28/11/12

A Mạch tòng quân (C114-115)

Chương 114: Mưu đồ

Lý Thiếu Hướng ghé mông ngồi xuống ghế, nở nụ cười lấy lòng nói: “Chuyện là như vầy, Thái Hành Sơn có không ít lợn rừng, dê núi và các loại thú hoang khác, dù sao hiện giờ tạm thời cũng chưa đánh trận, binh lính của doanh trại cung nỏ cũng nhàn rỗi, theo ta thấy không bằng cho họ lên núi đi săn thú, giờ lại đúng thời điểm thú rừng rất béo và mập mạp…”

A Mạch nghe nhưng không nói gì, thầm nghĩ hay thật, ta chỉ vừa mới ăn của ngươi một miếng thịt, trong khi cách nơi này hơn hai trăm dặm còn có đại quân của Thường Ngọc Thanh nhòm ngó, ngươi đã nghĩ đến chuyện đem binh lính mấy doanh cung nỏ của ta kéo ra ngoài giúp ngươi đi săn thú. Nếu ta ăn hết cả nồi thịt này, có phải là ngươi sẽ đòi toàn bộ binh lính quân Giang Bắc của ta lên núi Thái Hành đi kiếm lương thực cho ngươi không?

Lý Thiếu Hướng thấy A Mạch không có gì phản ứng gì, trong lòng cũng dần dần cảm thấy chột dạ, nhưng vẫn không chịu từ bỏ ý định, xoa xoa hai tay vào nhau tiếp tục du thuyết(1): “Những tấm bia chết trên giáo trường đâu thể so được với những tấm bia sống trong núi, thứ nhất, đại nhân có thể cải thiện bữa ăn cho mọi người, thứ hai nếu săn được nhiều thú hoang còn có thể sấy khô để làm lương thực dự trữ, làm thực phẩm cho lễ mừng năm mới cũng rất tốt.”

A Mạch nhíu mày ngắt lời Lý Thiếu Hướng: “Ngươi có ý tốt nhưng cách này không thể làm được. Thát tử ở Võ An đối với chúng ta như hổ rình mồi, cách nơi này cùng lắm chỉ hơn hai trăm dặm, thiết kỵ chỉ cần một ngày một đêm là có thể phi ngựa đến đây, sao có thể đem các doanh cung nỏ phái lên núi săn thú được! Hơn nữa, ta đã tính đem các doanh cung nỏ sát nhập vào bộ binh doanh, nên lại càng không thể điều động riêng bọn họ ra ngoài được.”

Lý Thiếu Hướng bị A Mạch nói vậy thì có chút ngượng ngùng, xoa xoa tay nói không ra lời. A Mạch không muốn anh ta sượng mặt, suy nghĩ một lát lại nói thêm: “Nhưng quả thật binh lính thao luyện cũng rất vất vả, cũng nên thường xuyên cải thiện bữa ăn cho họ. Như vậy đi, ta gọi Vương Thất trước lấy những người già yếu trong bộ binh ra cho ngươi dùng.”

Lý Thiếu Hướng thầm nghĩ ‘ngươi cho ta một đám người già yếu, bọn họ còn có khả năng lên núi săn thú ư!’ Song anh ta cũng là người khéo đưa đẩy, mặc dù trong lòng không vui cũng sẽ không biểu lộ ra mặt, chỉ nhìn A Mạch cười gượng hai tiếng.

A Mạch biết Lý Thiếu Hướng không vui, lập tức cười cười, còn nói thêm: “Ngươi đừng xem thường đám người này, cho dù không thể đi săn thú cho ngươi, thì cũng có thể giúp ngươi nuôi gà nuôi lợn cũng rất tốt. Trước kia ta từng nghe có người nói qua vài cách nuôi gà rất hay, đó là đem gà mái chia ra nuôi nhốt trong những lồng sắt nhỏ, mỗi ngày đều cho nó ăn nhưng không cho vận động nhiều, nó sẽ lớn rất nhanh, một con gà con chỉ cần hơn một tháng là thành gà lớn, thịt cũng rất nhiều.”

Thật ra Lý Thiếu Hướng chưa từng nghe thấy cách nuôi gà nào như thế này, cũng không biết có thể nuôi một con gà con trong vòng hơn một tháng là có thể thành gà lớn hay không, nhưng anh ta vừa nghe A Mạch nói đến mỗi ngày chỉ cho gà ăn mà không cho nó vận động, trên mặt lập tức xuất hiện một nụ cười rất tươi, đôi mắt một mí chỉ lộ ra khe hở hẹp nhìn A Mạch cười mà không nói gì.

A Mạch nhìn thế nào cũng cảm thấy nụ cười tươi này có chút quái dị.

Từ Tĩnh ngồi đối diện vốn vẫn yên lặng ăn cơm, đột nhiên ngẩng đầu lên nói với A Mạch: “Cách này thật ra rất hay, chỉ có điều lương thực cho người ăn còn không có thì ngươi bảo anh ta kiếm đâu ra lương thực cho gà ăn?”

Nàng chẳng qua là nhân lúc nghe Lý Thiếu Hướng nói đến chuyện săn thú, mới nhớ đến trước kia mẫu thân từng thuận miệng nói qua cách nuôi gà như vậy, hiện giờ bị Từ Tĩnh hỏi, không khỏi có chút ngượng ngùng. Nụ cười trên mặt Lý Thiếu Hướng lại càng tươi hơn, còn tự tay cầm đũa gắp một cái chân thỏ hoang thả vào trong bát của Từ Tĩnh mời mọc: “Từ tiên sinh, ngài nếm thử cái này đi, xem hương vị thế nào?”

A Mạch nhìn mà bực mình, nhưng cũng không nói thêm nữa, chỉ bảo: “Không nói chuyện này nữa, chờ Tiết Vũ về xem tình hình thế nào rồi sẽ nói sau.”

Nói xong, cũng không khách khí mà thò đũa vào nồi gắp một miếng thịt gà lớn bỏ vào bát.

Mùng sáu tháng mười một, Tiết Vũ từ Ký Châu tay không trở về. Nghe nói Tiếu Dực vốn cho anh ta mấy xe lương thực, Tiếu phu nhân còn cho thê tử của cháu trai ngoại một xe son phấn và tơ lụa, nhưng Tiết Vũ không lấy bất cứ thứ gì, xoay người trở về Thanh Châu.

Trong lòng A Mạch đã sớm đoán được điều này, lựa lời an ủi Tiết Vũ vài câu, rồi bảo anh ta về trước nghỉ ngơi, nhưng Lý Thiếu Hướng thì lại vô cùng tiếc nuối hơn chục cái xe kia, cứ nhắc mãi rằng: “Con ruồi tuy nhỏ nhưng cũng là thịt a, còn hơn là chẳng có gì a.”

Đối với việc này, Vương Thất vốn tán thành với cách xử sự của Tiết Vũ, giờ nghe Lý Thiếu Hướng nói thế không khỏi liếc xéo anh ta một cái, cả giận nói: “Ngươi không sợ ăn thịt ruồi bọ sẽ mắc ói sao!”

Lý Thiếu Hướng xoa xoa hai tay, bất đắc dĩ nói: “Ngươi mà thấy tình trạng của đám lính thì mới biết nỗi khó xử của ta.”

Vì chuyện lương thảo mà lo lắng không chỉ có một mình Lý Thiếu Hướng mà còn có chủ tướng A Mạch của quân Giang Bắc. Tuy đã sớm cùng Từ Tĩnh nhận định rằng Tiếu Dực khó có khả năng cho lương thực, nhưng trong lòng dù sao vẫn có chút hy vọng, hiện giờ chút hy vọng ấy đã tan thành mây khói, ngay cả A Mạch cũng khó tránh khỏi có chút sa sút tinh thần. Nhưng trước mặt Tiết Vũ và chư tướng quân Giang Bắc, nàng không dám mảy may biểu lộ, chỉ khi ở trước mặt Từ Tĩnh mới dám để lộ ra vẻ mặt đau khổ.

Từ Tĩnh vẫn uống loại trà Long Tĩnh không biết từ năm Minh Tiền thứ bao nhiêu mà Trương Sĩ Cường lấy được từ chỗ của Lý Thiếu Hướng, thần thái có chút khoan thai, hoàn toàn không thấy khẩn trương lo lắng, chỉ cười nói: “Ngươi lo cái gì? Chẳng phải trước khi Tiết Vũ đi ngươi đã dặn dò anh ta cách đối phó với Tiếu Dực rất rõ rồi hay sao? Quân Giang Bắc ở Thanh Châu không trụ nổi nữa, chỉ có thể mang theo dân chúng đến tìm ông ta để nương tựa thôi!”

A Mạch cười khổ nói: “Đó chẳng qua chỉ để dọa Tiếu Dực mà thôi, chẳng lẽ có thể thực sự đến chỗ ông ta để tìm nơi nương tựa sao? Ông ta cũng đâu để bị chúng ta uy hiếp.”

Trong mắt Từ Tĩnh chợt lóe tinh quang, nghiêm trang nói: “Sao lại là dọa? Trong thành của ngươi đã hết lương, không chạy về hướng đông thì chạy đi đâu? Chẳng lẽ lại ra khỏi thành quyết chiến cùng Thường Ngọc Thanh? Thế chẳng phải chính là rơi vào quỷ kế của Thường Ngọc Thanh thì là gì!”

A Mạch nhận ra trong lời nói của Từ Tĩnh còn có ý khác, không khỏi khẽ nghiêng người về trước nhìn Từ Tĩnh chằm chằm, hỏi: “Tiên sinh có kế sách đối phó với Thường Ngọc Thanh chăng?”

Từ Tĩnh vuốt râu khẽ cười hỏi: “Cái này còn phải xem ngươi có bỏ được thành Thanh Châu hay không.”

A Mạch hơi hơi mím môi, sau khi thoáng cân nhắc liền nói với Từ Tĩnh: “Xin tiên sinh chỉ giáo cho.”

Từ Tĩnh lại hỏi A Mạch: “Nhưng ngươi có dám bỏ Thanh Châu mà đi không?”

A Mạch yên lặng nhìn Từ Tĩnh một lát, phút chốc nở nụ cười, đáp: “Đánh không lại, bỏ thành đào tẩu chẳng qua cũng là chuyện thường tình của nhà binh. Việc này ta không phải là kẻ đầu tiên, cũng không phải là kẻ cuối cùng làm vậy, tiên sinh nói có phải không?”

Từ Tĩnh nghe vậy vỗ tay cười to: “Không sai, nếu đánh không lại, cũng chỉ có thể bỏ chạy, dù sao thành là vật chết, người mới là vật sống!”

A Mạch đợi Từ Tĩnh ngưng cười, lại trầm giọng hỏi: “Tiếp đó thì sao?”

“Vào vụ gặt lúa mạch, trước khi Thường Ngọc Thanh đến tấn công, quân ta mượn cớ thát tử sẽ tàn sát thành mà gây rối loạn lòng dân trong thành, lưu chút tinh binh che dấu trong dân chúng, sau đó bỏ ngỏ việc phòng thủ thành Thanh Châu,” Từ Tĩnh đưa tay di chuyển đến trạm kế tiếp trên sa bàn, chỉ vào địa hình trên sa bàn nói: “Mai phục hai vạn tinh binh tại bờ sông Tử Nha phía bắc thành Thanh Châu, còn lại thì ẩn tại khe núi Phi Long. Nếu Thường Ngọc Thanh vào thành, thì nhanh chóng vây thành, bộ binh phối hợp với loạn dân toàn lực công thành, tiến hành chiến đấu trên đường phố, kỵ binh phân tán ở phía tây và phía nam thành, hai phía đánh du kích cắt đứt đường lui của Thường Ngọc Thanh, trận chiến này chắc thắng. Nếu Thường Ngọc Thanh trú quân ngoài thành không chịu vào…”

A Mạch nhanh chóng tính toán trong đâu, theo bản năng lại hỏi tiếp: “Chúng ta sẽ làm như thế nào?”

Từ Tĩnh nheo mắt, trầm giọng nói: “Chúng ta cũng không để ý tới loạn dân trong thành, cho năm vạn đại quân nấp trong khe núi phía đông thành cấp tốc rút rui về phía sau, dụ Thường Ngọc Thanh lọt vào khe núi Phi Long, hai vạn tinh binh mai phục bên bờ sông Tử Nha đánh tới, trận này thắng nhỏ, nhưng cũng phải chém được hơn vạn địch; Thát tử thất bại mà bỏ chạy,“Năm vạn đại quân” giữ vững, nhưng hai vạn tinh binh không đủ sức vây kín nên để trống phía tây nam, khiến cho địch phá vòng vây chạy về phía đó, lại dùng kỵ binh chặn đánh ở phía tây nam, tất đại thắng.”

A Mạch nghe xong trầm mặc không nói gì, chỉ dùng ngón tay gõ khẽ lên sa bàn nhìn đến thất thần. Từ Tĩnh biết nàng tất có chủ kiến, cho nên cũng không lên tiếng quấy rầy, chỉ ngồi xuống bên bàn lẳng lặng uống trà. A Mạch yên lặng nhìn một lát, lông mày khi thì nhăn lại, khi thì giãn ra, mọi cách tính kế đều nhất nhất xoay chuyển, cân nhắc trong đầu, lúc này mới ngẩng đầu nhìn Từ Tĩnh nói: “Nếu người khác dẫn quân thì tốt, nhưng nếu là Thường Ngọc Thanh e là sẽ không dễ dàng rơi vào bẫy như thế.”

Từ Tĩnh khẽ cười nói: “Nếu anh ta vẫn án binh bất động, kỵ binh bên ta thừa dịp đêm xuống mà xông đến doanh trại, từng bước vây sát, trận chiến này vẫn thắng.”

A Mạch chậm rãi lắc đầu: “Không phải ở đây, mà là ở đây.” Nàng đưa tay chỉ vào khe núi Phi Long, nói: “Với tính cách của Thường Ngọc Thanh, anh ta sẽ không dễ gì bị chúng ta dụ dỗ xâm nhập sâu vào khe núi Phi Long, mà trước khi chúng ta lui vào trong khe núi Phi Long sẽ phái kỵ binh vòng lại đây cắt đứt đường lui của quân ta, khi đó, trái lại là quân ta hai mặt thụ địch.”

Từ Tĩnh không khỏi gật đầu, đưa mắt thận trọng nhìn sa bàn, lại ngưng thần suy nghĩ.

A Mạch lại nói tiếp: “Còn nữa, theo binh pháp, khi bộ binh cùng thiết kỵ thát tử đối trận thì rất ít khi giành được thắng lợi, điều đó rất dễ khiến quân sĩ của ta nảy sinh tâm lý sợ hãi, khi còn giữ thế phòng thủ thì không sao, nhưng một khi chuyển sang thế tấn công lại thành họa lớn.”

Từ Tĩnh vuốt râu gật đầu, rất tán thành với ý kiến của A Mạch, nhưng nếu muốn tìm bộ binh áp chế trực diện thiết kỵ của thát tử lại vô cùng khó khăn. Nam Hạ thiếu chiến mã, căn bản không thể lập thành một lực lượng lớn để có thể cùng thiết kỵ thát tử đối đầu trực diện. Mà trận địa bộ binh nếu bị kỵ binh đánh sâu vào sẽ rất dễ mất trận, cho nên về cơ bản là không thể cùng kỵ binh dã chiến, nhất định phải dựa vào công sự phòng ngự hoặc là thành trì để cùng kỵ binh đối kháng.

A Mạch suy nghĩ một lát, nói: “Trừ phi ở thành đông chúng ta không chỉ dụ binh mà còn có thể có cùng Thường Ngọc Thanh trực tiếp ganh đua thực lực!” Nói đến đây, một luồng suy nghĩ chợt lóe lên trong đầu A Mạch, nàng đưa mắt nhìn Từ Tĩnh, ngữ khí đột nhiên thay đổi, đè nén một tia hưng phấn hỏi: “Tiên sinh, nếu đã đánh cược, chúng ta có thể đánh cược lớn hơn một chút được không?”

Từ Tĩnh nghe xong khẽ rùng mình, hỏi: “Đánh cược như thế nào?”

A Mạch đáp: “Ta đã từng xem qua đâu đó một loại chiến pháp, thật ra có thể khắc chế kỵ binh thát tử, chỉ có điều chưa từng nghe qua có người sử dụng bao giờ, lần này chúng ta thử nghiệm một lần xem sao. Nếu thắng, quân Giang Bắc sẽ thuận thế đông tiến, chiếm cứ Ký, Lỗ, lập uy tứ quốc, ở Giang Bắc cùng thát tử phân tranh.”

Đôi mắt nhỏ của Từ Tĩnh chớp chớp, hỏi: “Nếu bại thì sao?”

A Mạch cười cười: “Nếu bại, chúng ta rút rui vào khe núi Phi Long cũng chưa muộn.”

Một chiến pháp mới, không biết uy lực lớn đến đâu, nhưng nếu chưa từng được thực nghiệm qua chiến đấu, kết quả cuối cùng vẫn rất khó liệu. Trong lòng Từ Tĩnh có chút nghi ngờ, trầm ngâm một lát sau mới hỏi: “Chiến pháp gì?”

————————-

Chú thích:

1- du thuyết: thời xưa gọi các chính khách đi đến các nước khác thuyết khách là du thuyết, dựa vào tài ăn nói của mình thuyết phục vua các nước áp dụng chủ trương của mình.

Chương 115: Lễ vật mừng năm mới

A Mạch lúc này vẫn dấu đi nút thắt quan trọng, cười nói: “Tiên sinh, là chiến pháp gì tạm thời ta không nói vội, ta chỉ cần hai ngàn kỵ binh, một vạn bộ binh. Còn lại vẫn dựa theo kế hoạch ban đầu mà làm. Nếu ta thất bại, sẽ trốn vào khe núi Phi Long, không chừng còn có thể dụ được Thường Ngọc Thanh truy kích đến đó.”

Từ Tĩnh: “Cánh quân mới này do ai thống lĩnh?”

Trong đầu A Mạch thoáng hiện lên một người, lập tức đáp: “Hắc Diện!”

Hắc Diện, sau chính biến ở thành Thái Hưng, A Mạch dẫn quân tiến về Thanh Châu, đã lệnh cho anh ta trở về núi Ô Lan hộ tống Từ Tĩnh đến đây. Khi anh ta đến thì quân Giang Bắc đã điều chỉnh xong, vẫn chưa bố trí anh ta thực sự giữ chức vụ gì, bởi vậy, mặc dù Hắc Diện vẫn có tên trong hàng ngũ tướng lĩnh, nhưng trên thực tế lại rất nhàn rỗi.

Cách một ngày sau, A Mạch liền cho gọi Hắc Diện đến, sau khi cùng anh ta mật đàm nửa ngày lại cho gọi thống lĩnh kỵ binh Trương Sinh đến, thương lượng với anh ta lấy hai ngàn kỵ binh giao cho Hắc Diện chỉ huy. Kỵ binh của Trương Sinh vốn chưa đến năm ngàn, trước đó vài ngày lại vừa xuất một ít binh lính già yếu đưa về bộ binh doanh, hiện giờ trong tay tổng cộng cũng chỉ có bốn ngàn, A Mạch vừa hé miệng lại muốn lấy đi hai ngàn, trên mặt Trương Sinh bất giác hiện rõ vẻ ngạc nhiên. Chẳng qua Trương Sinh vốn vô cùng tin phục A Mạch, hơn nữa, kỵ binh vốn do Đường Thiệu Nghĩa kiến lập nên, anh ta có thể tiếp nhận vị trí này hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm của A Mạch, cho nên cũng chỉ thoáng chần chờ trong giây lát, rồi sảng khoái đáp: “Được!”

Trương Sinh đã đáp ứng rồi, những chuyện còn lại dễ hơn rất nhiều.

Thủ hạ bộ binh doanh của Vương Thất và cung nỏ doanh vừa sáp nhập xong, A Mạch lại lấy từ trong doanh trại của anh ta một vạn binh lính tráng kiện giao cho Hắc Diện. Vương Thất không giống với Trương Sinh, anh ta và A Mạch chung một ngũ đi lên, tình cảm không thể so với những người bình thường khác, nói chuyện cùng A Mạch cũng tùy ý hơn rất nhiều. Thấy A Mạch muốn lấy binh lính tráng kiện từ bộ binh doanh của mình để thành lập một cánh quân mới, không khỏi quấn lấy A Mạch hỏi cánh quân mới này để thực hiện chiến pháp mới nào. Ai ngờ A Mạch cũng không nói lộ điều gì, chỉ bảo sau này thấy rồi sẽ biết. Nghe xong, Vương Thất càng cảm thấy thâm tâm ngứa ngáy khó chịu, tuy nhiên, đối với chuyện thành lập cánh quân mới này so với Hắc Diện còn tích cực hơn, chỉ trong vòng hai ngày đã đem người giao cho Hắc Diện.

Có người, lại có trang bị, cánh quân mới chỉ còn đợi sắp xếp, phối hợp với sàng nỏ(1), trên tường thành Thanh Châu vốn không đủ, phải cho thợ thủ công chỗ quân giới chế tạo thêm, việc này hơi mất thời gian, tổn hao công sức, và cũng khó làm. Thứ cần dùng nữa là vài chiếc xe, A Mạch nhốt mình trong phòng nửa ngày, phỏng theo trí nhớ, cuối cùng vẽ xong một bản vẽ, giao cho Lý Thiếu Hướng, lệnh cho anh ta căn cứ theo bức vẽ chế tạo gấp.

Lý Thiếu Hướng nghe sơ qua liền muốn đến chỗ quân giới đẩy nhanh tốc độ chế tạo xe ngựa ngay lập tức, còn nói là muốn đi Ký Châu vận lương, nên liên mồm đáp ứng, nhưng khi nhìn đến bản vẽ mô phỏng của A Mạch thì kêu lên: “Đại nhân, xe này của ngài không thể dùng được, vừa nhìn là biết ngài không phải xuất thân từ gia đình nông dân. Ta mặc dù không phải là thợ mộc, nhưng xem qua cũng biết bản vẽ này là để chế tạo xe ngựa…”

A Mạch dở khóc dở cười, vội vàng cắt ngang lời Lý Thiếu Hướng, chỉ phân phó nói: “Cái khác ngươi không cần phải xen vào, chỉ cần tìm thợ mộc đến căn cứ theo bản vẽ này làm mẫu một chiếc xe đem trước đến cho ta xem rồi nói sau!”

Lý Thiếu Hướng vẫn tỏ vẻ không tình nguyện, muốn cùng A Mạch bàn luận tiếp. A Mạch sợ anh ta quấy rầy, đành phải lừa anh ta: “Xe này mặc dù không phải dùng để vận lương, nhưng nhờ có nó chúng ta sẽ có được không ít lương thực, ngươi cứ yên tâm!”

Lúc này Lý Thiếu Hướng mới càu nhà càu nhàu bước đi, lại tìm trong quân khoảng một trăm binh lính trước đây từng làm thợ mộc đến hỗ trợ, lúc này mới gấp rút trong vòng một tháng giao ra ba trăm chiếc xe thiên tương(2). Cái gọi là xe thiên tương, kỳ thật chính là một cỗ xe có cả tác dụng tấn công và phòng thủ, chế tạo thành một cỗ chiến xa có những tấm bình phong bảo vệ, song khi kết hợp cùng với ngựa sẽ tạo thành một loại chướng ngại vật, hợp thành một doanh xe để ngừa địch đánh bất ngờ. Từ những tấm bình phong bảo vệ này có những ô cửa sổ ở giữa, sàng nỏ sẽ được bắn ra từ đó, tấn công theo kiểu “Vừa đánh vừa tiến lên”. Loại xe này từ mấy trăm năm trước đã có người dùng rồi, chẳng qua khi chế tạo A Mạch có thay đổi một chút, có tám tấm bình phong có thể gấp lại, chiều dài tổng cộng là mười lăm thước, bình thường chúng được đặt ở trên càng xe, khi tác chiến đánh trận thì mở ra dựng ở một bên bánh xe như một cái hòm lớn, cho nên gọi là “Xe thiên tương”.

Tuy đã có chiến xa, sàng nỏ theo bộ lại không thể chế tạo gấp theo được. A Mạch biết Lý Thiếu Hướng đã cố hết sức cho nên không trách móc anh ta, chỉ đem những chiến xa này giao cho Hắc Diện, lệnh cho anh ta dùng những cỗ xe trống đó cho cánh quân mới thao luyện trước.

Cánh quân mới có giáo trường riêng, bốn ngàn bộ binh bắt đầu thao luyện, trải qua một tháng huấn luyện đặc biệt, hiện giờ diện mão đã bắt đầu lộ rõ. Trận địa của bọn họ rất khác so với trước kia, tất cả tạo thành một đội, đứng đầu là đội trưởng, thứ hai là người một tay cầm trường bài(3), một tay cầm khiên mây, trường bài để che chắn trường thương, loan đao của địch, khiên mây(4) làm bằng chất liệu nhẹ có cài giáo, đao, cầm trường bài và khiên mây chủ yếu để yểm hộ cho đội quân phía sau tiến lên, khiên mây ngoại trừ yểm hộ còn phủ phục trước vó ngựa địch. Hai người tiếp theo cầm lang tiển(5), lợi dụng lưỡi dao sắc bén phía trước của lang tiển mà ám sát địch nhân, dùng khiên tăng cường yểm hộ đồng thời tay kia dùng trường thương tấn công. Tiếp đó là bốn người tay cầm trường thương, trái phải hai người, chủ yếu khiêu khích khiến cho quân địch xuống ngựa, tiếp theo là sử dụng đoản đao và vũ khí ngắn tấn công vào bên sườn và bên hông của địch, tiến sát lên chém giết địch nhân.

Sáu ngàn bộ binh được phân phối giữ ba trăm cỗ chiến xa. Hai mươi bộ binh phụ trách một chiến xa, trong đó mười người trực tiếp lệ thuộc vào chiến xa, nhiệm vụ là bắn sàng nỏ, mười người còn lại thì tạo thành một “Tiểu đội sát thủ”, tay cầm khiên mây, đinh ba cùng đơn đao cán dài(6)nghênh địch. Khoảng cách giữa tiểu đội sát thủ và chiến xa duy trì trong vòng hai mươi lăm thước, nếu bọn họ tiến lên, chiến xa cũng theo đó mà được đẩy lên phía trước.

Vì sàng nỏ không thể chế tạo gấp được, nên mấy trăm cỗ chiến xa đành buộc đá lớn vào để luyện tập, sau đó binh lính đẩy chiến xa chạy khắp giáo trường…

Vẫn cùng một cảnh tượng, nhưng khi rơi vào trong mắt những người khác nhau lại này sinh ra ra những ý nghĩ khác nhau:

Ánh mắt Từ Tĩnh khi nhìn cảnh này dường như tỏa sáng, ban đầu, ông ta vốn tưởng rằng A Mạch chỉ muốn dùng xa trận đối kháng với kỵ binh, đang muốn khuyên nhủ A Mạch đừng cố chấp mà tự làm khó cho mình, cách đó không thể thủ thắng được đâu, hiện giờ nhìn thấy cảnh tượng này, tay không tự chủ được mà đưa lên giữ chặt chòm râu trên cằm.

Vương Thất nhìn những binh lính cường tráng đó mà cũng thấy vô cùng tự hào, không hổ là lấy từ trong doanh trại của ta ra, các ngươi đâu thể vạm vỡ bằng những tiểu tử này được?

Quan quân nhu Lý Thiếu Hướng nhìn thấy một màn này mà càng thêm đau lòng, một đám ăn uống như bị mất cắp, thế mà lại chỉ để làm mấy cái việc đẩy đá, có sức lực như vậy làm cái gì khác mà chả tốt, thật lãng phí quá a.

Mỗi người một tâm tư, cứ thế mà ngày trôi qua rất nhanh, cái tết đầu tiên của quân Giang Bắc ở Thanh Châu đã đến. Nhưng không khí vui mừng của năm mới không chạm được chút nào lên khuôn mặt của Lý Thiếu Hướng, ngược lại, lại khắc sâu lên đó thêm vài phần sầu khổ, cửa ải cuối năm, cửa ải cuối năm a, lễ mừng năm mới chính là cửa ải cuối năm của người nghèo a. Cái khác tạm thời không nói, chỉ nói trước mắt không có bột cũng chẳng có thịt, lấy cái gì cho mọi người đón năm mới đây? Lý Thiếu Hướng giương mắt nhìn lên bầu trời tối tăm, hận không thể khiến những thứ đang trút từ trên trời xuống không phải là tuyết, mà là bột mỳ a.

Có lẽ nỗi lòng ai oán của Lý Thiếu Hướng đã thấu lên tận trời xanh, cho nên vào ngày hai mươi tám tháng chạp, ngoài thành Thanh Châu đột nhiên có người đưa tới cho quân Giang Bắc mấy chục xe toàn đồ ăn ngon của nơi thôn dã. Áp giải đoàn xe là hơn ba mươi hán tử tráng kiện, đầu tiên họ cho xe ngựa dừng lại ở phía xa xa, rồi duy nhất một người đi tới dưới thành, hướng về phía trên tường thành cao giọng hô: “Có vị cố nhân tặng Mạch tướng quân chút quà năm mới, thỉnh quân gia buông cầu treo cho chúng ta đem những lễ vật này vào thành.”

Binh lính thủ thành nào dám tùy ý buông cầu treo, nghe vậy liền vội vàng xin chỉ thị của trưởng quan. Hôm nay, phụ trách bảo vệ thành là Hữu phó tướng quân Mạc Hải, nhận được tin liền lên trên thành để xem, chỉ thấy xa xa dưới thành một đoàn xe ngựa đang đứng chờ, xe nào xe nấy chất đầy hàng hóa, ước chừng phải đến ba, bốn mươi cỗ xe. Hán tử đứng dưới thành nhìn thấy một vị tướng quân mặc mũ giáp đi lên, biết là người chịu trách nhiệm ở đây, liền cao giọng nói: “Ta được một vị cố nhân của Mạch tướng quân ủy thác đến đây giao tín vật, phiền vị tướng quân này giao cho Mạch tướng quân, ngài ấy nhìn thấy sẽ nhận ra.”

Nói xong vung tay lên, một bọc nhỏ liền bay thẳng lên vọng lâu của tòa thành, rơi vào trong lòng Mạc Hải. Con sông đào bảo vệ thành ước chừng rộng vài chục trượng, lại thêm độ cao của tường thành, thế mà người nọ chỉ tiện tay ném một cái, vật nọ liền bay tới trước người Mạc Hải, đủ thấy lực cánh tay của anh ta mạnh đến mức khiến người ta phải phát sợ. Mạc Hải trong lòng thất kinh, nhận được cái bọc nhỏ kia liền mở ra, thấy trong đó là một tấm huy hiệu của quân Nam Hạ bằng đồng, khắc cấp bậc giáo úy. Mạc Hải nhất thời không đoán ra đây là tín vật của người nào, liền vội vàng gọi người cầm bọc nhỏ bằng vải bố đi tìm, đưa cho A Mạch.

A Mạch đang ở trên giáo trường chỉ đạo Hắc Diện huấn luyện cánh quân mới, Lý Thiếu Hướng vẫn như trước, bám theo bên cạnh nàng lải nhải việc quân nhu. A Mạch nghe mà phát phiền, mấy lần muốn phất tay đuổi Lý Thiếu Hướng đi. Thủ binh trên tường đến đưa cái bọc nhỏ bằng vải bố cho nàng, nói là ngoài thành có người tặng nàng lễ vật mừng năm mới, đặc biệt giao tín vật này cho nàng. A Mạch kinh ngạc, đợi khi nhìn rõ tấm huy hiệu giáo úy trong bao vải kia, đầu tiên là ngẩn người, tiếp đó là vui mừng khôn xiết, không kịp dặn dò Hắc Diện một tiếng, liền xoay người đi vội ra khỏi giáo trường.

Lý Thiếu Hướng đứng ở phía sau nhìn cảm thấy rất lạ, lại nhớ đến mấy chữ “Lễ vật năm mới” mà tên lính kia vừa nói, liền vội vàng lặng lẽ đi theo, thấy sải chân của A Mạch thật dài, dường như không nhịn được mà muốn chạy đi.

Mạc Hải vẫn chờ trên vọng lâu của cổng thành, thấy A Mạch nhanh như vậy đã tới, bất giác có chút kinh ngạc, vội vàng chạy lại đón, kêu lên: “Đại nhân.”

A Mạch tùy ý khẽ gật đầu, rồi hướng bước chân đến lỗ châu mai hỏi Mạc Hải: “Người đó đâu?” Vừa hỏi xong đã đi đến bên cạnh lỗ châu mai rồi, A Mạch cúi xuống nhìn, nhất thời có chút trố mắt, chỉ thấy bên kia con sông đào bảo vệ thành có mấy chục cỗ xe chở hàng im lìm đứng đó, nhưng một bóng người cũng không thấy đâu.

Mạc Hải đáp: “Người đó nói những thứ cần đưa đã đưa đến đây rồi, nên anh ta về trước.”

A Mạch khẽ giật mình, lúc này mới ừ một tiếng.

Mạc Hải lại hỏi: “Đại nhân, những xe ngựa này làm sao bây giờ?”

Đoàn xe ngựa kia có khoảng ba, bốn mươi chiếc, phía trên đều phủ cỏ, tất cả các xe đều được xếp đầy, từ trên thành nhìn xuống thật không biết bên trong là cái gì, nếu có dấu người bên trong cũng không thể nhận ra được. Nghe Mạc Hải hỏi, A Mạch liền mỉm cười, quay đầu lại nói: “Tặng lễ vật năm mới cho chúng ta thì cứ thu lại là được, đúng lúc Lý Thiếu Hướng cả ngày không ngừng nhắc tới nhắc lui là lấy đâu ra đồ mừng năm!”

Nàng nói xong, Mạc Hải còn chưa kịp nói gì, thì Lý Thiếu Hướng vừa mới thò mặt lên tường thành cũng đã vô cùng lanh lẹ lên tiếng, xoay người, chân không ngừng bước mà đi luôn xuống dưới thành. A Mạch vội gọi anh ta lại dặn dò: “Gọi người đi dắt la, ngựa đến, kiểm kê cho rõ ràng rồi kéo hết xe vào thành.”

Lý Thiếu Hướng quay lại nhếch miệng cười nói: “Còn dắt la, ngựa làm gì, dù sao những người của lão Hắc hằng ngày đều luyện đẩy xe ngựa đấy thôi, ta đi gọi bọn họ đến đây là được rồi.”

A Mạch không khỏi bật cười, bất đắc dĩ lắc lắc đầu, tấm huy hiệu bằng đồng nắm chặt trong tay một hồi lâu đã mang theo nhiệt độ cơ thể của nàng, A Mạch cúi đầu nhìn kỹ một lát, cẩn thận thu vào trong lòng, ngẩng đầu nhìn tầng mây đang bị ép nặng trĩu. Gió Bắc đã nổi lên, cuốn theo nhiều bông tuyết rơi xuống, trong không khí phảng phất có mùi thuốc pháo. Thịnh Nguyên năm thứ năm, cuối cùng thì một trận tuyết lớn đã xuất hiện.

2- Xe thiên tương: thiên nghĩa là lệch 1 bên; tương nghĩa là cái hộp. Đọc phần miều tả hình dáng chiếc xe này trong truyện các bạn sẽ hiểu tên của nó.

Nguồn: vanvietbooks