28/11/12

A Mạch tòng quân (C88-89)

Chương 88: Mai phục

Lâm Mẫn Thận nhất thời nói không ra lời, chỉ nhìn A Mạch chằm chằm, nhìn một lát thấy vẻ mặt A Mạch không giống như đang nói dối, cuối cùng cũng đành phải tiếp nhận tin tức Từ Tĩnh không ở trong quân là sự thật.

A Mạch cũng lẳng lặng nhìn Lâm Mẫn Thận, muốn xem anh ta sẽ phản ứng như thế nào, ai ngờ anh ta sau một lúc nhìn mình, phút chốc đã nở nụ cười, cảm thán thốt ra vài câu “Hay”, rồi lại vỗ tay cười nói: “Mạch tướng quân, nói như vậy, trận phục kích lần này chỉ dựa vào hai chúng ta!”

A Mạch cũng thản nhiên cười theo, nói: “Được!”

Vẻ tươi cười trên mặt Lâm Mẫn Thận khẽ đông cứng lại, liếc A Mạch một cái, rồi kéo ngựa tránh sang bên đường, nói: “Mạch tướng quân đi trước đi.”

A Mạch cũng không khách khí, giật dây cương mà đi. Lâm Mẫn Thận một mình ở phía sau, đợi bóng dáng của A Mạch dần dần đi xa, lúc này mới giục ngựa chậm rãi theo sau.

Từ thành Thái Hưng đi về hướng đông, đường hành quân mới đầu đều là bình nguyên bằng phẳng, nhưng dần dần, địa thế bắt đầu nhấp nhô, càng đi về phía đông, sự thay đổi của địa thế càng lớn, tốc độ hành quân cũng chậm lại, cứ như vậy được mấy ngày thì tiến gần đến một khe sâu, A Mạch lệnh cho đại quân dừng bên ngoài khe bí mật hạ trại, lại phái thám báo đi về hướng đông tìm hiểu tin tức, xem ra tựa hồ đã quyết định phải mai phục ở nơi này.

Hai ngày này, Lâm Mẫn Thận luôn nghiên cứu bản đồ địa hình của Thái Hưng và Thanh Châu, thấy A Mạch đột nhiên hạ trại ở nơi này, không khỏi tìm đến hỏi: “Vì sao lại phục kích ở đây, phía trước vẫn còn địa điểm phục kích tốt hơn rất nhiều mà?”

A Mạch đang giao nhiệm vụ cho Lý Thiếu Hướng phân phát đồ ăn đủ dùng trong ba ngày cho quân sĩ, nghe Lâm Mẫn Thận hỏi, thuận miệng đáp: “Có lẽ có.”

Lâm Mẫn Thận nghe vậy thì sửng sốt, nhìn A Mạch mà cảm thấy bất khả tư nghị(1), lặp lại: “Có lẽ có?”

A Mạch không để ý tới anh ta, chỉ dặn Lý Thiếu Hướng mấy ngày sau cũng không được cho binh lính nổi lửa, bất luận là bếp lớn hay bếp nhỏ. Lý Thiếu Hướng nghe vậy đều nhất nhất gật đầu, lĩnh mệnh rời đi. A Mạch lúc này mới xoay người lại nhìn Lâm Mẫn Thận, đáp: “Từ đây đi về hướng đông còn hơn hai ngàn dặm nữa mới đến Thanh Châu, ta lại không đi qua đường này, làm sao biết được phía sau có địa điểm phục kích tốt hơn hay không, chẳng lẽ Lâm tham quân biết?”

Lâm Mẫn Thận bị A Mạch hỏi thì nghẹn họng, thiếu chút nữa không thể thở nổi, phải hít một hơi thật sâu mới có thể nói tiếp: “Đại tướng quân lệnh cho ta chờ ở phía đông ngăn chặn viện binh của thát tử, mà Thường gia lãnh binh đông tiến đến Thanh Châu, khoảng cách đâu chỉ ngàn dặm! Ngươi hành quân cùng lắm cũng mới có năm ngày, cách Thái Hưng chỉ khoảng hơn hai trăm dặm đã cho mai phục, cho dù viện binh thát tử hiện giờ đang chạy đến Thái Hưng, lúc này ngươi còn phải đợi thát tử bao lâu? Huống chi nơi này không phải là địa điểm mai phục tốt nhất, vậy mà ngươi vẫn chọn, Lâm mỗ thật sự không thể gật bừa, còn mong Mạch tướng quân giải thích cho Lâm mỗ một đôi lời.”

A Mạch lẳng lặng nghe, đến khi Lâm Mẫn Thận ngừng nói mới bình tĩnh hỏi: “Lâm tham quân nói xong rồi?”

Lâm Mẫn Thận không nói, gật đầu.

A Mạch khẽ cười một tiếng, nói: “Nếu Lâm tham quân hỏi, ta đương nhiên phải trả lời, chẳng qua ta có mấy vấn đề muốn hỏi Lâm tham quân trước.”

Nghe A Mạch nói như thế, Lâm Mẫn Thận tuy có chút nghi hoặc, song vẫn thản nhiên nói: “Mạch tướng quân cứ hỏi.”

A Mạch không vội, không gấp hỏi: “Lâm tham quân là tham mưu quân sự dưới trướng đại tướng quân, vậy xin hỏi nhân số cả ba doanh của chúng ta hiện có bao nhiêu người? Trang bị loại nào? Lương thảo bao nhiêu? Từ đây đến Thanh Châu cách bao xa, địa hình như thế nào? Đi theo đường nào? Có bao nhiêu địa điểm thích hợp để phục kích? Quân ta đi tới đó mất mấy ngày? Thời gian đi từ nay đến đó thời tiết sẽ như thế nào? Cần dùng hết bao nhiêu lương thảo? Quân sĩ như thế nào? Thát tử có đến cứu viện Thái Hưng không? Sẽ đến bao nhiêu người? Bộ binh hay kỵ binh nhiều hơn? Ai cầm binh? Khi nào thì xuất phát? Bao lâu thì tới địa điểm phục kích?” A Mạch cười cười, thấy Lâm Mẫn Thận chỉ há miệng nói không ra lời, lại đùa cợt nói: “Lâm tham quân, những vấn để này trong binh thư có nói qua không?”

Lâm Mẫn Thận bị A Mạch hỏi vốn đã giật mình, lại nghe nàng châm chọc, trong mắt rốt cuộc không dấu được một tia buồn bực xấu hổ.

A Mạch cười nhạo một tiếng, còn nói thêm: “Tiểu hoàng đế thát tử vẫn còn ở tại Dự Châu, thiết kỵ thát tử nơi đó không dưới hơn mười vạn, mà Dự Châu cách Thái Hưng cùng lắm tám trăm dặm, Lâm tham quân tự mình có thể tính được kỵ binh thát tử cần bao nhiêu ngày sẽ đến được Thái Hưng. Lại nói Lâm tham quân ở dưới trướng của đại tướng quân, tất nhiên biết đại tướng quân cho Đường tướng quân định hạn là bao nhiêu, mười ngày, cùng lắm chỉ mười ngày, trong vòng mười ngày này, phải phá tan được đại quân của Chu Chí Nhẫn, nếu phá không được, đại tướng quân chúng ta cũng chỉ có thể nhượng lại bao hạt giống cho người ta mà thôi. Lâm tham quân nói năm ngàn nhân mã này của chúng ta nên tiếp tục đi về hướng đông mấy ngày nữa thì mai phục? Đi xa, ngươi còn có thể trở về được sao?”

Lâm Mẫn Thận bị A Mạch hỏi thì á khẩu không trả lời được, chỉ nhìn A Mạch chằm chằm, ngay cả ánh mắt cũng trở nên mê muội.

A Mạch lười không muốn nói nhiều lời với anh ta, xoay người phân phó Trương Sỹ Cường mời chủ tướng hai doanh kia đến nghị sự, lại sai mấy tên quan quân bố trí phục kích. Lâm Mẫn Thận thấy bản thân mình đứng đó cũng không có gì thú vị, muốn đi, nhưng lại muốn nghe A Mạch rốt cuộc bố trí phục binh như thế nào, đành phải ra vẻ lạnh mặt đứng yên ở cửa trướng một hồi, chờ mọi người nhất nhất lĩnh mệnh rời đi, lúc này mới lại tiến lên, ngập ngừng một lát rồi mới mở miệng hỏi: “Những lời ngươi vừa nói lúc nãy đều do Từ tiên sinh giảng cho hay sao?”

A Mạch bị hỏi thì ngẩn ra, cười đáp: “Cứ cho là vậy đi.”

Trong lòng Lâm Mẫn Thận nhất thời nhẹ hẫng, dáng vẻ như thư sinh không khỏi thở dài: “Từ tiên sinh quả thực như người thần vậy.”

A Mạch nhìn Lâm Mẫn Thận, khóe môi nở nụ cười, nói: “Phải, ông ta là người thần, trong triều chỉ cần nuôi được vài người thần như ông ta vậy thì thát tử đã tự mình chạy về nhà rồi, còn cần gì phải nuôi binh nữa!”

Lâm Mẫn Thận nhận ra A Mạch đang bỡn cợt mình, có chút khó hiểu nhìn A Mạch, đang muốn hỏi lại, thì màn trướng lại được vén lên, chủ tướng hai doanh kia đã theo Trương Sỹ Cường đến. Hai người kia thấy Lâm Mẫn Thận cũng ở đó, chỉ nghĩ anh ta cũng được A Mạch mời đến nghị sự, nên không để ý lắm, A Mạch cũng không nhiều lời, chỉ cùng bọn họ thương lượng nên mai phục trong khe sâu như thế nào, Lâm Mẫn Thận vẫn yên lặng lắng nghe, đến khi nghị sự chấm dứt cũng không chen vào câu nào.

Đợi khi hai viên tướng rời đi, Lâm Mẫn Thận cũng theo ra ngoài, khi đến cửa trướng lại dừng lại, quay người nhìn về phía A Mạch còn đang cúi đầu xem sa bàn, lên tiếng hỏi: “Mạch tướng quân –”

A Mạch nghe tiếng ngẩng đầu, nhìn về phía Lâm Mẫn Thận.

Lâm Mẫn Thận do dự một chút, mới hỏi: “Không biết vấn đề vừa rồi, có thể cho Lâm mỗ biết đáp án được không?”

A Mạch nhướn mày, hỏi: “Vấn đề gì?”

Lâm Mẫn Thận nói: “Thát tử có cứu viện Thái Hưng không? Sẽ đến bao nhiêu người? Bộ binh hay kỵ binh nhiều hơn? Ai cầm binh? Khi nào thì xuất phát?”

A Mạch cười cười, nói: “À, này đó ta cũng không biết.”

Lâm Mẫn Thận nhất thời không nói gì, chỉ nhìn A Mạch.

A Mạch vừa cười vừa nói: “Ta cũng không phải là hoàng đế của thát tử, làm sao biết được? Chờ khi chúng đến đây, tự nhiên sẽ biết.”

Lâm Mẫn Thận lúc này mới phát hiện mình lại bị A Mạch giỡn, rốt cuộc không tiếp tục duy trì được vẻ mặt hoàn hảo nữa, hừ lạnh một tiếng nói: “Đa tạ Mạch tướng quân chỉ giáo, Lâm Mẫn Thận xin nhận!”

Lâm Mẫn Thận nói xong xoay người bỏ đi.

“Quay lại!” A Mạch đột nhiên quát.

Thân ảnh Lâm Mẫn Thận ngừng lại một chút, quay người, tựa tiếu phi tiếu nhìn A Mạch, hỏi: “Mạch tướng quân còn có gì chỉ giáo?”

A Mạch lẳng lặng nhìn Lâm Mẫn Thận một lát, nghiêm mặt nói: “Ba ngày, chúng ta chỉ có thể chờ ở đây ba ngày, ba ngày sau, mặc kệ là có thể phục kích thát tử được hay không cũng phải quay về Thái Hưng, đại tướng quân nếu đánh tan đại quân của Chu Chí Nhẫn mà vào Thái Hưng, cũng sẽ bị viện quân thát tử tiến đến bao vây. Kỵ binh thát tử tuy rằng không thể đánh hạ thành Thái Hưng, nhưng lại có thể chặn giết chúng ta, nếu chúng ta không thể vượt trước bọn họ tiến vào Thái Hưng, cái chờ đợi chúng ta chỉ có… bị tiêu diệt toàn bộ.”

Lâm Mẫn Thận rùng mình, yên lặng đứng đó một lúc lâu, xoay người hất bức màn trướng đi ra ngoài.

Đợi đến sáng sớm ngày thứ hai, A Mạch lĩnh quân tiến vào khe sâu mai phục, theo kế hoạch đã định, phân chia nhân lực của ba doanh bố trí phục kích bên trong hai bên sườn núi, truyền lệnh nghiêm cấm binh lính tùy ý lên tiếng, đi lại. A Mạch tự mình chọn một vị trí cao có tầm quan sát tốt nhất trong khe, cũng không bố trí doanh trướng, chỉ mang theo Trương Sỹ Cường và vài thân vệ yên lặng ngồi dưới tàng cây, trong tay cầm một nhánh cây vẽ nghuệch ngoạc trên mặt đất.

Phục kích như vậy được hai ngày, trong khe sâu đều không hề động tĩnh, chỉ thỉnh thoảng có thám báo cưỡi khoái mã từ ngoài khe sâu chạy về, tin tức mang đến đều là chưa phát hiện ra quân đội của thát tử. A Mạch nghe xong cũng không hề vội vàng dao động, yên lặng ăn lương khô, quấn áo choàng quanh người rồi dựa vào thân cây ngủ. Trương Sỹ Cường sợ nàng bị lạnh, vội vàng lấy áo choàng của mình đắp cho nàng.

A Mạch từ từ nhắm hai mắt lại, ném trả áo choàng trên người cho Trương Sỹ Cường, thấp giọng nói: “Không cần, ngươi cùng bọn họ thay ca nhau mà ngủ đi.”

Trương Sỹ Cường yên lặng cầm lấy áo choàng, ngồi xuống một bên, nhưng lại không ngủ, chỉ lấy bội kiếm xuống, dùng góc áo chậm rãi lau.

Đợi cho đến khi trời tờ mờ sáng, khi Lâm Mẫn Thận lại đến tìm A Mạch, A Mạch vẫn quấn áo choàng ngủ dưới tàng cây. Lâm Mẫn Thận thấy nàng ngủ say, chần chờ đứng lại một lát rồi mới nhẹ nhàng bước lên, chưa kịp đến trước mặt A Mạch, thình lình nghe Trương Sỹ Cường ở một bên nhẹ giọng gọi: “Lâm tham quân.”

Lâm Mẫn Thận dừng lại, quay đầu thấy Trương Sỹ Cường đã từ bên cạnh đứng lên hành quân lễ với anh ta rồi nhỏ giọng nói: “Ngài lại đây.”

Lâm Mẫn Thận xoa cằm, đến khi quay đầu lại thì thấy A Mạch đã ngồi ngay ngắn, chỉ ngẩng đầu nhìn mình, trong mắt không một chút nhập nhèm, chỉ hỏi: “Chuyện gì?”

Lâm Mẫn Thận đến ngồi xổm trước mặt A Mạch, yên lặng nhìn nàng chăm chú, chậm rãi nói: “Hôm nay đã là ngày thứ ba rồi.”

A Mạch không nói, chỉ là lẳng lặng nhìn Lâm Mẫn Thận.

Lâm Mẫn Thận lại thấp giọng nói: “Nếu như hôm nay không thấy thát tử đến, chúng ta có quay về Thái Hưng thật không?”

A Mạch nhíu mày, ánh mắt không khỏi lóe lên vẻ âm hiểm, âm thanh lạnh lùng nói: “Chẳng lẽ Lâm tham quân cho rằng ta hay nói giỡn lắm sao?”

Lâm Mẫn Thận nhìn A Mạch một lúc lâu, khóe miệng đột nhiên nhếch lên, nói: “Tốt lắm, ta sẽ chờ ngươi một ngày!” Nói xong liền đứng dậy, nhưng cũng chưa rời đi, chỉ đi cách A Mạch vài bước, rồi cũng ngồi xuống dựa vào gốc cây, ngẩng đầu yên lặng nhìn bầu trời.

Thấy anh ta phản ứng như thế, A Mạch lại thấy có chút buồn cười, nhất thời cũng không để ý tới anh ta, chỉ tiếp tục dựa vào gốc cây nhắm mắt dưỡng thần. Cứ như vậy lại đợi thêm nửa ngày, Vương Thất đột nhiên khẽ khàng chạy đến bên người A Mạch, thấp giọng dồn dập nói: “Thám báo vừa báo về, cách hướng đông bốn mươi dặm xuất hiện đại đội binh mã của thát tử, soái kỳ đúng là có một chữ ‘Thường’!”

Đuôi lông mày của A Mạch lập tức nhướn lên, còn chưa kịp mở miệng, đã thấy cách đó không xa, Lâm Mẫn Thận lập tức ngồi ngay ngắn dậy, hai mắt sáng như đuốc nhìn sang bên này. A Mạch thản nhiên đưa mắt nhìn anh ta một cái, trầm giọng ra lệnh cho Vương Thất: “Rút thám báo ngoài cốc về, ngàn vạn lần không được để cho thát tử phát hiện.”

Vương Thất cúi đầu tuân lệnh rồi vội vàng rời đi.

A Mạch lại phân phó viên quan phụ trách liên lạc bên cạnh: “Truyền lệnh xuống, từ giờ phút này, binh lính phục kích các nơi tuyệt đối không được gây nên bất kỳ tiếng động nào, trái lệnh, chém!”

Viên quan phụ trách liên lạc đi đến một bên vẫy vẫy tay, mấy tên lính thông tin canh giữ bên ngoài liền nhanh chóng chạy lại, viên quan phụ trách liên lạc thấp giọng công đạo vài câu, những binh lính này liền rất nhanh biến mất trong rừng cây.

Lâm Mẫn Thận vẫn chú ý quan sát A Mạch, thấy nàng chỉ phân phó hai câu này rồi lại nhắm mắt dựa vào thân cây, trong lòng bất giác có chút nôn nóng, muốn đi sang hỏi lại sợ A Mạch chê cười, đành phải cố gắng kiềm chế tâm tình, yên lặng ngồi ở một bên. Ai ngờ cứ đợi như vậy cho đến khi trời tối, cũng không thấy tin tức thát tử vào cốc, Lâm Mẫn Thận cuối cùng không nhịn được, lên tiếng hỏi A Mạch: “Rút hết thám báo ngoài cốc về, chúng ta chẳng phải sẽ thành người mù sao? Như thế thì làm sao biết được động tĩnh của thát tử? Ngay cả thát tử lúc này ở đâu cũng không biết?”

A Mạch thản nhiên liếc nhìn anh ta một cái, không chút để ý đáp: “Thát tử không vào cốc, tất nhiên là ở ngoài cốc hạ trại, thế thì còn dùng thám báo để làm gì?”

A Mạch vừa dứt lời, một bóng người lặng lẽ từ dưới đi lên, đến gần mới nhận ra là Vương Thất, chợt nghe anh ta thấp giọng nói: “Thát tử ở ngoài cốc hạ trại, thám báo thát tử không ngừng vào cốc dò đường, chúng ta cũng không dám tiếp cận quá cần, từ xa quan sát thấy có vẻ như nhân số cũng không ít.”

A Mạch nhẹ nhàng gật đầu, đảo mắt thấy Lâm Mẫn Thận vẫn chăm chú nhìn mình, cười nhạo một tiếng nói: “Lâm tham quân vẫn nên ngủ một giấc cho ngon đi, sau trận chiến ngày mai có được ngủ nữa hay không khó mà nói được.”

Lâm Mẫn Thận biết rõ A Mạch giễu cợt mình nhưng cũng không giận, trong lòng thầm nghĩ tình hình trận đánh ngày mai sẽ thế nào, không biết thát tử đã có đề phòng gì chưa? Có thể tiêu diệt toàn bộ bọn chúng hay chỉ là gây thiệt hại nặng mà thôi? Nghĩ ngợi chán đâm ra lại oán hận A Mạch vì đã rút toàn bộ thám báo ngoài cốc về, khiến cho hiện giờ không thể biết được thát tử có bao nhiêu binh mã, lại nhớ ra A Mạch chỉ thương nghị cùng chủ tướng hai doanh, trong khi bản thân anh ta là một tham mưu quân sự thế mà ngay cả những thứ ngoài lề cũng không được tham gia bàn bạc, bất giác có chút cáu giận, muốn ngày mai lao xuống khe sâu giết chết thát tử, ít ra cũng được một chữ “Dũng”…

Một đêm này, Lâm Mẫn Thận ngàn suy vạn nghĩ, mà A Mạch lại chỉ là nhắm mắt dưỡng thần.

Đợi cho đến hừng đông ngày kế tiếp, quân Bắc Mạc đóng bên ngoài cốc cuối cùng cũng nhổ trại mà đi, kỵ binh đi tiên phong tiến vào trong cốc đầu tiên, sau khi đi qua rồi mới đến bộ binh cùng lá cờ thêu chữ “Thường” đi tiếp theo sau. Lâm Mẫn Thận biết A Mạch đã đem binh lực chia làm ba bộ phận, chỉ đánh thọc sườn, chặn đánh, đánh chốt đuôi, giờ vẫn không thấy A Mạch ban mệnh lệnh tấn công, không khỏi sốt ruột, nhịn không được lên tiếng nhắc nhở: “Thát tử đã vào cốc rồi, lúc này không đánh còn đợi đến khi nào?”

A Mạch trầm mặc nhìn tình hình hành quân của thát tử trong cốc, rồi cũng không để ý tiếp.

Lâm Mẫn Thận tuy rằng trong lòng vội vàng xao động cũng đành bất đắc dĩ, đi lòng vòng tại chỗ vài vòng, rồi cũng nhìn về phía trong cốc, đợi đến khi lương thảo cùng đồ quân nhu của Bắc Mạc cũng đã tiến vào trong cốc rồi, anh ta không còn nhẫn nại được nữa, đi vài bước đến bên cạnh A Mạch, cả giận nói: “Đổ đầu đầu dĩ quá, trảm yêu yêu dĩ tẩu(2), hiện giờ ngay cả cái đuôi của thát tử cũng đã đi qua rồi, chẳng lẽ Mạch tướng quân cứ như vậy mà thả cho thát tử ra khỏi cốc sao?”

Tầm mắt A Mạch vẫn hướng vào trong cốc, nghe Lâm Mẫn Thận nói như thế, cũng không tranh cãi với anh ta, chỉ lạnh giọng phân phó tả hữu: “Đem Lâm Mẫn Thận trói lại cho ta!”

——————-

Chú thích:

1- Bất khả tư nghị: không thể suy nghĩ, bàn luận được

2- Đổ đầu đầu dĩ quá, trảm yêu yêu dĩ tẩu: đổ xúc xắc, xúc xắc đã trượt mất, chém yêu, yêu đã chạy. Tức là làm việc gì cũng bỏ lỡ.

Chương 89: Phục kích

Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, mấy thân binh bên cạnh A Mạch đã đánh khẽ vào người anh ta, Lâm Mẫn Thận theo bản năng trầm bả vai xuống, đưa một tay lên bả vai của mình, ngón tay nhanh chóng nắm lấy cổ tay của người nọ, đang muốn phát lực thì lại thay đổi chủ ý, vội dấu dấu diếm diếm buông lỏng bàn tay, tránh né tượng trưng vài cái rồi để mặc cho mấy thân binh kia trói anh ta lại, ngoài miệng vẫn thấp giọng cả giận nói: “Mạch Tuệ! Ngươi muốn làm gì!”

A Mạch không quay đầu, chỉ thấp giọng quát: “Bịt nốt miệng hắn lại cho ta!”

Thân binh lại tiến lên tùy ý tìm một mảnh vải bố nhét vào miệng Lâm Mẫn Thận, Lâm Mẫn Thận chỉ thấy trong miệng tràn đầy vị tanh tưởi, khiến anh ta thiếu chút nữa thì lăn ra hôn mê bất tỉnh.

A Mạch vẫn chăm chú nhìn vào khe núi, đến khi đội quân vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu đều ra khỏi khe núi cũng không phát lệnh tấn công. Cứ như vậy, đừng nói là Lâm Mẫn Thận, mà ngay cả những người khác cũng cảm thấy vừa sợ vừa nghi, thầm nghĩ chẳng lẽ A Mạch muốn thả thát tử ra khỏi khe núi. Nhưng đội quân thát tử này cùng lắm chỉ mấy ngàn người, còn chưa bằng nhân số của ba doanh, A Mạch sao lại phải úy kỵ như vậy.

Mọi người còn đang nghi hoặc, chợt thấy dưới chân dốc ầm ầm chấn động, chưa đầy một lát sau, âm thanh chấn động này không những không giảm mà ngược lại còn tăng lên, khiến cho cả khe núi đều rung chuyển. Mọi người vừa sợ vừa nghi hoặc, nhất tề nhìn về phía A Mạch. A Mạch chỉ lẳng lặng quan sát, sắc mặt cũng có chút tái nhợt, ngay cả thần sắc cũng phai nhạt ba phần, hai con ngươi tối đen lại càng thêm sâu thẳm.

Khuôn mặt Vương Thất tràn đầy sự kinh hãi từ phía đông chạy tới, thở không ra hơi nói: “Thát, thát tử, lại có kỵ binh vào khe núi !”

Kỳ thật không cần anh ta nói, mọi người đều đã nhìn thấy thiết kỵ Bắc Mạc dồn dập nện vó tiến vào trong khe khiến bụi tung mù mịt, che kín cả bầu trời, trong khoảng thời gian ngắn, tất cả mọi người đều sửng sốt. Phải biết nguyên tắc hành quân của đại quân đều là đội tiên phong đi trước mở đường, kỳ vệ đội đi giữa, còn đội lương thảo và đồ quân nhu đi cuối cùng. Mọi người thấy lương thảo của thát tử đã đi qua, đều nghĩ rằng số lượng của thát tử chỉ có thế, ai ngờ phía sau lại xuất hiện một đại quân kỵ binh lớn như thế!

Kỵ binh Bắc Mạc tuy tiến vào khe sâu song vẫn duy trì đội hình tác chiến, trình tự bố trí các cánh quân rất trật tự, năm ngựa thành một hàng ngang, sáu hàng thành một nhóm, hai nhóm thành một dãy, cứ như vậy theo khoảng cách từ ngoài mà tiến vào khe núi.

Đội vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu Bắc Mạc phía trước mặc dù quá nửa đã ra khỏi khe núi, nhưng lối ra chật hẹp, không thuận tiện cho việc di chuyển, nên tốc độ thập phần chậm rãi, khi đội quân tiên phong thiết kỵ Bắc Mạc tới lối ra, thì đội vận chuyển lương thảo vẫn còn gần một nửa chắn ở đó, khiến đại đội kỵ binh phía sau cũng bị chặn lại.

Kỵ binh tụ lại càng lúc càng nhiều, đội hình tác chiến cũng có chút tán loạn, ban đầu vốn giữ khoảng cách hơn một trăm bước giữa các nhóm, thì lúc này khoảng cách càng lúc càng bị thu hẹp lại, nhanh chóng tụ thành một khối.

A Mạch một mực yên lặng, trầm mặc quan sát, lúc này mới quay người đi đến ngồi xổm trước mặt Lâm Mẫn Thận, bình tĩnh nhìn anh ta, trầm giọng nói: “Kỵ binh thát tử không dưới ba vạn, chúng ta đánh hay không đánh?”

Miệng Lâm Mẫn Thận bị bịt kín không nói được, chỉ có thể trợn to mắt mà nhìn A Mạch.

A Mạch trông có vẻ như là tới hỏi ý kiến của Lâm Mẫn Thận nhưng lại không gỡ bỏ mảnh vải bố trong miệng anh ta ra, chỉ bình tĩnh đối diện với Lâm Mẫn Thận, ngón tay theo bản năng khẽ gõ vào đầu gối. Sau một lát, A Mạch nhẹ nhàng nở nụ cười, đứng dậy, hướng về phía Trương Sỹ Cường phất tay nói: “Cung tên!”

Trương Sỹ Cường đưa trường cung cho A Mạch, rồi lại lấy một mũi tên đặt vào tay nàng. A Mạch hít sâu một hơi, cài mũi tên vào dây cung, mím môi, dùng hết toàn lực kéo căng dây cung. Đồng tử của Lâm Mẫn Thận mở trừng trừng, chưa kịp phản ứng, mũi tên trong tay A Mạch đã bay vút đi, mang theo tiếng thét dài vang vọng đến thấu trời.

Nhất thời, tiếng thét vang lên chấn động trong khe sâu, tiếp đó, tiếng kêu hưởng ứng khắp nơi cùng đồng loạt vang lên, ngay sau đó, hai đầu lối ra vào của khe núi rầm rầm chuyển động, vô số tảng đá lớn từ hai bên sườn lăn xuống khe sâu, chỉ trong chốc lát đã bịt kín hai lối ra lại. Một trận mưa tên từ trên trời giáng xuống, kỵ binh Bắc Mạc nhất thời đại loạn, muốn lao ra khỏi khe, nhưng xung quanh đều là người ngựa của quân mình, nửa tấc cũng không thể dịch chuyển, may mà thiết kỵ Bắc Mạc vốn có kỷ luật sắt, sau lúc chấn động ban đầu, chỉ một lát sau liền trấn định lại, một mặt bố trí nhân lực nhanh chóng làm giải tỏa sự bế tắc nơi lối ra, một mặt cho kỵ sĩ trên lưng ngựa dùng cung tên phản kích.

Đội quân của A Mạch nấp sau đám cây cối rậm rạp, lại chiếm lợi thế ở trên cao, những mũi tên này sao có thể đả thương được bọn họ. Mà dưới khe núi, tình thế của kỵ binh Bắc Mạc lại hoàn toàn đối lập, bởi kỵ binh vốn không giống với bộ binh là lúc nào cũng mang theo thuẫn giáp làm lá chắn, nên đối với trận mưa tên từ trên trời giáng xuống này cũng chỉ có thể trơ mắt mà hứng chịu.

Khổ sở chịu đựng được một hồi, trận mưa tên không những không chấm dứt, mà trái lại, lại biến thành trận mưa hỏa tiễn lao xuống vun vút. Kỵ binh Bắc Mạc mặc dù được rèn luyện bằng kỷ luật sắt, nhưng những con ngựa họ cưỡi dù có được huấn luyện đến mấy thì vẫn là giống súc sinh, sợ nhất là lửa, mà xung quanh khe núi lửa lại bốc lên khắp nơi, khiến những con ngựa không còn nghe theo sự khống chế, điều khiển của người cưỡi nữa, chúng nhảy dựng lên, chạy hỗn loạn về bốn phía. Trong phút chốc, khắp trận địa của kỵ binh đều là cảnh người ngã ngựa đổ, người ngựa giẫm đạp lên nhau, chết vô số, thậm chí còn chết nhiều hơn cả những người bị tên bắn trúng…

Một trận chiến như vậy liên tục cho đến tận đêm, cửa ra khỏi khe tuy rằng đã được quân Bắc Mạc từ bên ngoài mở ra, nhưng ba vạn kỵ binh Bắc Mạc trong khe sâu, mười phần thì đã chết hoặc bị thương mất tám, chín phần. Người Bắc Mạt không dám ham chiến, cuống quít dẫn số kỵ binh may mắn còn sống sót chạy ra khỏi khe núi, suốt đêm chạy chối chết về hướng tây.

“Thật đáng tiếc !” A Mạch dùng mũi chân đá đá lên một con chiến mã vẫn còn hơi run rẩy, nhịn không được thở dài, nếu như sườn phía tây cũng có phục binh, hoặc là trong tay nàng có kỵ binh để truy kích, như vậy nhất định sẽ bắt được toàn bộ thát tử.

Lý Thiếu Hướng ở phía sau chỉ nghĩ rằng nỗi tiếc hận của A Mạch là với những chiến mã, không khỏi liên tục gật đầu, vô cùng đau lòng nói: “Nhiều chiến mã thượng phẩm như vậy, có tìm khắp trong quân Giang Bắc cũng chẳng có a!”

Mọi người nghe được không nói gì, yên lặng nhìn nhau, tất cả đều trầm mặc, chỉ cung kính đứng sau A Mạch.

Lâm Mẫn Thận đã được Trương Sỹ Cường cởi trói, cũng không phủi bụi đất bám trên người, mà trước hết cất giọng gọi A Mạch, trong thanh âm đầy sự kích động, hỏi A Mạch: “Ngươi làm sao biết phía sau đội quân vận chuyển đồ quân nhu là kỵ binh chủ lực của thát tử?”

A Mạch thản nhiên liếc mắt nhìn anh ta mà không trả lời, chỉ tùy ý nhìn ra xung quanh.

Lâm Mẫn Thận cũng không bỏ qua, theo sát phía sau A Mạch tiếp tục truy vấn: “Mạch tướng quân, ngươi không phải đã sớm biết thát tử an bài đội hình hành quân như thế rồi đấy chứ?”

A Mạch như trước vẫn không để ý tới anh ta.

Lâm Mẫn Thận lo nghĩ, trong giây lát chợt thất thanh kêu lên “Ai nha” một tiếng, thất kinh hỏi: “Chẳng lẽ từ trước lúc phục kích, ngươi đã biết rằng kỵ binh thát tử hôm nay sẽ đi ngang qua đây hay sao?”

A Mạch cuối cùng không nhịn nổi nữa, quay đầu lại buồn cười nhìn Lâm Mẫn Thận, nói: “Lâm tham quân, Mạch mỗ chỉ là một người trần mắt thịt, không phải thần tiên.”

Nghe A Mạch trả lời như thế, Lâm Mẫn Thận hiểu rằng A Mạch cũng không biết trước, nhưng trong lòng vẫn nghi nghi hoặc hoặc, may mà tiếp theo A Mạch lại lên tiếng giải thích: “Thát tử từ phía đông đến, soái kỳ lại thêu một chữ “Thường”, tất nhiên là đội quân do Thường gia lĩnh quân đông tiến. Nếu như nói vì chúng ta cứu viện Thái Hưng nên dẫn dụ bọn họ tới đây xem như cũng không phải là không có lý, chỉ có điều Thường gia ở cách xa đây hơn ngàn dặm, từ khi nhận được tin tức đến lúc lĩnh quân quay về phía tây, thì đã mất rất nhiều ngày rồi, đâu thể chỉ vài ngày sau mà đã đến đây được, trừ phi,” A Mạch ngừng lại một chút, bước qua thi thể một kỵ binh Bắc Mạc dưới chân, lại chậm rãi nói tiếp: “trừ phi thát tử sớm đã có sự chuẩn bị từ trước, lúc chúng ta rời khỏi núi Ô Lan cũng chính là lúc đội quân này đồng thời hành quân về phía Tây. Cho nên, Lâm tham quân, chúng ta có thể phục kích bọn họ ở đây chỉ là đúng dịp mà thôi.”

Lâm Mẫn Thận vẫn nhìn chằm chằm A Mạch không rời mắt, hỏi: “Nói như vậy ngươi cũng không biết thát tử hôm nay thì sẽ đi ngang qua đây?”

A Mạch cười cười, đáp: “Ta vốn nghĩ sẽ đợi ở đây ba ngày, hết ba ngày sẽ đưa quân quay trở về Thái Hưng. Ai ngờ đến hôm nay lại may mắn đụng đầu với thát tử.”

Lâm Mẫn Thận lại hỏi: “Vậy ngươi làm sao biết kỵ binh thát tử sẽ đi sau lương thảo?”

A Mạch cảm thấy anh ta hỏi rất buồn cười liền cười, nói: “Tham quân, chẳng lẽ ngươi từ ngàn dặm xa xôi lại chỉ phái mấy ngàn viện binh quay trở về để cứu viện thôi sao?”

Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, trong lòng nhất thời minh bạch, đúng là thát tử sớm đã có đề phòng, đâu thể có chuyện chỉ cho mấy ngàn binh lính không quản cực khổ từ xa quay về cứu Chu Chí Nhẫn, trong thâm tâm Lâm Mẫn Thận đã hoàn toàn tin phục vào phân tích của A Mạch, nhưng ngoài miệng lại vẫn không chịu nhận như vậy, chỉ hỏi: “Nếu như tất cả chỉ có mấy ngàn viện quân thì sao? Chẳng lẽ ngươi sẽ để cho bọn họ đi qua?”

A Mạch tựa tiếu phi tiếu nhìn anh ta, nói: “Nếu chỉ có ngần ấy nhân mã, sao lại phải tha cho chúng đi? Bọn họ sau khi vượt qua khe núi hiểm trở này, tất nhiên phòng bị sẽ lơi lỏng, đến lúc đó ta ở phía sau thừa dịp đêm xuống sẽ tập kích doanh trại, tiêu diệt bọn họ có gì là khó?” A Mạch thấy Lâm Mẫn Thận vẫn há miệng, không đợi anh ta hỏi, lại nói tiếp: “Tham quân đừng hỏi ta làm sao biết được phía sau lương thảo sau mới là kỵ binh chủ lực của thát tử, tất nhiên là nhìn số lượng lương thảo mà suy đoán ra, chẳng lẽ chỉ với ngần ấy binh mã mà lại cần đến nhiều lương thảo như vậy sao, huống chi đã đi được hơn nửa lộ trình rồi, mắt thấy sắp đến thành Thái Hưng, vì lý do gì mà vẫn còn nhiều lương thảo như thế?”

A Mạch nói xong nhẹ nhàng quay gót, xoay người nhìn binh lính thu dọn chiến trường. Lâm Mẫn Thận sớm đã kinh ngạc đến ngây người, thất thần sững sờ đứng ở nơi đó.

Kỳ thật trong lòng A Mạch còn có một nguyên nhân khác không thể nói ra, đó là khi nàng còn ở thành Hán Bảo đã từng chứng kiến cách bày binh bố trận của kỵ binh Bắc Mạc, đưa mắt nhìn lại chỉ thấy một đoàn quân vô cùng trật tự, đó là một ấn tượng không thể xóa mờ trong trí nhớ của nàng, cho nên đâu thể nào bây giờ lại biến thành một đội kỵ binh tiên phong rời rạc như thế này! Trừ phi là kế sách của địch mà thôi!

Tạm không đề cập tới việc dọn dẹp chiến trường của A Mạch, chỉ nói về tàn quân Bắc Mặc suốt đêm chạy trốn theo hướng tây, đó quả thật chính là đội quân do Thường gia lĩnh quân đông tiến từ Thanh Châu, trước tiên được Bắc Mạc nguyên soái Trần Khởi ra lệnh bí mật đi theo hướng Tây, cầm quân chính là người con thứ mười một của Thường gia, Thường Ngọc Tông, đường đệ của “Sát tướng” Thường Ngọc Thanh.

Một đường từ Thanh Châu đi về hướng tây, Thường Ngọc Tông vốn vẫn rất cẩn thận, thời gian chuẩn xác, chủ lực kỵ binh cũng không nóng vội, luôn cách xa một đoạn sau đội quân vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu, trên đường đi vốn vô cùng thuận lợi, để che mắt người khác hơn nữa viện quân cũng chưa từng bị tập kích, hết thảy khiến cho sự đề phòng của Thường Ngọc Tông khó tránh khỏi có phần lơi lỏng. Mắt thấy sắp tới thành Thái Hưng liền không khỏi đẩy nhanh tốc độ hành quân, bất tri bất giác(1) khiến cho kỵ binh chủ lực thu hẹp khoảng cách với phía trước. Lần này lại thấy đội quân vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu đều đã vượt qua khe sâu, nên nghĩ là trong khe núi an toàn rồi nên mới cho kỵ binh chủ lực phía sau theo vào, ai ngờ ở trong khe sâu phút chốc đã có sự biến đổi lớn! Ba vạn kỵ binh giờ chỉ còn chưa đầy bốn ngàn đi ra, chính anh ta cũng là do đội cận vệ liều chết cứu hộ mới có thể thoát ra khỏi khe núi, tánh mạng suýt nữa thì đã để tại trong khe, một trận này, Thường gia thất bại vô cùng thê thảm.

Thường Ngọc Tông một mặt thu thập tàn quân tiếp tục chạy về phía tây, một mặt sai người đem tình hình trận chiến cấp báo về Dự Châu.

A Mạch đợi chiến trường thu dọn xong đã là quá giờ ngọ ngày hôm sau, ba vạn kỵ binh Bắc Mạc hao tổn suýt soát chín phần, xác kỵ sĩ cùng chiến mã cơ hồ phủ kín toàn bộ khe sâu, mà thương vong bên phía A Mạch lại chưa đến một ngàn người, trong đó có không ít là do bị ngã xuống khe núi mà bị thương. Tỷ lệ thương vong giữa địch và ta cách xa nhau thể hiện một cục diện trái ngược với địa vị thông thường trên chiến trường giữa kỵ binh và bộ binh, hiện giờ, chính là bộ binh dồn kỵ binh vào chỗ chết. Khe núi này vốn chẳng có tiếng tăm gì, giờ theo trận đánh đó cũng thành nổi danh, người đời gọi là Bạch Cốt Hạp(2).

Chư tướng thủ hạ của A Mạch nhờ chiến tích này mà chí lớn dâng lên mãnh liệt, lập tức đều chờ lệnh truy sát tàn quân thát tử đang trốn chạy về phía tây, lại bị một câu “Giặc cùng chớ đuổi” của A Mạch nhẹ nhàng thổi bay. Trải qua trận đánh vừa rồi, trong quân bất luận giai phẩm cao hay thấp đều đối với A Mạch tin phục vô cùng, nếu nàng đã nói không truy sát, thì tất nhiên là có đạo lý của việc không truy sát, chẳng qua tướng quân nhà mình vốn kiệm lời, cho nên không nói hết ra với mọi người mà thôi. Vương Thất lại nói trắng ra, là trong lòng đại nhân chúng ta có chín chín tám mươi mốt cái chuông nhỏ, những kẻ thô lỗ đâu thể rung được?

A Mạch chỉnh đốn quân đội xong, cũng theo hướng tây mà đi phía sau quân Bắc Mạc, nhưng không hề đuổi giết, chỉ cách phía sau một quãng xa. Lâm Mẫn Thận thấy vậy, trong thâm tâm lại khó tránh khỏi nảy sinh nghi hoặc, hỏi A Mạch: “Nếu thát tử sớm đã có mưu tính, vậy thì đại tướng quân dẫn quân cứu viện Thái Hưng chẳng phải là trúng gian kế của chúng sao? Như vậy thì chúng ta càng nên gấp rút trở về Thái Hưng ứng cứu, đồng thời đem gian kế của thát tử báo cho đại tướng quân biết, thế mà ngươi lại không vội không gấp như thế?”

A Mạch lại hỏi lại: “Ngươi có biết Trần Khởi giăng bẫy như thế nào không?”

Lâm Mẫn Thận khẽ giật mình, lo nghĩ hồi lâu rồi vẫn là lắc đầu, nói rất thực rằng: “Không biết.”

A Mạch cười nhạo nói: “Ngươi cũng không biết anh ta giăng bẫy như thế nào, vậy thì vì sao còn nóng lòng nhảy vào bẫy của anh ta?”

Lâm Mẫn Thận bị vặn lại như thế thì không có cách gì để chống đỡ, lại nghe A Mạch nói: “Ngươi và ta may mắn ở ngoài cái bẫy ấy, vậy thì cứ ở ngoài quan sát xem thế nào rồi hãy nói sau!”

Trong lúc A Mạch đang nói thì cục diện cuộc chiến đã âm thầm biến hóa.

Ngày hai mươi ba tháng ba, quân Giang Bắc cùng đại quân vây thành của Chu Chí Nhẫn tiếp chiến ở phía bắc thành Thái Hưng. Cùng lúc, mạn phía nam sông Uyển, thuỷ quân Phụ Bình xuất chiến tấn công vào doanh trại thủy quân của Chu Chí Nhẫn.

Ngày hai mươi tư tháng ba, Chu Chí Nhẫn thất bại lui về ngoài thành Thái Hưng hơn ba mươi dặm.

Ngày hai mươi lăm tháng ba, quân Giang Bắc cùng thuỷ quân Phụ Bình cùng đồng loạt tấn công, bao vậy Chu Chí Nhẫn ở ngoài thành, quân sĩ trong thành Thái Hưng bị nhốt hai năm, giờ sĩ khí nhất thời tăng vọt, mở cửa thành tấn công đại quân Chu Chí Nhẫn từ phía sau, Chu Chí Nhẫn nhất thời lâm vào cảnh hai mặt thụ địch, xem tình hình này cùng lắm chỉ cầm cự được một ngày là tan tác.

Thắng lợi, giống như đã chạm vào bàn tay của quân Giang Bắc.

Nhưng thế sự khó lường, mắt thấy dường như quân Giang Bắc sẽ phá tan đại quân của Chu Chí Nhẫn rồi sẽ hội quân cùng quân sĩ giữ thành Thái Hưng, song phía sau trận đột nhiên bất ngờ đại loạn, một đội kỵ binh tinh nhuệ của Bắc Mạc bỗng từ phía sau xâm nhập, sắc bén thọc sâu vào trận địa của quân Giang Bắc, đi đến đâu, máu chảy đầu rơi đến đó. Cục diện chiến trường nhất thời nghịch chuyển, đội hình của quân Giang Bắc bị phân tán, Vệ Hưng chưa kịp chỉnh đốn lại trận địa thì đã nhận được tin báo động trời, đó là phía bên ngoài trận địa của quân Giang Bắc không biết đại quân thát tử mọc từ đâu ra, đã tạo thành gọng kìm, siết chặt quân Giang Bắc!

Quân coi giữ thành Thái Hưng vừa thấy tình thế không ổn, vội vàng thu binh, nhanh chóng đóng cửa thành lại, không chỉ là nhốt thát tử bên ngoài thành, mà cả đội quân coi giữ thành Thái Hưng đang cùng ngũ doanh quân Giang Bắc xâm nhập vào trận địa Bắc Mạc cũng bị nhốt ở ngoài thành. Một ngàn bảy trăm người của ngũ doanh quân Giang Bắc toàn bộ đều chết trận ở dưới tường thành Thái Hưng, người chỉ huy ngũ doanh là Trương phó tướng dựa lưng vào cổng thành chiến đấu tới kiệt sức mà chết, đến chết cũng chỉ có thể kêu mở cổng thành Thái Hưng!

Chỉ qua có nửa ngày, thắng bại đã hoàn toàn xoay chuyển. Bại quân Chu Chí Nhẫn bỗng bất ngờ phản kích, quay lại tấn công đại quân Giang Bắc như vũ bão, quân Giang Bắc lâm vào cảnh hai mặt thụ địch, dường như toàn quân sẽ bị tiêu diệt, may thay đúng lúc đó, tả phó tướng quân Giang Bắc Đường Thiệu Nghĩa mang kỵ binh doanh từ phía bắc chạy về đúng lúc, liều chết đột phá vòng vây của quân Bắc Mạc mới cứu được đám người Vệ Hưng.

Thì ra Đường Thiệu Nghĩa phụng mệnh đi chặn kỵ binh Bắc Mạc của Dự Châu, sau mấy ngày, Đường Thiệu Nghĩa thấy kỵ binh Bắc Mạc mặc dù từ Dự Châu ra, nhưng không vội hành quân về phía Nam, lập tức trong lòng Đường Thiệu Nghĩa sinh nghi, suy nghĩ nửa ngày liền quyết đoán mang binh quay về phía Nam, quả nhiên thấy ngoài thành Thái Hưng, quân Bắc Mạc đang trong ngoài giáp công quân Giang Bắc.

Đợi Đường Thiệu Nghĩa dẫn kỵ binh che chắn cho Vệ Hưng ra khỏi vòng vây của quân Bắc Mạc, khi chỉnh đốn lại thì tàn quân cùng lắm cũng chỉ còn lại hơn hai vạn người, Thái Hưng đã không thể tiếp tục ở lại!

Hướng tây, con đường trở về núi Ô Lan đã bị đại quân Bắc Mạc phá hủy; Hướng nam, thủy quân Phụ Bình cũng đã đại bại, dòng sông Uyển rộng mênh mông ngăn cách trước mặt; Hướng bắc, là hơn mười vạn thiết kỵ của thành Dự Châu…

Xem ra, chỉ có phía Đông là hướng duy nhất tạm thời không có đại quân của thát tử.

[ Cuốn thứ ba hoàn ]

————————-

Chú thích:

1- Bất tri bất giác: Có hai nghĩa:

- Thuận theo lẽ tự-nhiên mà không cần dùng đến ý-trí.

- Không có tư-tưởng kế-hoạch sẵn mà thình-lình bị động trong một thời gian.

2- Bạch Cốt Hạp: Bạch cốt: xương trắng; hạp: cái hộp. Hiểu nôm na thì tên Bạch Cốt Hạp này có nghĩa là khe xương trắng.

Nguồn: vanvietbooks