28/11/12

A Mạch tòng quân (C105-107)

Quyển 5: Cao triển sí bằng trình thiên vạn lý (Đại bàng cất cao cánh bay xa ngàn dặm)


Chương 105: Mạch Tuệ – Sửa chữa sai lầm

Thường Ngọc Thanh nghe mà dở khóc dở cười, A Mạch là một tướng lãnh hết sức quan trọng của quân Giang Bắc, bao nhiêu năm qua Nam Hạ mới có được, vậy mà qua miệng Thôi Diễn lại thành “chẳng qua chỉ là một nữ nhân”! Lại thấy vẻ mặt tức giận cùng khinh thường của Thôi Diễn, Thường Ngọc Thanh đành phải trầm mặt, giáo huấn: “Ngươi quá loạn ngôn rồi đấy, nàng là tướng lãnh Nam Hạ, sao có thể dễ dàng để ngươi cướp đoạt? Lại còn gạo nấu thành cơm, ngươi coi ta là loại người nào?”

Thôi Diễn gân cổ, trừng mắt nói: “Cái gì mà tướng lãnh Nam Hạ, chẳng phải chỉ là một nữ nhân thôi sao, chúng ta chỉ cần vạch trần thân thế của nàng, ta không tin đám mọi rợ Nam Hạ có thể chấp nhận một tướng quân là nữ nhi! Đến lúc đó đại ca…”

“Thôi Diễn!” Thường Ngọc Thanh đột nhiên lớn tiếng quát, cắt ngang lời Thôi Diễn, sắc mặt đầy vẻ giận dữ, lạnh giọng nói: “Ngươi và ta thân là đại trượng phu, trên chiến trường lại thất bại trong tay nữ nhân đã là một nỗi sỉ nhục rồi, sao có thể lợi dụng thân phận nữ nhân của nàng để bức bách người ta ủy thân cho mình!”

Thôi Diễn thấy Thường Ngọc Thanh thật sự tức giận, sợ tới mức cúi đầu, miệng cũng chỉ dám nhỏ giọng nói thầm: “Ta cũng chỉ nói thế thôi, đại ca đừng giận a.”

Sắc mặt Thường Ngọc Thanh vẫn lạnh lùng như trước, nói: “A Diễn, dù ta có muốn cướp người, thì cũng là ở trên chiến trường quang minh chính đại cướp lấy, tuyệt sẽ không ngấm ngầm dùng thủ đoạn hạ lưu này, ngươi đánh giá đại ca ngươi quá thấp rồi đấy!”

Thôi Diễn nghe xong vội vàng nói: “Đại ca, ta không có ý đó.”

“Tốt nhất là không có,” sắc mặt Thường Ngọc Thanh thoáng dịu đi, ngừng lại một chút rồi nói thêm: “Về sau đừng bao giờ nhắc lại những lời này nữa!”

Thôi Diễn vội vàng vâng vâng dạ dạ, nhưng trong đầu vẫn vương vẫn chút thắc mắc, chần chờ một lát lại hỏi: “Đại ca, chẳng phải lần này chúng ta sẽ nghị hòa với bọn mọi rợ Nam Hạ hay sao? Chờ nghị hòa xong, đại ca và nàng không còn đánh trận nữa, thế thì làm sao ở trên chiến trường mà cướp người được?”

Thường Ngọc Thanh bị hỏi nhất thời nghẹn giọng, chằm chằm nhìn Thôi Diễn một lúc lâu, thấy trên mặt Thôi Diễn không hề có vẻ đùa giỡn, đúng là thật sự đang thắc mắc về vấn đề này. Thường Ngọc Thanh cười, bất đắc dĩ nói: “Chẳng qua chỉ là một cách nói khác mà thôi, chứ ta đâu thể ở trên chiến trường, trước mặt thiên binh vạn mã mà cướp người được! Lại nói lần này chúng ta nghị hòa cũng không biết là được bao nhiêu năm, chẳng lẽ không bao giờ còn đánh trận nữa sao? Hôm nay nghị hòa, ngày sau lại đánh, chỉ cần Bắc Mạc ta một ngày chưa bình định thiên hạ, thì trận chiến này chỉ là đánh trước hay đánh sau mà thôi.” Thường Ngọc Thanh dừng lại, nhẹ nhàng nhếch môi cười, lại nói tiếp: “Huống chi ta và nàng lại ở hai đầu chiến tuyến, trên tay ta dính máu mười mấy vạn tính mạng người Nam Hạ, trên tay nàng cũng dính máu mấy vạn nam nhi Bắc Mạc chúng ta, vậy thì còn có thể như thế nào được nữa?”

Những lời này khiến tâm tư Thôi Diễn càng thêm rối rắm, lấy tay gãi đầu, rất là khó xử hỏi: “Vậy làm sao bây giờ?”

Thường Ngọc Thanh mày kiếm khẽ nhếch lên, hỏi ngược lại: “Cái gì làm sao bây giờ?”

“Đại ca không phải thích nàng sao?”

Thường Ngọc Thanh nhìn Thôi Diễn, bật cười sang sảng, sắc mặt nặng nề, cười nói: “Bây giờ nên làm thế nào thì cứ làm thế ấy đi, ngươi không phải cũng đã nói rồi sao? Chẳng qua cũng chỉ là một nữ nhân!” Vừa nói, vừa từ dưới tàng cây đứng dậy, tùy ý vỗ vỗ bụi đất bám trên người, rồi một mình xoay người rời đi.

——————-

Tháng bảy năm thứ tư Thịnh Nguyên, trên bàn đàm phán của hai nước Bắc Mạc và Nam Hạ nóng như trên chảo lửa, Bắc Mạc từng bước ép sát, ngoài phần lớn lượng tiền cống hàng năm, còn ép buộc Nam Hạ cắt nhường vùng Giang Bắc gồm tám châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh, Ký. Ngoài bàn đàm phán, Chu Chí Nhẫn đã tập trung hơn mười vạn quân hướng vào phía bắc thành Thái Hưng, chỉ đợi nghị hòa thất bại liền tấn công Nam Hạ.

Sáu châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương đã bị Bắc Mạc khống chế, cắt nhượng thì đã đành, nhưng hai châu Thanh, Ký vẫn còn nằm trong tay mình, cứ như vậy mà đem những vùng đất trong thực tế không hề bị khống chế dâng cho địch, sao tránh được miệng lưỡi thiên hạ? Nhưng nếu nghị hòa không thành thì lại tiếp tục đánh, trong khi chuyện bình định ở Vân Tây mãi không thấy có kết quả, chưa nói đến quốc khố không thể duy trì chi phí quân sự khổng lồ này, mà chỉ cần nói vạn nhất đại quân Bắc Mạc thuận theo sông Uyển đánh xuống Giang Nam, cùng phản quân Vân Tây hai mặt giáp công Thịnh Đô, thì Nam Hạ lập tức sẽ rơi vào hiểm cảnh mất nước.

Triều đình Nam Hạ thực khó xử, những biện thủ(1) trên bàn đàm phán lại càng khó xử. Tuy rằng sứ thần nghị hòa mới tới là Thương tiểu Hầu gia đã mang chỉ thị mới nhất của triều đình đến – cắt nhường những vùng bị chiếm đóng ở Giang Bắc để đổi lấy hòa bình, nhưng không ngờ rằng cái miệng sư tử của Bắc Mạc hóa ra lại rất lớn, ngay cả hai châu chưa công chiếm được là Thanh, Ký cũng đều muốn!

Nếu nhất định phải cắt nhường hai châu đó thì thật uất ức! Nếu không cắt nhường thì lại rất nguy hiểm! Rốt cuộc phải làm thế nào mới tốt?

Biện thủ Nam Hạ quay đầu nhìn thần sắc của sứ thần nghị hòa Thương Dịch Chi, chỉ thấy anh ta vẫn cúi thấp đầu, không nhanh không chậm thổi chén trà trong tay, khuôn mặt vẫn trầm lắng không lộ chút thanh sắc như mọi khi! Nhìn là biết không chịu đồng ý, vậy thì phải tiếp tục đàm phán rồi!

Nhưng phải đàm phán thế nào đây? Biện thủ Nam Hạ vừa khổ sở buồn phiền lại vừa mê man. Vị sứ thần nghị hòa mới tới này đúng là đại Phật gia a, chỉ biết ngồi đó mà chẳng chịu nói gì. Bộ dạng của vị Phật gia này trên bàn đàm phán nếu không phải híp mắt ngủ gà ngủ gật thì là bưng chén nhàn nhã tự tại phẩm trà, đến nửa phần cũng không bằng sứ thần nghị hòa Cao Cát trước đây.

Vẫn phải quay lại cùng Bắc Mạc tiếp tục thương lượng thôi: Nếu không làm như thế này đi, chúng ta cắt nhường sáu châu là Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, tiền cống hàng năm cho các ngươi sẽ nhiều lên một chút, được không?

Cầm đầu đám biện thủ Bắc Mạc: Không được, tiền cống hàng năm các ngươi không thể ít hơn, mà hai châu Thanh, Ký chúng ta nhất định cũng phải lấy.

Biện thủ Nam Hạ phẫn uất: Các ngươi đừng khinh người quá đáng, hai châu này vẫn nằm trong tay chúng ta, dựa vào cái gì chúng ta phải cho các ngươi?

Biện thủ Bắc Mạc khinh thường nói: Chúng ta ở phía tây thành Thanh Châu có đại quân đóng giữ, ít ngày nữa liền đánh hạ Thanh Châu, sau đó đông tiến đánh chiếm Ký Châu, hạ Sơn Đông, chúng ta có thừa sức lấy sông Uyển làm gianh giới!

Biện thủ Nam Hạ nóng nảy: Ngươi nói ngươi có có thừa sức? Nói suông vô dụng, ngươi cứ thử đem thực lực của ngươi chiếm lĩnh toàn bộ phía bắc sông Uyển để chứng minh thực lực của ngươi đi, không cần phải “Phân tích” nhiều! Trên bàn đàm phán tất cả những thứ phân tích đều không thể thừa nhận được.

Biện thủ Bắc Mạc đứng bật dậy vỗ mông nói: Tốt lắm, vậy thì chúng ta đánh tiếp.

Biện thủ Nam Hạ vô lực… Đánh tiếp? Binh lực triều đình chủ yếu đã tập trung bình định Vân Tây, sao còn có tinh lực cho phương bắc nữa!

Biện thủ Nam Hạ vội vàng đưa tay lên: Đừng nóng vội, ngồi xuống, ngồi xuống đã, có gì chúng ta cứ tiếp tục thương lượng, thương lượng…

Cuối tháng bảy năm thứ tư Thịnh Nguyên, Nam Hạ và Bắc Mạc cuối cùng đã đạt được hòa ước: Thứ nhất, phía tây lấy sông Uyển làm gianh giới, phía đông lấy Thái Hành Sơn làm gianh giới, lấy phía bắc nối liền Bắc Mạc, lấy phía nam nối liền Nam Hạ; thứ hai, Nam Hạ cắt nhường bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh cho Bắc Mạc; thứ ba, hàng năm Nam Hạ phải tiến cống cho Bắc Mạc bạc, lụa mỗi loại năm mươi vạn lượng, tấm; từ năm thứ năm Thịnh Nguyên sẽ bắt đầu, hàng năm vào mùa xuân sẽ đưa tới Thái Hưng giao nộp.

Đến đây, hòa ước Thái Hưng chính thức được ký kết, có người vui mừng có người buồn bã, còn có người nhìn không thấu.

Bên trong dịch quán Thái Hưng, Khương Thành Dực cúi đầu xem kỹ các điều khoản của hòa ước, đến khi nhìn đến điều khoản Nam Hạ chỉ cắt nhường bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh, thì ngẩng đầu hỏi Trần Khởi: “Nguyên soái, tại sao không lấy nốt cả Ký Châu?”

Trần Khởi một thân thường phục, thẳng lưng ngồi trước án thư, lật một trang của cuốn sách cầm trong tay, tùy ý đáp: “Có Thanh Châu sẽ không cần Ký Châu, bức ép bọn họ quá ngược lại cũng không tốt.”

Khương Thành Dực vẫn khó hiểu, hỏi: “Chẳng phải nói chỉ tiến cống thôi sao? Sao bọn họ lại đổi ý?”

Trần Khởi nghe vậy ngẩng đầu liếc mắt nhìn tâm phúc của mình, khóe miệng lộ ra một ý cười thản nhiên, nói: “Lời nói của Nam Hạ thì làm sao mà chuẩn xác được, hơn nữa thành trì chỉ có tự mình đánh hạ thì mới có ý nghĩa, Thanh Châu có thể cho chúng ta cũng đã là ngoài ý muốn rồi, có thể thấy được Thường gia cũng thật công phu, biết cũng nhiều!”

Khương Thành Dực nghe xong gật đầu, nói: “Khó trách lão hồ li Thường gia lại để Thường Ngọc Thanh đến Thịnh Đô, Thường gia tấn công đã lâu mà không hạ được Thanh Châu, nay mượn cơ hội này lấy được Thanh Châu, về sau làm bàn đạp tấn công hạ Ký Châu. Thường Ngọc Thanh vốn có công phá Tĩnh Dương quan, nếu có thể tiếp tục cướp lấy Ký Châu, e rằng Thường gia có lẽ sẽ được phong hầu.”

Trần Khởi cười cười, khẽ lắc lắc đầu, Thường gia đã tồn tại cả trăm năm, sao chỉ ham muốn một Ký Châu nhỏ bé như vậy!

Khương Thành Dực do dự một lát, lại hỏi: “Nguyên soái, ta vẫn không hiểu vì sao chúng ta phải nghị hòa với Nam Hạ, hiện giờ tình thế của chúng ta đang rất tốt, sao không tiếp tục truy kích, thừa cơ tấn công Nam Hạ? Cùng quân Vân Tây hình thành thế giáp công Thịnh Đô, chắc chắn sẽ diệt được Nam Hạ!”

Trần Khởi buông cuốn sách trong tay xuống, ngẩng đầu nhìn Khương Thành Dực, nói: “Thời cơ tiêu diệt Nam Hạ chưa tới.”

“Vì sao?” Khương Thành Dực hỏi.

Trần Khởi cân nhắc một chút rồi chậm rãi nói: “Quân ta sở dĩ có thể công chiếm Giang Bắc, chẳng qua chỉ dựa vào ưu thế của kỵ binh, thực hiện tấn công thọc sâu, sau đó quay ngược trở lại tấn công Tĩnh Dương quan, mở được biên quan Nam Hạ. Sau khi đại quân lọt qua quan ải cũng là tận dụng lợi thế tốc độ của kỵ binh, áp dụng nhiều hướng đột tiến, tiến công trọng điểm chiến lược. Mặc dù đã đánh hạ được đại bộ phận Giang Bắc, nhưng vốn chiến tuyến vừa trải rộng lại kéo dài, kết quả là binh lực bị phân tán, việc cấp dưỡng cung ứng gặp nhiều khó khăn. Mà Nam Hạ dù bị sa lầy trong vũng bùn bình định Vân Tây, nhưng quốc lực chiếm thế thượng phong, lại có sông Uyển hiểm trở, phòng thủ chiến tuyến tại sông Uyển vững chắc…”

Khương Thành Dực chỉ cảm thấy trong lòng được khai sáng, không khỏi nói tiếp: “Mà quân ta nếu một mình xâm nhập quá sâu, sẽ rơi vào thế hai mặt thụ địch, thêm nữa, càng đi về phía nam, ưu thế của kỵ binh quân ta lại càng giảm, tiếp viện cũng gặp nhiều khó khăn hơn.”

Trần Khởi cười, nói: “Không sai, cho nên hiện giờ không phải thời cơ tốt nhất để tiêu diệt Nam Hạ, cùng đối đầu với Nam Hạ, không bằng quay lại tập trung lực lượng giải trừ nỗi lo về sau(2), trước phân tán lực lượng phản kháng ở Giang Bắc, đợi Nam Hạ dốc toàn lực đối phó Vân Tây, binh lực bảo vệ sông Uyển không đủ, lúc đó chúng ta tấn công Nam Hạ cũng không muộn, trước từ Thanh Châu xuống Ký Châu, Sơn Đông, sau đó vượt qua Giang Nam, đó là thời khắc bại vong của Nam Hạ.”

Khương Thành Dực nghe được kêu lớn một tiếng tuyệt, khen: “Khó trách lần này nguyên soái cùng Thường gia lại thống nhất ý kiến, không để ý đến sự phản đối trong triều mà nghị hòa, thì ra là sớm tính toán kỹ càng rồi.”

Trần Khởi cười mà không nói, lại cúi đầu đọc sách. Khương Thành Dực nghĩ nghĩ, lại có nghi vấn khác, nhịn không được lại hỏi: “Nhưng trước thì hòa ước, sau lại bội ước khởi binh, sợ là không hay cho lắm.”

Trần Khởi cười liếc nhìn anh ta, vui đùa nói: “Đến lúc đó tùy tiện tìm cái cớ nào mà chẳng được? Ngươi cũng không phải ngày đầu tiên mang binh đánh giặc, chẳng lẽ điều đơn giản như vậy cũng không biết đấy chứ?”

Khương Thành Dực đỏ mặt, đang muốn biện giải vài câu, lại nghe thấy ngoài cửa có thân binh bẩm báo sứ thần nghị hòa Tạ Thừa Ân cầu kiến. Khương Thành Dực ngẩn ra, không khỏi nhìn về phía Trần Khởi, thấy trên mặt Trần Khởi cũng hiện lên một tia ngạc nhiên, hiển nhiên cũng không biết Tạ Thừa Ân sao lại đến đây. Khương Thành Dực đang lúc cảm thấy lạ thì Trần Khởi đã lên tiếng: “Mời Tạ đại nhân vào.”

Sứ thần nghị hòa của Bắc Mạc Tạ Thừa Ân từ bên ngoài tiến vào, đồng thời mang đến một tin tức ngoài dự liệu cho Trần Khởi và Khương Thành Dực. Đó là nguyên soái Vệ Hưng của quân Giang Bắc yêu cầu để quân Giang Bắc đóng ở phía tây thành Thái Hưng hội ngộ cùng quân giữ thành Thái Hưng, trước tiến vào thành, đi qua cửa nam thành Thái Hưng, ra khỏi thành Thái Hưng rồi hành quân về hướng Giang Nam.

Trong hòa ước Thái Hưng đã viết rất rõ ràng rằng Thái Hưng là thành trì lệ thuộc Bắc Mạc, cũng quy định quân Giang Bắc nhất định phải đi về Giang Nam, nhưng lại không quy định quân Giang Bắc là đi thẳng về Giang Nam hay là vào thành Thái Hưng rồi mới độ nam(3), vì thế mới sinh ra nghĩa khác, Vệ Hưng liền đưa ra yêu cầu này. Đừng nói Tạ Thừa Ân cảm thấy hồ đồ, mà ngay cả Trần Khởi nghe vậy cũng nhất thời không hiểu.

Vệ Hưng định làm gì?

Tạ Thừa Ân nói: “Vệ Hưng nói quân Giang Bắc vốn là vì Thái Hưng mới ra khỏi núi Ô Lan, vì thế tám vạn đại quân thiệt hại mất quá nửa, hiện nay nhất định phải độ nam, nói cái gì mà muốn cho tướng sĩ được một lần tiến vào thành Thái Hưng.”

Trần Khởi trầm mặc không nói gì, giống như đang cân nhắc. Khương Thành Dực đưa mắt nhìn Trần Khởi, ngạc nhiên nói: “Trong thành Thái Hưng, quân giữ thành đã độ nam hơn phân nửa, chỉ còn lại mấy ngàn người ở trong thành duy trì trị an. Quân Giang Bắc hiện tại không đủ ba vạn, vào thành Thái Hưng thì có thể làm được gì? Chẳng lẽ còn dám thủ thành? Như thế chẳng phải thành cá trong chậu sao?”

Trần Khởi đưa mắt nhìn Tạ Thừa Ân, hỏi: “Tạ đại nhân thấy thế nào?”

Trên mặt Tạ Thừa Ân hiện lên vẻ ngượng nghịu, do dự một chút rồi nói: “Hiện tại hòa ước mặc dù đã ký kết, nhưng hạ quan cảm thấy quân Giang Bắc một ngày chưa di chuyển về phía nam, hòa ước có khả năng sẽ xảy ra chuyện xấu, ý của hạ quan là, chi bằng…”

“Chi bằng trước hết làm theo ý bọn họ, cho bọn họ vào thành Thái Hưng, cũng sớm hoàn thành việc nghị hòa.” Trần Khởi cười, anh ta biết rõ tâm tư của Tạ Thừa Ân, thân là sứ thần nghị hòa, đương nhiên mọi sự đều lấy việc nghị hòa đặt lên hàng đầu.

Tạ Thừa Ân thấy Trần Khởi nói thẳng tâm tư của mình ra, không khỏi có chút ngượng ngùng, vội vàng nói thêm: “Hạ quan không hiểu việc quân, cũng không đoán ra Vệ Hưng rốt cuộc là có ý đồ gì, vẫn là thỉnh Trần soái định đoạt.”

Tuy Trần Khởi nắm trong tay hơn nửa binh quyền của quốc gia, nhưng cách xử sự làm người lại vẫn vô cùng nhũn nhặn, khi kết giao với đám quan văn lại càng khách khí hơn, nghe Tạ Thừa Ân nói thế, liền cười nói: “Tạ đại nhân quá khiêm nhường rồi. Hoàng Thượng lệnh cho ta đưa quân đến Thái Hưng chẳng qua là để đề phòng việc đàm phán thất bại có thể bất ngờ sinh biến cố. Này Hoàng Thượng đã giao việc nghị hòa cho Tạ đại nhân, vậy thì Tạ đại nhân cứ tuỳ cơ mà ứng biến.”

Trần Khởi tuy nói như vậy, nhưng Tạ Thừa Ân cũng không dám vượt mặt đại nguyên soái chinh nam mà tỏ ra chuyên quyền độc đoán, lại vội vàng cùng Trần Khởi khách khí đưa đẩy, thấy Trần Khởi cũng không cố ý làm ra vẻ ta đây, liền đứng dậy cáo từ, nói rằng sẽ đi chuyển thông cáo cho người phụ trách việc nghị hòa của Nam Hạ, cho phép quân Giang Bắc đi qua thành Thái Hưng thành nam độ.

Trần Khởi lại gọi Tạ Thừa Ân lại, cười nói: “Đàm phán đã thành công, ta ở lại trong thành cũng không có tác dụng nữa, hai ngày sau sẽ rút khỏi Thái Hưng đến đại doanh của Chu Chí Nhẫn, sau này sẽ cùng đại quân vào thành.”

Lời này vừa nói ra, lập tức khiến Tạ Thừa Ân giật mình, chỉ có điều ông ta có thể trở thành sứ thần nghị hòa của Bắc Mạc, thì có nghĩa cũng là người rất thông minh, chỉ một lát sau liền hiểu được ý của Trần Khởi, lập tức nói: “Cũng tốt, đợi mấy ngày nữa hạ quan tiếp quản thành Thái Hưng, chắc chắn sẽ đốt pháo nghênh đón Trần soái vào thành!”

Trần Khởi cười tiễn Tạ Thừa Ân đến tận cửa, lại lệnh cho Khương Thành Dực thay mình đưa ông ta ra ngoài. Một lúc sau, Khương Thành Dực trở về, lúc này mới hỏi Trần Khởi về nỗi nghi hoặc trong lòng: “Nguyên soái sợ Vệ Hưng vào thành là vì chúng ta sao?”

Khuôn mặt Trần Khởi bình tĩnh, ánh mắt trầm ổn, thản nhiên đáp: “Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn cùng ngươi và đều ở trong thành, mặc dù là âm thầm vào thành, nhưng khó tránh khỏi có người nhận ra.” Nói tới đây, Trần Khởi bất giác khẽ giật mình mà ngừng lại, song rất nhanh lại phục hồi tinh thần, tiếp tục nói: “Mặc dù đại quân chỉ cách Thái Hưng khoảng một trăm dặm, nhưng vạn nhất khi Vệ Hưng đưa quân Giang Bắc vào thành, sau đó đột nhiên gây khó dễ, mấy người chúng ta e là khó có thể ứng phó được. Cho nên… không thể không đề phòng.”

Ngày hai mươi tám tháng bảy, Trần Khởi, Khương Thành Dực, Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn cùng các tướng lĩnh Bắc Mạc âm thầm ra khỏi thành Thái Hưng đến đại doanh của Chu Chí Nhẫn, cùng ngày hôm đó, sứ thần nghị hòa Bắc Mạc là Tạ Thừa Ân đồng ý cho quân Giang Bắc của Nam Hạ đi qua thành Thái Hưng mà nam độ.

Đại doanh Chu Chí Nhẫn cách Thái Hưng cùng lắm chỉ một trăm dặm, đám người Trần Khởi chưa đến buổi trưa đã đến bên ngoài đại doanh, chỉ thấy bên trong quân doanh kỷ luật nghiêm minh, hàng ngũ nghiêm chỉnh, phòng vệ chặt chẽ, thỉnh thoảng còn có quân sĩ mặc trang phục cấm vệ quân ra vào cổng doanh trại. Trần Khởi nhìn thấy trong lòng vừa động, Khương Thành Dực ở bên cạnh đã nhỏ giọng hỏi: “Nguyên soái, sao cấm vệ quân cũng đến đây?”

Trần Khởi vẫn chưa trả lời, chỉ xuống ngựa chờ trước cổng doanh trại, sai người vào thông báo cho Chu Chí Nhẫn. Thôi Diễn mất kiên nhẫn, nhịn không được lên tiếng nói: “Nguyên soái sao còn phải cho người thông báo làm gì, quân giữ cổng doanh trại nhìn thấy chúng ta kiểu gì chẳng nhận ra, cứ bảo thẳng hắn mở cổng doanh trại ra là được.” Nói xong liền đi lên định tìm tên quan giữ cổng, vừa nhấc được một bước chân đã bị Thường Ngọc Thanh kéo lại. Thôi Diễn nhìn vẻ mặt trầm mặc của Trần Khởi, lại liếc mắt nhìn Thường Ngọc Thanh đang nhếch khóe miệng cười, tuy không rõ điều gì nhưng cũng dừng cước bộ lại.

Một lát sau, cổng doanh trại mở ra, phó tướng của Chu Chí Nhẫn vội vàng từ trong doanh trại bước ra, một mặt đón đoàn người Trần Khởi vào trong doanh trại, một mặt thấp giọng nói với Trần Khởi: “Hoàng thượng tới, Chu tướng quân đang ở trong đại trướng tiếp thánh giá.”

Trong lòng Trần Khởi mặc dù sớm đã đoán ra, nhưng vẫn kinh ngạc hỏi: “Sao Hoàng Thượng lại đến đây?”

Phía sau, Thường Ngọc Thanh đột nhiên khẽ bật ra tiếng cười chế nhạo, khiến cho mấy người bên cạnh đều đưa mắt nhìn sang, Thường Ngọc Thanh lại cười giải thích với Thôi Diễn: “Đột nhiên nhớ tới câu chuyện cười ngươi kể hôm qua, nhất thời không nhịn được.” Thôi Diễn lần này không ngốc đến nỗi hỏi lại anh ta hôm qua mình kể chuyện cười gì, nhưng cũng không tự chủ được mà liếc mắt nhìn Trần Khởi. Sắc mặt Trần Khởi vẫn bình tĩnh, như thể không nghe thấy Thường Ngọc Thanh nói gì, thấp giọng hỏi viên phó tướng: “Hoàng Thượng tuyên triệu ta vào yết kiến sao?”

Viên phó tướng gật đầu nói: “Hoàng Thượng tuyên một mình nguyên soái vào yết kiến.”

Bên ngoài đại trướng, binh khí như rừng, bảo vệ nghiêm ngặt, quân sĩ bảo vệ mặc áo giáp sáng chói, đều là phục sức cấm vệ quân. Trong đại trướng, tiểu hoàng đế Bắc Mạc đang nghe lão tướng Chu Chí Nhẫn báo cáo dự trù kế hoạch kiến tạo thành lập thuỷ quân, nghe thấy thông báo Trần Khởi đã đến, liền vội vàng cho người triệu Trần Khởi vào trướng.

Trần Khởi tiến vào đại trướng, cung kính hành lễ với tiểu hoàng đế, sau đó ngay lập tức dùng trực ngôn can gián mà nói rằng: “Quân Nam Hạ chỉ cách nơi này hơn một trăm dặm, Hoàng Thượng không nên mạo hiểm đến đây.”

Tiểu hoàng đế Bắc Mạc mới mười bảy, mười tám tuổi, trong ánh mắt vẫn còn lộ vẻ non nớt của một thiếu niên ít tuổi, cười nói: “Ngươi và Chu lão tướng quân đều ở đây, trẫm đâu thể gặp nguy hiểm được!”

Khóe miệng Trần Khởi mấp máy, muốn nói lại thôi. Tiểu hoàng đế thấy vậy lại trêu ghẹo nói: “Ngươi chớ có học Thái Hậu mà suốt ngày nhẩm nhẩm niệm niệm đấy nhé, trẫm đợi ở Dự Châu ước chừng đã hơn một năm nay, thật sự rất nhàm chán, Thái Hậu lại còn truy theo, ngày ngày đều nhắn nhủ nhớ trẫm, giục trẫm quay về, trẫm có lẽ cũng sớm phải chạy về kinh đô mất thôi.”

Hoàng đế kể chuyện cười ai dám không cười? Trong trướng, mọi người đều vội vàng mỉm cười. Trần Khởi cũng cười, mượn cơ hội này không nói lời khuyên can nữa, đợi khi tiểu hoàng đế hỏi về việc tại thành Thái Hưng, liền đem chuyện Vệ Hưng nhất định đòi vào thành Thái Hưng nói ra, tiểu hoàng đế vừa nghe đến trong tay Vệ Hưng không có đủ hai vạn quân, thì chẳng buồn để ý, thậm chí còn nói đùa một câu: “Nghe nói Vệ Hưng trước kia từng làm thị vệ của hoàng đế Nam Hạ, một thân nội gia công phu rất cao, cứ để hắn ta chạy đi như vậy cũng thật đáng tiếc.”

Trần Khởi khẽ nhếch khóe môi, nhưng lại không nói gì.

Tiểu hoàng đế lại hỏi Trần Khởi một chút tình hình trong thành Thái Hưng, cuối cùng mới lệnh cho Trần Khởi lui xuống nghỉ ngơi. Khi Trần Khởi trở lại trong doanh trướng của mình, Khương Thành Dực đã là chờ ở đó, hai người chưa kịp nói chuyện, lại thấy tiểu công công hầu hạ bên cạnh hoàng đế tiến vào, trên mặt lộ nụ cười lấy lòng, đem một phong thư đặt vào tay Trần Khởi, nói: “Hoàng Thượng lệnh cho nô tỳ giao tận tay cho Trần soái, nói là vừa rồi quên mất.”

Trần Khởi trịnh trọng tiếp nhận, tạ ơn tiểu công công kia rồi nói: “Làm phiền tiểu công công rồi.”

Tiểu công công kia đưa xong rồi cũng không chịu đi, vừa cười vừa nói: “Hoàng Thượng phân phó nô tỳ phải nhìn Trần soái đọc thư xong rồi mới được đi.”

Trong lòng Trần Khởi kinh ngạc, theo lời mở phong thư ra, rút ra một bức thư màu hồng nhạt, bất giác ngẩn người. Khương Thành Dực đứng bên cạnh cũng ngửi thấy có mùi thơm thoang thoảng từ lá thư kia bay ra, nhất thời cũng sửng sốt. Tiểu công công cũng che miệng cười, nói: “Hoàng Thượng lệnh cho nô tỳ chuyển lời tới Trần soái, nếu muốn hồi âm thì cứ viết một phong thư để Hoàng Thượng mang trở về, Trần soái yên tâm, Hoàng thượng nhất định sẽ không đọc đâu.”

Trần Khởi dở khóc dở cười, hướng về phía tiểu công công nói: “Đa tạ ý tốt của Hoàng Thượng.”

Tiểu công công lúc này mới đi. Khương Thành Dực vui tươi hớn hở nhìn Trần Khởi, cười hỏi: “Nguyên soái, là Ninh Quốc trưởng công chúa?”

Trần Khởi khẽ gật đầu, tùy ý đưa mắt nhìn nội dung bức thư, rồi nhét lại vào phong thư đặt lên góc án, nghĩ nghĩ, cảm thấy thế cũng không hay, lại cầm lá thư lên.

Khương Thành Dực vốn rất thân cận với Trần Khởi, khi nói chuyện cũng không câu thúc, lại biết Ninh Quốc Trưởng công chúa từ nhỏ vốn ái mộ Trần Khởi, không khỏi cười nói: “Nguyên soái vốn đã sớm đến tuổi cưới vợ sinh con rồi. Xem ra Hoàng Thượng có ý tác hợp nguyên soái cùng Ninh Quốc Trưởng công chúa, nghe nói Ninh Quốc công chúa vừa xinh đẹp lại vừa hiền thục…”

Trên mặt Trần Khởi lại chẳng hề lộ chút vui mừng nào, trong lòng đột nhiên hiện lên bóng dáng của A Mạch, khi đó nàng mới mười ba, mười bốn tuổi, vẫn thường nắm lấy tay áo mình hỏi khi nào thì sẽ lấy tiểu nha đầu là nàng… Trần Khởi khẽ mỉm cười, chẳng nói gì.

Khương Thành Dực thấy thần sắc Trần Khởi không tốt, liền thôi không nói tiếp chuyện đó nữa, chuyển sang hỏi những ngày tới nên an bài như thế nào. Cõi lòng Trần Khởi đã bình ổn lại, thản nhiên cười nói: “Trước cứ chờ xem đã.”

Ngày mùng một tháng tám, sứ thần nghị hòa của Nam Hạ là Thương Dịch Chi quay về Thịnh Đô phục mệnh, thử thành Thái Hưng là Vạn Lương ở lại thành tiếp tục cai quản Thái Hưng.

Ngày mùng ba tháng tám, Vệ Hưng mang quân Giang Bắc từ phía tây thành Thái Hưng vào thành, nhưng không đi ra theo cửa phía nam như đã nói mà lại trú lại trong thành, ép Vạn Lương đóng tất cả bốn cửa thành lại, cũng không động chạm gì đến phái đoàn nghị hòa của Bắc Mạc, ngược lại, dung túng cho quân binh cướp phá cửa hàng của các phú hộ trong thành.

Vì sao Vệ Hưng lại cứ nhất quyết phải vào thành Thái Hưng cho bằng được, giờ thì mọi người đã nhất thời sáng tỏ, chẳng qua mắt thấy Thái Hưng sẽ được cấp cho Bắc Mạc, liền bất chấp nguyên tắc, lúc sắp đi muốn cướp phá sạch sẽ rồi mới tiến về phía nam.

Quả nhiên chẳng thể phân biệt được là binh lính hay giặc phỉ a!

Quân Bắc Mạc nhất thời đều ngạc nhiên. Lặng im một lát, tiểu hoàng đế mới than nhẹ một tiếng: “Vệ Hưng đã từng làm cận thần cho hoàng đế Nam Hạ, sao mới vào quân Giang Bắc chưa đầy một năm lại biến thành phường lưu manh vô lại thế này, quân Giang Bắc chẳng lẽ chính là một nhóm sơn tặc thổ phỉ hay sao?”

Chư tướng trong trướng phần nhiều đã cùng giao chiến với quân Giang Bắc, đều biết rằng sự lợi hại của quân Giang Bắc thì sơn tặc thổ phỉ còn lâu mới sánh bằng, riêng Thôi Diễn vốn nhanh mồm nhanh miệng, chỉ có điều những câu vọt ra miệng thường chưa thông qua đầu óc, lập tức nói: “Cũng không phải vậy! Đường Thiệu Nghĩa vốn cũng từng làm phỉ, trước kia từng mang theo một đám kỵ binh đánh cướp quân ta ở Tây Hồ. Trong đó còn có kẻ gọi là Mạch Tuệ, lại…”

Thôi Diễn nói đến đây mới đột nhiên tỉnh ngộ, trong giây lát liền ngậm miệng. A Mạch tuy có rất nhiều điểm không tốt nhưng cũng là người mà Thường Ngọc Thanh thích, há có thể trước mặt hoàng đế và bao nhiêu người khác mà mắng nàng sao.

Tiểu hoàng đế vốn đang nghe, thấy Thôi Diễn đột nhiên không nói nữa, không khỏi có chút kỳ quái, hỏi: “Mạch Tuệ có phải là kẻ đã mai phục Thường Ngọc Tông không? Lại thế nào, sao không nói tiếp?”

Khóe mắt Thôi Diễn cẩn thận liếc nhìn Thường Ngọc Thanh, ý nghĩ trong đầu đã xoay chuyển vài vòng, trên mặt liền hiện ra vẻ xấu hổ, ngượng ngùng nói: “Thần là bại tướng dưới tay hắn ta, không có mặt mũi nào để nói hắn.”

Tiểu hoàng đế cũng đang lúc vui vẻ, nên chẳng những không có trách cứ Thôi Diễn, ngược lại còn an ủi anh ta: “Thắng bại là chuyện thường của nhà binh, cũng không cần phải như vậy.”

Thấy tiểu hoàng đế như thế, Chu Chí Nhẫn và Thường Ngọc Thanh bất giác đều nhẹ nhàng thở ra, thầm nghĩ tiểu tử Thôi Diễn này đúng là một tên ngốc thành thực, vận khí cũng không tồi, gặp đúng lúc tâm tình của tiểu hoàng đế đang rất tốt. Vệ Hưng dung túng cho binh lính đánh cướp dân chúng Thái Hưng, chính là tự hủy căn cơ của mình, tiểu hoàng đế mừng rỡ chế giễu, cười nói: “Cứ để mặc cho Vệ Hưng cướp bóc mấy ngày nữa rồi chúng ta dán thông báo an dân, thể hiện rằng quân ta chính là đội quân nhân nghĩa yêu dân.”

Tuy nói như thế, song tiểu hoàng đế vẫn hạ lệnh cho đại quân Bắc Mạc chuẩn bị có thể nhổ trại bất cứ lúc nào để “Cứu” dân chúng Thái Hưng khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Ai ngờ đại quân Bắc Mạc còn chưa kịp nhổ trại, thì từ thành Thái Hưng lại truyền ra tin tức: Vệ Hưng bị thủ hạ là hữu phó tướng quân Mạch Tuệ giết, đoạt lấy binh quyền, sau đó dán thông báo an dân, tiếp đó lại bố cáo trước dân chúng tuyên ngôn chống giặc ngoại xâm, rồi đưa binh ra khỏi Thái Hưng đi về hướng đông!

Trong đại trướng, tiểu hoàng đế Bắc Mạc sắc mặt âm trầm ngồi sau ngự án, viên tiểu công công từ ngoài trướng đi vào, dâng một tờ giấy được cuộn tròn lên trước án. Tiểu hoàng đế thản nhiên nhìn lướt qua, lạnh giọng phân phó: “Đọc đi.”

Trong trướng lập tức vang lên thanh âm the thé của tiểu công công:

“Mạch Tuệ, quê quán không rõ, sinh năm Đinh Hợi.

Năm Thiên Hạnh thứ bảy, theo thủ thành Thanh Châu là tướng Thương Dịch Chi gia nhập quân đội, trước khi tới Dự Châu là thân vệ của Thương Dịch Chi, sau gia nhập vào quân số bộ binh doanh của quân Thanh Châu, trong chiến dịch Dã Lang Câu chém hai mươi ba quân sĩ Bắc Mạc, được thăng làm Ngũ trưởng.

……

Năm Thiên Hạnh thứ tám, trong chiến dịch Ô Lan, dùng ba trăm tàn quân dụ Thường Ngọc Thanh liều lĩnh vượt ngàn dặm tiến vào núi Ô Lan, được thăng làm thiên tướng quan doanh.

Năm Thiên Hạnh thứ chín, trong chiến dịch Thái Hưng, cho quân mai phục tại Bạch Cốt Hạp giết hại ba vạn kỵ binh của Thường Ngọc Tông, sau tại bờ phía đông sông Tử Nha đánh tan truy binh của Thôi Diễn…”

———————-

Chú thích:

1- Biện thủ: người phụ trách việc biện luận trong cuộc nghị hòa.

2- Mối lo về sau: nguyên văn: Hậu cố chi ưu

3- Nam độ: tiến quân về phía nam

Chương 106: Đông tiến

Bên trong đại trướng yên lặng như tờ. Cứ thế mà tính ra, thì mấy viên đại tướng chinh nam của Bắc Mạc, liên quan đến nguyên soái Trần Khởi, hóa ra đều từng là bại tướng dưới tay của Mạch Tuệ! Chu Chí Nhẫn, Chu lão tướng quân đứng nghiêm trang trước án trong tư thế mắt nhòm mũi, mũi nhòm mồm, hoàn toàn rơi vào trạng thái của một lão tăng nhập định, trầm mặc không nói năng gì. Trần Khởi cụp mắt xuống, che khuất thần sắc trong ánh mắt. Sắc mặt Thường Ngọc Thanh thì vẫn không thay đổi, khóe môi khẽ nhếch lên. Chỉ có Thôi Diễn khuôn mặt trắng bệch lộ ra vẻ vô cùng giận dữ.

Thanh âm của tiểu hoàng đế có chút âm lãnh vang lên, phá vỡ bầu không khí tĩnh mịch trong trướng: “Hay cho một gã Mạch Tuệ!”

Đây có thể coi như một lời kết án không?

Khá khen cho ý niệm quá mức mạnh mẽ của tiểu hoàng đế, khiến cho A Mạch dù đã đi về hướng đông, cách rất xa thành Thái Hưng, hiện đang đứng ở điểm cao quan sát đại quân hạ trại, cũng cảm nhận được mà không khỏi hắt xì một cái thật to. Phía sau, cách đó không xa, Lâm Mẫn Thận thúc ngựa vài bước chạy lên. Anh ta đã thay trang phục thân binh, lông mày có vẻ dày lên không ít, trên mặt cũng xuất hiện râu quai nón, vừa nhìn thấy liền có cảm giác như đã biến thành người khác, chỉ có ánh mắt kia là vẫn trong trẻo như trước, giọng điệu mang theo vài phần mỉa mai, tựa tiếu phi tiếu liếc nhìn A Mạch, hỏi: “Thế nào? Mạch tướng quân bị trúng phong hàn sao?”

A Mạch biết anh ta đối với việc lừa giết Vệ Hưng còn có chút oán khí, cũng không muốn cùng anh ta so đo, chỉ quay đầu nói với Trương Sĩ Cường đang đứng bên cạnh: “Những ngày này thời tiết hay thay đổi, chúng ta lại hành quân ngày đêm, trong quân sợ là cũng có không ít người bị phong hàn, ngươi đi thông báo với Lý Thiếu Hướng, bảo anh ta làm canh sinh khương(1), không phân biệt là quan hay binh, mỗi người đều nên uống một ít.”

Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch căn bản không để ý tới mình, trong lòng lại khó chịu, trên mặt liền ra vẻ kinh ngạc, hỏi: “Sao thế? Mạch tướng quân ngay cả sinh khương cũng cướp sao?”

Lời này vừa nói ra liền chọc cho Trương Sĩ Cường tức giận trợn mắt nhìn Lâm Mẫn Thận, song A Mạch vẫn không hề bực mình, chỉ bảo Trương Sĩ Cường: “Mau đi đi.” Trương Sĩ Cường lườm Lâm Mẫn Thận một cái rồi lĩnh mệnh mà đi. A Mạch lại cho thân binh bên cạnh đều lui xuống, lúc này mới quay lại nhìn Lâm Mẫn Thận, đột nhiên hỏi: “Vệ Hưng là ai giết?”

Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, theo bản năng trả lời: “Không phải ngươi bày kế dụ ông ta ra để giết sao?”

A Mạch thản nhiên cười, nói: “Vệ Hưng một thân công phu vang danh khắp từ nam ra bắc, những tướng lãnh binh sĩ bình thường khác đâu thể nào là địch thủ của ông ta?”

Lâm Mẫn Thận hiểu ám chỉ trong lời nói của A Mạch, lạnh mặt nói: “Không sai, là ta giết. Mặc dù ngươi bày kế khiến vết thương cũ của anh ta vỡ toác ra, nhưng kẻ ra sát chiêu cuối cùng là ta.”

Sắc mặt A Mạch thay đổi, lạnh lùng nói: “Nếu người là do ngươi giết, vậy thì ngươi cũng không nên nói quá nhiều những lời rắm thối như vậy?”

Lâm Mẫn Thận bị lời lẽ thô tụng của A Mạch chặn ngang họng, liền nhìn A Mạch trân trối: “Ngươi, ngươi…”

A Mạch nói tiếp: “Vệ Hưng võ công cao cường, cho dù vết thương cũ bị vỡ, nội lực bị hao tổn, nhưng nếu ngươi niệm tình xưa nghĩa cũ không chịu động thủ, thì ta có thể làm gì được ông ta? Ngươi đã xuống tay giết ông ta, giờ có nói cái gì cũng đã muộn rồi, cứ cứ cau cau có có chẳng qua là muốn tìm cho mình một lý do để rũ bỏ trách nhiệm, khiến cho thâm tâm mình được thoải mái một chút mà thôi.” Nói đến đó, thần sắc của A Mạch bỗng trở nên lạnh lùng, ánh mắt như phủ một tầng sương lạnh,“Giết chính là giết, vì quyền thế cũng được, mà vì danh lợi cũng thế, có gan thừa nhận cũng coi như có can đảm. Tốt xấu gì cũng là một nam nhân, đừng có hơi một chút lại làm những việc khiến người ta phải coi thường!”

Một hơi lôi hết tâm tư trong lòng Lâm Mẫn Thận ra, khiến anh ta á khẩu không trả lời được, nghẹn hơn nửa ngày mới không cam lòng tranh cãi: “Nhưng ngươi rõ ràng có thể lưu tánh mạng ông ta lại, hơn nữa cho dù giết ông ta là bất đắc dĩ, vì sao còn hắt thêm bát nước bẩn lên người ông ta? Ông ta dung túng cho binh lính cướp phá khi nào? Chẳng qua chính ngươi muốn nhân cơ hội này đánh cướp vật tư quân lương thì có! Còn giả mù sa mưa dán thông báo an dân, thế tại sao không thấy ngươi đem tiền tài trả lại cho dân chúng?”

Lông mày A Mạch khẽ nhếch lên, hỏi ngược lại: “Vệ Hưng làm ảnh hưởng đến danh tiếng mấy vạn tướng sĩ quân Giang Bắc, vì sao ta không thể giết anh ta? Ta không đánh cướp quân tư, thì ai có thể đem tới cho ta? Về phần vì sao ta phải đem tội danh này đổ lên đầu Vệ Hưng, chẳng lẽ thân là công tử của Lâm tể tướng mà ngươi lại không biết duyên cớ bên trong hay sao?” A Mạch cười xùy một tiếng, chế nhạo: “Việc này, vốn dĩ Lâm tể tướng thành thục hơn người khác rất nhiều, Lâm công tử lẽ nào lại chưa từng thấy qua? Chẳng lẽ Lâm tể tướng vẫn nuôi ngươi như nuôi con gái mà nhốt ở trong nhà sao?”

Lâm Mẫn Thận bị A Mạch dùng lời nói chèn ép mà đỏ bừng cả mặt, rốt cuộc không còn giữ được dáng vẻ cà lơ phất phơ nữa, chỉ thẳng vào A Mạch giận dữ nói: “Ngươi! Ngươi…”

A Mạch cười lạnh nói tiếp: “Ta làm sao? Ta chưa bao giờ tự nhận mình là bậc đại thánh nhân Bi Thiên Mẫn Nhân(2), cũng không nghĩ sẽ làm đại anh hùng Nghĩa Bạc Vân Thiên(3), cho nên ngươi không được chỉ trích ta, nói cho cùng thì ngươi chẳng có tư cách này, Lâm gia nếu thật sự là trung thần lương tướng, thì hiện giờ Lâm Mẫn Thận ngươi cũng sẽ không có mặt ở đây!”

Lâm Mẫn Thận vẫn chưa từ bỏ ý định bài bác liền nói: “Hiện nay hoàng đế chính là kẻ giết huynh đoạt quyền, Lâm gia ta nhất định phải bảo vệ hoàng thất chính thống, như thế có gì là sai?”

A Mạch cười khẩy nói: “Lâm gia nhất định phải bảo vệ hoàng thất chính thống? Vậy thì phải làm sớm hơn từ vài chục năm trước kia? Ngươi cho là ta không biết sao? Tề Cảnh mặc dù không phải ngồi lên ngôi vị hoàng đế một cách chính thống, nhưng trong lòng lại rất nặng hai chữ “Chính thống” này. Thái tử trời sinh thông minh, tính tình lại quá mức trung hậu, Tề Cảnh sợ thái tử sau này không khống chế được những lão thần quyền cao chức trọng, trước thuận tiện giúp Nhị hoàng tử Tề Mẫn mài đao, một mặt quan sát mũi dao nhọn của thái tử, thuận tiện thanh trừ những thần tử có dị tâm. Lâm tể tướng là kẻ cáo già như thế nào, chẳng lẽ lại không nhìn thấu tâm can của đế vương, vì thế liền làm ra một bộ dạng thần tử thuần túy vô hại, căn bản không can dự vào chuyện tranh đấu của các hoàng tử. Đáng tiếc, hoàng đế cũng chẳng phải là kẻ lương thiện, nên vẫn quyết tâm phải ra tay trước, thay thái tử diệt trừ cây đại thụ là Lâm tể tướng này, cho nên mấy năm qua luôn tỉa bỏ cành lá của Lâm tể tướng, chờ đến khi chỉ còn lại một thân cây trơ trụi, để cho tân đế sau khi đăng cơ sẽ đạp đổ thân cây đó để lập uy. Mặc dù Lâm gia hiện giờ nhìn vào thì phong quang sáng lạn, kỳ thật sớm đã là gan thỏ trước miệng cọp rồi…”

Lâm Mẫn Thận nói không nên lời, kinh ngạc nhìn A Mạch, như thể không còn nhận ra nàng là ai nữa.

Loại người như Lâm Mẫn Thận được gọi là đệ tử thế gia, mặc dù trên mặt đối với ai cũng đều thân thiện, nhưng trong lòng thật ra lại rất xem thường người khác, A Mạch một phen nói tuột hết tâm can của anh ta ra, khiến anh ta khó tránh khỏi chấn động đến nỗi nhất thời thất thố. A Mạch khinh thường cười cười, lại nói tiếp: “Nếu không Lâm tể tướng vốn là kẻ dưới một người trên vạn nhân, vì sao lại phải chạy đi phù trợ một thái tử mồ côi từ trong bụng mẹ, giữ gìn chính thống cái gì! Ta nói vậy đúng hay sai, Lâm công tử? Ta không thích sự nhiễu loạn ở Thịnh Đô nhưng không có nghĩa là ta không nhìn thấu sự nhiễu loạn đó! Lâm công tử, A Mạch ta nói có chỗ nào sai không?”

Lâm Mẫn Thận sửng sốt một hồi lâu, lúc này mới chậm rãi nói: “Có một chỗ ngươi nói sai rồi…”

A Mạch nhướng mày: “Vậy à?”

Lâm Mẫn Thận nói tiếp: “Lâm tướng công tử đã chết theo Vệ Hưng rồi, trước mặt ngươi không phải là Lâm công tử, mà chính là thân binh của Mạch tướng quân tên là Mục Bạch mà thôi.”

A Mạch đanh mặt, lạnh giọng nói: “Ngươi còn nhớ thân phận của mình là tốt rồi!”

Nói xong cũng không buồn để ý đến Lâm Mẫn Thận nữa mà giục ngựa chạy về chân núi nơi đại quân hạ trại.

Lâm Mẫn Thận nhất thời không có phản ứng gì, thần sắc phức tạp nhìn theo bóng dáng A Mạch. Sau biến cố ở thành Thái Hưng, anh ta đã cải trang trà trộn vào trong đội thân binh của A Mạch, mới đầu còn sợ bị người khác nhận ra thân phận, rồi lại thấy A Mạch chẳng cố kỵ chút nào mà sai khiến mình khiến anh ta càng cảm thấy kỳ quái, sau suy nghĩ cẩn thận lại liền thông suốt. Từ lúc còn ở trong núi Ô Lan, khi đó các doanh phân tán khắp nơi, anh ta và tướng lĩnh các doanh tiếp xúc không nhiều lắm. Sau lại trải qua vài trận chiến, nhiều tướng lãnh đã hy sinh, những người còn sống sót cũng không nhiều, quen biết anh ta lại càng ít. Hơn nữa, sau biến cố tại Thái Hưng, A Mạch đã tiêu diệt hết tâm phúc của Vệ Hưng, nên những kẻ có thể nhận ra Lâm Mẫn Thận lại càng không có mấy. Nếu có, cũng đều là tâm phúc của A Mạch.

Tham quân Lâm Mẫn Thận sớm đã chết ở trong thành Thái Hưng, kẻ hiện giờ còn sống chẳng qua là tên thân binh Mục Bạch mà thôi! Lâm Mẫn Thận chậm rãi lắc lắc đầu, thong thả cưỡi ngựa đi về hướng doanh trại.

Trong quân đã bắt đầu nổi lửa thổi cơm, binh lính tuy bận rộn nhưng cũng không hề bối rối, chỉ trong chốc lát đã ngửi thấy mùi cơm chín. Trước lúc xảy ra biến cố ở Thái Hưng, A Mạch đã âm thầm phái người giả làm thương lái đi về hướng Thanh Châu thu mua tích trữ lương thảo ở các trấn dọc đường! Bởi vậy lần này, quân Giang Bắc không có xe chở đồ lương thảo, quân nhu đi cùng, lại hành quân ngày đêm, tốc độ cực nhanh, hiện nay đã tiến vào vùng trung du phía đông Tương Châu. Nơi này cách Thái Hưng rất xa, lại có địa hình thuận lợi, kỵ binh Bắc Mạc truy kích theo lại bị Trương Sinh dẫn kỵ binh quấy nhiễu, hiện giờ cũng chỉ có thể nhìn theo bóng lưng của quân Giang Bắc mà than thở.

Lâm Mẫn Thận không khỏi than nhẹ một tiếng, A Mạch người này tâm tư kín đáo, lắm mưu nhiều kế, thật không giống với nữ nhân, thực không thể xem nhẹ nàng.

Giữa tháng chín, quân Giang Bắc thoát khỏi sự truy đuổi của truy binh Bắc Mạc mà vượt trước đến phía tây thành Thanh Châu, quân Bắc Mạc do Thường Tu An làm chủ tướng vốn trú quân ở ngoài thành Thanh Châu, do sớm nhận được chiến báo(4) của Trần Khởi, nên đã cho quân mai phục cách thành Thanh Châu bốn mươi dặm về hướng tây để ngăn chặn quân Giang Bắc. Ai ngờ quân Thanh Châu vốn từ lâu đóng cửa ở trong thành như gấu ngủ đông đột nhiên lại theo sát sau lưng, cùng quân Giang Bắc giáp kích trước, sau khiến quân của Thường Tu An đại bại, sau đó, quân Giang Bắc lại không chút hoang mang mà tiến thẳng vào thành Thanh Châu, khiến kỵ binh Bắc Mạc dù đuổi sát tới nơi cũng chỉ có thể đứng ngó ở ngoài cổng thành.

Thành Thanh Châu, phía bắc tiếp giáp sông Tử Nha, phía đông dựa vào dãy núi Thái Hành, phía sau cắt ngang qua dãy Thái Hành khoảng một trăm dặm là khe núi Phi Long. Vách núi hai bên cao chót vót, một con đường nhỏ hẹp xuyên qua hơn trăm dặm. Người xưa cho rằng: chiếm cứ Phi Long, chèn ép cổ họng phía sau, tiến sát đến Ký, Lỗ, nhất định thắng. Theo khe núi phía đông có thể tấn công Ký Châu, theo phía nam vượt qua sông Uyển có thể tấn công Nghi thành, theo phía tây có thể uy hiếp Tân Dã, Dự Châu, đúng là một cửa ải quân sự hiểm yếu, tấn công hay phòng thủ đều thuận lợi.

Quân Giang Bắc đã vào Thanh Châu, Bắc Mạc dù có mấy vạn kỵ binh cũng chỉ có thể nhìn tòa thành mà than thở. Thường Ngọc Tông truy kích thẳng một đường đến đây, nhìn thành Thanh Châu không nhịn được mà chửi ầm lên, nhưng mắng chửi một hồi cũng cảm thấy thật vô vị, đành mang theo ba ngàn quân tiên phong phẫn nộ mà quay về. Đợi bại binh của Thường Tu An quay trở về, Thường Ngọc Thanh tự mình giúp thúc phụ Thường Tu An thu thập tàn quân. Ba chú cháu Thường gia tề tụ trong trướng, thúc thúc Thường Tu An kích động thiếu chút nữa ngay cả nước mắt cũng rớt xuống, hai bàn tay nắm chặt lại, thầm nghĩ hai tiểu tử các ngươi mà đến muộn thêm chút nữa, thì cái mạng già của thúc thúc này có lẽ đã bỏ lại tại đây.

Thường Ngọc Tông vẫn vì chuyện mình thiếu chút nữa đuổi theo quân Giang Bắc mà canh cánh trong lòng, Thường Ngọc Thanh liếc mắt nhìn anh ta, cười nhạo nói: “Ta sớm đã nói là không cho ngươi truy đuổi, nếu quân Giang Bắc đã dám quay lại thu dọn chiến trường thì sợ gì sự truy đuổi của ngươi, coi như mọi chuyện đã định rồi, ngươi có đuổi theo cũng không kịp!”

Thường Ngọc Tông cúi đầu không nói gì, chỉ có Thường Tu An tức giận tiếp lời: “Thất nhi, ngươi cùng quân Giang Bắc giao chiến đã nhiều, ngươi nói cho tam thúc nghe, quân Giang Bắc rốt cuộc là loại quân gì? Ngươi xem, bọn chúng thu dọn chiến trường so với dùng chổi sắt quét còn sạch hơn! Đừng nói đến khí giới mà chúng ta vất vả chế tạo đều bị đoạt đi, mà ngay cả áo giáp trên người những tướng sĩ chết trận của ta chúng cũng cởi sạch! Thế này, thế này, thế này hóa ra còn không bằng cả thổ phỉ!”

——————————

Chú thích:

1- Sinh khương: tên một vị thuốc họ gừng có công dụng trị cảm lạnh.

2- Bi thiên mẫn nhân: Bi, tức là chữ bi trong từ bi, “bi thiên mẫn nhân” tức là cảm thán thời đại bấp bênh, thương xót đời người thống khổ

3- Nghĩa bạc vân thiên: có tình có nghĩa

4- Chiến báo: chiến nghĩa là chiếu đấu, chiến tranh; báo nghĩa là thông báo.

Chương 107: Thanh Châu

Kỳ thật cũng chẳng thể trách Thường Tu An cảm thấy tức giận, quân Giang Bắc đi qua nơi nào thì nơi ấy chẳng khác gì vừa gặp đại dịch châu chấu, thế thì làm gì có ai không cảm thấy tức giận? Đừng nói ông ta, mà ngay cả thống soái A Mạch của quân Giang Bắc, nhìn thấy Lý Thiếu Hướng chỉ huy người khuân khuân, vác vác, trong mắt cũng không khỏi bốc hỏa. Đợi đến khi có hai tên lính khuân nồi niêu xoong chảo đi ngang qua nàng, A Mạch thật sự không nhịn được nữa, đưa tay cản hai tên lính kia lại, hết chỉ cái này lại chỉ cái kia hỏi Lý Thiếu Hướng: “Đây là cái gì?”

“Nồi a.” Lý Thiếu Hướng cười tủm tỉm đáp.

A Mạch hít sâu một hơi, lúc này mới nói: “Ta biết đây là nồi, là ta hỏi ngươi, ngươi cho người xách mấy cái nồi rách này về để làm gì?”

Nghe A Mạch hỏi thế, Lý Thiếu Hướng trợn tròn mắt, lấy tay chỉ vào mấy cái nồi, kêu lên một cách rất khoa trương: “Đại nhân, đây chính là sắt đấy! Nấu chảy ra làm thành cái gì chả được!”

A Mạch nghẹn lời không thể nói được gì, chỉ đành phẩy phẩy tay áo, ý bảo anh ta mau cho người đem nồi sắt đi. Nồi thủng vừa mang đi, phía sau lại có binh lính ôm một lá cờ Bắc Mạc lại. A Mạch chẳng qua mới nhìn lướt qua, Lý Thiếu Hướng lập tức cầm lấy lá cờ kêu lên: “Đại nhân, ngài sờ thử chất vải này mà xem, rất mềm mại, nếu không thể đem về nhà làm yếm cho thê tử, thì có thể để cho mọi người làm…”

“Ngừng!” A Mạch thật sự không có cách nào có thể tưởng tượng ra mình lại đem lá cờ Bắc Mạc kia mặc lên người, đành phải vội vàng nói: “Ngươi muốn làm thế nào thì cứ làm như thế đi!”

Lý Thiếu Hướng giả dối cười cười, quay đi tiếp tục kiểm kê chiến lợi phẩm. A Mạch không còn hứng thú xem tiếp, quay lại tìm thủ thành Thanh Châu là tướng Tiết Vũ. Người này vốn là một viên tướng tâm phúc của Thương Dịch Chi, năm thứ hai Thịnh Nguyên, Thương Dịch Chi từ Thanh Châu đi cứu viện Thái Hưng, đã lệnh cho anh ta lưu lại trấn giữ Thanh Châu, đến nay đã được hơn hai năm, cuối cùng không đợi được Thương Dịch Chi đến, mà lại là Mạch Tuệ và quân Giang Bắc.

Vốn đã nhận được lệnh từ trước của Thương Dịch Chi, A Mạch vừa vào Thanh Châu, Tiết Vũ đã đem toàn bộ quân vụ thành Thanh Châu giao cho A Mạch. A Mạch tiếp quản Thanh Châu, song vẫn rất tín nhiệm Tiết Vũ, việc canh phòng thành trì phần nhiều vẫn dùng những tướng lãnh cũ của Thanh Châu. Kể từ đó, công việc phòng ngự tiến hành thật sự thuận lợi, chỉ qua một, hai ngày, quân coi giữ tường thành Thanh Châu đều đổi thành quân Giang Bắc.

A Mạch đang cùng Tiết Vũ thương nghị hủy bỏ chế độ hai quân đội để sáp nhập thành một đội quân duy nhất, Vương Thất, tạm lĩnh chức đội trưởng thám báo quân Giang Bắc, từ bên ngoài bước nhanh vào, nói: “Thường Ngọc Thanh đã lui binh.”

A Mạch và Tiết Vũ đều ngẩng đầu lên nhìn Vương Thất, trên mặt Vương Thất vẫn còn lưu lại một tia hưng phấn, nói với A Mạch: “Đúng như đại nhân dự liệu, hai vạn kỵ binh của Thường Ngọc Thanh và mấy ngàn tàn binh của cũng Thường Tu An đã nhổ trại theo hướng tây bắc đi về phía thành Võ An.”

Thành Võ An, cách thành Thanh Châu cùng lắm chỉ hơn một trăm tám mươi dặm, từ Thanh Châu đi về phía tây bắc tất yếu phải qua nơi này.

Tiết Vũ quay đầu nhìn A Mạch, trong ánh mắt hiện lên vài phần khâm phục, lên tiếng hỏi: “Thường Ngọc Thanh quả thật muốn tính đánh lâu dài?”

A Mạch đáp: “Thường Ngọc Thanh là người dũng mãnh nhưng không lỗ mãng, trong tay không đủ binh mã tất nhiên sẽ không dám manh động tấn công Thanh Châu. Huống chi Trần Khởi trước hết phải bình định Ung, Dự, lại vừa muốn đưa tiểu hoàng đế hồi kinh, nhất thời cũng không thể điều thêm quân cho anh ta. Anh ta cũng sợ chúng ta ra khỏi thành đánh lén, nên phải tìm một nơi đóng quân vững chắc đã!”

Tiết Vũ hỏi: “Vậy chúng ta phải đối đãi lại như thế nào?”

A Mạch cười, nói: “Nếu anh ta không công thành, chúng ta trước mắt cũng chẳng cần phải để ý tới anh ta, cứ làm tốt những việc trong thành đã rồi nói sau.” A Mạch quay đầu nhìn Vương Thất phân phó: “Ngày mai triệu tập các đội trưởng trong quân mở đại hội, quán triệt quân kỷ, quân pháp nghiêm minh, phàm kẻ nào dám quấy nhiễu dân chúng, bất luận chức quan hay lai lịch là gì, chỉ có một chữ ‘Trảm’!”

Vương Thất gật đầu: “Đã rõ!”

A Mạch lại hướng Tiết Vũ nói: “Thanh Châu vốn đã bị triều đình cắt nhượng cho thát tử, thỉnh Tiết tướng quân cho người đem chuyện này lan truyền ra bên ngoài, nói gian thần trong triều vì muốn bảo vệ phú quý của bản thân đã xúi giục hoàng đế bỏ rơi Thanh Châu. Sau đó lại tuyên truyền về sự tàn bạo của thát tử, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong thành.”

Tiết Vũ chưa kịp lên tiếng đồng ý, Vương Thất đột nhiên nói xen vào: “Thát tử vốn rất tàn bạo, sao còn phải tuyên truyền!”

A Mạch cười hỏi: “Sao ngươi nói thát tử tàn bạo? Trần Khởi ở Dự Châu không hề tơ hào đến bất cứ thứ gì của dân, lại đối đãi với người Nam Hạ không có gì bất đồng so với người Bắc Mạc.”

Vương Thất hừ lạnh một tiếng, mắng: “Không tơ hào cái chó gì! Không tơ hào thì tại sao thành Hán Bảo lại thành thành hoang? Cái gì mà đối đãi không bất đồng? Nếu thế thì ba mươi năm trước, khi xâm chiếm chúng ta cũng đã không đối đãi như thế!”

Sắc mặt A Mạch trở nên ảm đạm, trầm mặc một lát rồi mới tiếp tục nói: “Hán Bảo cách Thanh Châu quá xa, ba mươi năm trước cũng đã trôi qua quá lâu rồi, khó tránh khỏi sẽ có những người không nhìn thấy, không nhớ nổi, nên sẽ ảo tưởng rằng có thể sống yên ổn qua ngày dưới gót sắt của dị tộc.”

Trong phòng, ba người đều trở nên trầm mặc, A Mạch phục hồi lại tinh thần, giao cho Vương Thất xử lý thêm vài công vụ nữa, Vương Thất lĩnh mệnh mà đi, trong phòng lại chỉ còn lại A Mạch và Tiết Vũ. A Mạch cẩn thận cân nhắc, lại nói với Tiết Vũ: “Tuy quân ta vì chống lại thát tử, nhưng trong triều chưa chắc đã nghĩ như vậy, không quá mấy ngày nữa, có lẽ sẽ tuyên bố chúng ta là quân phản loạn, đến lúc đó chỉ sợ chúng ta sẽ rơi vào cảnh hai bề thụ địch! Phía trước đã bị Thường Ngọc Thanh phong kín, phía sau là khe núi Phi Long thì chúng ta lại chưa kịp chuẩn bị.”

Tiết Vũ vốn đã nghĩ tới điều này, nên trước khi quân Giang Bắc đến đã tiến hành an bài rồi, nghe A Mạch nhắc đến, tinh thần theo đó mà rung lên, nói: “Thuộc hạ cũng đã nghĩ đến điều này, nên những cửa ngõ trong núi Phi Long đều đã tăng cường phòng thủ. Hơn nữa,” trên mặt Tiết Vũ lộ ra vẻ đắc ý, nói: “Trước đó vài ngày, thuộc hạ đã trưng thu lương thảo của mấy quận huyện ở phía đông, đồng thời chiêu mộ thêm không ít tráng đinh, tất cả đều có thể sung quân.”

A Mạch nghe xong khen: “Tiết tướng quân quả nhiên có tài tướng soái, không hổ Thương soái nhiều lần khen ngợi.”

“Đại nhân quá khen, thật không dám nhận!” Tiết Vũ vội vàng nói. Khi Thương Dịch Chi còn ở Thanh Châu, anh ta chỉ là một viên tướng giữ thành, hai năm nay mặc dù tạm giữ chức tướng thủ thành, nhưng chẳng qua cũng chỉ là phó tướng mà thôi, hiện được A Mạch khen anh ta là tướng soái có tài, bất giác có chút ngượng ngùng, trên mặt thoáng đỏ ửng, nhưng trong mắt cũng không dấu được tia kích động.

A Mạch nhìn thấy liền hiểu, còn nói thêm: “Quân Giang Bắc khổ chiến cùng thát tử đã lâu, biên chế trong quân đã không còn đầy đủ, nay cùng quân Thanh Châu kết hợp làm một, cũng nên tìm cách bù đắp những vị trí còn khuyết thiếu này.”

Tiết Vũ không phải kẻ ngốc, chỉ vừa nghe A Mạch nói vậy liền hiểu ngay, lập tức đáp: “Lý nào lại như thế, mọi người cứ theo năng lực mà giữ các chức vụ khác nhay, quân ta cũng rất nhanh mà trở nên lớn mạnh.”

A Mạch hỏi: “Không biết Tiết tướng quân có thể tiến cử người tài giỏi nào không?”

Tiết Vũ biết A Mạch hỏi vậy chính là muốn mình tiến cử người thân tín, tâm phúc, bất giác có chút động tâm, nhưng sau khi cân nhắc cẩn thận liền nói: “Tướng lĩnh trong thành đều do Thương soái sử dụng trước đây, đều là người trung hậu thật thà, nên sẽ toàn tâm toàn ý nghe theo sự an bài của đại nhân.”

A Mạch thản nhiên cười, nói: “Nếu đã như vậy, trước hết đều thăng mỗi viên quan lên một cấp, sau đó xét theo sở trường của mỗi người mà sắp xếp trong quân Giang Bắc.”

Tiết Vũ có chút không thể tin được nhìn A Mạch, lại nghe nàng nói tiếp: “Tiết tướng quân, ngươi và ta trước kia tuy đều là thủ hạ của Thương soái, lại vô duyên vô cớ kết thành cộng sự, khó tránh khỏi có điều chưa hiểu rõ về nhau. Song về sau qua tiếp xúc lâu dài, thì dần dần cũng sẽ hiểu.”

Trên mặt A Mạch lộ ra ý cười hoà thuận vui vẻ, chân thành ấm áp, thần thái tinh anh không hề giảm sút, Tiết Vũ nhìn mà nhất thời có chút giật mình.

Cho đến buổi chiều, khi trở về trong phủ của mình, trong đầu Tiết Vũ thỉnh thoảng lại hiện lên hình ảnh A Mạch ôn hòa tươi cười mà không sao nắm bắt được A Mạch rốt cuộc có tâm tư gì! Thê tử của ông ta là Uông Thị tiến đến giúp ông ta cởi giáp, đuổi nha hoàn ra ngoài, vừa tự tay cởi tấm bảo vệ tay, vừa nhỏ giọng hỏi: “Hôm nay mọi việc thế nào? A Mạch tướng quân đã quyết định chức quan cho chàng rồi phải không?”

Tiết Vũ khẽ gật gật đầu.

Uông Thị vội thấp giọng hỏi: “Là chức quan gì?”

Tiết Vũ đáp: “Tả phó tướng quân Giang Bắc.”

Uông Thị nghe xong thất vọng, nhịn không được than thở nói: “Vẫn là phó tướng à, còn tưởng rằng lần này có thể thăng lên làm trưởng quan chứ!”

Tiết Vũ không khỏi chau mày, trợn mắt quát: “Nàng là nữ nhân thì biết cái gì! Phó tướng thành Thanh Châu há có thể so với Tả phó tướng quân Giang Bắc sao!”

Uông Thị cũng chẳng sợ dáng vẻ trừng mắt hung dữ của trượng phu, nhẹ nhàng bĩu môi, nói: “Cái gì mà quân Giang Bắc với chả không quân Giang Bắc, thiếp thấy còn chẳng bằng làm phó tướng thành Thanh Châu, chúng ta đều là người Thanh Châu, nơi này núi cao hoàng đế ở xa, chủ tướng lại không có ở trong thành, chẳng phải đều do chàng định đoạt hay sao! Đột nhiên mở rộng cổng thành nghênh đón quân Giang Bắc, hiện giờ nhìn lại thì có vẻ chức quan của chàng cao hơn trước, nhưng thực ra chẳng phải là chàng đã bị mất quyền lực rồi hay sao!”

Tiết Vũ im lặng không nói gì, quân Giang Bắc vốn do hai quân Thanh, Dự hợp thành, vì vậy không hề thiếu những cựu binh Thanh Châu, sau hai năm chinh chiến trở về, việc thăng chức của họ vốn nhanh hơn so với ông ta ở lại canh giữ Thanh Châu.

Uông Thị liếc mắt nhìn thần sắc trên mặt trượng phu, lại nói tiếp: “Chúng ta giơ đầu gánh tội danh phản quốc mà nghênh đón quân Giang Bắc vào thành, sớm biết như thế chi bằng nghe theo sự an bài của triều đình mà rút khỏi Thanh Châu, đem nơi này giao cho thát tử. Ký Châu so với Thanh Châu không chỉ mạnh hơn gấp trăm lần, lại nói Tiếu lão tướng quân vốn là di phu của chàng, chẳng lẽ lại bạc đãi chàng hay sao? Cho dù vẫn làm phó tướng……”

Lời còn chưa dứt, Tiết Vũ đột nhiên đẩy mạnh Uông Thị ngã xuống đất. Uông Thị nhất thời bị quẳng xuống đất mà choáng váng, chằm chằm nhìn trượng phu, hỏi: “Chàng! Thế này… Là sao chứ?”

Trên mặt Tiết Vũ lạnh băng, nghiến răng mắng: “Ngươi là phụ nữ đã có chồng mà không biết giữ mồm giữ miệng, ta sớm muộn gì cũng phải cắt lưỡi ngươi!”

Uông Thị và Tiết Vũ thuở nhỏ là thanh mai trúc mã, từ lúc thiếu niên đến giờ đã kết thành vợ chồng, chưa từng bị trượng phu mắng cay độc như vậy, trong lúc nhất thời vừa thẹn vừa giận, xoay người nằm dưới đất òa khóc, vừa khóc vừa mắng: “Chàng ở bên ngoài bị người ta làm cho uất giận mà không dám lên tiếng, về nhà lại trút lên đầu thiếp, như thế mà gọi là đàn ông sao!”

Tiết Vũ lại tức giận đến sắc mặt xanh mét, đưa mắt nhìn về phía cửa phòng, lại cúi lưng hạ giọng nói tiếp với Uông Thị: “Nàng nếu muốn sớm thành quả phụ, thì cứ việc khóc, cứ việc mắng cho lớn tiếng vào, khiến cho cả thành Thanh Châu đều đồn ầm lên rằng Tiết Vũ ta là kẻ đầu hàng thát tử!”

Uông Thị mặc dù có chút ngang bướng, nhưng không phải là một thôn phụ ngu muội, vừa nghe trượng phu nói vậy, nàng nhất thời cả kinh, lập tức dừng khóc, ngẩng đầu nhìn trượng phu, thấy sắc mặt Tiết Vũ vẫn vô cùng giận dữ, không hề có ý sẽ đỡ mình dậy, liền tự mình đứng lên.

Tiết Vũ nói xong, cũng không buồn để ý tới Uông Thị, xoay người sang chỗ khác tự mình cởi áo giáp trên người. Uông Thị từ phía sau Tiết Vũ cởi thắt lưng, áo giáp giúp chồng, mềm giọng nói: “Tứ lang đừng tức giận, là thiếp sai rồi.”

Uông Thị có một điểm tốt, đó là có lúc thì rất ngang bướng nhưng cũng có thể mềm mại uyển chuyển được. Mấy lời vừa rồi khiến Tiết Vũ cũng không thể tiếp tục làm mặt lạnh với nàng nữa, chỉ nói: “Nàng là phụ nữ, kiến thức nông cạn! Nếu Thanh Châu mà mất thì Ký Châu còn có giữ được sao? Lại nói nếu ta chống lại thát tử khôi phục non sông, sau này chẳng phải sẽ được an nhàn mà hưởng phú quý hay sao!”

Uông Thị cũng là phì cười một tiếng, nói: “Vâng, vâng, Tiết tứ lang là đại anh hùng trung can nghĩa đảm, vì nước vì dân, thiếp tóc dài nhưng trí ngắn, chàng còn nổi giận với thiếp làm gì?”

Lời này nói ra khiến Tiết Vũ không khỏi xoay chuyển tâm tư, quay người lại nhìn Uông Thị, dịu dàng hỏi: “Vừa rồi cũng là nhất thời tức giận, nàng có đau không?”

Uông Thị lúc này lại cảm thấy vô cùng ủy khuất, đôi mắt cũng đỏ hoe, nhưng không khóc, chỉ nói: “Tứ lang còn biết quan tâm xem thiếp có đau hay không ư, vừa rồi chẳng phải chàng còn hận không thể lấy kiếm mà đâm thiếp hay sao.”

Tiết Vũ thấp giọng an ủi Uông Thị vài câu, rồi nói: “Nàng không biết đấy thôi, trong triều cắt đất nghị hòa cũng là bất đắc dĩ, Thanh Châu là nơi cửa ngõ hiểm yếu, thật sự không thể giao cho thát tử. Nhưng lại bị thát tử bức bách đến không còn cách nào khác, nên bề ngoài đành phải thượng cho thát tử, nhưng bên trong thì âm thầm dung túng cho quân Giang Bắc chiếm lấy Thanh Châu, chống lại thát tử. Nếu không, Thanh Châu là nơi đất bạc, dân nghèo, chỉ cần Ký Châu cắt đứt nguồn cung ứng lương thảo thì không cần đánh, thành này cũng bị phá. Quân Giang Bắc đã phản Thái Hưng hơn một tháng, vì sao không thấy Ký Châu có chút động tĩnh gì? Trước đó vài ngày, ta đã đi mấy quận huyện phía đông trưng thu lương thảo và tráng đinh, di phu(1) đều làm bộ như không thấy, không biết.”

Uông Thị chần chờ một lát, hỏi: “Nói như vậy, hoàng đế cũng không phải là kẻ hồ đồ ?”

Tiết Vũ lạnh lùng cười, nói: “Có thể lên làm hoàng đế, thì còn hồ đồ được sao? Chỉ là trước mắt không thể làm khác được mà thôi. Hơn nữa quân Giang Bắc lại giương cao lá cờ chống thát tử, Mạch tướng quân đến giờ cũng chỉ xưng là tướng quân, mà không tự phong là nguyên soái, nên cũng không mang danh mưu phản.”

Uông Thị nghe cũng minh bạch được vài điều, nhưng phần lớn là chẳng hiểu gì, nghe nói A Mạch thật ra cũng chỉ là một tướng quân, trong lòng nhất thời cân bằng lại, vì thế liền nói: “Thôi, Tứ lang đừng nói chuyện quan trường với thiếp nữa, thiếp nghe mà đau hết cả đầu.”

Tiết Vũ đã thay xong thường phục, xoay người ngồi xuống ghế, cười nói: “Nàng nhớ cho kỹ, cho dù chúng ta có giao thành Thanh Châu cho thát tử, đến Ký Châu có di phu chiếu cố, thì chưa chắc đã tốt.”

Uông Thị cười cười, lại tiến lên nhẹ nhàng xoa bóp bả vai trượng phu, cười hỏi: “Nếu Tứ lang đều đã nhìn thấu như vậy, sao còn mang bộ mặt như thế trở về?”

Tiết Vũ nghĩ nghĩ, thấp giọng nói: “Vì vừa rồi Mạch tướng quân bỗng nhiên lại hỏi ta có thể tiến cử người thân tín hay không, ta sợ anh ta là cố ý thử ta, cũng không dám nhiều lời, không ngờ anh ta lại thăng chức cho tất cả các viên quan trong quân Thanh Châu lên một cấp, rồi căn cứ theo năng lực mà an bài chức vụ. Người này… thật khiến cho người ta không thể đoán ra tâm tư.”

Uông Thị cũng cười nói: “Tứ lang trung thành với chủ, thành tâm làm việc, nghiền ngẫm tâm tư của anh ta làm gì? Anh ta tâm cơ có thâm trầm đến mấy thì liệu có thể bằng Thương soái được không? Tứ lang chẳng phải vẫn được Thương soái tín nhiệm trọng dụng hay sao! Theo thiếp thì chàng chẳng cần phải cân nhắc này nọ làm gì, không dò được tâm tư thì đừng dò nữa, anh ta cho chàng làm gì thì chàng cứ làm cái đó là được rồi! Về lâu về dài, tự anh ta sẽ hiểu được cách làm người của Tứ lang!”

Uông Thị nói một hồi khiến trong lòng Tiết Vũ trở nên minh bạch sáng tỏ, liền kéo Uông Thị ôm vào lòng, khen: “Đúng là đạo lý này, chỉ có nàng là hiểu được!”

Uông Thị tươi cười đắc ý, nhãn châu chuyển động, ghé miệng sát đến bên tai Tiết Vũ thấp giọng hỏi: “Nghe nói Mạch tướng quân so với Thương soái dáng vẻ còn tuấn tú hơn, có phải thật không?”

Tiết Vũ trước mắt lại thoáng hiện lên hình ảnh A Mạch với nụ cười ấm áp trên môi, không khỏi gật đầu. Trong giọng nói của Uông Thị liền để lộ ra vẻ hưng phấn, nói: “Nhưng vẫn chưa có thê thất? Không bằng đem Tố Lan nhà chúng ta gả cho anh ta đi!”

“Hả!” Tiết Vũ sợ tới mức cả kinh, đưa tay đẩy Uông Thị từ trên đùi đẩy ra, giáo huấn: “Nàng lại muốn giật dây làm loạn gì vậy!”

Uông Thị bất mãn bĩu môi, nói: “Tố Lan là muội tử của chàng, cũng không phải của thiếp, thiếp đây mới không phải là cố sức lấy lòng! Hơn nữa,” Uông Thị vẫn chưa từ bỏ ý định, lại khuyên: “Hai năm trước, khi Thương soái vẫn còn ở đây, thì Tố Lan hãy còn nhỏ, nay vừa đến tuổi cập kê, dáng vẻ lại xinh đẹp, chẳng phải rất xứng với Mạch tướng quân tuổi trẻ tuấn tú hay sao?”

Tiết Vũ nghe thê tử nói thế liền tâm động, nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Nàng đừng gấp, vạn nhất không thành thì thật mất mặt, việc này để ta âm thầm điều tra trước đã rồi nói sau.”

Uông Thị biết trượng phu nói có lý, gật đầu, cười nói: “Thiếp nghe lời chàng.”

————————

Chú thích:

1- Di phu: chồng của chị/em gái của mẹ.

Nguồn: vanvietbooks