qua làm rơi một bên hoa tai của tôi. Tôi giật mình, còn y thúc ngựa bỏ đi. Tôi
phân vẫn mãi, không biết tại sao y lại búng cho tôi cây bút vàng này.
- Cô nương có nhận ra ai không? - Bảo Thụ hỏi.
Ðiền Thanh Văn gật đầu, khẽ đáp:
- Chính là Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ. Khi y chuyển cây bút cho tôi, tôi không hề biết y là ai. Sau này, khi y lên núi nói chuyện với Miêu cô nương, tôi nhận ra giọng nói của y, rồi lại nhìn qua khe vách, thì đúng là y thật.
Tào Vân Kỳ lại nổi cơn ghen, hỏi:
- Cây bút vàng này đã là của sư tổ, vậy Hồ Phỉ làm sao mà có được? Hắn ta cho muội để làm gì?
Ðiền Thanh Văn đang ôn tồn nói chuyện với mọi người, nghe Tào Vân Kỳ hỏi thế, lập tức thấy bực mình, không thèm bắt lời hắn. Lưu Nguyên Hạc nói:
- Hồ Nhất Ðao từng đến nơi này, hẳn là nhặt được ở dưới đất hoặc lấy được trên người Ðiền An Báo. Nhưng khi Hồ Nhất Ðao chết, Hồ Phỉ ra đời mới được mấy ngày, làm sao có thể chuyển cây bút lại được?
Hùng Nguyên Hiến nói:
- Có thể Hồ Nhất Ðao để cây bút này lại ở nhà, sau này khi lớn lên, Hồ Phỉ trở lại nhà cũ và hẳn là tìm thấy trong số di vật của cha mình.
Nguyễn Sĩ Trung gật đầu nói:
- Rất có thể như thế. Cây bút này rỗng ruột, đầu bút có thể vặn ra. Thanh Văn,cháu xem bên trong bút có gì không?
Ðiền Thanh Văn trước hết tháo đầu chiếc bút nhặt được ở trong hang ra, trong ruột bút không có gì, lại tháo đầu cây bút của Hồ Phỉ ném cho, thấy trong ruột bút có cuộn giấy bé xíu. Ai nấy xúm lại, nghĩ thầm nếu không có Nguyễn Sĩ Trung ở đây thì chưa dễ đã nghĩ được thứ ám khí này được tạo tinh xảo đến thế, có thể giấu vật ở trong quản bút.
Ðiền Thanh Văn mở mẩu giấy ra, trên giấy có viết mười sáu chữ như sau:
Thiên Long chư vị
Ðến được Liêu Ðông
Cưỡi ngựa khi đến
Cưỡi gió về không!
Góc dưới tờ giấy vẽ hình con chồn có cánh mọc ở trên lưng, những chữ này chính là bút tích của Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ.
- Hừm, chắc gì đã đến nỗi như thế - Nguyễn Sĩ Trung sa sầm nét mặt nói.
Tuy miệng nói vậy nhưng nghĩ đến bản lính của Hồ Phỉ, lại nghĩ đến việc y biết rõ mọi hành tung của người thuộc Thiên Long Môn thì Nguyễn Sĩ Trung cũng không khỏi lo lắng. Tào Vân Kỳ nói:
- Sư thúc, "cưỡi gió về không" là thế nào?
Nguyễn Sĩ Trung đáp:
- Hừ, hắn bảo chúng ta sẽ chết ở Liêu Ðông, biến thành ma đất khách, hồn phách phiêu diêu như cưỡi gió trở về.
- Tổ cha thằng đó - Tào Vân Kỳ buộc miệng chửi.
Bọn người trong Thiên Long Môn ai nấy trầm ngâm suy nghĩ về những chữ viết trên mảnh giấy đó. Còn bọn Bảo Thụ, Ðào Bách Tuế, Lưu Nguyên Hạc thì chuyển ánh mắt tới số vàng bạc châu báu ở xung quanh. Bảo Thụ lấy một thanh đao chém vào băng; chém mấy nhát đã phá được một tảng băng, lấy ra được vàng ngọc cầm trên tay, lão cười ha hả. Dưới ánh đuốc, vàng ngọc trên tay lão toả ánh sáng rực rỡ kì ảo. Mọi người thấy vậy đều hăng hái hẳn lên, đều cầm đao chém vào băng lấy của báu. Song chém một hồi thì đao kiếm đều quằn lưỡi, không còn sắc bén nữa.
Thì ra đao kiếm của mọi người đã bị hai chú tiểu đồng chém gẫy từ lúc ở trên đỉnh núi, mang vào hang đều là đao kiếm tiện tay lấy ở Ðỗ gia trang chứ không phải vũ khí được chọn lựa kĩ lưỡng. Số châu báu lấy được, ai nấy nhét luôn vào túi áo, càng lấy được càng say sưa, nhưng đao kiếm ngày một cùn nên sức chém ngày một chậm.
Ðiền Thanh Văn nói:
- Chúng ta đi nhặt thêm ít củi đốt cho chảy băng ra mà lấy.
Mọi người khen hay. Việc này đáng lẽ phải nghĩ ra từ trước nhưng thấy vàng bạc châu báu đã đến tay, ai cũng nôn nóng vung đao kiếm lên chặt băng. Bây giờ tuy mọi người tán thành ý kiến hay của Ðiền Thanh Văn song không ai chịu ngừng tay để đi kiếm củi cả. Thì ra ai cũng sợ mình bỏ ra ngoài thì người khác sẽ lấy được nhiều hơn.
Bảo Thụ liếc xéo mọi người một cái rồi phân công:
- Chu thế huynh của Thiên Long Môn, Ðào thế huynh của Ẩm Mã Xuyên, Hùng tiêu đầu của tiêu cục, xin ba vị đi kiếm củi cho. Còn những ai ở lại trong hang đều phải dừng tay nghỉ, không ai được tự ý lấy vàng.
Ba người Chu, Ðào và Hùng bán tín bán nghi nhưng lại sợ Bảo Thụ cưỡng ép,đành ra ngoài hang đi kiếm củi.