Chương 110: Quân sư
Rèm cửa được vén lên, Từ Tĩnh đã thay xong một thân quần áo sạch sẽ từ trong phòng chậm rãi bước ra, nhìn A Mạch hỏi: “Hội nghị quân sự xong rồi sao?”
A Mạch vội nói: “Đã xong rồi, ta đến đây thăm tiên sinh, phải chăng đã quấy rầy tiên sinh nghỉ ngơi?”
Từ Tĩnh không trả lời, tầm mắt dừng lại trên người tên thân vệ sau lưng A Mạch, từ lúc ông ta vào thành đã phát hiện thấy tên thân vệ này vẫn không rời khỏi A Mạch nửa bước, không khỏi hỏi A Mạch: “Ai vậy? Sao lúc nào cũng như cái đuôi bám sau lưng ngươi thế?”
A Mạch còn chưa trả lời, tên thân vệ kia đã tranh lời nói trước: “Từ tiên sinh, tại hạ họ Mục.”
“Họ Mộc(1)?” Từ Tĩnh đưa tay vuốt râu.
Thân vệ này chính là Mục Bạch, một cái tên giả của Lâm Mẫn Thận, anh ta thấy Từ Tĩnh hỏi, thản nhiên cười, đáp: “Đúng vậy, tại hạ là Mục Bạch, đối với Từ tiên sinh…” Không để cho Lâm Mẫn Thận kịp nói hết lời, Từ Tĩnh liền ngắt lời nói: “Hai cây(2) thành rừng?”
Lâm Mẫn Thận ngẩn người, lập tức liền hiểu ra, ánh mắt lộ vẻ khâm phục, khen: “Đúng vậy, Từ tiên sinh quả nhiên lợi hại.”
Từ Tĩnh nhíu mày, tức giận nói: “Ngươi không sợ người khác biết ngươi là ai sao?” Nói xong lại quay đầu giáo huấn A Mạch: “Sao ngươi lại thu nhận con chim công này bên người thế?”
Lâm Mẫn Thận nhất thời lúng túng, trêm mặt hết đỏ lại trắng, Trương Sĩ Cường đứng bên cạnh cũng cười xì một tiếng. A Mạch nhịn cười, đáp: “Là do Thương soái an bài, ta cũng chẳng có cách nào.”
Từ Tĩnh lại nhìn nhìn Lâm Mẫn Thận, đột nhiên nói: “Đổi lại đi!”
Lâm Mẫn Thận sửng sốt, lại nghe Từ Tĩnh nói tiếp: “Đừng gọi là Mục Bạch, đổi thành Bạch Mục(3) tốt hơn.”
Lâm Mẫn Thận nổi giận nói: “Từ tiên sinh sao lại nói thế, uổng cho tại hạ từ lâu ngưỡng mộ tiên sinh…”
“Mục Bạch!” A Mạch lên tiếng ngăn Lâm Mẫn Thận lại: “Không được làm càn!”
Lâm Mẫn Thận mặt đỏ đỏ phừng phừng vẫn muốn nói tiếp, nhưng Từ Tĩnh đã xoay người sang nói với A Mạch: “Ngươi theo ta đi dạo quanh đây đi.” Lâm Mẫn Thận thấy Từ Tĩnh coi khinh mình như thế, trong lòng lại tức giận, muốn vượt lên phía trước Từ Tĩnh để tranh luận phải trái. Nhưng Trương Sĩ Cường đã vội vàng túm anh ta lại, kéo ra ngoài sân: “Đại nhân và Từ tiên sinh có việc muốn nói, ngươi và ta ra ngoài vườn canh gác.”
Lâm Mẫn Thận bị Trương Sĩ Cường lôi ra khỏi cửa, A Mạch thong thả đi bộ cùng Từ Tĩnh dọc theo con đường mòn trong vườn, cười khuyên nhủ: “Tiên sinh cần gì phải bực bội với anh ta như vậy.”
Từ Tĩnh im lặng một lát, đột nhiên nói: “Anh ta không nên như vậy, dùng người thì không nên nghi ngờ, người đã nghi ngờ thì không nên dùng, làm như vậy trái lại thật là tầm thường.”
A Mạch sửng sốt, lập tức liền hiểu được “anh ta” mà Từ Tĩnh nhắc đến là chỉ Thương Dịch Chi. A Mạch lặng đi một lúc rồi nói: “Võ công của Lâm Mẫn Thận rất tốt.” Thấy Từ Tĩnh quay lại nhìn mình, A Mạch thản nhiên cười cười, giải thích: “Anh ta cũng là có ý tốt, có chuyện này chắc tiên sinh chưa biết, khi ta ở Thái Hưng có bị thương một lần, thiếu chút nữa thì mất mạng. Anh ta đầu tư trên người ta nhiều lắm, sợ chưa kịp thu hồi vốn thì ta đã bị kẻ khác giết mất, thế nên mới đặc biệt để Lâm Mẫn Thận ở bên cạnh để bảo vệ ta.”
Từ Tĩnh quan sát A Mạch một khắc, nở nụ cười, nói: “Xem ra ngươi đã thông suốt rồi, so với ngươi, lão phu trái lại đã thấp kém hơn rồi.”
A Mạch vội nói: “Tiên sinh đừng nói như vậy, tiên sinh đối với A Mạch chính là thầy tốt bạn hiền, nếu không có tiên sinh, A Mạch sao có ngày hôm nay.”
Từ Tĩnh nhìn một cách xem thường, không khách khí nói: “Ngươi đừng vuốt mông ngựa ta, trong lòng ta và ngươi đều hiểu, chúng ta cùng nhau kết hợp lại là vì nhu cầu, ngươi không nhận ân tình của ta, ta cũng chẳng thiếu ân tình của ngươi.”
A Mạch cười cười: “A Mạch biết.”
Từ Tĩnh vuốt râu, nói trắng ra: “Biết là tốt, cho nên về sau hãy thu hồi cái sự khôn vặt của ngươi lại, lão phu không cần cái này. Hơn nữa, ngươi giờ đã là người giữ vị trí cao nhất ở trong quân, không cần phải nhìn vẻ mặt của người khác để sống nữa, phải cứng rắn lên, chỉ cần ngươi có thể đánh thắng trận, người khác tự nhiên sẽ phải kính trọng ngươi, sợ ngươi.”
A Mạch biết Từ Tĩnh có ý tốt, trong lòng không khỏi có chút cảm kích, lại theo thói quen ôm quyền vái một cái, cung kính nói: “Đa tạ tiên sinh dạy bảo.”
Từ Tĩnh thấy vậy lại nhướn mắt nhìn một cách xem thường, rồi chép miệng lắc lắc đầu, không chịu nói tiếp nữa. A Mạch thấy thế không khỏi cười khổ, nàng vốn phải sống như vậy trong một thời gian rất lâu rồi, nhất thời muốn sửa cũng không phải chuyện dễ.
Từ Tĩnh hỏi: “Ngươi tới tìm lão phu có việc gì?”
A Mạch suy nghĩ, nói: “Vẫn là việc Thường Ngọc Thanh ở Võ An, ta đã cẩn thận suy nghĩ rồi, cảm thấy hiện giờ vẫn chưa phải thời cơ tốt để chủ động tấn công. Hơn nữa, hiện giờ quân Giang Bắc cũng vừa bại trận chưa kịp hồi phục.”
Từ Tĩnh nghe vậy liền dừng cước bộ, xoay người nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi đã nghĩ ra đối sách rồi sao?”
Khuôn mặt A Mạch trở nên kiên nghị, trầm giọng đáp: “Thuận theo tình thế, gặp dịp thì biến hóa. Vả lại phải xem động tác của Thường Ngọc Thanh như thế nào, nếu vẫn lùa dân chúng đến công thành, thì sẽ tương kế tựu kế dụ anh ta vào thành rồi tiêu diệt.”
“Vậy dân chúng thì sao?” Từ Tĩnh hỏi.
A Mạch mím chặt môi, đáp: “Dân chúng nếu có thể cứu liền cứu, không thể cứu thì dùng làm mồi nhử.”
Từ Tĩnh lẳng lặng nhìn A Mạch, đột nhiên nở nụ cười, nói: “A Mạch, ngươi hiện tại mới chân chính là một tướng quân.”
A Mạch cười khổ nói: “Tiên sinh đừng nói móc ta.”
“Không, không phải nói móc, mà là khen ngươi!” Từ Tĩnh nghiêm mặt nói: “Từ xưa đến nay không có tướng quân nào được lưu danh vì có tấm lòng từ bi nhân ái, câu nhân từ không thể cầm quân chính là ý này, nếu ngươi chỉ lo nhân ái đối với dân chúng ở dưới thành thì sẽ bất nhân với dân chúng trong thành và quân giữ thành, một khi thành bị phá, tất cả đều sẽ bị tàn sát.”
A Mạch thản nhiên cười.
Từ Tĩnh ngồi xuống một tảng đá, lại tiếp tục theo câu chuyện vừa rồi mà hỏi: “Nếu Thường Ngọc Thanh lùa dân chúng đến sông đào bảo vệ thành thì sao?”
A Mạch ngồi xuống đối diện với Từ Tĩnh, không trực tiếp trả lời vấn đề của Từ Tĩnh mà nói: “Tiên sinh, ta muốn lấy một bộ phận tinh nhuệ từ kỵ binh dùng làm đội du kích, còn lại sắp xếp cho các bộ binh doanh.”
Hiện nay cơ cấu trong quân chính là lấy đội làm đơn vị chiến thuật cơ bản, một đội có một trăm người, quản lý mười ngũ, trên đội là doanh, trên doanh là quân đoàn. Trong đó, bộ binh, kỵ binh là doanh độc lập, không có quan hệ quản lý trực tiếp. Trong bộ binh doanh mặc dù cũng có kỵ binh, nhưng số lượng rất nhỏ, phần lớn làm thân vệ cho các tướng lĩnh hoặc làm thám báo trong doanh.
Từ Tĩnh bỗng nhiên phát sinh hứng thú, lại dùng tay khẽ vuốt râu, hỏi: “Nói thử một chút nghe xem, ngươi có ý tưởng gì?”
A Mạch nói: “Một số kỵ binh vì không có chiến mã tốt nên không thể dùng trong chiến đấu, chi bằng phối hợp với bộ binh doanh, thứ nhất, có thể đảm nhiệm làm lính liên lạc cho các tướng lĩnh, hoặc dùng để vận tải đồ quân nhu. Thứ hai, có thể làm một đội độc lập, dùng để tiến hành trinh sát và chiếm lĩnh một số vị trí trọng yếu trong trận địa, hoặc khi quân địch lộ vẻ hỗn loạn, bố trí thành đội hình chiến đấu ở mặt sau bộ binh, dưới sự chỉ huy của tướng quân bộ binh, có thể lợi dụng thời cơ có lợi mà truy đuổi quân địch.”
Từ Tĩnh nghe xong, trong mắt lập tức lóe tinh quang, tay vẫn không ngừng vuốt râu, đột nhiên hỏi: “Nếu là đại binh tác chiến, thì kỵ binh dùng như thế nào?”
A Mạch ngượng ngùng cười, đáp: “Nhất thời còn chưa nghĩ đến, chỉ nghĩ dù sao những kỵ binh đó nếu giao chiến trực diện cùng thiết kỵ thát tử thì sẽ gặp nguy hiểm, chi bằng lưu lại để dùng vào việc khác có ích hơn.”
Trên mặt Từ Tĩnh lộ ra vẻ suy ngẫm, tự mình nghiên cứu, khảo xét, qua một lúc lâu mới vừa cười vừa hỏi: “Vậy ngươi muốn thả kỵ binh tinh nhuệ ra ngoài để làm gì? Đề phòng Thường Ngọc Thanh công thành sao?”
A Mạch đáp: “Đúng vậy, chỉ cần một sư (4) du kích tinh nhuệ bên ngoài, cho dù Thường Ngọc Thanh có công thành, chúng ta cũng chiếm được phần thắng nhiều hơn.”
Từ Tĩnh không khỏi gật đầu, lại hỏi: “Đường Thiệu Nghĩa đi rồi, hiện giờ ai thống lĩnh kỵ binh?”
“Trương Sinh.” A Mạch đáp.
Từ Tĩnh nghe vậy thì kinh ngạc nhìn A Mạch.
A Mạch bất đắc dĩ cười, nói: “Đã nghi ngờ thì không dùng người, đã dùng người thì không nên nghi ngờ, ta tin anh ta.”
Từ Tĩnh trầm mặc một lát, nói: “Vậy ngươi cần thương lượng trước với anh ta về việc thay đổi này, dù sao chủ yếu vẫn là điều động kỵ binh.”
A Mạch gật đầu đáp: “Ta ngày mai sẽ đi.”
Sáng sớm hôm sau, A Mạch đến giáo trường kỵ binh doanh tìm Trương Sinh, ai ngờ còn chưa nhìn thấy Trương Sinh đâu, lại đã thấy Vương Thất và Lý Thiếu Hướng ở góc giáo trường xa xa phía trước. Lý Thiếu Hướng đang giơ hai tay ngăn cản Vương Thất, giống như hai người đang tranh luận chuyện gì đó.
A Mạch thấy lạ, liền đi lại gần nghe, chợt thấy Lý Thiếu Hướng nói: “Không được, không được, Vương Thất ngươi không được quấy phá lung tung!”
Vương Thất trên người dính đầy bụi, vừa đẩy mạnh Lý Thiếu Hướng, vừa chửi bậy nói: “Ngươi giữ lại con súc sinh này mới là quấy phá lung tung, lãng phí lương thảo chưa nói, lại còn cả ngày coi hắn như đại gia mà cho người đến hầu hạ, ôi giời! Ngươi nhìn nó xem, ngươi nhìn nó xem, ngươi nhìn cái bộ dạng của nó xem! Đúng là chủ làm sao, tớ làm vậy!”
Vương Thất kêu lên chỉ về phía sau Lý Thiếu Hướng, A Mạch nhìn theo hướng đó, thấy trên giáo trường không có ai, nhưng tại bãi cỏ, phía trên cọc gỗ có buộc một thần tuấn chiến mã hung hãn lông màu trắng, bờm dựng đứng, vẻ mặt hiên ngang. A Mạch nhíu mày nhìn kỹ, càng nhìn càng cảm thấy con ngựa này rất quen, trong giây lát chợt nhớ ra đây đúng là con ngựa mà Thường Ngọc Thanh vẫn thường cưỡi, hình như có tên là “Chiếu Dạ Bạch”.
Lý Thiếu Hướng trong lúc vô tình nhìn thấy A Mạch, liền thở phảo nhẹ nhõm, vội vàng kéo Vương Thất lại, kêu lên: “Đại nhân, ngài mau phân xử giúp chúng ta đi.”
Thì ra A Mạch không nhớ lầm, chiến mã này quả nhiên chính là con Chiếu Dạ Bạch, trong đại chiến tại sông Tử Nha, Thường Ngọc Thanh đã lưu lại bên bờ sông. Lần đại chiến đó, Thường Ngọc Thanh trúng kế bị vây hãm, liền kéo theo A Mạch nhảy xuống sông trốn thoát, để lại con ngựa mình cưỡi trên bờ sông, sau trận chiến liền bị Lý Thiếu Hướng coi như bảo bối “nhặt được” mà đem về, cất giấu lén lút mang đến Thanh Châu.
Mấy ngày trước đây, Vương Thất tới tìm Lý Thiếu Hướng để lấy chiến mã, vừa lúc trông thấy con Chiếu Dạ Bạch này, thấy nó là thần tuấn, liền chẳng nói qua với Lý Thiếu Hướng lời nào đã nhảy lên cưỡi. Ai ngờ Chiếu Dạ Bạch tính tình rất quái. Ngươi nói nó ôn hòa nhu thuận, nhưng nó lại không chịu để cho ngươi khống chế, bất kể là ai nhảy lên lưng nó để cưỡi đều bị nó hất ngã. Nhưng nếu ngươi nói nó là con ngựa trái tính trái nết, thì ai cho nó lương thảo nó đều ăn, đúng là một con ngựa không có khí tiết.
Nói ngắn gọn, thì con Chiếu Dạ Bạch chính là một con ngựa vô lại. Vương Thất mấy lần thử thuần phục con ngựa này đều không thành, tức giận đến nỗi chỉ muốn giết ngay con tuấn mã này cho hả giận, nhưng Lý Thiếu Hướng thì đâu thể để cho anh ta làm thế được, vì thế hai người liền bắt đầu tranh cãi.
A Mạch nghe xong liền đưa mắt nhìn Chiếu Dạ Bạch bên sân kia đang vươn cổ ngẩng cao đầu, trong đầu đột nhiên hiện lên khuôn mặt của Thường Ngọc Thanh, cũng một vẻ kiêu ngạo, hiên nganh như vậy…
Lý Thiếu Hướng vẫn còn đang lải nhải: “Đại nhân, ngài nói một con thần tuấn như vậy, chẳng lẽ lại không có cá tính hay sao? Vương Thất tự mình không thuần phục được, nên mới đòi giết nó cho hả giận, ngài nói anh ta đây có phải là quấy phá lung tung hay không?”
Vương Thất lại tức giận: “Ngươi nuôi nó mấy tháng, có thấy ngươi thuần phục nó đâu, nếu không thể thuần phục thì còn lưu nó lại làm gì? Không bằng giết đi cho rảnh nợ!”
Lý Thiếu Hướng nghe xong tất nhiên lại cãi lại, hai người ngươi một câu, ta một câu, đứng cãi nhau trước mặt A Mạch, cuối cùng nhất tề hỏi A Mạch: “Đại nhân, ngài nói xem phải làm thế nào?”
——————–
Chú thích:
1, 2 – Mục và Mộc: đều có nghĩa là gỗ.
3- Bạch Mục: gỗ rỗng
4- Hai cây thành rừng: nguyên văn “Song mục thành lâm”, ý nói thân phận thật của Mục Bạch không phải là họ Mục mà là họ Lâm.
Chương 111: Khích tướng
“Đưa trở về!” A Mạch bỗng nói, “đea đến Võ An cho Thường Ngọc Thanh để anh ta bỏ tiền ra chuộc, nếu không chịu thì giết chết con ngựa này ngay ngoài thành Võ An.”
Lý Thiếu Hướng và Vương Thất đều sửng sốt, ngay cả con Dạ Chiếu Bạch kia dường như nghe cũng hiểu được lời A Mạch, liền há mồm trợn mắt, ngẩng đầu hí vang, dãy dụa muốn giật đứt dây cương mà chạy. Lý Thiếu Hướng vẫn có chút do dự không muốn, Vương Thất thì vỗ tay trầm trồ khen ngợi nói: “Đúng! Kêu Thường Ngọc Thanh lấy tiền ra chuộc, chúng ta vừa kiếm được bạc lại vừa khiến anh ta mất mặt, một công đôi việc.”
“Còn có thể thăm dò tình hình quân địch ở Võ An.” A Mạch cười cười, lại dặn dò: “Gọi người cưỡi khoái mã đi, không cần thiết thì không quay trở lại.”
Vương Thất vội vàng gật đầu nhận lệnh, quay về tuyển chọn một số người thông minh, linh hoạt từ đội thám báo, dặn dò cứ làm như thế, như thế, lại cho bọn họ cưỡi ngựa hàng đôi, đem theo con Dạ Chiếu Bạch phi thẳng đến thành Võ An.
Thành Võ An cách Thanh Châu chưa đến hai trăm dặm về phía tây bắc, ra roi thúc ngựa chỉ một ngày là đến. Mấy thám báo vốn đã được Vương Thất dặn dò, trên đường đi cũng không hề vội vã, đi đến dòng suối cạn cách Võ An ba mươi dặm liền cố ý dừng lại nghỉ ngơi, đợi sáng sớm ngày hôm sau, trước thì cho ngựa ăn uống thật no nê, để lại hai cánh quân cưỡi chiến mã chờ trong rừng cây cạnh dòng suối, những người khác lúc này vừa cưỡi tuấn mã, vừa dắt Dạ Chiếu Bạch đi về phía thành Võ An.
Trong thành Võ An, Thường Ngọc Tông nghe thấy tiểu giáo gác cổng thành bẩm báo, vội vàng lên vọng lâu trên cổng thành xem, chỉ thấy phía ngoài cổng thành, ngoài một tầm tên bắn quả thực có mấy kỵ binh Nam Hạ, ở giữa nổi bật lên một thần tuấn chiến mã màu trắng béo tốt, cường tráng, đúng là con Dạ Chiếu Bạch mà Thường Ngọc Thanh vẫn cưỡi. Thường Ngọc Tông quay đầu hỏi giáo úy bên cạnh: “Bọn chúng đòi đổi lấy cái gì?”
“Năm ngàn lượng bạc trắng” Giáo úy kia đáp. Trong lòng Thường Ngọc Tông bỗng mừng thầm, nhưng trong người lại không mang theo nhiều bạc như vậy, chắc là bọn thuộc hạ cũng thế. Viên giáo úy kia sau khi do dự lại nói tiếp: “Nói không cần bạc trắng, chỉ cần ngân phiếu, nếu không có ngân phiếu của Nam Hạ thì ngân phiếu Bắc Mạc của chúng ta cũng được.”
Thường Ngọc Tông sửng sốt, đợi đến khi phản ứng được liền tức giận mắng: “Bọn mọi rợ Nam Hạ thật đáng hận!”
Viên giáo úy kia lén nhìn sắc mặt Thường Ngọc Tông, cẩn thận hỏi: “Tướng quân, chúng ta làm làm thế nào bây giờ?”
Theo như Thường Ngọc Thanh vẫn nói, Thường Ngọc Tông mặc dù tuổi chưa nhiều, nhưng làm việc lại ít khi lỗ mãng, rõ ràng giờ phút này trong lòng rất tức giận, nhưng vẫn không có ý định làm việc sơ xuất, liền dặn dò viên giáo úy: “Trước cố gắng kéo dài thời gian, rồi mau phái người đi bẩm báo đại tướng quân.”
Viên giáo úy nghe xong khẽ gật đầu, phái người nói với kỵ sĩ Nam Hạ dưới thành rằng phải đi gom góp ngân lượng, rồi âm thầm phái người cưỡi khoái mã đi thông báo với đại tướng quân Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Tông ở trên tường thành chờ đường huynh, kết quả là chưa đợi được Thường Ngọc Thanh, nhưng lại chờ được thúc phụ Thường Tu An đến.
Thường Tu An người chưa lên đến thành nhưng đã nghe thấy tiếng: “Để ta xem xem, để ta xem xem, có đúng là con Dạ Chiếu Bạch của Lão Thất không?”
Thường Ngọc Tông nghe thấy liền kinh ngạc quay người lại, chỉ thấy Thường Tu An bước từng bước đến lỗ châu mai, híp mắt quan sát cẩn thận, rồi kêu lên thành tiếng: “Ô! Đúng là con Dạ Chiếu Bạch của Lão Thất, sao lại rơi vào tay bọn mọi rợ Nam Hạ được nhỉ?”
Thường Ngọc Tông không trả lời, chỉ nhìn lướt qua vẻ mặt bất đắc dĩ của tên lính liên lạc đi theo sau Thường Tu An, liền hỏi Thường Tu An: “Sao tam thúc lại đến đây?”
Thường Tu An vừa nhìn vừa đáp: “Lão Thất đi đôn đốc việc chế tạo khí giới công thành, việc nhỏ thế này không đáng phải đi tìm anh ta.” Ông ta nói xong lại quay người nhìn Thường Ngọc Tông, dùng giọng trưởng bối giáo huấn: “Không phải ta nói ngươi a, Lão Thập Nhất, ngươi chuyện gì cũng tốt, chỉ có điều là làm việc quá cẩn thận, có mỗi việc cỏn con này mà ngươi cũng phải đi hỏi Lão Thất sao?”
Thường Ngọc Tông thầm nghĩ đây chính là chuyện liên quan đến Mạch Tuệ, ta có thể không cẩn thận sao? Ta cũng vì một lần không cẩn thận, kết quả liền bị Mạch Tuệ tiêu diệt mất ba vạn tinh kỵ binh… Trong lòng mặc dù nghĩ như vậy, nhưng trên mặt cũng không dám tỏ vẻ bất kính, chỉ cúi đầu cụp mắt nói: “Tam thúc dạy phải lắm.”
Thường Tu An cười ha hả, dùng tay vỗ vỗ vai Thường Ngọc Tông, ghé sát vào tai nói: “Mấy tên mọi rợ Nam Hạ này đi đường xa từ Thanh Châu mà đến, chắc chắn là người, ngựa đều kiệt sức, ngươi trước cứ dùng ngân phiếu đổi lấy Dạ Chiếu Bạch về, sau lại phái người truy kích, bọn chúng chỉ có vài tên, còn có thể chạy được sao?”
Thường Ngọc Tông có chút do dự, hỏi: “Làm như vậy có được hay không… Cái này… có chút…?”
Thường Tu An trừng mắt: “Có chút cái gì mà có chút? Ngươi chẳng lẽ muốn nói chuyện tín nghĩa với bọn mọi rợ Nam Hạ này hay sao, lúc bọn chúng lột áo giáp của những tướng sĩ chết trận của chúng ta thì có nói đến chuyện tín nghĩa hay không? Hơn nữa, mấy tên mọi rợ Nam Hạ dưới thành này không chừng đến để tìm hiểu động tĩnh của chúng ta, sao có thể thả cho chúng còn sống mà trở về được!”
Trong lòng Thường Ngọc Tông vẫn cảm thấy có chút gì đó không yên tâm, chần chờ một chút rồi hỏi: “Mấy tên mọi rợ Nam Hạ này cũng chỉ đứng ở dưới thành thì có thể tìm hiểu được tin tức gì ở trong thành chúng ta được? Đừng trúng kế dụ địch của chúng!”
Thường Tu An không kiên nhẫn khoát tay áo, trực tiếp căn dặn tiểu giáo canh giữ cổng thành: “Chuẩn bị ngân phiếu theo yêu cầu của chúng, chờ hai bên giao dịch xong, khi Dạ Chiếu Bạch về đến tay, lập tức giết chết mấy tên mọi rợ đó đi.”
Tên tiểu giáo lại liếc trộm Thường Ngọc Tông, thấy anh ta cũng không có ý ngăn cản, lúc này mới ôm quyền nói: “Tuân lệnh!” Khi tên tiểu giáo vừa xoay người bước đi, Thường Tu An lại cao giọng gọi anh ta, vẫy vẫy tay ý bảo tiểu giáo quay lại, thấp giọng nói: “Tốt nhất là bắt sống để chúng ta thẩm vấn tình hình của chúng ở Thanh Châu.”
Ngoài thành, kỵ binh quân Giang Bắc vốn đã sớm yêu cầu trong thành chỉ được phái ra một người cầm ngân phiếu, đi bộ ra đổi ngựa, chỉ cần nhiều hơn một người, bọn họ sẽ lập tức sẽ giết chết Dạ Chiếu Bạch. Chính vì thế, tiểu giáo Bắc Mạc đặc phái một tên lính can đảm một mình ra khỏi thành, còn mình thì tự lĩnh một đội kỵ binh nấp sau cửa thành, chỉ đợi tên lính kia đổi bạc lấy Dạ Chiếu Bạch xong, anh ta liền dẫn người xông ra, nhất định phải bắt sống mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc.
Ban đầu, mọi chuyện đều tiến hành rất thuận lợi, tên lính Bắc Mạc kia đưa mắt kiểm tra Dạ Chiếu Bạch, thấy toàn thân cũng không có thương tích gì, lúc này mới lấy ngân phiếu năm vạn lượng giao cho kỵ binh quân Giang Bắc rồi cầm lấy dây cương của Dạ Chiếu Bạch. Vốn anh ta trước khi ra khỏi thành đã được dặn rằng Dạ Chiếu Bạch không bao giờ để người khác cưỡi, cho nên cũng không lên ngựa, chỉ dắt Dạ Chiếu Bạch thong thả đi về phía cổng thành. Mới đi được nửa đường, cổng thành đột nhiên mở rộng, đại đội kỵ binh từ trong thành phóng ngựa lao ra, phi như bay về hướng mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc.
Lại nói mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc sau khi cầm được ngân phiếu liền quay ngựa đi, chưa đi được xa lắm liền nghe thấy phía sau đột nhiên truyền đến tiếng vó ngựa dồn dập như sấm động, không khỏi quay đầu lại nhìn, chỉ thấy một đội kỵ binh Bắc Mạc tay vung loan đao từ trong thành vọt ra rất nhanh, bụi đất theo vó ngựa cuộn lên, miệng hét rất lớn, thanh thế bức người.
“Đi mau!” Tên kỵ binh cầm đầu quân Giang Bắc gấp giọng quát, hai chân dùng sức kẹp bụng ngựa rồi giục ngựa phi nước đại, còn mình thì ở trên lưng ngựa xoay người giương cung, ngắm thẳng vào con Dạ Chiếu Bạch chưa đến cổng thành mà bắn. Những tên kỵ binh bên cạnh cũng rất nhanh xoay người lại lắp cung tên mà bắn.
Tên lính Bắc Mạc vừa rồi thấy cổng thành mở rộng, liền nắm lấy Dạ Chiếu Bạch mà chạy như bay, may mà con Dạ Chiếu Bạch này cũng rất biết phối hợp chạy theo. Mắt thấy sẽ lọt vào bên trong vòng bảo vệ của kỵ binh quân mình, ai ngờ Dạ Chiếu Bạch lại đột nhiên giở chứng, chẳng những không hề chạy theo anh ta, mà còn đột nhiên kéo anh ta sang hướng khác mà phóng đi. Tên lính kia trong lòng rất khẩn trương, lại không dám buông dây cương, thiếu chút nữa bị Dạ Chiếu Bạch kéo ngã, vừa lảo đảo mấy bước lại nghe thấy tiếng gào thét thất thanh của người bên cạnh, một mũi tên lướt sát qua bên cạnh anh ta. Tên lính ngẩn người, trên người bỗng toát mồ hôi lạnh.
Mấy kỵ binh quân Giang Bắc chỉ bắn một mũi tên rồi quất ngựa chạy đi, ngựa mà bọn họ cưỡi vốn đều là tuấn mã do Vương Thất cố ý chọn trong quân Giang Bắc, hơn nữa lại sớm có đề phòng, cho nên kỵ binh quân Bắc Mạc phía sau mặc dù cố hết sức đuổi theo nhưng vẫn bị rớt lại khoảng một tầm tên bay. Hai bên cứ như vậy mà chạy thẳng đến ba mươi dặm, đến lúc này thì thể lực kỵ binh quân Giang Bắc lộ rõ vẻ không thể chống đỡ nổi, tốc độ dần dần chậm lại. Phía sau, giáo úy chỉ huy đội quân truy kích Bắc Mạc trong lòng mừng rỡ, biết rằng ngựa của mình tuy cũng đã bắt đầu mỏi mệt, nhưng vẫn còn tốt hơn so với đối phương, chỉ cần tiếp tục kiên trì một lát nữa thôi thì nhất định có thể bắt sống được bọn mọi rợ Nam Hạ. Nhưng anh ta lại không biết rằng ở phía trước, phía sau một khe núi, có một dòng suối cạn, ở hai bên rừng cây của con đường núi, hai cánh kỵ binh quân Giang Bắc đã chuẩn bị sẵn cung tên cưỡi chiến mã đứng chờ…
Thường Tu An và Thường Ngọc Tông ở trên tường thành cũng có chút nghi hoặc, Dạ Chiếu Bạch và tên lính kia đã an toàn trở về thành, nhưng đợi rất lâu mà không thấy đội kỵ binh quay lại. Hai người nhìn nhau, đều thấy trong mắt người kia lộ ra một tia nhìn chột dạ.
Thường Tu An lẩm bẩm như thể tự an ủi mình: “Chúng ta không nghe thấy động tĩnh gì, chắc sẽ không phải là bọn chúng dùng kế dụ binh, nhưng không hiểu bọn chúng đuổi mấy thằng nhãi kia đến tận đâu vậy?”
Thường Ngọc Tông suy nghĩ rồi hỏi Thường Tu An: “Tam thúc, có nên đi báo cho Thất ca một tiếng không?” Một lời của anh ta thốt ra lại sợ Thường Tu An suy nghĩ nhiều, vội vàng nói thêm: “Nếu Thất ca biết tìm được Dạ Chiếu Bạch chắc chắn sẽ rất cao hứng.”
Lần này Thường Tu An không phản đối, Thường Ngọc Tông vội vàng gọi người dắt Dạ Chiếu Bạch đi đến phía thành bắc, chỗ chế tạo quân giới tìm Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh đang quan sát thợ thủ công thí nghiệm máy bắn đá vừa mới chế tạo ra. Đây là một loại vũ khí công thành rất lợi hại, có thể bắn đá vào quân địch trên tường thành hoặc bắn vào trong thành, gây sát thương rất lớn cho quân giữ thành. Nhưng Thường Ngọc Thanh vẫn chưa cảm thấy hài lòng đối với cái máy bắn đá do thợ thủ công vừa mới làm ra, ngay như trong thí nghiệm vừa rồi, tầm bắn của máy bắn đá này còn chưa đến năm mươi trượng, trong khi quân giữ thành Thanh Châu lại có thể dùng ưu thế của tháp cao cùng công sự trên mặt thành mà thoải mái bắn tên tới khoảng cách này. Nếu không thể tăng tầm bắn của máy bắn đá thì rất khó tạo thành lực sát thương đối với quân lính và công sự phòng ngự trên tường thành.
Người đời đều biết Thường Ngọc Thanh nổi tiếng nhờ kỵ binh, lại thấy anh ta xuất thân từ tướng môn vọng tộc, ngày thường làm việc cuồng ngạo không kiềm chế, rất khó tưởng tượng được là anh ta sẽ lại tới những nơi như chỗ chế tạo quân giới này, lại càng không thể ngờ rằng anh ta lại vô cùng kiên nhẫn thảo luận cùng thợ thủ công về cách làm thế nào để kéo dài tầm bắn cho máy bắn đá.
Dạ Chiếu Bạch từ phía xa đã nhìn thấy Thường Ngọc Thanh, liền hí dài một tiếng, giật dây cương ra khỏi tay tên lính mà chạy thẳng đến chỗ Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh kinh ngạc xoay người, thấy Dạ Chiếu Bạch chạy đến bên cạnh dùng cổ cọ vào người anh ta, nhất thời cảm thấy vô cùng mừng rỡ, vừa lấy tay vuốt ve bờm của Dạ Chiếu Bạch, vừa hỏi tên lính chạy theo phía sau: “Sao lại thế này? Tìm được ở đâu thế?”
Tên lính kia đem sự tình đầu đuôi kể lại, Thường Ngọc Thanh càng nghe, sắc mặt càng lạnh, sau khi nghe xong, trên mặt đã phủ một tầng sương lạnh buốt, dùng tay ấn lên người Dạ Chiếu Bạch một cái, thân thể đã nhẹ nhàng bay lên rồi rơi xuống yên ngựa, giật dây cương phi như bay.
Phía trên vọng lâu tướng thành, Thường Tu An nhìn thấy Thường Ngọc Thanh cưỡi ngựa chạy vội từ trong thành ra, trong lòng bất giác có chút không yên, nhất thời không dám đi xuống giáp mặt Thường Ngọc Thanh, chỉ bắt Thường Ngọc Tông đi xuống nghênh đón Thường Ngọc Thanh. Ai ngờ Thường Ngọc Thanh lại không xuống ngựa, chỉ quát lớn với Thường Ngọc Tông vừa từ trên tường thành xuống nghênh đón: “Mở cửa thành!”
Thường Ngọc Tông vội vàng tiến lên vài bước, kéo con ngựa Thường Ngọc Thanh đang cưỡi, khuyên nhủ: “Thất ca, huynh bình tĩnh một chút, đừng tiếp tục trúng kế khích tướng của bọn mọi rợ Nam Hạ nữa.”
Thường Ngọc Thanh biết phái kỵ binh đuổi theo giết quân Giang Bắc không phải chủ ý của Thường Ngọc Tông, nhưng Thường Tu An dù sao cũng là trưởng bối, anh ta không thể nói nặng lời được, nên chỉ có thể phát hỏa với Thường Ngọc Tông: “Ngươi cũng biết đó là kế khích tướng của bọn mọi rợ Nam Hạ sao? Vậy sao ngươi còn phái một đội kỵ binh đuổi theo giết bọn họ?”
Kỵ binh Bắc Mạc xây dựng theo biên chế một trăm người thành một đội, một ngàn người thành một đoàn, một đội kỵ binh đó ước chừng có một trăm kỵ binh. Kỳ thật cho dù muốn bắt sống mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc thì cũng không đáng phải dùng nhiều kỵ binh như vậy, nhưng Thường Tu An phái nhiều người như vậy chỉ để giết chết mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc thì rõ ràng là có ý bỡn cợt.
Thường Ngọc Tông bị Thường Ngọc Thanh răn dạy thì nói không nên lời, lại nghe thấy phía sau có tiếng vó ngựa ầm ầm như sấm dậy, quay đầu nhìn lại, thấy phía sau Thường Ngọc Thanh có một đại đội kỵ binh đang chạy đến. Trong lòng Thường Ngọc Tông càng gấp, vội vàng ngẩng đầu nhìn lên phía trên tường thành, hy vọng Thường Tu An có thể xuống dưới khuyên Thường Ngọc Thanh, ai ngờ Thường Tu An đã sợ tới mức ngay cả đầu cũng không dám lộ ra. Thường Ngọc Tông bất đắc dĩ đành phải giữ chặt lấy đầu Dạ Chiếu Bạch, gấp giọng khuyên nhủ: “Thất ca, Thất ca, nếu huynh cứ như vậy mà xông ra ngoài, chẳng phải là đúng ý của bọn mọi rợ Nam Hạ hay sao! Ngàn vạn lần không thể đi được!”
Thường Ngọc Thanh cười lạnh nói: “Nếu ta không đi, mới là đúng ý của bọn mọi rợ Nam Hạ! Nhân số một đội không nhiều cũng không ít, vừa hợp với khẩu vị của bọn chúng! Nếu còn chậm thêm chút nữa, e rằng đến một người cũng chẳng cứu nổi! Buông tay!” Thường Ngọc Thanh gầm lên một tiếng, vung mũi thương vào bàn tay đang giữ dây cương của Thường Ngọc Tông. Thường Ngọc Tông sợ hãi vội vàng buông tay, không dám tiếp tục ngăn cản, đành phải bảo quân sĩ mở cổng thành.
Cổng thành Võ An một lần nữa lại mở rộng, đại tướng quân Thường Ngọc Thanh tự mình thân chinh mang theo một ngàn kỵ binh đi cứu đội kỵ binh lúc trước ra khỏi thành truy bắt mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc. Một đường đuổi theo đến hơn một trăm dặm, đến rạng sáng ngày thứ hai mới đuổi kịp đội kỵ binh quân Bắc Mạc. Mà lúc này, đội kỵ binh đã bị kỵ binh quân Giang Bắc tầng tầng lớp lớp vây quanh, đang khốn khổ chống đỡ.
Nguồn: vanvietbooks