28/11/12

A Mạch tòng quân (C21-22)

Chương 21: Hành trình

Đường Thiệu Nghĩa thản nhiên cười mà không nói gì.

A Mạch sau khi do dự một chút liền hỏi: “Đại ca, hai ngày nay mọi người bận rộn chuyện gì vậy? Ta thấy Thương tướng quân, Thạch tướng quân và Từ quân sư cùng nhau bàn bạc, thảo luận đã lâu, cũng không biết mọi người định làm như thế nào? Là phòng thủ Dự Châu hay đi cứu viện Thái Hưng?”

Đường Thiệu Nghĩa không ngờ A Mạch đột nhiên lại hỏi vấn đề này, có chút khó xử, suy nghĩ một chút, rồi nghiêm sắc mặt nói: “A Mạch, đây là việc quân cơ mật, ta không thể nói cho ngươi được.”

A Mạch thấy thế liền nói: “Không sao, đại ca, ta chỉ tùy tiện hỏi vậy thôi,chỉ tại hai ngày nay thấy Thương tướng quân thường triệu tập các vị tướng lĩnh, cho nên có chút tò mò.”

Đường Thiệu Nghĩa mi mắt khẽ chớp, nói: “Ừ, vậy là tốt. Nhưng ngươi cũng nên mau chóng chăm sóc thân thể mình hồi phục cho tốt, chuẩn bị cho lúc xuất chinh đánh giặc, nếu không e rằng đến lúc đó ngay cả cưỡi ngựa ngươi cũng không làm nổi.”

A Mạch nghe vậy cũng không cảm thấy lạ, nàng thấy Thương Dịch Chi triệu tập quan quân phụ trách quân nhu của thành Dự Châu, trong lòng đã đoán được Thương Dịch Chi chắc chắn sẽ phát động binh mã, chỉ là không biết anh ta cuối cùng là muốn hành quân theo hướng bắc hay hướng nam. Nếu chọn dùng kế sách theo hướng bắc của nàng, đáng lẽ phải gọi nàng đến để hỏi han thật cẩn thận mới đúng, nhưng Thương Dịch Chi lại không hề cho gọi nàng, chỉ vài lần cho gọi Đường Thiệu Nghĩa đến tham dự hội nghị quân sự của hai châu Thanh, Dự mà thôi. Nếu như vậy, xem ra Thương Dịch Chi muốn tập kích lương thảo của Chu Chí Nhẫn rồi. Nghĩ vậy, trong lòng A Mạch không khỏi có chút thất vọng, cảm thấy Thương Dịch Chi vẫn chưa đủ quyết đoán.

Khi Đường Thiệu Nghĩa đi khỏi, A Mạch vừa trở lại trong sân doanh trại của thị vệ, bắt gặp một vóc dáng nam nhân thấp đậm đang đứng bên ngoài nhìn vào doanh trại. A Mạch rút bội đao bên hông ra, cẩn thận, nhẹ nhàng đi về phía đó. Khi còn cách chừng năm sáu bước chân, người nọ đột nhiên quay đầu lại. Không ngờ đó lại là người trong bộ binh doanh thứ bảy của Thanh Châu, giáo úy Lục Cương.

A Mạch ngạc nhiên hỏi: “Lục đại nhân? Ngài làm gì ở đây?”

Lục Cương đột nhiên nhìn thấy A Mạch, chân tay có chút luống cuống, xoay người lại, xấu hổ nói: “Không có việc gì, không có việc gì.”

A Mạch tra bội đao vào vỏ, nói: “Hôm nay không phải phiên ta trực, nếu ngài muốn tìm tướng quân, phải gặp Trương Sinh.”

Lục Cương khoát tay, khuôn mặt ngăm đen đỏ bừng, có chút mất tự nhiên, cười nói: “Không phải, ta không tìm tướng quân, ta là tới tìm ngươi.”

“Tìm ta?” A Mạch kinh ngạc, hỏi: “Không biết đại nhân tìm ta có chuyện gì.”

Lục Cương đem bội kiếm của Đường Thiệu Nghĩa từ sau lưng ra đưa cho A Mạch, ngượng ngùng nói:“Đây là bội kiếm của Đường giáo úy, ta trả lại cho ngươi.”

A Mạch nhận lại kiếm, nhất thời không thể nói gì.

Đây chính là thanh kiếm nàng đã dùng để giết tên đội trưởng kia, về sau đã bị tuần binh thu giữ. Khi Lục Cương đưa nàng đến đây, lại quên đem theo thanh kiếm này, nên vẫn lưu giữ tại quân doanh của Lục Cương. Lục Cương thấy A Mạch không việc gì, thầm nghĩ hóa ra nàng đúng là cục cưng của Thương Dịch Chi thật, anh ta sợ A Mạch trả thù, nên vội mang thanh kiếm này tới giao lại cho nàng.

Lục Cương thấy A Mạch trầm mặc không nói gì, vội vàng giải thích: “Mạch thị vệ, ngày ấy ta cũng không có cách nào khác, ngươi cũng đừng ghi tạc ở trong lòng.”

A Mạch nghe vậy cười cười, chạy nhanh lại, khom người nói: “Lục đại nhân, sao ngài lại nói vậy. Ngày đó vốn là A Mạch vi phạm quân pháp, đại nhân chỉ là làm việc theo quân pháp mà thôi, A Mạch sao dám để bụng. Tướng quân đã dùng trượng để trách phạt A Mạch rồi, còn lưu lại cho A Mạch nửa cái mạng đến lập công chuộc tội. Hôm nay A Mạch có thể giữ lại nửa cái mạng này, thứ nhất phải cảm tạ ân tình của tướng quân đã không giết A Mạch, thứ hai còn phải cảm tạ đại nhân nữa. Đa tạ đại nhân đã hạ thủ lưu tình, lưu lại cho A Mạch một con đường sống.”

A Mạch nói xong, liền trịnh trọng hạ đại lễ, khiến Lục Cương sợ hãi vội vàng đỡ nàng dậy, nói: “Sao lại nói như vậy, đây vốn không phải là lỗi của Mạch thị vệ, là kẻ kia tự mình muốn chết, đâu thể nào oán trách Mạch thị vệ được. May mắn tướng quân là người anh minh nên đã đảm bảo lẽ công bằng cho Mạch thị vệ.”

A Mạch cười cười, lại khen Lục Cương vài câu, Lục Cương thấy A Mạch cũng không để bụng, trong lòng cũng nhẹ nhõm không ít, cùng A Mạch chuyện phiếm dăm ba câu rồi cáo từ. A Mạch cười, tiễn anh ta ra khỏi doanh trại, đến khi thấy anh ta đã đi xa rồi, nụ cười trên mặt mới dần phai nhạt đi, trong mắt ánh lên một tia tàn nhẫn.

Thương Dịch Chi tuyên bố xuất binh cứu viện Thái Hưng, lựa chọn trong đội ngũ quân Dự Châu những binh lính tinh tráng nhập vào quân Thanh Châu, chỉ để mấy ngàn lão quân cho Thạch Đạt Xuân giữ thành. Thạch Đạt Xuân cũng không dị nghị điều gì, rất phối hợp đem quân lính tinh nhuệ trong tay giao hết cho Thương Dịch Chi. Ngày xuất binh, Thạch Đạt Xuân tiễn Thương Dịch Chi ra khỏi thành, dọc đường đi sắc mặt có chút đăm chiêu, thừa dịp chung quanh không có người liền lên tiếng nói với Thương Dịch Chi: “Dịch Chi, nên để ta lãnh binh đi thôi. Thương lão tướng quân cả đời vì nước, nay dưới gối chỉ có mình ngươi là con nối dõi, sao có thể để ngươi đi mạo hiểm được, ngươi còn nghĩ đến lão tướng quân nữa hay không?”

Thấy Thương Dịch Chi trầm mặc không nói gì, Thạch Đạt Xuân tiếp tục nói thêm: “Nghe nói trưởng công chúa điện hạ thân thể thường xuyên đau ốm, nếu người nghe được tin tức này, chỉ sợ…”

“Thạch tướng quân!” Thương Dịch Chi cắt ngang lời Thạch Đạt Xuân, cười cười, nói: “Trước trận sao có thể đổi tướng, hơn nữa tướng quân đã ở Dự Châu nhiều năm, tất sẽ quen thuộc tình hình Dự Châu hơn ta, chỉ chừa lại ít binh như vậy, lại đều là già yếu, cũng chỉ có tướng quân mới đủ khả năng bảo vệ cho Dự Châu mà thôi!”

Thạch Đạt Xuân nghe vậy cũng chỉ có thể thở dài. Thương Dịch Chi cất tiếng cười sang sảng, rồi phóng ngựa đi lên phía trước, phía sau, đội cận vệ vội vàng đuổi theo, chỉ ngoảnh mặt đi một cái, liếc mắt lại đã không còn thấy bóng dáng người nào.

Một vạn năm ngàn quân Thanh Châu cùng hai vạn năm ngàn tráng binh điều động từ thành Dự Châu, Thương Dịch Chi lĩnh tất cả bốn vạn quân Nam Hạ, vào ngày 26 tháng 10 ra khỏi Dự Châu hướng về phía nam cứu viện Thái Hưng.

Ban đêm, Thương Dịch Chi chia binh làm hai đường, lấy ra một ngàn kỵ binh giao cho phó tướng Hà Dũng đi tập kích nơi cất dấu lương thảo của Đông lộ quân Bắc Mạc. Còn lại, đại quân đi từ hướng nam tới phía tây dãy núi Ô Lan, men theo đường núi hướng về phía Bắc.

Nhìn theo Hà Dũng lĩnh kỵ binh đi về phía Bắc trong đêm tối, Thương Dịch Chi cười lạnh, nói: “Trần Khởi, ta dùng chính cách của ngươi để trả lại cho người.” Thương Dịch Chi lên ngựa, trước khi đi, nhìn thấy A Mạch đứng trong đội cận vệ, liền gọi nàng đến, lạnh giọng hỏi: “A Mạch, hiện tại nếu ngươi hối hận vẫn còn kịp, nếu như muốn bảo toàn tính mạng của mình, bản tướng quân sẽ thả ngươi tự rời đi.”

A Mạch ngồi trên lưng ngựa, vẻ mặt ngưng trọng nói: “A Mạch nguyện một lòng đi theo tướng quân!”

Thương Dịch Chi ngồi yên trên ngựa, lạnh giọng hỏi lại: “Thật sao?”

A Mạch kiên định lớn tiếng nói: “A Mạch thề, cho dù sống hay chết, cũng một lòng đi theo tướng quân, dù muôn ngàn hiểm nguy cũng không sợ, dù phải chết cũng không chối từ!”

Thương Dịch Chi nhíu nhíu khóe miệng, không nói gì nữa, xoay người phóng ngựa phi lên phía trước. Phía sau, A Mạch cùng đội cận vệ đội gấp rút đuổi theo. Từ Tĩnh vẫn ngồi trên xe la của ông ta như trước, bất quá lần này người đánh xe không phải là lão Trương, mà đổi thành một binh sĩ Thanh Châu.

Mông A Mạch vẫn bầm tím, tuy rằng đã đỡ hơn phân nửa, nhưng cưỡi ngựa vẫn không tiện, mới được nửa ngày đã đau đến chết lặng cả người, song như vậy thật ra đã rất tốt rồi, vì ít nhất không đến mức phải đi bộ. A Mạch vài lần đi ngang qua xe la của Từ Tĩnh, lần nào Từ Tĩnh cũng vén mành che lên, cười như không cười hỏi: “A Mạch, có cưỡi ngựa được không? Nếu không lên đây ngồi xe với lão phu, êm lắm!”

A Mạch nghe thấy cũng không hề bực bội, chỉ cực kỳ lễ phép trả lời: “Đa tạ tiên sinh, A Mạch không sao.”

Từ Tĩnh vốn định trêu ghẹo A Mạch, thấy vẻ mặt nàng bình tĩnh như vậy liền mất hết cả hứng thú, nên cũng không trêu chọc nàng nữa.

Một lần, khi A Mạch trở về sau khi truyền tin cho đội ngũ ở phía sau, lúc đi ngang qua bộ binh doanh, đột nhiên nghe thấy có người gọi tên của nàng, ghìm cương ngựa nhìn lại, thì ra là Vương Thất ở bộ binh doanh. Anh ta thấy A Mạch một thân hắc y nhuyễn giáp ngồi trên lưng ngựa, trong mắt ánh lên tia nhìn hâm mộ, không để ý Trương Nhị Đản ở bên cạnh, liền vụng trộm tiến lại gần, nói: “A Mạch, là ngươi thật sao? Vừa rồi thấy ngươi đi qua, Nhị Đản nói là ngươi ta còn không tin.”

A Mạch nhảy xuống, dắt ngựa đi bên cạnh bọn họ, cười nói: “Là ta.” Nói xong lại tiến hai bước tới trước mặt Ngũ trưởng cung kính chào: “Ngũ trưởng.”

Thấy A Mạch hướng mình hành lễ, Ngũ trưởng hoảng sợ, vội vàng nói: “A Mạch, ta không dám nhận lễ của ngươi, trước kia có chút đắc tội, cũng là xin ngài đừng để ý.”

A Mạch vội vàng nói “không có gì”, lại cùng Ngũ trưởng cúi chào, rồi lui trở lại bên cạnh bọn Vương Thất, dắt ngựa đi song song cùng bọn họ.

Vương Thất nhìn nhìn A Mạch, lại thừa dịp trưởng quan không chú ý, cực kỳ hâm mộ sờ soạng ngựa của A Mạch, nói: “Tiểu tử ngươi thật là may mắn, ta đã nói ngươi có nghĩa huynh là một giáo úy đại nhân, thì căn bản không cần đến bộ binh doanh chúng ta chịu khổ, lúc này thì tốt rồi, có cả ngựa để cưỡi, ngươi thăng tiến thì cũng không nên quên các huynh đệ a.”

A Mạch cười cười đang định nói, chợt thấy Đường Thiệu Nghĩa từ phía sau cưỡi ngựa lại gần, liếc mắt đánh giá nàng một cái, lạnh giọng nói: “Lên ngựa.” A Mạch thấy dáng vẻ Đường Thiệu Nghĩa rất nghiêm túc, vội vàng hướng về phía bọn Vương Thất ngượng ngùng cười cười, rồi nhanh chóng xoay người lên ngựa, đuổi theo Đường Thiệu Nghĩa. Chỉ lát sau đã đuổi kịp, A Mạch ghìm cương cùng chạy song song với ngựa của anh ta, gọi: “Đại ca”.

Từ sau khi đến Dự Châu, A Mạch vẫn gọi Đường Thiệu Nghĩa là đại ca, hai người bọn họ tuy rằng không chính thức kết nghĩa giống như lời A Mạch nói, nhưng Đường Thiệu Nghĩa thật ra luôn chiếu cố đến A Mạch, trong lòng A Mạch cũng rất cảm kích anh ta, thực lòng gọi anh ta là đại ca.

Đường Thiệu Nghĩa quay đầu liếc mắt nhìn A Mạch một cái, vẻ mặt nghiêm túc nói: “A Mạch, giờ là lúc nào? Sau khi truyền tin xong thì nên nhanh chóng trở về phục mệnh, sao ngươi lại có thể đứng lại cùng người khác ôn chuyện? Huống chi hiện nay liên quân Thanh, Dự liên hợp lại, nếu để người khác thấy được, họ sẽ không nói ngươi cuồng vọng, mà chỉ nói tướng quân quản lý thuộc hạ không nghiêm mà thôi.”

A Mạch cũng nhận thức được vừa rồi mình quá mức tùy ý, chột dạ nói: “Đại ca, A Mạch sai rồi, về sau ta sẽ không dám nữa.”

Đường Thiệu Nghĩa thấy bộ dạng cúi đầu của A Mạch, cũng không trách cứ thêm nữa, chỉ quay đầu nhìn dãy núi Ô Lan mà trầm mặc không nói.

A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa không hề giáo huấn nàng, liền thuận miệng hướng anh ta nói: “Đại ca, lần này hành quân đúng là nhanh hơn trước rất nhiều! Lần trước ta theo tướng quân đến Dự Châu, chỉ vài trăm dặm đường, vậy mà đại quân phải phải mất nửa tháng sau mới đến Dự Châu.”

Đường Thiệu Nghĩa nhíu mày, quay đầu kinh ngạc nhìn A Mạch chằm chằm, đến khi A Mạch cảm thấy mất tự nhiên mới nói: “A Mạch, hôm đó nghe thấy ngươi ở trước mặt bao chư tướng bày ra mưu kế, đại ca thập phần bội phục, thấy ngươi chính là kỳ tài quân sự, không nghĩ hôm nay ngươi lại hỏi một câu như của một người bình thường như vậy.”

Sắc mặt A Mạch trở nên quẫn bách nhưng ngay lập tức lại khôi phục lại vẻ thản nhiên, hào phóng nói: “Đại ca, A Mạch chỉ biết chút lý luận suông mà thôi, việc quân lớn nhỏ đều là không hiểu, không biết, mưu kế hôm đó cũng là do Từ tiên sinh vì muốn cứu mạng A Mạch nên đã âm thầm đưa tới trước, chứ cũng không phải do A Mạch nghĩ ra.”

Đường Thiệu Nghĩa nghe nàng nói như vậy, nghi ngờ trong lòng mới có chút tiêu tan, liền đưa nàng rời xa khỏi hàng ngũ một chút rồi mới thấp giọng nói: “Ngươi cũng biết lần xuất binh này, quân sĩ của chúng ta chỉ mang theo lương thực cho mười ngày phải không?”

A Mạch gật đầu, đồ ăn của nàng đang cõng trên lưng, nghe nói là do Tĩnh quốc công phát minh, khi nấu chín vừa có thể ăn vừa có thể uống. A Mạch hỏi: “Đại ca, chẳng lẽ mang theo lương thảo cùng những đồ doanh trướng linh tinh thì tốc độ hành quân lại có thể giảm đi nhiều như vậy sao?”

Đường Thiệu Nghĩa gật gật đầu.

A Mạch trong lòng có chút nghi hoặc, nhịn không được lại hỏi: “Tướng quân nói Thạch tướng quân phía sau phải lập tức phái người vận lương cho chúng ta, nhưng tốc độ hành quân của chúng ta nhanh như vậy, đội quân vận tải lương thực có thể đuổi kịp chúng ta sao?”

Đường Thiệu Nghĩa nhìn A Mạch không nói. Trong lòng A Mạch vừa động, đột nhiên hiểu ra, nhịn không được hoảng sợ hỏi: “Chẳng lẽ nói vậy nhưng thực ra là không có quân vận chuyển lương thực cho đại quân? Với chút lượng thực mà chúng ta mang theo, khi trở về phải làm sao bây giờ?”

Trong mắt Đường Thiệu Nghĩa hiện lên một tia kiên nghị cùng ngoan cường, nhẹ giọng nói: “Trong thành Dự Châu chỉ có mấy ngàn người già yếu, Thạch tướng quân lấy ai vận chuyển lương thảo cho chúng ta? Nếu chúng ta thắng, tự khắc sẽ có lương thảo, nếu thua, đã không thể trở về được thì lương thảo có hay không cũng đâu có ích lợi gì?”

A Mạch nhất thời kinh hãi nói không ra lời, nàng nhìn Thương Dịch Chi ở cách đó không xa, mới hiểu được anh ta đúng là thật nhẫn tâm, dùng không đến bốn vạn bộ binh đi phục kích đại quân Bắc Mạc, ngay cả lương thảo để quay về cũng không chuẩn bị. Nhìn không ra anh ta lại có thể là một công tử phong lưu, đúng là trong suy nghĩ đã quyết “không thành công cũng thành nhân”.

Chương 22: Đẫm máu

Mùa thu năm Thịnh Nguyên thứ hai, Thành tổ đem bốn vạn quân đi đánh Bắc Mạc, cách thành Dự Châu hơn sáu trăm dặm về phía Bắc, cùng Trần Khởi tiếp chiến, tiêu diệt hơn hai vạn binh lực địch, Trần Khởi đại bại, bỏ chạy khỏi Tĩnh Dương.

– xuất từ [ hạ sử - thành bản gốc kỉ ] –

Dã Lang Câu chính là thượng nguồn của sông Bình Nguyên, mặc dù gọi là câu(1), thực ra chỉ là một cái khe nhỏ hẹp. Phía tây uốn lượn quanh đỉnh núi cao nhất trong dãy Ô Lan, đến phía đông thì bắt đầu dội xuống thành thác nước Khâu Lăng. Đêm đó, kỵ binh Bắc Mạc của Thường Ngọc Thanh chính là từ trên triền núi phía tây lao xuống, sát nhập vào quân doanh của viện quân Tĩnh Dương vốn đang ngủ say, giết sạch mười lăm vạn đại quân, sau đó ở sườn dốc phía đông đào mấy cái hố rất lớn chôn vùi tất cả. Có lẽ là chôn lấp sơ sài, nên từ đó về sau, mỗi khi đến nửa đêm, trên sườn dốc này liền xuất hiện những đốm lửa xanh lập lòe, như là một đám hồn phách của những người chết oan. Gần đó, vốn cũng có mấy hộ nông gia sinh sống, nhưng từ đó về sau, tất cả cũng đều bỏ đi hết, khiến Dã Lang Câu lại càng thêm hoang vắng.

Liên quân Thanh, Dự đến Dã Lang Câu vào ngày mùng 3 tháng 11, quả nhiên đã đến trước đại quân Bắc Mạc. Thám tử hồi báo, đại tướng quân Bắc Mạc Trần Khởi dẫn hai vạn kỵ binh và năm vạn bộ binh, đi từ Tĩnh Dương, Nam Hạ, đã đến một trấn nhỏ cách Dã Lang Câu năm mươi dặm về phía bắc, hiện đang đóng quân ở đó.

Thương Dịch Chi cùng Từ Tĩnh nhìn nhau, trong mắt đều ánh lên một tia kích động cùng hưng phấn, còn có chút khẩn trương không dễ phát hiện. Từ Tĩnh nói: “Trời cũng giúp ta, chúng ta vẫn còn thời gian một đêm để cho đại quân nghĩ ngơi hồi phục. Trần Khởi đã ở tiểu trạm, sáng mai nhổ trại tất nhiên là kỵ binh đi trước, đồ quân nhu áp tải phía sau. Khi đã lọt vào Dã Lang Câu, kỵ binh của Trần Khởi liền khó có thể dụng võ. Chỉ cần đánh úp kỵ binh, thì bộ binh phía sau không chừng cũng sẽ loạn. Chúng ta thiếu kỵ binh, cũng không thể chỉ trông vào lợi thế địa hình, cho nên chỉ có thể dùng bộ binh đến đánh!”

Thương Dịch Chi khẽ gật đầu đồng ý, không nói nhiều lời, liền dựa theo kế hoạch mà bố trí binh lực. Hơn hai vạn quân Nam Hạ mai phục tại Dã Lang Câu thành một trận địa kiên cường, đồng thời bố trí năm ngàn cung thủ ở hai cánh. Hai cánh này nghiêng về phía trước, kéo dài đến hai sườn núi, nếu kỵ binh Bắc Mạc lọt vào vị trí trung tâm, chẳng những không thể bỏ chạy, mà còn bị cung thủ hai mặt vây chặt, phơi mình dưới mưa tên. Để bảo vệ cung thủ, Thương Dịch Chi lại rút ra hai ngàn trong tổng số ba ngàn kỵ binh dàn hàng ở phía sau, mỗi bên một ngàn kỵ binh. Bên ngoài cánh phải, nghe theo kế của Đường Thiệu Nghĩa, lại bố trí thêm một ngàn kỵ binh làm lực lượng đột kích cùng truy kích, hạ lệnh cho bọn họ chỉ cần bộ binh Bắc Mạc bắt đầu có động tĩnh liền lập tức vọt tới phía sau bọn họ giáp công(2).

Các tướng đều lĩnh mệnh mà đi. Quân Nam Hạ sau một đêm nghỉ ngơi hồi phục liền bố trí những quân chủng khác nhau vào từng trận địa phù hợp. Chính giữa là trận địa của chủ lực bộ binh do quân Thanh Châu của Thương Dịch Chi tạo thành, mỗi binh sĩ đều cầm trường mâu trong tay, hàng ngũ nghiêm chỉnh canh giữ ở nơi đó.

“Dùng trận địa trường mâu đối phó với kỵ binh?” A Mạch nhìn trận địa bộ binh phía dưới, hỏi Đường Thiệu Nghĩa.

Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa cũng không biểu lộ điều gì, lại khiến cho A Mạch cảm thấy một không khí xa lạ, xơ xác, tiêu điều tràn ra, rồi anh ta bình tĩnh trả lời: “Người đời nói thiết kỵ của thát tử Bắc Mạc là thiên hạ vô địch, lại không biết rằng Tĩnh quốc công của ta từ hai mươi năm trước đã từng nói, chỉ cần dùng chiến lược, chiến thuật hay thủ đoạn nào đó khiến cho kỵ binh khi tấn công chính diện vào bộ binh của ta sẽ vấp phải một trận địa được bố trí ngay ngắn, kín kẽ thì bộ binh có thể có được ưu thế phòng ngự rất lớn.”

A Mạch không nói gì, vốn chỉ nghĩ là quân Nam Hạ sẽ ở trong này phục kích đại quân Bắc Mạc, rồi sau đó mặt đối mặt đánh một trận, thì ra hiện giờ quân Nam Hạ lại sử dụng phương pháp khiến cho kỵ binh Bắc Mạc chủ động tấn công mình rồi bộ binh bày trận gây trở ngại cho kỵ binh Bắc Mạc. Nàng không khỏi nghĩ đến phụ thân trong lúc vô tình từng nói rằng bộ binh và kỵ binh đều có ưu khuyết điểm riêng, thật ra so với những lời Đường Thiệu Nghĩa vừa nói cũng có chút đạo lý tương tự.

Đường Thiệu Nghĩa theo thói quen định đưa tay vuốt bội kiếm bên người, đột nhiên hỏi A Mạch: “Vì sao không đeo thanh kiếm ta đưa, ta chính là thiệt tình muốn tặng cho ngươi, tuy nói rằng kiếm là vũ khí được quân đội trang bị, nhưng cũng là vật phẩm của quan quân, có thể tặng cho người khác được.”

A Mạch cười rạng rỡ, vỗ vỗ loan đao bên sườn nói: “Đại ca, ta mới học được chút đao pháp, tuy rằng chỉ là múa đao đùa giỡn thôi nhưng thật ra cũng thấy thuận tay. Ta biết đại ca là thành tâm tặng cho ta bội kiếm, nhưng ta mang theo chỉ sợ sẽ làm hỏng mất một thanh kiếm tốt. Nếu ở trong tay đại ca, có khi nó còn được tắm chút máu của thát tử.”

Đường Thiệu Nghĩa không phải một bà mẹ già, nghe A Mạch nói như vậy, liền thân thiết hỏi: “Đao pháp của ngươi đã thuần thục chưa?”

A Mạch cười nói: “Cũng khá, Trương Sinh là một thầy giáo giỏi, anh ta dạy rất cẩn thận, hơn nữa ta lại thông minh, đương nhiên học rất nhanh.”

Thấy A Mạch khoe khoang, trên mặt Đường Thiệu Nghĩa cũng lộ ra ý cười, ánh mắt đảo qua A Mạch hiện lên một chút ôn nhu, lại quay đầu lẳng lặng nhìn dưới núi, đột nhiên nhẹ giọng hỏi: “A Mạch, ngươi có sợ không?”

“Sợ?” A Mạch sửng sốt, lập tức vừa cười, vừa lắc lắc đầu, nói: “Không, ta không sợ.”

Đường Thiệu Nghĩa quay người nhìn A Mạch, môi khẽ cười, kiên nghị nói: “A Mạch, ta phải đi rồi, đại khái đợi không đến giữa trưa thát tử sẽ đến đây, ngươi mau quay trở lại bên cạnh tướng quân đi.”

A Mạch gật đầu không nói gì.

Đường Thiệu Nghĩa cụp mắt, lại thấp giọng nói: “Ngươi bảo trọng.” Nói xong liền lên ngựa phi xuống dưới núi.

Trong lòng A Mạch có chút rầu rĩ, tựa hồ mỗi một lần cùng anh ta tách ra, anh ta đều xoay người rời đi, sau đó cũng sẽ không quay đầu lại. A Mạch đột nhiên cười khổ, dùng sức lắc lắc đầu, đem chút thương cảm không nên có bức ra ngoài.

Sáng sớm ngày mùng 4 tháng 11, đại quân Bắc Mạc nhổ trại. Quả nhiên là kỵ binh đi trước, bộ binh đi sau, cuối cùng là đội quân vận tải lương thảo và đồ quân nhu. Khi còn cách quân Nam Hạ khoảng hai mươi dặm, thám báo Bắc Mạc phát hiện phía trước Dã Lang Câu xuất hiện kỵ binh Nam Hạ, liền hồi báo tướng tiên phong là Phó Hướng. Phó Hướng xuất thân con nhà tướng tại Bắc Mạc, cùng Thường Ngọc Thanh xưng là tướng môn song tú(3). Phó Hướng tính tình cao ngạo, nhất là từ sau khi Thường Ngọc Thanh nhờ ngàn dặm bôn tập(4) viện quân Nam Hạ mà thành danh, trong lòng rất bất bình, nay nghe thám báo phát hiện kỵ binh Nam Hạ, không những không kinh sợ mà còn lấy làm mừng, lệnh cho kỵ binh tiếp tục tiến lên, cũng không đem tin tức này hồi báo cho nguyên soái Trần Khởi.

Đến giữa trưa, kỵ binh Bắc Mạc đã tiến vào phía trong Dã Lang Câu, quả nhiên gặp bộ binh Nam Hạ bày trận chờ ở bên trong khe. Phó Hướng muốn chấm dứt trận chiến trước khi quân của Trần Khởi ở phía sau đến nơi, vì thế liền hạ lệnh cho kỵ binh phóng lên. Kỵ binh Bắc Mạc cũng không chú ý đến hai cánh cung thủ của quân Nam Hạ, trực tiếp đột kích vào giữa trận. Ngàn vạn kỵ binh chen chúc xông tới, khiến ngọn núi cao nhất của dãy Ô Lan cũng phải rùng mình run rẩy, bụi vàng cuốn theo trăm ngàn vó ngựa, che khuất cả ánh mặt trời.

Kỵ binh Bắc Mạc tốc độ càng lúc càng nhanh, khoảng cách càng ngày càng gần, những kỵ binh phía trước đã muốn vung đao, nhưng đúng vào lúc mắt thấy sẽ nhảy vào giữa trận của đối phương, thì bộ binh trước mắt đột nhiên ngồi xuống, sau đó chính là trường mâu sắc nhọn nghênh đón.

Kỵ binh đang dùng tốc độ nhanh nhất lao tới nên không có khả năng dừng lại. Chính vì vậy mà kỵ binh Bắc Mạc chỉ có thể trơ mắt nhìn chính mình cưỡi ngựa nhảy vào trong một rừng trường mâu. Có người bị trường mâu trực tiếp chĩa lên trời, có người tránh được, nhưng ngựa lại bị trường mâu đâm tới, vì thế mà ngã xuống, cuối cùng cũng vẫn bị hất ngã, hoặc chết hoặc bị thương, rồi rất nhanh sẽ có người vung đạo hạ xuống.

Kỵ binh ở hai bên cũng không thể chạy thoát, rất nhiều người đã bị trúng tên của cung thủ Nam Hạ bố trí hai bên sườn núi bắn xuống.

Trong lúc nhất thời, trường mâu dựng đứng như tường thành, tên từ trên trời bay xuống như mưa. Đó chính là cách mà quân Nam Hạ khiến kỵ binh Bắc Mạc phải xuống ngựa, hàng ngàn con ngựa không có người cầm cương chạy như bay khắp nơi, khiến hàng ngũ bọn họ càng thêm hỗn loạn…

Hiệu quả, đúng là tốt hơn cả mong đợi.

Rất nhiều năm sau, trong sách giáo khoa của học viện quân sự Nam Hạ đều nhắc tới trận chiến tại Dã Lang Câu, thậm chí còn nhấn mạnh đến tính mạo hiểm và yếu tố trùng hợp của trận đánh. Hai vạn bộ binh Nam Hạ chặn đánh hai vạn kỵ binh Bắc Mạc: vị trí hiểm yếu; tướng chỉ huy kỵ binh Bắc Mạc lại là tên Phó Hướng tự cuồng tự đại. Cả hai yếu tố này kết hợp lại, làm nên chiến thắng tại Dã Lang Câu, thiếu một trong hai thứ cũng không được.

Trận chiến này vẫn tiếp tục đến sau giờ ngọ, quân Nam Hạ bắt đầu tấn công, bắn bị thương tướng tiên phong Phó Hướng của Bắc Mạc, kỵ binh Bắc Mạc mất đi sức chống cự, lập tức rút về phía sau. Khi bộ binh Bắc Mạc tới Dã Lang Câu, cũng vừa lúc gặp kỵ binh của mình đang bỏ chạy tán loạn. Bộ binh không kịp mở rộng khoảng cách hàng ngũ để cho kỵ binh đi qua, khiến hai bên lao vào nhau, trong lúc nhất thời, người ngã ngựa đổ, người Bắc Mạt bị chính kỵ binh của mình dẫm chết vô số. Theo sát ở phía sau kỵ binh Bắc Mạc, quân Nam Hạ lại đang đánh tới.

Trên sườn núi, A Mạch đứng phía sau Thương Dịch Chi quan sát tình hình chiến đấu, thấy từ phía xa xa, bộ binh Bắc Mạc sau một lát hỗn loạn đã dần ổn định trở lại, mở rộng khoảng cách đội ngũ cho kỵ binh của mình đi qua, liền biết được trong quân Bắc Mạc đã có người ổn định trận tuyến.

Thương Dịch Chi bỗng chau mày, sau khi dùng ánh mắt hỏi Từ Tĩnh một chút, liền trầm giọng nói: “Đi báo với Đường Thiệu Nghĩa, bắt đầu hành động, đánh sâu vào phía sau bộ binh Bắc Mạc.”

A Mạch nhận lệnh, liền ra roi thúc ngựa phi về hướng Đường Thiệu Nghĩa mai phục kỵ binh. Vừa đuổi tới cửa khẩu của Dã Lang Câu, chợt thấy phía sau quân Bắc Mạc đột nhiên loạn cả lên, Đường Thiệu Nghĩa đã dẫn một ngàn kỵ binh ở phía sau trận địa đánh vào. A Mạch cười, biết mình không cần phải đi nữa, liền quay ngựa trở về bên cạnh Thương Dịch Chi để phục mệnh, nhưng chính trong lúc xoay người, nàng bỗng thấy quân Bắc Mạc đột nhiên dựng lên một lá cờ lớn, phía trên viết một chữ “Trần”.

Trần Khởi! A Mạch trong lòng cứng lại, liền hiểu được thủ lĩnh quân Bắc Mạc lần này đúng là Trần Khởi! Nàng mặc dù vẫn đi theo bên cạnh Thương Dịch Chi, nhưng mỗi khi Thương Dịch Chi họp quân sự đều không cho phép cận vệ ở bên cạnh. Hơn nữa, lần này hành động thập phần cơ mật, cho nên các tướng lãnh đều rất kín miệng, cho nên A Mạch không hề biết Trần Khởi chính là tướng cầm quân lần này.

A Mạch gắt gao nghiến chặt khớp hàm, trên mặt không còn chút huyết sắc, hai tay cầm cương ngựa đã nổi gân xanh, trong mắt lóe ra hai ngọn lửa. Đột nhiên, A Mạch dùng sức thúc mạnh hai chân vào bụng ngựa, giật dây cương, lao vọt vào trong hàng ngũ quân Bắc Mạc.

Nàng muốn đi tìm anh ta, nàng muốn hỏi anh ta là vì cái gì!

Binh lính Nam Hạ cùng Bắc Mạc đang ra sức chém giết lẫn nhau, chiến trường vô cùng hỗn loạn. A Mạch phi ngựa từ trên sườn núi lao xuống, lọt vào giữa nơi hỗn chiến của quân đội hai nước, nhắm thẳng về phía quân Bắc Mạc mà phóng tới. Nàng múa tít thanh đao trong tay, thỉnh thoảng lại từ trên lưng ngựa cúi xuống chém ngã lính Bắc Mạc bên cạnh, máu không chỉ vấy đỏ phía trên thân thể của nàng, mà hạ thể cùng bộ lông trắng xám của con ngựa nàng đang cưỡi cũng đều bị nhuộm đỏ…… Nàng chưa bao giờ giết nhiều người như vậy, cũng chưa bao giờ phát giác mình lại cưỡi ngựa giỏi như vậy. Vào giờ phút này, A Mạch đã không phải là A Mạch nữa, mà chỉ còn lại một lưỡi đao giết người.

A Mạch vung đao bổ về phía một tên lính Bắc Mạc, lực đánh của nàng mạnh đến nỗi khiến thanh đao cắm thật sâu vào trong cơ thể người nọ, nàng không còn nghe được tiếng kêu la thống khổ của người đó, hết thảy trước mắt nàng đã không còn đường nét hay âm thanh nữa, chỉ còn duy nhất một động tác vung lên, hạ xuống, lặp đi lặp lại. Mỗi một lần vung đao lại một lần xuất hiện thêm một gương mặt thống khổ. Trong lúc nàng đang cố sức rút đao ra khỏi cơ thể của người nọ, còn chưa kịp chém vào tên lính khác, đột nhiên cảm thấy dưới thân hẫng một cái, chiến mã của nàng đã bị đâm trúng cổ, thân hình to lớn của nó ầm ầm đổ xuống. Cơ thể A Mạch phản ứng trước khi kịp suy nghĩ, theo bản năng toàn thân hướng sang bên cạnh lăn đi, cùng lúc tránh được lưỡi đao của địch nhân chỉ cách đó nửa bàn chân……

Lúc này, A Mạch vốn không còn là A Mạch. Trong đầu nàng chỉ là một mảnh trống rỗng, thân thể theo bản năng né qua bên cạnh tránh được lưỡi đao vừa chém tới, sau đó vung đao trong tay, từng bước một lao sâu vào trong hàng ngũ quân Bắc Mạc.

Lá cờ viết chữ “Trần” kia càng lúc càng tới gần, người trước mặt đã bị nàng dùng đao chặt đứt yết hầu, máu từ miệng vết thương phun ra như nước, rơi lên tóc của nàng, sau đó chảy xuống trán, phủ mờ ánh mắt của nàng, nàng tựa hồ lại ngửi thấy được mùi máu, giống như máu của phụ thân đêm đó, ánh lửa chói mắt, lại là một màu đỏ khác.

Khí lực, cuối cùng cũng đã cạn, nhưng trước mặt cũng không có người nào dám đến gần để ngăn trở nàng. A Mạch, một thân đầy máu, tỏa ra sát khí lạnh thấu xương, cứ như vậy đi từng bước kiên định về phía lá cờ.

Dưới cờ, một thanh niên dáng người cao lớn đang đứng, một thân chiến bào đen truyền thống của Bắc Mạc, tay vịn bảo kiếm bên hông, thần sắc hờ hững nhìn một kỵ binh Nam Hạ từ sau trận lao tới.

——————-

Chú thích:

1- Câu: lạch nước

2- Giáp công: tấn công giáp lá cà

3- Tướng môn song tú: hai đại biểu tinh tú xuất thân từ gia đình tướng gia.

4- Bôn tập: cuộc tập kích lớn

Nguồn: vanvietbooks