Quyển 1: Phong vân khởi dã mạch sạ phiêu hương (Gió thổi mây bay khiến hương lúa mạch nơi đồng nội bắt đầu bay đi)
Chương 1: Kêu oan, cũng cần phải có kỹ xảo…
Chương 1: Kêu oan, cũng cần phải có kỹ xảo…
A Mạch (1) sinh ra vào tháng năm, đúng thời điểm vụ lúa mạch năm ấy mất mùa. Mẹ A Mạch mới từ quỷ môn quan lắc lư trở về, suy yếu trợn mắt nằm ở trên giường, sắc mặt vẫn tái nhợt, hướng cha A Mạch ôn nhu nói: “Mình mau đặt tên cho con đi!”
Cha A Mạch nhẹ nhàng ôm A Mạch trong tay, hết nhìn trái lại nhìn phải, thật là khó xử, đột nhiên trong đầu chợt lóe lên một tia sáng, kinh hỉ nói lớn: “Mạch Đâu (2)! Gọi là Mạch Đâu đi!”
“Mạch Đâu?” Mẹ A Mạch kinh ngạc nhìn chồng, nhất thời không thể phản ứng được gì.
Nét kinh hỉ trên mặt cha A Mạch vẫn không giảm, đem A Mạch nhẹ nhàng đặt lên giường, đứng dậy kích động khoa tay múa chân nói: “Mình đã quên rồi sao? Chính là đại dịch cúm heo ở Hồng – Kông năm đó, ha ha, ta họ Mạch, năm nay lại là năm heo, không gọi là Mạch Đâu thì thật đáng tiếc nha! Ha ha –”
Còn cười chưa xong thì một vật thể bay không xác định đã nhằm thẳng mặt cha A Mạch mà bay tới, dính luôn ở trên mặt.
Mẹ A Mạch mắng to: “Anh mới là đồ Mc Dull!”
Cha A Mạch ngượng ngùng kéo cái tã trên mặt xuống, vẻ mặt chột dạ nhìn mẹ A Mạch, nhỏ giọng hỏi:“Vậy mình muốn đặt tên con là gì?”
Mẹ A Mạch ngẩn ra, gọi là gì bây giờ? Nàng biết thì còn hỏi chồng làm gì? Lúc mang thai thì cả hai vợ chồng đều âu yếm xoa bụng gọi là cục cưng, nhưng nay sinh con ra rồi, chẳng lẽ gọi là Mạch Cục Cưng?
Hai vợ chồng còn đang trầm mặc, thì chợt nghe tiếng Ngưu Nhị ở thôn trên gọi to ngoài sân: “Mạch chưởng quầy, lúa mạch nhà ông, ta đem hết vào trong viện a, năm nay thu hoạch hạt lúa chắc mẩy, mạch tuệ(3) đều rất lớn, rất lớn!”
Mạch tuệ? Hai vợ chồng như thể tâm linh tương thông, không hẹn mà cùng gật đầu lia lịa, vì thế, đại danh của A Mạch là Mạch Tuệ!
Về sau A Mạch nghĩ lại, nếu lúc ấy Ngưu Nhị không kêu là mạch tuệ mà kêu là đông qua(4), phải chăng tên của nàng sẽ không phải là Mạch Tuệ nữa mà sẽ là Mạch Đông Qua(5)? Khi được năm tuổi, nàng đem này nghi vấn này ra hỏi mẹ nàng, lúc ấy đang đứng bán rượu, mẹ A Mạch xoa xoa tay lên tạp dề, sau đó cười ngượng ngùng, nói: “Cái con nhỏ này, làm sao mẹ lại có thể đặt tên con là Đông Qua được? Tên là Mạch Tuệ rất hay mà! Mỗi lần đọc lên lại thấy quê cha đất tổ cỡ nào giàu có! Cha mẹ phải suy nghĩ rất lâu mới nghĩ được một cái tên đầy ý nghĩa như thế đặt cho con đấy!”
A Mạch tất nhiên là không tin, nàng vô cùng hy vọng cha mẹ sẽ sinh thêm một tiểu muội muội hoặc tiểu đệ đệ, lúc đó nàng muốn xem cha mẹ mình có thể nghĩ ra được cái dạng tên gì.
Nương tử Trần gia bán đậu hũ ở nhà bên cạnh, từ bụng lớn hóa bụng nhỏ, rồi lại từ bụng nhỏ hóa bụng lớn, sau đó những đứa nhỏ Trần gia lần lượt được sinh ra rồi lớn lên, mà bụng của mẹ A Mạch vẫn không có biến chuyển gì. A Mạch thường xuyên xem xét bụng mẫu thân đến ngẩn người, mong ngóng cái bụng này cũng có thể lớn lên một chút. Đến một ngày nọ cũng bị mẫu thân phát hiện ra, liền hỏi:“A Mạch, con nhìn gì thế?”
A Mạch nói: “Mẹ à, sao trong bụng mẹ không có tiểu đệ đệ?”
Lần này, mẹ A Mạch không trả lời, chỉ mỉm cười xoa xoa đầu của nàng.
Đêm đó, trong lúc A Mạch đang mơ mơ màng màng, chợt nghe thấy tiếng thì thầm từ phòng của cha mẹ bên cạnh truyền đến.
Mẹ A Mạch nói: “Mình sinh thêm một đứa đi, A Mạch chỉ có một mình rất cô độc, ngay cả chị em bầu bạn cũng không có.”
Thanh âm cha A Mạch tuy nhỏ nhưng rất kiên định: “Không được, nơi này thiếu thầy thiếu thuốc, nếu lại sinh khó như lần trước thì phải làm sao bây giờ? Vạn nhất có điều gì không hay xảy ra cho mình, mình bảo ta phải làm sao mà sống được ở cái thế giới này?”
Sau một lúc lâu, mẹ A Mạch mới kín đáo thở dài, nói: “Vợ chồng mình còn có đôi có lứa mà nương tựa lẫn nhau. Nhưng còn A Mạch? Sau này chúng ta đều chết đi, thì A Mạch phải làm sao? Chẳng lẽ gả nó cho một nam nhân ở cái thế giới này sao?”
Cha A Mạch không nói gì, chỉ gắt gao ôm mẹ A Mạch, suy nghĩ nửa ngày mới an ủi nói: “Nếu không chúng ta nhận nuôi thêm một đứa bé trai nữa vậy, cùng A Mạch nuôi lớn, như vậy sau này cũng có thể chiếu cố cho A Mạch, mình xem như vậy có được không?”
……
Đương nhiên, đây là chuyện của mười mấy năm về trước.
Hiện tại, A Mạch đang ngồi trong một quán trà bên đường ở sát chân núi, cố sức cắn một miếng lương khô, sau đó lại ngẩng đầu lên lớn tiếng gọi: “Tiểu nhị, thêm một bình trà!”
Bên cạnh truyền đến tiếng quan quân cưỡi ngựa phóng qua, bụi đất trên đường bị gió cuốn mù mịt.
“Ôi dào, gần đây thường thấy quan quân chạy qua, không phải là lại có chiến tranh ở phương Bắc đấy chứ?” Ông chủ quán trà thấp giọng thở dài.
A Mạch lấy tay che bát nước trà lại, híp mắt nhìn người cưỡi ngựa đã biến thành một điểm nho nhỏ màu đen biến mất ở xa xa. Phương Bắc có chiến tranh sao? Đánh thì cứ đánh đi, chẳng quan hệ gì tới nàng! Dù sao nàng cũng đi về hướng Nam.
Từ quán trà này đi về hướng Nam chính là một tòa thành nhỏ. Lúc A Mạch đến cửa (thành) Bắc, mặt trời vừa qua khỏi đỉnh đầu, nàng ngửa đầu nhìn nhìn tòa thành bị ánh mặt trời chiếu rọi, hiện rõ hai chữ: Hán Bảo, chỉ cảm thấy trong bụng vừa đói vừa khát, đang không ngừng kêu réo ọc ạch, đành đưa tay thắt chặt lại lưng quần.
Cái bánh kia đúng là không chống đỡ được với cơn đói, sớm biết thế này sẽ không uống nhiều nước trà như vậy!
A Mạch cúi thấp đầu đi vào trong thành, còn chưa vào được bên trong thì đã bị một tên lính gác lôi xuống, dò xét A Mạch, quát hỏi: “Từ đâu đến?”
“Từ phương Bắc.” A Mạch thành thật trả lời.
“Muốn đi đâu?”
“Đến phía Nam.”
Tên đầu mục tựa hồ cũng thấy A Mạch trả lời có chút không thích hợp, nhưng lại nhất thời không biết không đúng ở chỗ nào, một tên lính liền chạy lại, nhỏ giọng nói: “Đầu mục, vừa thấy tiểu tử này đã thấy không ổn rồi, vóc người cao như vậy, lại trắng nõn như đàn bà, có khi là thám tử phương Bắc!”
Tiểu đầu mục đưa ánh mắt cao thấp đánh giá A Mạch, càng nhìn lại càng cảm thấy tiểu tử này kỳ quái, vóc dáng cao gầy, hơn nữa búi tóc lại ngắn như vậy, làm sao mà ra dáng nam nhân cho được, rõ ràng chính là người dị tộc!
Kỳ thật A Mạch không được tính là quá cao, chỉ bảy thước(6) là cùng, chiều cao này ở thời đại của cha mẹ nàng nhiều lắm thì tính là cao gầy, nhưng ở thời đại này, đừng nói so với các nữ nhân đã là hạc trong bầy gà, mà ngay cả so với nam nhân cũng được xem như là hơi cao.
A Mạch thấy mình cao hơn cả nửa số binh sĩ ở đây, trong lòng thầm cảm thán: mẹ nói thật đúng. Con người ở thời đại này chế độ dinh dưỡng thật kém, ngay cả mục đầu này cũng chỉ tầm sáu thước, so với cha mình thì vẫn còn kém xa.
Tiểu đầu mục đi vòng qua A Mạch một vòng, đột nhiên lớn tiếng quát: “Đến đây! Đem thằng nhãi này trói lại cho ta!”
Mấy tên lính như hổ, như sói lập tức vậy quanh A Mạch, A Mạch chưa kịp phản ứng gì đã bị trói gô lại, nàng cúi đầu nhìn dây thừng trên người, dở khóc dở cười, vội vàng nói: “Các vị quân gia, hiểu lầm rồi, hiểu lầm rồi, ta là lương dân a, sao có khả năng thành thám tử được? Không tin ngài đem ta thả ra, ta lấy giấy thông hành cho quân gia xem!”
Nhưng những tên lính này đâu chịu nghe A Mạch giải thích, liền đẩy nàng hướng vào trong thành, đi đến nửa đường, vừa lúc gặp vài quân sĩ khác đang vây quanh một viên tướng trẻ tuổi tiến lại gần, binh sĩ áp giải A Mạch cuống quít đi lên, hướng viên tướng trẻ tuổi hành lễ nói: “Đại nhân, mới bắt được một thám tử phương Bắc!”
A Mạch vội la lớn:“Oan uổng quá, tiểu dân oan uổng, tiểu dân là thương nhân đi về phía Nam, trên người có giấy thông hành của phủ Định Châu a!”
Thanh âm nhất định phải lớn mà có chứa âm rung, khuôn mặt nhất định phải chân thành mà giàu biểu cảm, tốt nhất là phủ phục trên mặt đất thể hiện sự trung thành của mình, đây là chuyện mà mẹ A Mạch đã từng dạy nàng, khi kêu oan phải đặc biệt chú ý. A Mạch rất là chú ý những điểm này, nhưng lại thấy bộ dạng phủ phục xuống đất thật giống chó ăn phân, cho nên A Mạch lựa chọn tư thế đứng để kêu oan.
Quả nhiên, tầm mắt của viên tướng trẻ tuổi kia đã bị A Mạch thu hút, A Mạch thấy viên tướng kia nhìn về phía mình, vội cuống quít nói liên thanh: “Tướng quân minh xét! Tiểu dân thật là oan uổng!”
Viên tướng trẻ tuổi kia bất quá chỉ là một giáo úy nho nhỏ, nghe A Mạch liên thanh gọi hắn là tướng quân, trên mặt đã có chút dịu đi, bất quá không để ý tới A Mạch, chỉ hỏi binh sĩ áp giải vài câu, liền phân phó đưa A Mạch đến đại lao trước rồi nói sau.
A Mạch thầm kêu không hay rồi, vừa mới tới đây đã bị tống ngay vào đại lao chịu tai ương, đâu biết rằng chính mình đang dạo chơi trước cửa Quỷ Môn Quan. Trong lúc bối cảnh giữa Nam Hạ cùng Bắc Mạc đang hết sức căng thẳng, chỉ cần bị nghi là thám tử thì ngay cả thẩm tra cũng không cần, đều là chém cho xong việc, nên nàng bị đưa vào đây xem như là mất mạng.
Vô luận là ở triều đại nào, thức ăn trong đại lao đều rất thiếu thốn.
A Mạch bắt đầu hoài niệm cái bánh khô khốc ở ngoài thành Hán Bảo, vừa ăn vừa chiêu với nước trà mới có thể đưa xuống đến dạ dày, có thể nghe được trong bụng phát ra tiếng than dài. Đương nhiên, hiện tại bụng của nàng cũng đang lên tiếng, âm thanh kêu réo từ trong bụng truyền ra có chút buồn bã, khi lọt vào lỗ tai, nghe mà không thể nào thấy thoải mái nổi, A Mạch chỉ đành nắm thật chặt lưng quần.
Đương nhiên bắt đầu từ bây giờ thức ăn sẽ cực kỳ khó nuốt, nhưng nàng mặc kệ, cứ phải ăn no đã, tốt xấu gì cũng duy trì được nhu cầu tổi thiểu nhất của bản thân. Cũng không biết vì sao, từ hai ngày trước đột nhiên không thấy phát đồ ăn nữa, chỉ có chút nước, mà phải cầu nửa ngày mới được một ít. A Mạch mơ hồ cảm thấy có điều gì đó không thích hợp, quả nhiên, đeo gông ngồi đại lao đến ngày thứ mười một, sai dịch dẫn một tên đầu lĩnh hung thần ác sát tiến vào, sau khi sai dịch mở cửa, tên đầu lĩnh không nói hai lời, trước hết chém bay đầu một phạm nhân, giơ cao thanh đao đẫm máu quát: “Thát tử Bắc Mạc đã đến, kẻ nào không muốn chết liền theo ta ra ngoài thủ thành, phàm ra sức giết địch đều có thể tha tội! Ai đi?”
Đại lao yên lặng như tờ, một lát sau, A Mạch là người đầu tiên giơ tay kêu lớn: “Ta đi! Vì nước giết giặc!”
Thật nực cười! Trước đó, ai không đi sẽ bị bọn họ chém chết tại đại lao, nếu đi không chừng còn có đường sống! Khi A Mạch vung tay hô lớn: “Vì nước giết giặc”. Lập tức cân não của những phạm nhân nhân bắt đầu chuyển động, cũng cuống quít giơ tay hô lớn: “Vì nước giết giặc!” Trong lúc nhất thời, tình cảm của quần chúng trong đại lao trở nên phấn chấn, nhiệt tình ái quốc tăng vọt chưa từng có, không giống như một đám trộm cướp tạp nham, cặn bã, giờ này rõ ràng đã trở thành một đám nam nhi nhiệt huyết bừng bừng!
Viên đầu lĩnh rất vừa lòng, cấp cho các phạm nhân mỗi người một cây gậy gỗ, rồi đưa bọn họ vượt qua tường thành.
_________________________________________________________________
…… Mạch soái thuở hàn vi, khi ngao du ngang qua thành Hán Bảo, bị vu là gian tế Bắc Mạc, đúng lúc Thiệu Nghĩa mang quân đi tuần ngang qua, nghe thấy Mạch soái la hét: “Oan uổng quá!”, Thiệu Nghĩa đưa mắt nhìn lại, thấy một thân hình cao gầy, búi tóc ngắn, khuôn mặt rất đẹp, như thể của phụ nữ, nhưng lại không dám nhìn thẳng, đàn ông như thế thường là gian tế!
tuyển tự [hồi ức tướng quân chinh Bắc]
**********************
(1) A Mạch: mạch nghĩa là lúa mạch; cái tên này cũng giống như tên Lúa của Việt Nam.
(2) Mạch Đâu: là phiên âm của Mc Dull, tên một chú lợn trong một sản phẩm phim hoạt hình nổi tiếng của Hồng Kông. Cha mẹ A Mạch xuyên không, có lẽ có liên quan đến đại dịch cúm heo nổi tiếng cũng ở Hồng Kông, A Mạch lại sinh vào năm Hợi (heo), cho nên cha A Mạch mới nghĩ ra cái tên này.
(3) Mạch Tuệ: tuệ nghĩa là bông lúa, mạch tuệ nghĩa là bông lúa mạch.
(4) Qua: dưa, chỉ các loại quả có thân dây leo nói chung như bầu, bí, mướp, dưa chuột, su su…
(5) Đông Qua: bí đao
(6) Bảy thước: một thước = 0,23m, 7 thước = 1,61m.
Chương 2: Thủ thành
Chiến tranh là bàn tay đùa giỡn của một đại nhân vật, vừa ra tay là đã xuất hiện sự chết chóc, hắn bàn tán chê cười chuyện nhân gian công thành chiếm đất. Chiến trường, là một tiểu nhân vật nhỏ bé trước mặt quỷ Tu La(1), khi quỷ Tu La giơ tay chém xuống, trong phút chốc, tất cả đều hôi phi yên diệt(2).
Nam nông lịch Thịnh Nguyên năm thứ hai, lịch Bắc Mạc là năm thứ bảy, Nam Hạ cùng Bắc Mạc cùng ngồi trên bàn đàm phán, trước là giương thương múa kiếm, khí thế ngất trời. Hán tử phương Bắc miệng lưỡi kém linh hoạt, nói qua nói lại một hồi, rốt cục thì cán cân thắng lợi liền nghiêng dần về phương Nam. Những kẻ trong đoàn đàm phán của Bắc Mạc dần dần trở nên trầm mặc. Nhưng đoàn đàm phán Nam Hạ còn chưa kịp chúc mừng thắng lợi đang nằm trong tầm tay thì đã nhận được một tin động trời, không khác gì bị sét đánh trúng khiến hồn bay phách lạc.
Đầu tháng tám, Bắc Mạc đột nhiên phát động hai mươi vạn binh mã, chia làm hai hướng tấn công vào biên giới phía Bắc của Nam Hạ, chỉ trong thoáng chốc mà phong vân(3) biến sắc.
Người dân Bắc Mạc vốn có tác phong nhanh nhẹn, dũng mãnh, so với tài hùng biện của người Nam Hạ mà nói, bọn họ càng thích động thủ, thuộc loại nhân vật thích hành động, tín điều mà họ hướng tới chính là: Nói không lại ngươi, ta liền đánh ngươi nha!
Có người từng lấy qua một ví dụ, nói là trên đường nếu có hai người đều bị nước hắt trúng, người nào mà cả canh giờ cũng không thấy động thủ thì đó chính là người Nam Hạ, còn người nào chưa nói xong hai câu liền ra tay thì chẳng cần hỏi cũng biết đó là người Bắc Mạc.
Đương nhiên, ví dụ này cũng có chút khoa trương.
Sứ thần Nam Hạ đột nhiên hiểu được, đầu tiên là choáng váng, sau đó là một nỗi ảo não đánh thẳng vào gáy, trời ạ, thế nào mà lại quên mất thói quen của thát tử Bắc Mạc? Khó trách đoàn sứ thần Bắc Mạc gần như không nói tiếng nào, nguyên lai bọn họ sớm đã có quyết định này rồi!
Danh tướng Bắc Mạc Chu Chí Nhẫn lĩnh mười vạn quân tiến theo hướng đông, thần không biết, quỷ không hay, vòng qua phía sau chân núi Yến Thứ khẩn cấp tấn công Lâm Đồng, vượt gấp sông Tử Nha, thừa dịp đêm xuống hạ trấn Tân Dã phía đông Nam Hạ, đến xế chiều, đoàn quân đã thẳng tiến đến thành Thái Hưng. Mười vạn đại quân đi theo tây lộ do tướng quân tuổi trẻ tài cao Thường Ngọc Thanh suất lĩnh, nhưng lại lặng lẽ men theo Tây hồ, qua thảo nguyên biên giới Đông quốc, Lương Châu, Mậu Thành, Tiểu Cát Thành hướng thẳng về phía đông, cơ hồ không gặp phải bất kì sự kháng cự nào, tiến thẳng về phía tây thành Thái Hưng.
Mà lúc này, ba mươi vạn biên quân(4) Nam Hạ còn ngồi xổm, tĩnh lặng canh giữ ở biên giới phía Bắc, phân chia gianh giới cùng đại quân Bắc Mạc canh giữ lẫn nhau, tướng sĩ Nam Hạ giữ biên cũng có chút hồ đồ, rõ ràng mấy chục vạn đại quân Bắc Mạc còn đang ngồi xổm đối diện cùng chính mình canh giữ lẫn nhau, thế nào mà lại có hai mươi vạn đại quân chạy đến tấn công mặt sau Nam Hạ? Chẳng lẽ hai mươi vạn đại quân Bắc Mạc sau lưng kia từ đất đá mà hóa thành sao?
Trong lúc nhất thời, phần lớn thành trấn Nam Hạ đều lần lượt báo nguy.
Theo hai đường tấn công của đại quân Bắc Mạc, người sáng suốt liếc mắt một cái liền nhìn ra cả hai lộ đại quân này đều hướng mũi xà mâu thẳng về một nơi, đó là thành Thái Hưng, vì thế trên bản đồ, điểm biểu thị thành Thái Hưng bị tướng lĩnh các quốc gia vẽ đi vẽ lại, từng chút, từng chút mà hoàn toàn thay đổi.
Thành Thái Hưng, là một thành quan trọng phía Bắc bộ của Đại Hạ quốc, dân cư hơn hai mươi vạn, mặt hướng về phía sông Bình Nguyên, sau lưng có sông Uyển, vì binh gia giao tranh từ trước, mà mất hết Giang Bắc.
Ngày hai mươi sáu tháng tám, đại quân đông lộ Bắc Mạc đã đến ngoại thành Thái Hưng, ngày hai mươi bảy vây thành, ngồi đợi Thường Ngọc Thanh suất lĩnh mười vạn đại quân theo tây lộ đến.
Lúc này, đại quân tây lộ Bắc Mạc vừa vặn đuổi tới phía trước thành Hán Bảo, cách thành Thái Hưng tám mươi dặm.
Hán Bảo là một thành nhỏ, không phải là điểm trọng yếu về mặt quân sự, cho nên cũng không quá coi trọng công tác bố trí, canh phòng, tường thành thấp, không có chiến hào cũng không có sông đào bảo vệ, nên cũng chẳng dùng cầu treo, liền cửa thành cũng chỉ có một cái vọng gác trụi lủi, ngoài thành mấy trượng thật ra có mấy công sự, nhìn thưa thớt, trơ chọi rất đáng thương, không cần đoán cũng biết là dựng lên trong lúc vội vã, cơ bản cũng chẳng ngăn được cái gì.
Một câu tổng kết lại là: tường thành này thật quá đơn sơ! So với tường viện của chủ nhà giàu ở Bắc bộ cũng chỉ cao hơn một chút, dày hơn một chút, dài hơn một chút, trên trạm gác có nhiều người hơn một chút.
Binh lính giữ thành khoảng một ngàn người, trong thành dân cư từ đứa trẻ oa oa mới cất tiếng khóc chào đời đến ông già tám mươi tuổi, tất tần tật nam phụ lão ấu cộng cả lại, bất quá cũng chỉ được chừng hai vạn người, chẳng đủ nhét kẽ răng cho đại quân Bắc Mạc, khó trách ngay cả phạm nhân trong đại lao cũng đều bị đưa ra giữ thành.
Khi A Mạch bị đưa vượt qua tường thành, thành Hán Bảo đã sớm là bị đại quân Bắc Mạc vây chặt như nêm cối, từ trên tường thành nhìn xuống chỉ thấy một mảnh đen nhánh. A Mạch sau khi thăm dò xong, lập tức đổ mồ hôi lạnh, chạy vội tới mái chắn sau tường, nằm thấp xuống, thành này còn có thể giữ được sao? Có thể bảo vệ được thì khác gì gặp quỷ giữa ban ngày!
Thiết kỵ Bắc Mạc tới trước thành Hán Bảo, vạn kỵ binh ở trước trận triển khai dàn hàng ngang, tuy rằng đối với việc công thành không có tác dụng gì, nhưng xem như biểu dương lực lượng, trước làm chấn động lá gan của quan binh Nam Hạ, sau thủ tiêu ý định bỏ thành mà chạy trong đầu bọn họ, cho nên, các huynh đệ, chúng ta vẫn là hạ quyết tâm giữ thành!
Có mấy kỵ mã Bắc Mạc phía sau trận tiền phi lên, giơ lá cờ phất qua phất lại mấy cái, đội kỵ binh liền giục ngựa lên trước trận tuyến, chia thành hai cánh thối lui, lộ ra đội quân cầm khiên trong tay, xe công thành, thang, khí giới chờ công thành chậm rãi đẩy về phía trước, tiếng kèn xông trận vang lên, tiếng lưỡi mác bốn phía vung lên, đại quân Bắc Mạc giống như thủy triều đen cuồn cuộn thẳng tiến, giống như một cơn sóng lớn, chỉ cần đổ ập xuống là có thể san bằng một thành Hán Bảo nho nhỏ.
“Bắn tên! Bắn tên! Bắn chết lũ thát tử!” Trên tường thành, tướng lãnh Nam Hạ vung roi trong tay, lớn tiếng quát.
Trên người A Mạch cũng đã trúng mấy roi, cuống quít trên mặt đất khẩn trương giương cung hướng dưới thành bắn vọt tới. Nàng làm sao biết bắn tên như thế nào đâu, bất quá học bộ dạng người bên cạnh cũng giương cung bắn ra, ngay cả ngắm đích cũng không có, chỉ nhắm mắt lại buông tay, nhưng khí lực thật ra không nhỏ, mũi tên lại hướng bên dưới bay xuống, chợt nghe phía dưới truyền đến một tiếng hét thảm, một gã Bắc Mạc công thành mới leo được một nửa đã gặp hạn mà trúng tên rơi xuống.
Tên lính Nam Hạ bên cạnh hướng A Mạch kêu một tiếng “rất tốt”, không biết sờ soạn ở đâu ra một cái mũ giáp ném cho A Mạch, vừa hướng xuống dưới thành bắn tên, vừa hô: “Huynh đệ, bắn hay lắm, đội cái này vào, cẩn thận tên của thát tử, dùng sức bắn lũ súc sinh.”
A Mạch nhìn mũ giáp trong tay còn mang theo vết máu thì giật mình, cắn răng một cái liền đội lên trên đầu, tên bay không có mắt, nàng cũng không muốn chết tại đây trên cái tường thành này, tuy rằng xem hoàn cảnh trước mắt thì cơ may có thể sống sót mà rời đi thật sự là quá nhỏ.
Hai tên lính Nam Hạ bên cạnh dùng sức đâm mũi giáo xuống dưới, liền thấy tên lính Bắc Mạc trên tường thành đã bị lộn một vòng rơi xuống, tiếng kêu thảm thiết sắc nhọn đâm vào tai A Mạch, khiến nàng nghe được mà hết hồn, người bên cạnh ngay vừa trầm trồ khen ngợi nàng sau đó lại hét “A” một tiếng thảm thiết, đã bị mũi tên của binh lính Bắc Mạc bắn trúng, đâm xuyên qua ngực, máu tươi từ trong miệng trào ra, phun tung toé lên tường thành, thành một mảng đỏ rực. A Mạch cả kinh đến nỗi cung tên trong tay đều rơi cả xuống đất, chỉ lo ôm đầu ngồi xuống, bên tai tiếng kêu thảm thiết vẫn không ngừng vang lên, A Mạch trên người lại trúng mấy roi, viên tiểu giáo vung roi nổi giận mắng: “Mẹ nó, còn không mau trốn đi, bọn thát tử mà lên đến đây thì ai cũng đừng hòng sống được!”
Ngoài cửa thành cách đó không xa, trên một sườn dốc nho nhỏ, Bắc Mạc tây lộ tướng quân Thường Ngọc Thanh ngồi trên chiến mã, khuôn mặt lạnh lùng, khóe miệng hơi mím lại, giống như ẩn chứa một tia cười lạnh, vẻ mặt chuyên chú nhìn cảnh công thành cách đó không xa. Mấy chục kỵ mã thân mặc giáp đen đứng phía sau hắn, chiến trường thì ồn ào, nhưng ở đây lại duy trì sự im lặng kinh người, ngay cả thủ hạ chiến mã đều giống nhau, lạnh lùng mà lạnh nhạt.
Thường Ngọc Thanh chợt nâng cánh tay dùng roi ngựa chỉ về một chỗ trên tường thành, cười nói với phó tướng Khương Thành Dực đứng bên cạnh: “Ha ha, Thành Dực, ngươi xem cái tên Nam Hạ mọi rợ kia, ngay cả cung tên cũng cầm không xong, ha ha, người như vậy lại dám lên trên tường thành thủ thành, có thể thấy được Nam Hạ thật sự là không có người.”
Khương Thành Dực theo hướng đó nhìn lại, một lát sau cũng không khỏi mỉm cười, nơi đó trên tường thành có một tên lính Nam Hạ bắn tên rất bừa bãi, sau khi bắn lung tung được một mũi lại vội vàng ngồi xổm xuống tránh sau tường, qua một hồi thăm dò lại bắn thêm một mũi, mười mũi tên thì có đến tám mũi hướng đến tường thành, hai mũi tên còn lại khó khăn lắm mới bắn ra được, cũng là không hề có mục tiêu.
Sau khi Khương Thành Dực bật cười liền quay đầu lại nhìn Thường Ngọc Thanh khuyên nhủ: “Tướng quân, nơi này gần tường thành quá, tên lạc nhiều lắm, vì an toàn, thỉnh tướng quân đến sau trận quan sát cuộc chiến đi.”
Thường Ngọc Thanh chậm rãi lắc lắc đầu, khóe môi chỗ đột nhiên mỉm cười, nói: “Lấy cung tên đến đây.”
Thân vệ binh bên cạnh vội vàng đem trường cung sau lưng, hai tay dâng lên, Thường Ngọc Thanh tiếp lấy, cài tên lên dây cung, kéo căng hết cỡ, híp mắt lại, nhắm thẳng đầu người nọ, ngón tay buông lỏng, chỉ nghe “viu” một tiếng, mũi tên nhọn thoát khỏi dây cung, mang theo sức mạnh phá vỡ không gian, phát ra tiếng rít lợi hại, hướng về phía tên lính Nam Hạ nhát gan trên tường thành xé gió bay đi……
A Mạch nơi này cũng vừa vặn đứng dậy, dây cung chưa kịp buông ra, liền cảm thấy đỉnh đầu như bị búa tạ lôi mạnh một cái, quán tính mạnh mẽ mang theo nàng bay vèo ra sau, thân thể của nàng nặng nề rơi xuống, trong khoảng thời gian ngắn, A Mạch chỉ cảm thấy trước mắt cả một bầy ngôi sao bay loạn, trong tai ngoài âm thanh ù ù ra thì chẳng nghe được cái gì khác. Quá nửa ngày nàng mới chậm chạm tỉnh lại, bỏ mũ giáp trên đầu xuống, hoảng sợ phát hiện một mũi tên dài xuyên ngang đỉnh mũ giáp, đem toàn bộ đỉnh mũ giáp cùng tua rua trang trí tất cả đều chặt đứt tận gốc.
Tiểu binh trên tường thành kia, cho dù không té xỉu thì cũng phải sợ tới mức đái cả ra quần đi, Thường Ngọc Thanh vừa lòng nở nụ cười, đem trường cung tiện tay ném cho thân vệ binh bên cạnh, lúc này chàng như thế nào cũng sẽ không nghĩ đến, là vài năm sau, chàng sẽ hối hận vì mũi tên này đã bắn hơi cao một chút, nếu lúc ấy chỉ cần xuống thấp chừng hai tấc, thì sẽ tốt biết bao nhiêu.
Quân lính Bắc Mạc đã leo được lên tường thành, vung đại đao bổ về phía thủ binh Nam Hạ, lưỡi đao cắm phật vào trong cơ thể phát ra âm thanh nặng nề, người bị chém trợn trừng hai mắt, ngoại trừ nỗi hoảng sợ còn có một tia không cam lòng. Tên lính vừa vung đao chém còn chưa kịp hoan hô thì khoang bụng đã bị một ngọn thương dài không biết từ đâu lao đến đâm thủng, máu theo đầu thương chảy ra, hắn cúi đầu, mắt thấy máu đỏ theo đầu thương rút ra, nội tạng lòi cả ra ngoài.
Đầu thu trời quang mây tạnh, dưới thành Hán Bảo lại là một màn mưa máu mịt mùng, máu thịt vương đầy một mảnh……
“Cửa thành đã mở, đi thôi, cũng chiều rồi, cái gì cũng cản không nổi đâu!” Thường Ngọc Thanh cười nói, hai chân nhẹ nhàng kẹp bụng ngựa: “Tối nay trú đêm lại trong thành Hán Bảo, nói với các huynh đệ, tối nay không phải bàn luận quân kỷ.”
“Tướng quân!” Khương Thành Dực vội vàng phóng ngựa theo ngăn trở nói: “Nguyên soái có lệnh, không thể đồ thành (5)!”
Thường Ngọc Thanh sớm đã có chút không kiên nhẫn với người phó tướng trẻ tuổi thành thạo bên người, nghe hắn lại đem mệnh lệnh của vị nguyên soái kia ra, trong lòng có chút tức giận, kéo dây cương dừng lại vài bước, liếc mắt một cái theo sát Khương Thành Dực, cười mà như không cười hỏi:“Khương phó tướng, cái tai nào của ngươi nghe được bản tướng quân nói là đồ thành ?”
Khương Thành Dực nghẹn giọng, nói không ra lời, Thường Ngọc Thanh quả thật không nói rõ là đồ thành, nhưng câu nói vừa rồi của anh ta thì cùng đồ thành có cái gì khác nhau? Trước khi xuất chinh, nguyên soái cố ý công đạo rằng chỉ cần bọn họ công thành thị uy, không được phép đồ thành.
“Tướng quân –” Khương Thành Dực vươn cổ định khuyên nữa, lại bị Thường Ngọc Thanh hừ lạnh một tiếng trong cổ họng, Khương Thành Dực đánh phải trầm mặc lui xuống, Thường Ngọc Thanh cười lạnh một tiếng nói:“Truyền lệnh xuống, tướng sĩ tham gia công thành thì được vào thành, không phải giữ quân kỷ, còn lại ở ngoài thành bày trận trú doanh.” Nói xong vung roi một cái, không đợi Khương Thành Dực nói chuyện liền phóng ngựa mà đi, phía sau đội thân vệ binh cũng vội vàng đi theo.
Thường Ngọc Thanh phóng ngựa lao ra khỏi đại quân Bắc Mạc, tiến thẳng đến cửa thành, bên kia cửa thành vừa bị xe công thành của quân Bắc Mạc phá vỡ, binh lính song phương đang xoắn lại cùng một chỗ, Thường Ngọc Thanh giơ thương vọt lên, gặp binh lính Nam Hạ một tên giết một tên, chỉ một lát đã hạ mười người. Khương Thành Dực nhìn anh ta quật khởi, cũng không tiếp tục ngăn cản, lại sợ trong lúc hỗn chiến chủ tướng có điều sơ xuất, đành vung trường đao cùng thân vệ binh bảo hộ bên cạnh Thường Ngọc Thanh, một hàng mấy chục kỵ mã cứ thế xông vào, sát nhập với đại quân Bắc Mạc tiến vào trong thành Hán Bảo.
_________________________________________________________
Chú thích:
(1) Tu La: tên một con quỷ hiếu chiến theo quan điểm của Phật giáo
(2) Hôi phi yên diệt: hồi nghĩa là tro, phi: bay, yên: khói, diệt: dập tắt. Câu này nghĩa là tan thành tro bụi.
(3) Phong vân: gió mây.
(4) Biên quân: quân đội canh giữ vùng biên giới
(5) Đồ thành: chỉ hành động chém giết cướp phá của quân lính sau khi chiếm được thành
Nguồn: vanvietbooks