Trong khi Tín-nghĩa vương mải đối đáp với Đinh Kiếm-Thương thì ba người trùm đầu cùng bốn nhà sư cứu vương đã bỏ đi mất. Vương phi hỏi Tây-hồ thất kiệt:
– Các em có nhận ra lý lịch của những vị đó không?
Trần Di đáp ngay:
– Bốn nhà sư, thì bọn em nhận ra ngay là các vị sư bá Viên-Căn, Viên-Mộc, Viên-Chi, Viên-Diệp ở chùa Từ-quang. Còn ba vị bịt mặt thì em chưa hề gặp qua. Võ công họ xử dụng là võ công Đông-a, nhưng chưởng lực mạnh đến không thể tưởng tượng được. Họ là ai vậy?
Tín-nghĩa vương mỉm cười:
– Người nhà cả đấy. Phen này Nam chinh trở về ắt mấy vị đó mách vương mẫu ta vì tội bất cẩn, e ta bị đòn mất.
Vương phi kinh ngạc:
– Họ là người trên của anh ư?
Vương dơ tay cao hơn đầu:
– Cao hơn là cái chắc!
– Là cậu Tự-Mai chăng?
– Cậu út hiện đang cầm quân đánh Hy-hà cho Tống, làm gì có thời giờ mà đến đây? Nếu là ông cậu đó, thì người đã đánh đít anh ngay tức thời.
– À, em hiểu rồi, ba ông đó là ba sư bá Trần Phụ-Quốc, Trần Bảo-Dân, Trần Trung-Đạo, có mỹ danh là Côi-sơn tam anh, danh sĩ Tống gọi là Tương-giang tam kiệt.
– Đúng thế. Hiện tại, võ lâm Hoa-Việt mà đủ công lực đỡ độc chưởng của Đinh Kiếm-Thương e không quá sáu người.
– Là những ai thế anh?
– Một là vương mẫu, hai là cậu Tự-Mai, ba là Mộc-tồn hòa thượng và Côi-sơn tam anh.
– Thế còn ngoại tổ?
– Ngoại tổ như con rồng, khi ẩn khi hiện, ai mà biết người ở đâu? Vả người đã có lời thề: Hồi trẻ người làm cho Đinh Kiếm-Thương thất tình, tiêu ma chí khí, nên người ra lệnh rằng dù Đinh Kiếm-Thương làm tội ác gì chăng nữa, đệ tử Đông-a cũng không được giết y. Vì vậy ban nãy anh mới tha cho y đi. Bằng anh bắt, giết y, thì sau này ngoại tổ sẽ đánh anh què giò.
Vương quay lại bốn thiếu nữ Kim-Loan, Kim-Liên, Ngọc-Liên, Ngọc-Hương:
– Ta xin lỗi mấy muội muội.
Ngọc-Hương kinh hãi:
– Bọn... bọn tiểu nữ đâu dám. Sao... sao vương gia lại hạ thể như vậy?
Vương phi Ngọc-Nam kéo bốn thiếu nữ ngồi xuống bên mình, rồi dùng lời ôn tồn nói:
– Khi chúng ta bị giặc kiềm chế, tưởng mất mạng trong chốc lát. Bất cứ ai trong những người thân của chúng ta cũng kinh hồn táng đởm, thế mà bốn em lại bình tĩnh lấy khăn đỏ choàng cổ, làm như là bọn nội giáo Hồng-thiết cúi đầu đón thầy trò Đinh. Hỏi ai nhìn thấy mà không nghĩ rằng bốn em phản phúc theo Đinh? Cho nên trong lòng chúng ta nảy ra ý khinh rẻ các em. Nay mới biết rằng, các em mưu trí cực cao, nên vương mới nói lời xin lỗi, dù chỉ nghi oan trong tâm thôi.
Đến đó, có thư do chim ưng mang tới. Tín-Nghĩa vương mở ra coi, thì là lệnh của nguyên soái Lý-thường-Kiệt:
« ... Để chuẩn bị cho trận thủy chiến, xin vương gia gửi đội Giao-long cùng với Tây-hồ thất kiệt rút về biển Nghệ-an, sẽ có chiến thuyền đón, dự trận Nhật-lệ... »
Vương gọi Tây-hồ thất kiệt lại, rồi ra lệnh:
– Trận thủy chiến Nhật-lệ sắp diễn ra. Sư huynh Thường-Kiệt yêu cầu ta gửi các em với đội Giao-long binh chi viện. Vậy Trần Di làm chánh tướng, lấy ngựa khẩn đi Nghệ-an ngay ngày hôm nay.
Bầy trẻ vội bái biệt vương lên đường.
Suốt mấy ngày, Tín-nghĩa vương cùng vương phi lo giải quyết vấn đề cai trị từ Nam-giới vào tới Bố-chánh và một phần Địa-lý. Được cái khi lên đường, triều đình cho phép vương toàn quyền cắt cử, bổ nhiệm quan chức, tổ chức cai trị. Nên tuy mới chiếm được Bố-chánh chưa quá mười ngày, mà nền cai trị đã ổn định. Con đường chuyển vận từ Nghệ-an trở vào, hoàn toàn an ninh.
Hai ngày sau lại có lệnh của nguyên soái Thường-Kiệt:
« ... Trung-thành vương với tả lãnh vệ thượng tướng quân Dư Phi tiến đánh Nhật-lệ, gặp nhiều bất lợi. Chiến lũy Chiêm quá kiên cố. Xin cho đoàn binh thú với Long-biên ngũ hùng đem đoàn dũng sĩ phủ Trung-thành tiếp ứng... »
Vương gọi gọi Long-biên ngũ hùng:
– Năm em đừng quản đường xa vất vả, mau đem tất cả voi của ta cùng các đội binh thú tiếp viện cho mặt trận Nhật-lệ.
Vương đưa mắt nhìn Kim-Loan, Kim-Liên, Ngọc-Liên, Ngọc-Hương:
– Các em muốn dự trận Nhật-lệ hay ở đây?
Kim-Liên bẽn lẽn:
– Xin cho chúng em ra trận.
– Vậy thì bốn em lên đường cùng với Long-biên ngũ hùng. Anh nhắc các em nhé: Yêu nhau không phải là nhìn nhau, nhưng là cùng nhau nhìn về một hướng. Yêu là thấy nơi người mình yêu điều mình mong ước, chứ không phải điều mình tìm được. Cái mong ước của các em là làm được những đều kinh thiên động địa lợi cho đất nước.
Vương phi Ngọc-Nam mỉm cười:
– Trong Long-biên ngũ hùng, thì Phạm Dật có Kim-Loan; Vũ Quang có Kim-Liên; Lý Đoan có Ngọc-Liên; Trần Ninh có Ngọc-Hương. Vậy còn Hoàng Nghi thì có ai chưa?
Hoàng-Nghi cúi đầu xuống thở dài. Vương-phi hỏi:
– Nếu em muốn, chị kiếm cho em hàng chục cô. Người tình rất dễ kiếm, người bạn rất dễ giữ; cái khó là kiếm được người bạn và giữ được người tình. Việc gì mà buồn?
Hoàng Nghi vâng dạ, nhưng phi thấy cái vâng dạ đó vẫn gượng ép. Phi hỏi:
– Em có gì buồn cứ nói thực ra xem chị có giúp được không?
Ngọc-Liên đỡ lời cho Nghi:
– Nghi có một người.
Nàng hát:
Muốn sang nhưng ngại vắng thuyền,
Muốn về bên nớ, nhưng duyên lỡ rồi.
Tín-Nghĩa vương, Ngọc-Nam, Long-biên Ngũ-hùng đều là người miền Bắc, lần đầu tiên nghe Ngọc-Liên dùng tiếng nớ rất có duyên, cùng bật cười. Ngọc-Liên cười:
– Anh ba yêu một nàng, mà không thể... Nói như vương gia: Hai người cùng yêu nhau, cùng nhìn nhau, nhưng không cùng nhìn về một hướng. Nàng nhìn về Phật-thệ, còn chàng thì nhìn về Thăng-long, thành ra duyên tình long đong. Hai người không thể... lòng rối như bòong boong.
Từ hôm gặp nhau đến giờ Ngọc-Nam nghiệm thấy trong bốn cô gái Việt kiều này, cô nào cũng xinh đẹp, mỗi người một vẻ. Kim-Liên thì ôn nhu văn nhã, ai nhìn cô cũng như bị cô hút vào đôi mắt u ẩn. Kim-Loan thì đẹp lồ lộ như bông ngọc lan mới nở, lúc nào cũng ríu rít như con chim buổi sáng mùa xuân, tiếng cô ngọt nhhư cam thảo, hễ cô cất tiếng nói, là y như đứa trẻ nhõng nhẽo, ai nghe cũng phải mềm lòng. Còn Ngọc-Liên thì không đẹp, nhưng duyên dáng lạ lùng. Liên có hai hàm răng trắng đều như bắp, một cái răng nanh bên phải hơi kểnh, nên mỗi khi cô cười càng có duyên thêm; tính cô hiếu động, thích làm bếp, làm bếp cực giỏi. Cô luôn hóa phép thành những món ăn rất khoải khẩu. Cô lại nói giỏi, hay triết lý. Còn Ngọc-Hương thì đẹp não cùng, đẹp ủy mị, suốt ngày đọc sách. Hễ mở miệng ra là dẫn kinh, dẫn sách, nên mấy trẻ đặt cho cô cái tên bà đồ.
Nghe Ngọc-Liên trêu Hoàng Nghi, vương phi Ngọc-Nam thấy ngay bổn phận mình trong công việc tế nhị này, mà chồng không thể làm được. Nàng hỏi Ngọc-Liên:
– Không thể gì?
– Thưa vương phi, anh ba Nghi quen với một cô ở trong tù. Cha cô là một đại quan chức Chiêm. Nay mai cả nhà sẽ bị đem ra chém. Nếu như nàng bị giết thì có lẽ anh ấy đi tu thôi. Vì vậy anh ấy buồn.
– Chuyện ra sao, Liên kể cho chị nghe nào?
– Cô tên là Nang Chang-Lan, cô rất giỏi tiếng Việt. Cha cô tên Câu-thi Lị-ha-thân Bài-ma-la (Sri Harivarman) thuộc giòng dõi vua Băng-vương La-duệ. Khi Chế-Củ lên ngôi, phong cho ông làm Bố-chánh quận vương. Suốt thời gian làm quận vương ở đây, ông tàn sát người Việt thê thảm lắm. Vì cô biết tiếng Việt, học văn hóa Việt, nên cô cực lực ngăn cản cha, bị cha đánh đòn nhiều lần. Nay Chiêm bại, cả nhà ông bị bỏ ngục, chờ ngày đem chém. Anh ba Hoàng Nghi ra vào lấy cung, gặp gỡ cô, nhờ cô thông ngôn, riết rồi hai người thương yêu nhau. Bây giờ anh ba ra trận, chắc khi trở về thì Lan không còn nữa, mà cho đến nấm mồ cũng chưa chắc được thấy, nên anh ba buồn là phải. Chia ly là chết đi một tý trong cuộc đời mình. Nàng chết, thì trong không gian như không còn cả thân mình nữa!
Vương phi đưa mắt nhìn vương. Vương biết vợ muốn mình tha chết cho cha của Lan. Nhưng tội của ông này quá nặng, ngay đối với Chiêm, ông cũng tàn sát có hàng nghìn người. Bây giờ thả ông ra, e dân chúng băm vằm ông làm muôn mảnh. Vì vậy vương trả lời vương phi bằng cái lắc đầu.
Hoàng Nghi quỳ gối trước Tín-nghĩa vương:
– Vương huynh ơi! Xa cách người mình yêu là điều đau khổ hơn sự chết. Em xin vương huynh một điều.
– Đệ cứ nói.
– Tội của cha Lan nặng quá, em không dám bước qua quốc pháp. Em chỉ xin vương huynh ban cho đặc ân: Đợi khi em đánh trận Nhật-lệ về hãy giết gia đình Lan, để em còn được thấy nàng, thu nhặt thi thể gia đình nàng chôn cất cho phải đạo.
Vương vỗ vai cậu em đa tài đa tình:
– Đệ đừng có tuyệt vọng. Kỳ này đệ ra dự trận Nhật-lệ với hoàng thượng. Đệ cố lập công. Sau khi chiến thắng, hoàng thượng thăng thưởng gì đệ cũng không nhận, chỉ xin ân xá cho nàng mà thôi. Còn vụ hành hình gia đình nàng, ta có thể hoãn lại trong vòng một năm.
Vương nhìn đám trẻ, nghĩ thầm trong lòng:
– Tình yêu làm lên những vị ngọt tuyệt vời nhất, và những nghịch cảnh đau khổ nhất trên đời.
Ngọc-Nam vốn cùng quê với Hoàng-Nghi, nàng biết nó từ thời thơ ấu. Thương hại nó, nàng vuốt tóc:
– Huống hồ sau trận bình Chiêm, Long-biên ngũ hùng đều có công lớn. Các em đồng xin lấy công chuộc tội cho gia đình Lan, thì gì mà không được. Chị hứa, chị sẽ nói với chị Ỷ-Lan cho. Chị Ỷ-Lan mà xin ân xá thì nhất định gia đình Lan sẽ thoát chết. Hoặc giả chỉ mình cha Lan bị tội mà thôi.
Bọn trẻ vội ra điểm binh tướng lên đường.
Kim-Liên nói nhỏ với Hoàng-Nghi:
– Tam đệ nhân dịp này vào nhà tù thăm nàng Lan trước khi rời đây. Chị chắc Tín-nghĩa vương không trách phạt đâu.
Hoàng-Nghi quả có ý định đó, nhưng nó chưa dám. Nay nghe lời Kim-Liên nói, nó gật đầu, rồi tới nhà tù. Người coi tù vốn đã biết tình cảm giữa Nghi với Lan, nên khi thấy nó, vội đưa nàng ra rồi lánh mặt.
Vừa thấy Nghi là Lan đã òa lên khóc. Nàng nói nhẹ như tiếng chim:
– Anh ơi! Đêm qua em mơ thấy cả nhà bị đưa ra cho voi dầy. Còn em thì bị ném xuống hầm cho rắn ăn thịt.
Nghi an ủi:
– Không có việc đó đâu. Anh đã xin Tín-nghĩa vương để một năm sau mới hành hình gia đình em. Còn anh với năm người bạn, nhất định lập công kỳ này, rồi khi về triều, đức vua ban thưởng gì bọn anh cũng không nhận, chỉ xin lấy công chuộc tội cho gia đình em.
– Liệu có được không anh? Thân phụ em từng giết không biết bao nhiêu người Việt. Ví dù đức vua có ân xá, thì người Việt cũng không thể quên thù hận. Họ sẽ tìm đến để trả thù.
– Anh nghĩ, sau này, gia đình em di sang Đại-Việt ở, rồi mai danh, ẩn tích, ai mà tìm cho ra?
Hai trẻ nói với nhau đủ thứ chuyện. Phàm chuyện trai gái mới yêu nhau, thì chẳng chuyện gì ra chuyện gì cả, nhưng dù nói đến suốt ngày, suốt tháng cũng không hết.
Có tiếng người gõ cửa, rồi vương phi Ngọc-Nam bước vào. Lan vội hành lễ. Ngọc-Nam bảo Hoàng-Nghi:
– Bạn hữu đang chờ em cùng lên đường. Hãy dừng lại ở đây. Chị hứa sẽ bảo người coi tù cung cấp thực phẩm cho gia đình Lan thực thầy đủ.
Thấy Hoàng-Nghi còn lần lữa, vương phi túm cổ áo nó, tung ra sân, nó uốn cong người, rồi đáp lên lưng con ngựa, giống như nhảy lên cỡi vậy.
Ngồi trên lưng ngựa, Nghi còn cố ngoái cổ lại:
– Em hãy an tâm chờ anh.
Rồi nó ra roi cho ngựa phi như tên bắn.
Năm trai, bốn gái, chỉ huy một đoàn gồm trăm thớt voi kéo những chiếc xe chở hổ, báo, sói, khỉ trực chỉ hướng Nhật-lệ. Trên trời, một đoàn chim ưng dẫn đường. Đi được nửa ngày, gần đến chiều thì viên hướng đạo quay trở lại trình với Phạm-Dật:
– Trình tiểu tướng quân, phía trước có hai ngả ra Nhật-lệ. Một ngả cứ trực chỉ phía Nam khoảng bẩy mươi dặm, rồi rẽ về hướng Đông. Một ngả rẽ hướng Đông ngay, rồi đi men theo bờ biển. Xin tiểu tướng quân định liệu, nên đi ngả nào?
Phạm-Dật thúc voi lên trước quan sát: đây là ngã tư của hai con đường. Một con đường Bắc-Nam, và một con đường Tây-Đông. Nó hỏi Ngọc-Liên, Ngọc-Hương:
– Này hai em, hai em có biết gì về đường xá ở vùng này không?
Ngọc-Liên lắc đầu:
– Bọn em chỉ biết địa thế quanh Bố-chánh thôi. Tuy nhiên, trước khi đi, em có mang theo một bức họa đồ. Ta chiếu họa đồ coi, may ra.
Nàng rút cuốn trục lụa trên lưng mở ra, rồi chỉ cho Phậm-Dật:
– Đây, chúng ta ở đây. Thì ra ngã tư này là ngã tư từ Bố-chánh vào Địa-lý và từ Lão-qua đi Nhật-lệ. Nếu ta đi tiếp xuống Nam, rồi đổi hướng Đông, thì đường lớn, nhưng qua nhiều núi. Còn đi thẳng hướng Đông, rồi men bờ biển mà đi tuy đường hẹp, nhưng không qua núi.
Qua nửa ngày đi đường, Hoàng-Nghi đã tỉnh táo. Nó đề nghị:
– Chúng ta dừng quân qua đêm ở đây, rồi viết thư cho Trung-thành vương hỏi xem người quyết định sao? Nên đi đường nào? Nhiệm vụ của chúng ta ra sao?
Cả bọn cho an dinh hạ trại. Thú được thả ra cho chạy chơi, sau nửa ngày bị giam trong cũi. Phạm-Dật lệnh cho Ưng-binh trèo lên cây điều khiển chim ưng canh phòng không phận; lại sai Ngao-binh cho gác vòng ngoài trại. Sau khi kiểm điểm xong, năm tướng với bốn thiếu nữ vào trướng ăn cơm chiều.
Chín thiếu niên vừa ăn, vừa bàn quốc sự, vừa thảo luận võ công. Kim-Liên là người rất tinh tế, nàng thấy Hoàng-Nghi mặt buồn rười rượi, thì an ủi:
– Chị nghe Tín-nghĩa vương nói, trong năm anh em, thì anh Dật như ông cụ non, nói năng cẩn trọng, tính cực cẩn thận. Nhị đệ Vũ-Quang thì ôn tồn như con gái, nhưng võ công cực cao. Tam đệ thì đọc thiên kinh vạn quyển, cử bút thành văn, mưu trí, cũng như tài dụng binh khó ai bì kịp. Tứ đệ Lý-Đoan thì giỏi y lý. Ngũ đệ Trần-Ninh thì khéo nói, biện thuyết giỏi. Tam đệ đọc sách nhiều, thế mà nay không tìm ra phương cách quên sầu sao?
– Chị hai nói!
Hoàng-Nghi than: Tình yêu là một điều bí ẩn; dầu được nói đến nhiều, vì chỉ người nào đang yêu mới thực sự biết mình được yêu. Tình yêu là sự yếu đuối nhất của thần minh. Sách chỉ dạy bầy binh bố trận, dạy cai trị, chứ có dạy yêu nhau đâu mà em biết? Em có cảm tưởng như gặp gỡ Lan lần này là lần cuối vậy. Nếu vì lý do gì, mà em không gặp Lan lần nữa, thì em sẽ tìm Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng xin quy y. Trong thế gian này lại thêm một Tiểu-vọng-thê hòa thượng nữa.
Kim-Loan an ủi:
– Tam đệ đừng bi quan. Chị nghĩ số phận tam đệ không quá bi ai như vậy đâu. Nếu Lan có mệnh hệ gì, thì tam đệ vẫn còn sướng hơn hai người.
– Ai vậy?
– Người thứ nhất là Đinh Kiếm-Thương, người thứ nhì là Mộc-tồn hòa thượng.
Hoàng-Nghi phì cười:
– Ừ nhỉ. Nghĩ cho cùng, Đinh Kiếm-Thương tuy là ma đầu, giết người không gớm tay, nhưng ông ấy lại là một người đa tình số một số hai trên đời này. Em nghe nói, vào thời niên thiếu, quan Văn-minh điện đại học sĩ Bùi có tương tư với một thiếu nữ sắc nước hương trời, cô làm nghề bán quán. Hai người ước hẹn sẽ lấy nhau. Thế nhưng một lần, cô ấy để cho một người khách vuốt tóc, mà không phản đối. Ông Bùi bèn tuyệt tình ngay.
Trần-Ninh nhăn mặt:
– Đúng rồi còn gì nữa. Một cô gái trinh tĩnh, thì không thể để cho con trai mó vào người mình. Nay cô ấy đã ước hẹn với ông Bùi, thì coi như gái có chồng, mà còn để cho người vuốt tóc, thì rõ ràng là phường trên bộc trong dâu rồi còn gì nữa?
Ngọc-Hương cũng đồng ý:
– Nam nữ thụ thụ bất tương thân, cô ấy như vậy là không được.
Hoàng-Nghi nhăn mặt:
– Chú năm đã khó tính, rồi thím năm lại đem cụ Khổng ra để bắt bẻ nữa. Ta nghĩ, ta thương cho cái ông Khổng, ông Mạnh, cả đời không biết gì về tình yêu, cho đến lúc chết cũng chưa được nếm mùi yêu... nay hai ông ấy, xương cùng thịt nát ra bụi rồi mà còn để sách vở lại bắt người sau cóc biết yêu là gì.
Nó chỉ vào Trần-Ninh, Ngọc-Hương:
– Còn chú, chú cóc biết tình yêu là gì thì làm sao chú biết đau khổ nó tròn, nó méo ra sao? Ta nghĩ, ông văn minh Bùi chắc chưa yêu nàng bán quán. Nếu ông yêu thì ông không bắt lỗi nàng, vì khi yêu thì người ta cho rằng người yêu có lý khi mắc lỗi. Tỷ như ông yêu nàng thì dù nàng có năm chồng, bẩy con ông cũng yêu. Thôi, bỏ triết luận đi. Nay anh có bênh cô bán quán đâu? Anh chỉ nêu ra để nói về trường hợp ông Đinh mà thôi. Này nhé, ông Đinh là đệ nhất mỹ nam tử, nổi tiếng văn chương, võ công cực cao ở Thăng-long. Ông đã ước hẹn với Đào Hà-Thanh, nhưng nàng bỏ ông, lấy đại hiệp Trần-tự-An, hãnh diện với người chồng như đại hiệp. Thế mà ông Đinh vẫn yêu thương nàng vô cùng. Vì quá yêu thương, quá tuyệt vọng, ông bỏ hết, để chỉ mong được hầu hạ nàng trong việc trồng hoa, cắt cỏ, giặt quần áo. Rồi đến khi đại hiệp Trần– Tự-An khám phá ra chuyện hai người, cho Hà-Thanh về với ông. Ông không chê là phấn thừa, hương nhạt, vẫn yêu thương, kính trọng nàng. Nay nàng chết đã bẩy tám năm, mà thấy quần áo nàng, ông còn rung động mãnh liệt. Về việc làm, ông là ma đầu, nhưng về tình yêu, ông là một đấng đa tình nhất thế gian này.
Ngọc-Liên hỏi:
– Anh ba này, anh có biết người yêu của Mộc-tồn hòa thượng là ai không? Bà ấy chết trong trường hợp nào, khiến cho hòa thượng bỏ đi tu, rồi cứ mỗi ngày để ra một giờ ngồi tưởng nhớ đến bà?
– Cái này thì bí mật lắm, đến Ỷ-Lan thần-phi cũng không biết ngài là ai nữa là? Dường như tiên-nương Bảo-Hòa, Thiếu-Mai biết rõ chân tướng ngài, nên hễ ngài xử tội ai, chỉ cần một trong hai vị lên tiếng ân xá là ngài tha cho ngay.
Lý-Đoan vỗ ngực:
– Mỗ biết rõ một phần chuyện tình của ngài rồi.
Cả bọn nhao nhao lên:
– Ngài là ai? Chuyện tình ra sao?
– Mỗ không nói.
Ngọc-Liên nắm lấy tay Lý:
– Đoan nói đi, Đoan ngoan, từ nay em không gọi Đoan là lang băm nữa!
Phạm-Dật nói lớn:
– Nếu Đoan tiết lộ ra một chút ánh sáng về Mộc-tồn hòa thượng, thì từ nay chúng ta không gọi Đoan là lang băm nữa.
– Mỗ cóc cần! Mỗ có là lang băm hay không, mỗ vẫn là mỗ. Bây giờ mỗ ra điều kiện: sau khi bình Chiêm trở về, tất cả chín chúng ta cùng đồng thanh xin bỏ hết công lao, để chuộc tội cho gia đình chị Lan. Có như vậy mỗ mới nói. Hứa đi!
Lý-Đoan tiếp: Tất cả mọi người phải hứa.
– Hứa! Hứa!
Đến đây có tiếng chim ưng réo, rồi lát sau Ưng-binh vào trình cho Phạm-Dật một ống tre. Nó mở ra, lệnh của Trung-Thành vương:
« ... Ngày mai có trận đánh lớn. Đô-thống Trần-thanh-Nhiên sẽ đem một đội kị binh hơn nghìn, giả thua dụ địch chạy men theo bờ biển về phía Bắc. Chiêm ắt tung hết mười đội kị binh, mỗi đội một trăm người đuổi theo. Phải phục binh làm nhiều cánh; đánh cắt, tiêu diệt đội quân này của Chiêm. Bằng mọi giá, phải thắng, dù hy sinh hết người, thú. Nếu để địch thoát về, mặt Bắc đại quân của ta bị uy hiếp, cánh quân bộ đánh Nhật-lệ của ta bị tan vỡ... Đính kèm lệnh hành quân ngày mai. Nghiên cứu kỹ, thi hành...»
Phạm-Dật đọc lệnh cho anh em nghe, rồi chỉ lên bản đồ:
– Mặt trận ngày mai là trận quyết định sinh tử của Chiêm-Việt. Kế hoạch của đô-đốc Hoàng-Kiện định hôm trước, mai này giờ Dần, thủy quân ta tiến từ Đông đánh vào bờ biển. Bắt buộc Chiêm phải đem thủy quân ra nghênh chiến. Chúng sẽ bị ánh sáng mặt trời chiếu vào mặt, khó quan sát tinh tường quân ta. Đấy là kế hoạch trước. Nhưng đêm nay, Tây-hồ thất kiệt với đội Giao-long binh âm thầm đột nhập thủy trại Chiêm đục thuyền giặc.
Ngọc-Hương kinh ngạc:
– Ái chà! Nguy lắm. Chiêm có nuôi mấy đội cá sấu để canh chừng thuyền. Nếu khi ta đục thuyền chúng, giỏi lắm đục được vài chục chiếc, chúng thấy thuyền chìm, là biết ngay do Giao-long binh làm, chúng sẽ thả cá sấu ra thì Giao-long binh vào bụng cá mất.
Hoàng-Nghi xua tay:
– Ngũ muội đừng lo. Lối đục thuyền của ta như sau: Giao-long binh lặn xuống, dùng dao sắc, vận sức đục nhớm đáy thuyền mấy lỗ gần bằng cái mâm, rồi đóng ba cái đinh có khoen vào giữa miếng ván bị đục. Mỗi cái khoen có sợi dây xích. Thành ra địch không biết gì. Ngày mai, khi hai bên đại chiến, Giao-long binh lặn xuống, cột xích thuyền nọ với thuyền kia, thuyền di chuyển xích bị giật mạnh, miếng ván đáy thuyền bật tung ra, nước tràn vào, thuyền chìm. Muội cứ tưởng tượng, giữa lúc trận chiến chém nhau rối loạn, mà soái thuyền, hoặc các chiến thuyền của đội trưởng Chiêm từ từ chìm xuống thì tình hình quân Chiêm sẽ ra sao?
Đám trẻ đật đầu công nhận đúng.
– Mặt bộ, Trung-Thành vương tổng chỉ huy đánh Nhật-lệ. Vương chia quân làm ba cánh. Cánh thứ nhất từ phía Nam, men bờ biển đánh lên, do đô-thống Vương-văn-Trổ làm chánh tướng, đô-thống Trần-lam-Thanh làm phó tướng. Lực lượng gồm hai đạo Bổng-nhật tả và Bổng-nhật hữu. Không có kị-binh và thú binh. Đối diện, phía Chiêm có hai đạo bộ binh. Như vậy là lực lượng ngang nhau.
Đám trẻ đều nhận được rõ kế hoạch. Phạm-Dật kết luận:
– Mặt trận này là mặt trận phụ. Hai bên đều dùng quân ít để bảo vệ mặt hông của nhau.
– Mặt trận phía trước, do tả-lãnh vệ đại tướng quân Phú-lương hầu Dư-Phi chỉ huy. Mặt này chia làm ba cánh. Cánh tả đo đô-thống Trương-Đình làm chánh tướng, đô-thống Trần-văn-Huệ làm phó. Lực lượng gồm đạo Long-dực tả, Long-dực-Hữu. Không có kị binh, tượng binh. Cánh thứ nhì do vũ-kị đại tướng quân Hà-mai-Việt làm chánh tướng, đô-thống Nguyễn-văn-Thuấn làm phó tướng. Lực lượng gồm có bốn nghìn kị binh, đạo Thần-điện tả. Đây là lực lượng xung kích chính. Cánh hữu do đô thống Trần Thanh-Nhiên chỉ huy đạo Thần-điện hữu, với nghìn kị-binh. Cánh này đánh vào trại Bắc Nhật-lệ. Quân Chiêm đắp đất làm thành chiến lũy rất kiên cố, nên trận đánh sẽ gay go vô cùng.
Lý-Đoan nhăn mặt:
– Em nghe đô-thống Trần Thanh-Nhiên vốn là người bất tài, lại nhát gan. Sao Trung-Thành vương lại để cho ông ta chỉ huy cánh trái, đã ít quân, lại là cánh phải đối đầu với đại lực lượng tượng binh, kị binh Chiêm đông đảo? Nếu Nhiên bại, kị-binh, tượng binh Chiêm sẽ nghiền nát đạo Thần-điện hữu, rồi đánh bọc hông đạo trung quân đại tướng Hà Mai-Việt thì sao?
Phạm-Dật xua tay:
– Chú tư đừng lo. Đây là đạo kỳ binh của Trung-Thành vương. Vương dùng hư kế. Trong khi hai bên đại chiến, thì đô-thống Trần Thanh-Nhiên phải rút chạy theo bờ biển về hướng Bắc, tới đây. Dĩ nhiên kị binh Chiêm đuổi theo, rồi dùng đường này, đánh phía sau trung quân ta. Vì vậy vương mơí trao cho ta phục binh tiêu diệt đạo kị binh Chiêm. Dùng thú binh diệt kị binh là điều dễ dàng. Sau đó, ta tiến quân về đánh chiếm hậu cứ trại thủy bộ Chiêm ở Nhật-lệ. Chiếm trại thủy xong, ta đánh vào sau lưng chiến lũy Chiêm, như vậy bộ binh của chúng bị vỡ.
Nó dừng lại kết luận:
– Cho nên lệnh mới nói rõ: ta không thể để cho đạo kị binh này thoát về. Bởi nó thoát về, thì đạo trung quân nguy hiểm. Vậy nhiệm vụ của chúng ta là tiêu diệt lực lượng kị binh địch, rồi về đánh chiếm hậu cứ trại của Chiêm. Trại mất, thì toàn thể thủy bộ Chiêm tan. Cho nên lệnh nhấn mạnh: Bằng mọi giá ta phải thắng. Ta không thắng thì mặt bộ ta thua, mặt thủy cũng nguy. Nhược bằng ta thắng, thì mặt bộ thắng, mặt thủy cũng thắng.
Sau khi luận bàn chi tiết rồi Phạm-Dật hỏi Hoàng-Nghi:
– Chú ba nhiều mưu kế, chú định sao?
Hoàng-Nghi chỉ vào bản đồ:
– Sáng mai, ta di chuyển thực sớm, tới bờ biển. Từ bờ biển xuống Nam có tới ba khu đồi núi. Ta tạm gọi là khu 1, 2, 3. Khu 1 do anh Dật, chị Kim-Loan chỉ huy với đội cọp. Đợi khi quân của đô thống Trần-thạnh-Nhiên với quân Chiêm đi qua, thì đóng chặn đường về. Nhớ phải đóng cho chắc, kẻo lỡ y thấy động, rút lui, đánh phá vòng vây thì nguy lắm.
Nó nhắc lại:
– Binh pháp nói: giặc cùng, sức một người bằng mười người. Khi chúng bị bại chạy trở về, bị chặn đường, ắt chúng tử chiến. Vì vậy khi quân Chiêm đi qua, anh cần chia hổ làm nhiều đội, dương oai diễu võ, khiến chúng tưởng ta có nhiều thú lắm, mà phải đầu hàng thì hơn. Chứ đánh nhau, e khó thắng nổi.
Phạm-Dật cương quyết:
– Nếu cần ta với Kim-Loan, và đội hổ cùng chết để chặn đường giặc.
– Đồi hai, thì cây cối rậm rạp, anh Vũ-Quang chị Kim-Liên mang tất đội voi phục tại đây. Khi thấy quân Chiêm thì để cho chúng đi qua. Đợi khi chúng bị bại ở đồi ba rút xuống dàn trận, giữa lúc chúng đang giao chiến với chúng tôi thì đánh vào hai hông chúng.
– Tại khu đồi ba, chú Lý-Đoan với Ngọc-Liên chỉ huy đội báo phục bên trái dốc đồi. Trần-Ninh với Ngọc-Hương chỉ huy đội sói phục bên phải dốc đồi. Đợi quân Thạnh-Nhiên vừa chạy tới đỉnh đồi, quân Chiêm đuổi tới lưng chừng đồi, thì: đội võ sĩ Long-biên núp trên các cây cao, dùng tên bắn ngã đội tiên phong thứ ba, thứ tư. Phía trước tôi với đội khỉ, kị binh Thạnh-Nhiên quay đánh đội thứ nhất, thứ nhì. Bốn đội tiền phong bị diệt, thì chúng phải rút xuống chân đồi dàn trận đối phó với ta. Nhân chúng đang kinh hoàng, ta phải đánh như sét nổ, tung đội võ sĩ Long-biên, báo, sói, đánh bất kể tổn thất. Giữa lúc hai bên đang đại chiến thì anh Vũ-Quang, chị Kim-Liên tung voi đánh vào hai bên hông chúng.
Phạm-Dật hỏi:
– Còn đội hầu thì lĩnh nhiệm vụ gì?
– Tôi cho đội hầu ẩn vào trong rừng giữa khu hai và ba. Khi quân Chiêm vừa leo đồi ba, thì chúng treo cờ ngũ hành khắp núi rừng ở khu một và hai. Tướng binh Chiêm thấy cờ của ta, ắt chúng loạn lòng. Do đó ta dễ phá.
Năm trai, bốn gái cùng theo luận với các đội trưởng hổ, báo, tượng, sói, hầu nghiên cứu, thảo luận rất kỹ. Sau đó chúng lại bàn đến chuyện Hoàng-Nghi. Ngọc-Hương nói:
– Đội nào cũng có nữ tướng. Chỉ đội hầu là không có. Anh Nghi nghĩ sao?
– Nghĩ cái con khỉ, lòng ta đang nẫu đây.
– Ban nãy anh Đoan có hứa tiết lộ chi tiết về Mộc-tồn hòa thượng, nhưng anh chưa kịp nói, thì phải ngừng lại thảo luận về binh tình. Bây giờ anh tiếp đi.
– Được rồi, ta nói.
Lý-Đoan trá lời: Điều này do thầy lang Xuân-Hòa tiết lộ rằng hồi con niên thiếu, Mộc-tồn hòa thượng tên Mỗ, gặp một thiếu nữ danh gia. Hai người yêu thương nhau, sát cánh bên nhau lo quốc sự. Giữa lúc phụ mẫu hai người sắp cho làm lễ thành hôn, thì ngài ra trận, rồi bị thương thập tử nhất sinh. Được một danh y chữa khỏi, nhưng ngài bị nhiều vết thương thành thẹo, trông mặt ngài ba phần giống người, bẩy phần giống quỷ. Lúc người yêu tìm đến thăm ngài, thấy mặt ngài, nàng kinh hoảng hét lên: không phải chàng, không phải chàng, đây là con quỷ. Ngài tuy đau đớn trong lòng, nhưng rất bình tĩnh. Ngài nghĩ rằng, đằng nào thì cũng không thể làm chồng nàng được nữa rồi, thì chi bằng để lại trong lòng nàng một cái gì đẹp đẽ. Ngài nói: Đúng vậy, tôi không phải ông Mỗ, tôi là đệ tử người, hầu cạnh người. Lúc tôi bị thương máu ra nhiều quá, tôi lấy quần áo mình lau máu, rồi lấy quần áo của sư phụ mặc vào. Khi tôi mê man, binh tướng cấp cứu thấy tôi mạc quần áo của sư phụ, tưởng tôi là người. Nhưng thực ra người vẫn còn sống... Từ đấy ngài bỏ đi tu, nhưng thỉnh thoảng vẫn lẻn về nhà người yêu, để nhìn trộm dung nhan. Còn hằng ngày, ngài để ra một giờ, ngồi tưởng nhớ đến nàng, nói chuyện một mình như nói với nàng vậy. Trong khi người yêu của ngài, cũng lang thang khắp giang hồ tìm ngài.
Trần-Ninh bật cười:
– Nghe nói Mộc-tồn hòa thượng ngang tuổi với tiên-nương Bảo-Hòa, Thiếu-Mai. Nếu đúng như vậy thì năm nay người cũng ngót nghét sáu chục tuổi. Nếu như người yêu của ngài còn tại thế, thì nhất định là một lão bà tóc bạc như cước, da mặt dăn deo, chống gậy lom khom mà đi.
Cả bọn cười ồ lên.
Ngọc-Hương thở dài:
– Tội nghiệp cho ngài. Trong thế gian, cái tình là cái chi chi, khó mà ai giải thích nổi. Xa cách người mình yêu là điều đau khổ hơn sự chết. Em nghĩ, trước đó Mộc-tồn hòa thượng cũng không yêu cái bà có diễm phúc kia đến như vậy đâu, mà nhờ sự xa cách. Sự xa cách đào sâu cho tình yêu hời hợt, làm thắm đượm tình yêu nồng nàn. Nó như cơn gió, thổi vào ngọn đèn làm tia lửa bùng cháy lớn lên.
Thình lình tiếng chim ưng ré lên trên không báo hiệu có biến. Lập tức cả chín người ra khỏi lều. Dưới ánh trăng rằm, cả chín người đều nhìn theo hướng chim ưng lao xuống: trên con đường từ phía Bắc tới, một chiếc xe song mã sơn trắng đang khua móng lóc cóc trên đường.
Ngao binh hỏi:
– Xin các tiểu tướng quân cho biết, có nên bắt cái xe kia dừng lại hay không?
– Không, không nên.
Phạm-Dật xua tay giải thích: chúng ta đem quân nhân nghĩa đi đánh Chế-Củ là phường bất nghĩa, thì không thể hách dịch. Lỡ xe kia là xe dân chúng thì có phải mình làm phiền họ không? Tuy nhiên mình phải đề phòng.
Nó hú lên, gọi hai đôi hổ, hai đôi báo và hai đôi chó sói, cùng một toán võ sĩ Long-biên dương cung tên dàn ra trước cửa trại chờ đợi, rồi đứng quan sát. Chiếc xe vẫn khua móng đều đặn. Khi sắp tới doanh trại, thì thì dừng lại. Phạm-Dật nhìn rõ người đánh xe là một phụ nữ, nhưng nó không phân biệt được người đó già hay trẻ, Việt hay Chàm. Hai bên có hai người đeo kiếm đều mặc quần áo trắng, một nam, một nữ. Người phụ nữ quan sát doanh trại một lát rồi ra roi cho ngựa đi tiếp. Khi tới trước cửa doanh trại, người ấy ghì cương cho xe đứng lại.
Binh canh lên tiếng:
– Là xe của ai? Không được dừng trước doanh trại!
Người đàn bàn không trả lời, mụ chỉ vào trong xe:
– Trong xe kia, ta chở đến một người con gái. Nàng có tên là Nang-Chang-Lan. Nếu mi không bằng lòng cho ta dừng xe lại, thì ta đánh xe đi vậy.
Hoàng-Nghi thở hổn hển:
– Đâu? Lan đâu?
Tuy nói vậy, nó vẫn còn tỉnh táo vì biết rằng đây là cạm bẫy của ai đó bầy ra. Nó hú lên một tiếng, hơn chục con cọp nhảy ra vây quanh chiếc xe ngựa. Hai con ngựa thấy cọp thì sợ hãi nằm ép mình xuống đường. Nó quát:
– Các người là ai? Mau xuống xe chịu trói, bằng không ta cho cọp ăn thịt liền.
Người đàn bà không xuống xe, thản nhiên ngồi bất động:
– Ta tìm tướng quân người Việt. Y tên Nghi lùn. Mới đây có tên Nghi dại gái, hay Nghi mê gái.
Ngọc-Liên chỉ Hoàng-Nghi:
– Tướng quân người Việt có tên Nghi lùn là anh này.
Người đàn bà chỉ vào xe:
– Trong xe có món quà cho tướng quân người Việt, tên Nghi dại gái.
Giọng con gái nói bằng tiếng Việt từ trong xe vọng ra:
– Nghi ơi! Em đây, em đang ở trong xe này.
Nghe gọi, Hoàng-Nghi nhận tiếng Nang-Chang-Lan. Bất chấp nguy hiểm, nó tung mình lên xe để tìm nàng. Cái gương Tín-Nghĩa vương bị Kiếm-Thương kiềm chế làm cho Phạm-Dật dè dặt. Nó phất tay phát một chưởng, đẩy Hoàng-Nghi bay lại phía sau, rồi gọi:
– Lan đâu, mở cửa xe ra đây.
– Em bị trói, chân tay không cử động được.
Người đàn bà cười lớn:
– Tưởng Long-biên ngũ hùng thế nào, hóa ra mật lại nhỏ hơn con chuột nhắt. Thấy người yêu bị giam trong xe ngay trước mặt mà không dám cứu. Hỡi ơi, các người nên đổi tên Long-biên ngũ hùng thành Long-biên ngũ thử (chuột) hay Long-biên ngũ thố (thỏ) có lẽ hay hơn.
Tuy bị tình yêu làm cho ngây ngất, nhưng Hoàng-Nghi đã nhìn thấy ngay cạm bẫy trước mặt: Nang-chang-Lan đang bị giam trong ngục, sao lại ở trong xe kia? Tại sao giữa rừng núi nước Chiêm, lại có người đàn bà biết lý lịch Long-biên ngũ hùng? Rõ ràng là cạm bẫy. Nó để ý đến đôi thanh niên nam nữ mặc quần áo trắng ngồi bên mụ. Nam thì hùng tráng khôi ngô. Nữ thì đẹp tuyệt trần. Cả hai đều ngồi bất đông. Nó cười:
– Này bà! Nghe tiếng bà thì dường như tuổi đã hơn năm mươi. Với tuổi này phải biết ta biết người chứ? Có đâu lấy vải thưa mà che mắt thánh? Đem bẫy chuột ra để bắt voi ư? Khó lắm.
Nó chỉ vào xe:
– Người thiếu nữ trong xe kia, nếu thực sự là Nang-chang-Lan, thì bà cứ gọi nàng ra tương kiến với anh em tại hạ, chứ việc gì phải khích?
Có nhiều tiếng lốc cốc của vó ngựa, rồi từ phía Tây, bốn chiếc xe song mã đang chạy tới. Khác với xe trước sơn mầu trắng, bốn chiếc xe này sơn mầu vàng, đen, xanh, đỏ. Trên mỗi xe đều có đôi nam nữ mặc quần áo theo mầu xe. Nam thì hùng vĩ khôi ngô. Nữ thì xinh đẹp. Nhưng tất cả đều im lặng không nói không rằng.
Phạn-Dật ra hiệu cho Trần-Ninh, nó hú lên một tiếng, hơn chục con sói, cọp, báo dàn ra bao vây lấy bốn chiếc xe mới tới. Bốn đội võ sĩ Long-biên dương cung tên hướng ba chiếc xe. Mấy con ngựa thấy cọp thì cúi gầm mõm xuống, run run muốn đứng không vững. Trần-Ninh định lên tiếng hỏi, thì nhanh hơn, bốn chiếc xe mới tới, với chiếc xe trước cùng phát nổ lớn, rồi khói bay ra mịt mờ. Những người đánh xe cùng cầm cương rút dao dâm vào mông ngựa. Mấy con ngựa đau quá, lao thẳng vào giữa trại quân, khói trên xe bay ra mịt mờ. Đám hổ, báo, voi, sói ngửi khói vào, lập tức nằm lăn ra. Đám võ sĩ Long-biên cũng ngã lổng chổng. Đám khác hướng những người trên xe buông tên. Năm đôi thanh niên nam nữ ngồi trên xe quơ tay liên tiếp bắt hết tên.
Long-biên ngũ hùng đang kinh hồn động phách, chưa hiểu những gì đã xẩy ra, thì Kim-Liên kêu lớn lên:
– Độc tố Xích-trà-luyện. Tránh xa mau.
Nhưng đã chậm. Phạm-Dật, Vũ-Quang, Ngọc-Liên, Ngọc-Hương, Kim-Loan đã ngã lăn ra. Hoàng-Nghi, Lý-Đoan, Trần-Ninh nhảy vào giữa trận thú thú, xa khói độc, nên thoát nạn. Chúng vừa hú ra lệnh cho thú lùi ra xa, bao vậy. Giữa vòng vậy chỉ có mười hai người, đứng trong đám khói. Những con ngựa kéo xe cũng nằm vật dưới đất.
Long-biên ngũ hùng đã nghe nói nhiều về độc tố Xích-trà-luyện của Hồng-thiết giáo. Ai ngửi phải, dù nội công cao đến đâu cũng bị mê man đến mấy giờ mới tỉnh. Song trước đây chúng nghe nói rằng đệ tử Hồng-thiết giáo chỉ dùng những quả cầu nhỏ, chứ chưa từng nghe chúng dùng những chiếc xe lớn, phun khói như bây giờ.
Khói từ từ tan đi. Nhưng phân nửa cọp, báo, sói, voi cùng hơn trăm võ sĩ Long-biên đã đã bị mê man nằm la liệt trên mặt đất. Hoàng-Nghi rất nhanh trí, nó phất tay ra lệnh. Lập tức đám võ sĩ Long-biên, cùng đàn thú phân làm ba đội. Trần-Ninh đem một đội trấn phía trái trại. Lý-Đoan đem một đội trấn phía phải trại. Còn một đội nó cho bao vây lấy đám mười hai người.
Mụ đàn bà nhảy nhót mấy cái, đã « nhặt » Phạm-Dật, Vũ-Quang đem về xe. Trong khi một lão già khác lượm Ngọc-Liên, Ngọc-Hương, Kim-Loan đem về xe của lão. Lão cười khành khạch hỏi Hoàng-Nghi:
– Trong bốn đứa bay, đứa nào là thủ lĩnh?
Đuốc đốt lên sáng rực trại, bấy giờ Hoàng-Nghi mới quan sát lão già: da mặt lão hồng hào, tươi thắm, nhưng tóc thì bạc như cước. Còn mụ đàn bà thì ngược lại, dan dăn deo như cái túi vải, nhưng tóc lại đen, óng ả như tóc thiếu nữ.
Nghe lão hỏi, Hoàng-Nghi nghĩ thầm:
– Bọn này chỉ có mười hai người. Ta hạ chúng bằng tên, thì may ra giải cứu được các bạn. Nhưng qua loạt tên đầu, chúng đều bắt được cả. Bản lĩnh như vậy thực hiếm có.
Nghĩ thế, nó bước ra trả lời:
– Ta là thủ lĩnh đây. Ái-cha!
Đó là mật lệnh tấn công. Đám võ sĩ Long-biên nhắm vào đám mười hai người buông tên. Hoàng-Nghi ra lệnh thình lình, võ-sĩ buông tên nhanh như chớp, không ngờ đám người này còn phản ứng nhanh hơn. Chúng quơ tay mấy cái, đã bắt được hết tên. Xạ thủ nạp tên, định bắn loạt thứ nhì, thì bọn họ đã chụp đám người bị bắt dơ lên. Lão già nói:
– Các người mà buông tên thì ta đem mấy khối thịt này ra làm bia thịt ngay.
Hoàng-Nghi kinh hoảng, vội vẫy tay cho xạ thủ ngừng bắn.
Lão già cười, chỉ vào đám người mê man:
– Người tính sao đây?
Hoàng-Nghi hỏi ngược lại:
– Lão muốn gì? Lão là ai?
– Ta là ai, dù có nói ra thì cái thứ nhóc con chưa ráo máu đầu bọn mi cũng không biết. Thôi ta cũng sinh phúc xưng danh cho mi nghe. Ta là Thừa-thiên, quán-thế, thần-văn, thánh-võ, duệ mưu, dũng lược, khải đức, đại từ, chí hiếu giáo chủ Hồng-thiết giáo Đông-phương Trần-đông-Thiên.
Cả bọn Hoàng-Nghi đều bật lên tiếng kinh khủng:
– Ái chà!
– Úi chu cha!
Y chỉ vào người đàn bà:
– Đây là em gái ta, là Hóa-thiên, khâm-minh, trang-duệ, chí-nhu, minh-văn, ôn từ, ái chúng, nhân huệ, phó giáo chủ Đông-phương Trần-quỳnh-Hoa.
Đám trẻ lại bật lên tiếng kêu kinh ngạc. Lão già cười khinh bỉ:
– Bọn mi làm bộ ái, úi, chứ khi danh ta trấn Hoa-Việt thì cha mẹ mi hãy còn là cái bào thai chưa ra đời.
Hoàng-Nghi vẫn không bị lời nói khinh bạc của Đông-Thiên mà nổi giận. Nó chắp tay xá:
– Nếu tiểu bối nói được lý lịch tiên sinh, thì tiên sinh tính sao?
– Tính sao với chả tính sao. Ta sẽ thả con vợ Nang-Chang-Lan của mi ra, rồi thu mi làm đệ tử.
– Được, tiên sinh nhớ đấy nhé. Ngược lại nếu tiểu bối không gọi được lý lịch tiên sinh, thì tiểu bối nguyện theo hầu tiên sinh suốt đời.
– Ừ, mi nói đi.
Hoàng-Nghi nghiêng mình vái ba vái:
– Tiên sinh họ Nguyễn hay họ Lê chứ không phải họ Trần.
– Được! Đúng một nửa, Ta không phải họ Trần là đúng. Nhưng ta họ Lê hay Nguyễn chứ không thể vừa Nguyễn, vừa Lê.
Hoàng-Nghi cười khúc khích:
– Tiên sinh họ Nguyễn hay họ Lê thì chỉ có mẫu thân tiên sinh biết mà thôi. Này tiên sinh ơi, ngày xưa mẫu thân tiên sinh là cây thuốc cho Nhật-Hồ lão nhân với Lê-Ba, thành ra chỉ mẫu thân tiên sinh mới biết tiên sinh là con Nhật-Hồ lão nhân hay Lê-Ba. Có đúng thế không?
– Đúng vậy.
Hoàng-Nghi nói câu trên ngụ ý mẹ lão chẳng qua là con người lang chạ. Thời bấy giờ, một người đàn bà mà ăn nằm với hai người đàn ông, thì bị luân lý kết tội, thế gian đàm tiếu; nếu là người thường mà nghe được, ắt sẽ lăn vào một sống, hai chết với Hoàng-Nghi. Nào ngờ y ngẩn người ra một lúc rồi nói:
– Nhất định ta họ Nguyễn, ta là con của giáo-chủ Nhật-Hồ.
Hoàng-Nghi nghĩ rất nhanh:
– Võ lâm tương truyền gã Đông-Thiên với Quỳnh-Hoa võ công rất cao siêu, nhưng bị di chứng khật khùng của Nhật-Hồ lão nhân nên hành xử đôi khi ngu ngốc. Dù ta với bầy thú, cũng khó cứu được người của ta bị kiềm chế. Chi bằng ta cứ lần lữa kéo dài, chờ cho người của ta tỉnh lại, thì mới mong giải quyết cục bộ ở đây.
Nghĩ vậy, nó cười ngặt nghẽo.
Nguyên vào thời Lê, Hồng-thiết giáo bị truy lùng rất gắt. Đến thời Thuận-thiên, vua Thái-tổ nhà Lý mới lên ngôi vua, ngài ban lệnh ân xá, nên giáo chúng được tự do hoạt động. Giáo chủ bấy giờ là Nhật-Hồ lão nhân. Lão sai ngũ sứ đi trấn năm phương. Khiếu-tam-Bản trấn Chân-lạp, Sử-vạn Na-vượng trấn Lão-qua, Lê-lục-Vũ trấn Quảng-Tây, Tôn-đức-Khắc trấn Quảng-Đông, Nguyễn-tuyết-Minh vợ của Lê-lục-Vũ trấn Đại-Lý. Đó là bề ngoài, chứ thực sự ra, y thông dâm với vợ của Lê-lục-Vũ đẻ ra đứa con gái tên Lê-hồng-Minh cải danh là Nguyễn-tuyết-Minh tức Lưu thái hậu. Y với Lê-Ba dùng chung một số cây thuốc. Trong đó có một thiếu nữ khốn nạn đẻ ra một trai, năm sau đẻ thêm một gái. Lão tin rằng hai hài nhi này là con lão. Trong khi Lê-Ba cũng tin rằng đó là con y. Lúc hai trẻ lớn lên, Nhật-Hồ cho gửi chúng sang Tây-vực, được giáo chủ Hồng-thiết giáo thu làm đệ tử. Khi nghe tin Nhật-Hồ lão nhân bị Thân-thiệu-Thái đánh bại, Hồng-thiết giáo cải danh thành Lạc-long giáo, giáo chủ Gọt-tam-Hổ sai Ngũ-sứ Tây-vực đem anh em Đông-Thiên về lập lại Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Nhưng trong trận Tản-lĩnh, Ngũ-sứ bị võ lâm Việt giết chết. Anh em Đông-Thiên bị bắt giam.
Cho đến khi vua Lý Thái-tông lên ngôi, đại xá thiên hạ, anh em Đông-Thiên được tha khỏi nhà tù, chúng mới len lỏi sang Lão-qua, vào Chiêm-Thành tái lập Hồng-thiết giáo. Khu-mật viện Đại-Việt chỉ biết Hồng-thiết giáo được tái lập ở bên Chiêm, với sự xuất hiện của Đinh-kiếm-Thương, không có tin tức của Vũ-chương-Hào, Lê-phúc-Huynh; chẳng ai nghĩ tới anh em Đông-Thiên. Võ-lâm, Khu-mật viện Đại-Việt cứ nghĩ rằng Hồng-thiết giáo chưa có giáo chủ, do ma đầu Đinh cùng đệ tử cai trị. Nào ngờ đấy chỉ là bề ngoài. Phải chờ cho đến khi vụ án Nguyễn-Bông đổ bể, nảy ra y chính là Đinh-Hiền. Do lời khai của y, Khu-mật viện biết rõ Hồng-thiết giáo tộc Việt được tái lập ở Chiêm. Mãi sau trận đánh Tư-dung, Trung-thành vương mới biết rõ Vũ-chương-Hào là Lục-chương-Anh, Thi-đại-Năng là Lê-phúc-Huynh. Cũng sau trận đó, nhờ giáo chúng cung cấp vương mới biết Đông-Thiên làm giáo chủ, Quỳmh-Hoa làm phó; tả hộ giáo là Đinh-kiếm-Thương; hữu hộ giáo là Vũ-chương-Hào; Lê-phúc-Huynh là giáo chủ Đại-Việt. Còm ngũ sứ tuyệt không ai biết gốc tích chúng ra sao; mười trưởng lão thì được cải danh thành mười kỳ chủ, chỉ huy mười đoàn giáo chúng. Họ là năm cặp vợ chồng, mang tên theo ngũ hành: Hoàng-kỳ, Bạch-kỳ, Huyền-kỳ, Lam-kỳ, Xích-kỳ. Chồng thì mang tên hùng, vợ thì mang tên thư. Như người chồng coi đạo Hoàng-kỳ thì có tên Hùng Hoàng-kỳ chủ, vợ mang tên Thư Hoàng-kỳ-chủ. Giáo chúng của mỗi kỳ cũng mặc quần áo theo ngũ hành.
Hoàng-Nghi thấy lão đần quá, nó càng trêu:
– Hồi còn sinh tiền, giáo chủ Nhật-Hồ đã dùng không biết bao nhiêu thiếu nữ làm cây thuốc. Hễ khi một người nào có thai, là lão sai đem đi biệt tích. Nếu sau cây thuốc đó sinh con gái, thì lão sẽ cho đem con đến để lão nhìn mặt. Còn như sinh con trai, thì lão bắt phải dấu tuyệt tích. Tiên-sinh có biết tại sao không?
– Dễ quá.
Đông-Thiên cười lớn: Nguyên lão nhân gia giết người nhiều, xung quanh lão nhân gia lúc nào cũng đầy ma quỷ rình rập xem con trai của người là ai để còn báo oán. Vì vậy hễ ai sinh con trai, người bắt dấu đi. Còn sinh con gái thì mới nhận. Như ta, người phải cho mang ho Trần, để tránh quỷ theo hại.
– À, thì ra thế. Người có nhiều con trai, tôi chỉ biết lão tiên sinh là một mà thôi. Tôi nghe nói dường như còn một người tên là Thâm-phúc-Dũng nữa phải không?
– Mi cũng giỏi đấy.
Kim-Liên chắp tay vái lão:
– Giáo chủ! Ban nãy giáo chủ hứa, nếu tam đệ của tôi nói được lý lịch giáo chủ, thì giáo chủ thả Nang-Chang-Lan ra. Bây giờ giáo chủ thả đi chứ?
– Được ta giữ lời hứa.
Lão hướng vào trong xe gọi:
– Nang-Chang-Lan đâu?
Chang-Lan từ trong xe bước ra cung tay:
– Giáo chủ! Thuộc hạ chờ chỉ dụ của giáo chủ!
Lão chỉ Hoàng-Nghi:
– Khi cứu mi ra khỏi nhà tù, ta có hứa làm cho mi một yêu cầu. Mi yêu cầu ta đưa mi đi tìm gã chồng mi tên Hoàng-Nghi, bây giờ nó kia.
Lan hướng Hoàng-Nghi:
– Anh ơi! Đông-phương giáo chủ đã cứu em khỏi tù, chứ người đâu có hành hạ em? Người hứa đưa em đi tìm anh, rồi thu anh làm đồ đệ nữa.
Hoàng-Nghi chán ngán trong lòng:
– Nhưng anh lại không muốn làm đệ tử một người như lão.
Đông-Thiên cau mặt:
– Tên dại gái kia! Mi tưởng được làm đệ tử ta dễ lắm sao? Mi nên nhớ rằng có hàng ức hàng triệu người trong thiên hạ mong được làm đệ tử ta, mà ta không nhận. Mi có biết ta đến đây để làm gì không?
– Không.
– Ta theo dõi bọn mi đã lâu. Ta thấy bọn mi thông minh, tài trí, nên ta muốn thu bọn mi làm đệ tử, cho bọn mi nhập giáo, rồi truyền bản lĩnh nghiêng trời lệch đất cho bọn mi. Như vậy, sau này ta sẽ có năm võ quan trong triều đình Đại-Việt là học trò ta.
Lão chỉ Nang-Chang-Lan:
– Mi thấy không? Như con nhỏ này bị giam trong tù. Chúng ta thân vào tù cứu nó ra, đem gả cho mi làm vợ, để vợ chồng cùng chung lưng làm việc cho bản giáo.
Lão nghẹo đầu, nghẹo cổ nhìn Hoàng-Nghi:
– Tuyệt, năm đứa bay mà làm đệ tử ta thì chỉ một năm là có bản lĩnh vô địch ngay.
Lão chỉ vào mười người xung quanh lão:
– Đây là những kỳ nam nữ tử của thế gian, ta đã thu làm đệ tử, truyền Hồng-thiết tâm pháp cho, và chúng thành mười kỳ chủ của ta.
Thấy bọn Hoàng-Nghi không trả lời, lão ngửa mặt lên trời nói một tràng tiếng ộp ạp như ếch kêu. Chỉ thấy thấp thoáng như tên bắn, mười người ấy tung mình khỏi xe, xẹt tới, xẹt lui như chớp giật, rồi trở về, trên tay mỗi người đã túm một người trong bọn Hoàng-Nghi. Đám võ-sĩ Long-biên, cũng như đội binh hổ, báo không kịp phản ứng.
Quỳnh-Hoa hướng đám võ-sĩ Long-biên:
– Các người có hạ cung tên xuống không? Các người tưởng bắn ta dễ lắm sao? Được, các người cứ bắn đi, để chúng ta đem chủ tướng các người làm bia thịt hứng tên cho chúng thành những con nhím.
Đông-Thiên, Quỳnh-Hoa đem Long-biên ngũ hùng, bốn thiếu nữ Kim-Liên, Kim-Loan, Ngọc-Liên, Ngọc-Hương xếp thành từng đôi một trên xe rồi hướng vào đám hổ-binh, báo-binh, ngao-binh. Lão để Hoàng-Nghi ngồi bên Nang-Chang-Lan:
– Ta đem chúa tướng các người đi đây. Thôi các người ở lại.
Phạm-Dật dùng lăng không truyền ngữ nói với các em:
– Đằng nào chúng ta cũng bị kiềm chế rồi. Chi bằng ta tạm dùng kế hoãn binh, giả theo lão, rồi chờ thời cơ lật ngược thế cờ.
Đám trẻ đồng ý ngay. Hoàng-Nghi hỏi lão:
– Này giáo chủ. Nếu giáo chủ thu chúng tôi làm đồ đệ, thì phải sao cho chúng tôi tâm phục, chứ có đâu dùng vũ lực bắt như thế này?
Đông-Thiên cau mày:
– Phải như thế nào bọn mi mới phục?
– Hiện chúng tôi theo quân Đại-Việt, với ước vọng kiếm chút công danh. Vậy nếu như giáo chủ giúp chúng tôi có công danh, chúng tôi nguyện theo giáo chủ ngay.
– Dễ quá, ta bảo Vũ-chương-Hào tâu với Chế-Củ. Củ sẽ phong bọn mi làm đại tướng.
Trần-Ninh lắc đầu, nhăn mặt:
– Giáo chủ ơi! Giáo chủ không thông thế tục tý nào cả. Chế-Củ bị Đại-Việt đánh bại đến nơi rồi, cái tính mệnh còn khó bảo toàn, thì sao có thể phong chức tước cho bọn tôi? Nếu như giáo chủ có cách nào, để chúng tôi được phong quan ở Đại-Việt, thì nhất định chúng tôi bái giáo chủ làm sư phụ ngay.
Đông-Thiên quay lại nói với em gái:
– Đúng thế. Ta đang cần có một số đệ tử làm võ tướng của Đại-Việt. Vậy ta phải giúp bọn này.
Hoàng-Nghi thấy lão xiêu lòng, nó nghĩ:
– Mình phải khích lão này mới được.
Nó cung tay:
– Giáo chủ ơi! Tôi biết bản lĩnh giáo chủ cao siêu khôn lường, trí tuệ trùm hoàn vũ, thì giáo-chủ lập chí ắt không tầm thường. Con mắt của giáo chủ nhìn khắp tám vùng tộc Việt, chứ đâu có luẩn quẩn trong cái đất Chiêm đầy núi rừng sỏi đá này, phải không?
Quả nhiên Đông-Thiên gật gật cái đầu:
– Thằng lỏi quả có con mắt tinh đời.
– Tôi nghĩ giáo chủ không thèm làm vua Chiêm đã đành, mà đến ngôi vua Đại-Việt cũng không đáng với trí tuệ mênh mông của giáo chủ. Cứ như suy nghĩ nông cạn của tôi, thì giáo chủ phải ngồi trùm lên trên tám vị hoàng đế tám vùng tộc Việt. Giáo chủ ơi! Tại sao giáo chủ không làm cách nào cho đệ tử của giáo chủ làm vua Chiêm, Chân, Lão, Xiêm, Lý, Đại-Việt, Lưỡng-Quảng. Còn giáo chủ làm đại hoàng đế, như vậy chúng tôi có là đệ tử của giáo chủ mới vinh dự chứ!
Sự thực cái mộng của Đông-Thiên là chỉ mong làm vua nước Chiêm đã là quá đáng rồi. Nhưng Hoàng-Nghi đánh đúng vào cái bộ óc mơ mơ, hồ hồ, điên điên, khùng khùng của lão, làm lão sướng quá:
– Đúng thế. Vậy bây giờ mi bảo ta nên làm gì trước?
– Làm gì trước ư? Trước hết giáo chủ phải có một cơ sở vững chắc. Rồi từ đó, giáo chủ huấn luyện giáo chúng, gửi đi các nước khác truyền giáo. Đợi khi nước nào, giáo của ta mạnh, ta chiếm lấy ngôi vua. Dần dần ta chiếm được hết tám vùng tộc Việt. Cơ sở trước mắt mà giáo chủ có thể dơ tay ra khắc lấy được, đó là Chiêm quốc. Rồi từ Chiêm quốc, ta lấy Chân-lạp, Lão, Xiêm. Cuối cùng ta lấy Đại-Việt. Đến đây ta tiến lên chiếm Lưỡng-quảng dễ như trở bàn tay.
– Mi luận đúng ý ta. Nay ta đang tìm cách lấy ngôi vua Chiêm đây.
Thấy đối phương có vẻ nghe mình, Hoàng-Nghi tiếp:
– Hiện nay, giáo chủ cùng Vũ-chương-Hào, Lê-phúc-Huynh, Đinh-kiếm-Thương giúp Chế-Củ với mục đích tiến chiếm vùng Thanh-Nghệ. Sau đó giáo chủ giết Chế rồi lên ngôi vương Chiêm-quốc. Có đúng thế không?
Đông-Thiên gật đầu:
– Đúng thế!
– Nhưng này giáo chủ. Giáo chủ thử nghĩ xem liệu Chế-Củ có thành công không?
– Ta nghĩ khó lắm. Ta định khi quân Chiêm bại rồi, quân Đại-Việt rút đi, chúng ta sẽ hô hào giáo chúng đứng dậy, tái lập quốc, ta lên làm vua.
Hoàng-Nghi xua tay:
– Thiên nan, vạn nan. Khi Chiêm bại rồi, thì người Chiêm thù người Việt, trong khi giáo chủ là người Việt, liệu họ có theo giáo chủ, tôn giáo chủ làm vua không? Ví rằng giáo chủ có được dân Chiêm tôn lên ngôi vua, thì Đại-Việt lại đem đại quân vào đánh, thì võ công giáo chủ có cao siêu đến đâu cũng không chống lại được!
– Vậy các người có phương cách gì giúp ta chăng?
Hoàng-Nghi đáp ngay:
– Có khó gì đâu, giáo chủ giúp chúng tôi đánh trận Nhật-lệ, sau đó tiến vào kinh đô Phật-thệ bắt Chế-Củ. Như vậy nhất định là vua Đại-Việt sẽ phong cho chúng tôi làm đại tướng quân, phong tước hầu liền. Còn giáo chủ sẽ được phong làm Chiêm-thành vương, có phải danh chính ngôn thuận không? Trong khi làm Chiêm vương, giáo chủ huấn luyện giáo chúng gửi sang Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la để tìm cách chiếm nước này.
– Ừ nhỉ.
Lão hỏi em gái:
– Em nghĩ sao?
– Anh đừng nghe lời mấy đứa nhãi ranh. Chúng nó còn con nít, trong khi vua Đại-Việt đã gần năm mươi tuổi, đời nào y nghe chúng.
Kim-Loan hừ một tiếng, rồi hỏi Quỳnh-Hoa:
– Thưa phó giáo chủ. Phó giáo chủ có biết hiện hoàng đế Đại-Việt sủng ái nhất ai không?
– Ta không biết.
– Người mà hoàng đế Đại-Việt sủng ái nhất là Ỷ-Lan thần phi, vì thần phi vừa sinh ra hai hoàng tử.
– Ta có nghe nói.
Kim-Loan chỉ vào Long-biên ngũ hùng:
– Năm anh này là em nuôi của thần phi. Tiếng là chị em, chứ thực sự ra tình như mẹ con. Hễ năm anh này thành đệ tử của giáo chủ, được giáo chủ dạy cho bản lĩnh nghiêng trời lệch đất, ắt phi phải nhớ ơn giáo chủ. Phi chỉ cần đem tất cả công trạng của giáo chủ tâu một tiếng với đức vua, thì giáo chủ được phong làm Chiêm-vương ngay.
Đông-Thiên nhìn Quỳnh-Hoa, hai bên tỏ ra ăn ý với nhau. Cả hai cùng gật đầu. Đông-Thiên vung tay mấy cái, y đã giải huyệt cho chín người. Y nói:
– Ta tha cho bọn mi, giúp bọn mi thắng Chiêm. Nếu như sau này những lời bọn mi nói mà không đúng, thì hãy coi đây.
Lão hít hơi hướng vào con cọp xám ngay trước ngựa phóng chưởng. Rầm một tiếng, con cọp chết dí xuống đất, xương thịt nát nhừ. Đám cọp khác thấy đồng bọn chết thảm thì rống lên thảm thiết. Nhưng không có lệnh tấn công, chúng chỉ đứng xa xa nhìn mà thôi.
Phạm-Dật vội vàng cung cung kính kính mời Đông-Thiên, Quỳnh-Hoa với mười tùy tùng vào trong trướng. Nó thấy từ đầu đến cuối, đám này không nói một câu. Nó hỏi người mặc quần áo vàng:
– Đại huynh đây quý danh là gì?
Người này chĩa ngón tay chỏ chỉ vào miệng, tỏ ý không nói được. Đông-Thiên giải thích:
– Mười kỳ chủ của ta đều câm cả. Chúng nguyên là người Việt ở Chiêm, rất yêu nước, luôn hướng về đất tổ. Chúng tuyên thệ nhập giáo theo ta, để giúp ta chiếm nước Chiêm. Ta nhân đó thu làm đệ tử, phong làm kỳ chủ. Để tỏ lòng trung thành, chỉ biết nghe lệnh ta mà thôi, chúng tự nguyện hủy lưỡi thành câm. Cho nên chúng nghe, hiểu, nhưng không nói được. Trong mười đứa, thì năm đứa là nam, năm đứa là nữ. Ta kết hợp cho chúng thành vợ chồng. Mỗi cặp ta cho mặc y phục một mầu theo ngũ hành thổ vàng, kim trắng, thủy đen, mộc xanh, hỏa đỏ.
Nghe lão nói, Long-biên ngũ hùng ớn da gà. Trong lòng chúng nảy ra mối căm hận: hỡi ơi, Hồng-thiết giáo trước sau thành công là nhờ khai thác cái kho tàng vô cùng giầu có của Đại-Việt, là lòng yêu nước trong người dân, để dùng vào việc bất chính. Những người này, yêu nước cuồng nhiệt, bị chúng lợi dụng, đẩy vào cái thảm trạng kinh thiên động địa. Họ cứ tưởng mình hy sinh cho đất nước. Nào có ngờ bị biến thành trâu, thành chó.
Phạm-Dật truyền làm cơm đãi bọn người của Đông-Thiên. Cơm xong, Đông-Thiên hỏi:
– Bây giờ các người định tiến binh thẳng ra Nhật-lệ đón đạo binh Thần-điện hữu của Trần Thanh-Nhiên phải không?
– ???
– Bọn người khỏi cần dấu ta. Ta nói cho bọn người biết cũng không sao. Ta có nhiều đệ tử rải rác từ triều đình đến biên trấn Đại-Việt. Cho nên nhất cử nhất động của các người ta đều biết hết. Khi các người thay đổi kế hoạch tiến binh, chỉ cần ba ngày sau là ta biết liền. Nhưng các người đừng sợ. Đâu có phải bất cứ điều gì ta biết, ta đều cho bọn Lê-phúc-Huynh, bọn Vũ-chương-Hào, bọn Chàm hay? Chúng nó chẳng bao giờ trung thành với ta cả, thì tội gì ta phải tử tế với chúng?
Lão cười đắc chí:
– Mi tưởng! Bọn Vũ-chương-Hào, Đinh-kiếm-Thương, Lê-phúc-Huynh, tuy bề ngoài chúng là thuộc hạ của ta, nhưng bất cứ lúc nào chúng cũng định hất ta để lên làm giáo chủ.
Phạm-Dật cắt cử binh lính hầu hạ anh em Đông-Thiên, mười kỳ chủ. Nó ngạc nhiên vô cùng khi thấy Đông-Thiên chỉ thiếu phụ mặc quần áo trắng với quần áo đen tức « Thư Bạch-kỳ chủ » và « Thư Huyền-kỳ chủ » ra lệnh:
– Tối nay hai người được ta ban hồng ân làm cây thuốc luyện công !
Bạch, Huyền phu nhân cúi đầu vái ba vái rồi vào lều của giáo chủ. Bạch-hùng, Huyền-hùng cũng cúi đầu vái tạ, rồi về lều mình. Phạm-Dật hỏi sẽ Kim-Loan:
– Cái gì vậy? Cái gì là hồng-ân? Hồng ân là hai bà ở lại ngủ với giáo chủ ư?
– Suỵt! Trong Hồng-thiết giáo, thì giáo chủ còn có uy quyền hơn vua. Các kỳ-chủ, đạo trưởng cũng thế, ý muốn của họ là ý trời. Khi nhập Hồng-thiết giáo, thì những gì của riêng mình như thân thể, của cải, vợ con, đều không được giữ làm của riêng. Mỗi khi thượng cấp muốn gì, thì phải vui vẻ dâng hiến. Đây chắc là giáo chủ muốn ăn nằm với Bạch, Hồng phu nhân, nên hai ông chồng không những không được chống đối, mà phải cúi đầu coi như mình dâng vợ cho giáo chủ là được hưởng một đại ân. Tình trạng này, tất cả nữ giáo chúng, vợ con giáo chúng, được cấp trên vời đến ăn nằm với, thì họ hãnh diện lắm, và gọi là được ban hồng-ân.
– Vô lý! Thế hai ông chồng kia có thực lòng dâng hiến không?
– Khó mà biết lắm. Dù không chịu thì cũng phải chịu. Nếu tỏ ra một cử chỉ chống đối, thì bị bỏ xuống hầm cho rắn ăn thịt.
– Thực kinh tởm. Nếu bọn mình theo lão, thì một ngày kia, em cũng bị lão « ban hồng ân » chăng?
– Trường hợp đó lọ là phải nói! Không những lão, mà đến cái bọn kỳ-chủ kia muốn, mình cũng phải chiều theo. Em mà bị nhục như vậy, em sẽ tự tử.
Từ lúc được thấy Chang-Lan đến giờ Hoàng-Nghi chưa được nói với nàng một câu. Bây giờ nghe Kim-Loan tiết lộ những quy luật của Hồng-thiết giáo, nó thắc mắc:
– Nếu vậy thì Chang-Lan đã từng được giáo chủ, kỳ chủ « ban hồng-ân » sao?
– Điều đó thì khó biết lắm. Chú ba cứ hỏi thẳng nàng. Nếu nàng từng làm cái chuyện kinh tởm con khỉ đó, ắt nàng hãnh diện lắm, chứ không dấu diếm đâu.
Hoàng-Nghi thấy Chang-Lan đứng trước lều Đông-Thiên, nó vẫy tay gọi nàng, nhưng nàng lắc đầu, tay chỉ vào trong lều ngụ ý nói: giáo chủ không cho.
Phạm-Dật, Hoàng-Nghi ra phía sau trại viết bản tường trình chi tiết cho Trung-thành vương với nguyên-soái Thường-Kiệt rồi sai chim ưng mang đi. Công việc vừa xong, thì trời tảng sáng, binh sĩ chuẩn bị lên đường.
Đông-Thiên hỏi Phạm-Dật:
– Cái kế hoạch của các người có gì thay đổi không?
– Thưa giáo chủ không. Bọn anh em thuộc hạ đều còn trẻ con, bản lĩnh võ công không được làm bao. Vì vậy xin đại giá giáo chủ với chư vị kỳ chủ đi với đạo quân đóng ở đồi thứ ba. Trận chiến ở đây sẽ rất khốc liệt, chỉ cần giáo chủ búng tay một cái, thì dù tướng Chiêm võ công cao đến đâu cũng bị mất mạng.
Đông-Thiên thấy Phạm-Dật xưng tụng bản lĩnh của mình, thì vui vẻ, lão ra lệnh:
– Bây giờ thế này. Phạm-Dật, Kim-Loan đi xe đỏ với vợ chồng Xích kỳ. Vũ-Quang, Kim-Liên đi xe đen với vợ chồng Bạch-kỳ. Lý-Đoan, Ngọc-Liên đi xe với Huyền kỳ. Trần-Ninh, Ngọc-Hương đi xe trắng với phó giáo chủ và vợ chồng Bạch-kỳ. Hoàng-Nghi, Chang-Lang đi xe vàng với ta và vợ chồng Hoàng kỳ. Thôi ta lên đường.
Dọc đường, Hoàng-Nghi coi như không có vợ chồng Hắc-kỳ, nó với Nang-chang-Lan tâm tình. Nó nhận thấy mới xa nhau có mấy ngày, mà Lan đã thay đổi nhiều quá. Nàng nói năng cộc cằn, lại luôn luôn coi Hồng-thiết giáo như lẽ sống của đời. Hơn nữa, mỗi khi Hoàng-Nghi nhắc lại những kỷ niệm cũ, là nàng gạt thẳng đi. Nàng kể:
– Nguyên Đông-Thiên giáo chủ chia lãnh thổ tộc Việt làm mười vùng, mỗi vùng thành lập một đạo nội-giáo cực kỳ trung kiên. Trong mười đạo, thì một đạo nam, một đạo nữ mang chung một tên, dùng chung một mầu cờ. Đạo nam gọi là hùng, đạo nữ gọi là thư. Vì vậy có năm đạo danh; Hoàng-kỳ, Bạch-kỳ, Huyền-kỳ, Lam-kỳ, Xích-kỳ. Giáo chủ có mười đệ tử, kết hợp thành năm cặp vợ chồng, đều được ngồi vào ghế hội đồng giáo vụ trung-ương. Mỗi vị thống lĩnh một đạo.
Nàng chỉ vào chiếc xe sơn mầu vàng:
– Em là nội-giáo thuộc đạo Hoàng-kỳ do Thư Hoàng-kỳ chủ thống lĩnh, vì vậy giáo chủ mới cho người đột nhập nhà tù cứu em ra.
– Thế trong đám tù ở Bố-chánh, có bao nhiêu nội-giáo như em được cứu ra?
Chang-Lan tính trên đốt ngón tay:
– Hoàng-kỳ chỉ có mình em, Bạch-kỳ bốn đứa. Tất cả là năm. Các kỳ khác không có đứa nào. Sau khi được ra khỏi nhà tù, giáo chủ hỏi em về chuyện tình của chúng mình. Em thú nhận hết rồi xin người đưa em đi gặp anh. Em cam đoan các anh gặp giáo chủ, sẽ xin nhập giáo ngay. Người đồng ý, rồi đưa em đi.
– Thế còn gia đình em?
– Giáo chủ nói rằng giáo-chủ không thể cứu hết mọi người. Trong cuộc chiến này, người chỉ có thể bảo vệ cho đám nội-giáo mà thôi.
– Thế những nội-giáo trong các kỳ, có khác nội-giáo của các trang ấp không?
– Khác nhiều lắm. Bọn nội-giáo trang ấp thì thống thuộc địa phương. Còn bọn em thì địa bàn hoạt động trên tất cả các vùng từ hồ Động-đình tới Chân-lạp.
Vì được giáo dục theo lối suy tư man rợ của Hồng-thiết giáo Tây-vực, hành sự của anh em Đông-Thiên khác hẳn với người Hoa người Việt, cho nên lúc đầu bọn Long-biên ngũ hùng tưởng hai anh em y điên khùng. Bây giờ thấy việc lão phân phối bọn chúng đi trên xe với mười kỳ-chủ, để dễ kiểm soát, kiềm chế... Chúng mới thấy anh em Đông-Thiên rất tinh tế.
Tới đồi số ba, thì quân dừng lại. Chim ưng mang thư của nguyên soái Lý-thường-Kiệt tới. Phạm-Dật mở ra xem, nó kinh ngạc vô cùng, vì đêm qua nó gửi hai bản tường trình chi tiết vụ Trần-đông-Thiên về cho Trung-thành vương với Lý-thường-Kiệt, rồi xin ý kiến để hành động. Thế nhưng không thấy Thường-Kiệt trả lời về vụ này, mà chỉ vỏn vẹn mấy giòng:
« ... Kế hoạch chia quân phục ở đồi 1, 2, 3 như vậy là hoàn hảo. Sau khi thắng kị binh Chiêm, phải tiến lên đánh như vũ bão vào hậu quân Chiêm. Khi chiếm được trại Nhật-lệ, thì phóng hỏa đốt liềm, tổ chức phòng thủ nghiêm mật, e quân Chiêm đánh quặt trở lại...Nếu như đạo quân của Dư-Phi gặp khó khăn, phải chấp nhận hy sinh, đánh vào phía sau chiến lũy Chiêm ».
Phạm-Dật trao thư cho Hoàng-Nghi, nó chưa kịp đọc, thì thấp thoáng một cái, người đàn bà trên xe đen đã đoạt thư trên tay nó, rồi y thị di chuyển thân hình tới trước Đông-Thiên, cung cung kính kính trình thư cho lão. Đông-Thiên xem thư xong, lão trả về cho Phạm-Dật.
Phạm-Dật chữa thẹn:
– Huyền phu nhân, phu nhân với chúng tôi đều là đệ tử của giáo chủ, dĩ nhiên chúng ta phải trung với người. Khi thư tới, đương nhiên tôi phải trình người, việc gì phu nhân phải làm như thế?
Quỳnh-Hoa liếc con mắt sắc như dao nhìn Phạm-Dật:
– Thằng bé con kia, việc này không phải do Thư Huyền-kỳ chủ muốn thế, mà bởi luật lệ của bản giáo. Bọn mi mới nhập môn nên chưa biết đó thôi. Để ta giảng giải cho mi hiểu. Phàm khi đệ tử bản giáo hành sự, thì bất cứ thư tín gì, phải trình cho người có vai vế cao nhất đương trường giải quyết, chứ không phải ai muốn làm gì thì làm. Ở đây giáo chủ là đấng chí tôn, mà khi có thư tới, mi lại cầm lấy đọc, như vậy là vô phép nên Thư Huyền-kỳ chủ phải lấy thư trình giáo chủ.
Phạm-Dật, Kim-Loan dẫn đội cọp lên đường. Trước sau vợ chồng Xích kỳ chủ vẫn ngồi chung xe với chúng. Hai người không nói không rằng. Tới đồi một, nó ém đội hổ vào rừng, rồi sai dấu xe. Nó leo lên cây cao quan sát đồi số hai. Trên đồi số hai Vũ-Quang, Kim-Liên cùng cho ém voi, dấu xe, rồi leo lên cây quan sát. Trên đồi số ba, Hoàng-Nghi dàn ra: bên phải là Lý-Đoan, Ngọc-Liên, vợ chồng Huyền-kỳ chủ; bên trái Trần-Ninh, Ngọc-Hương, Quỳnh-Hoa; ở giữa Đông-Thiên, vợ chồng Hoàng-kỳ chủ với Hoàng-Nghi, Nang-chang-Lan.
Cả ba vùng đều dùng cờ phất lên báo hiệu cho nhau: dàn quân xong. Phạm-Dật nói với vợ chồng Xích-kỳ:
– Này sư huynh, sư tỷ! Sư huynh, sư tỷ theo học với giáo chủ mấy năm rồi?
Thư Xích-kỳ chủ dơ chín ngón tay lên. Kim-Loan lại hỏi:
– Năm nay sư huynh, sử tỷ bao nhiêu tuổi?
Xích-kỳ chủ chỉ vào vợ rồi chỉ vào ngực mình ý ra hiệu hai người bằng tuổi nhau, rồi dùng ngón tay viết chữ « tam thập nhất », tức ba mươi mốt tuổi. Kim-Loan lại hỏi:
– Theo giáo chủ thì sư huynh, sư tỷ tự nguyện cắt lưỡi phải không? Tại sao lại phải cắt lưỡi? Thiếu gì người không cắt lưỡi mà vẫn trung thành?
Xích phụ lắc đầu, thở dài, tỏ ý hối tiếc, rồi hai giọt nước mắt chảy dài xuống má. Phạm-Dật nghĩ nhanh:
– Trung gian vụ này e còn có điều chi huyền bí đây, ta cứ hỏi kỹ, may ra tìm được tin gì có lợi cho Đại-Việt.
Nó hỏi:
– Sư tỷ ơi! Chúng ta đều là người bị giáo chủ dùng võ công kiềm chế. Nay giáo chủ không có ở đây, tại sao sư tỷ không cho bọn đệ biết rõ tâm sự, may ra đệ có giúp được điều gì chăng?
Xích phụ dùng tay viết xuống đất kể:
– Giáo chủ bắt chúng tôi uống một thứ thuốc, khiến lưỡi cứng ra không nói được, ăn cũng không thấy mùi-vị gì. Nay mai giáo chủ cũng bắt cô cậu uống thuốc rồi thành tàn tật như chúng tôi. Cứ chờ đi.
Phạm-Dật ớn da gà, tuy vậy nó vẫn cố làm ra can đảm, an ủi xích phụ bằng ngôn từ thân mật:
– Nếu anh chị muốn, việc ở đây xong, chúng em sẽ nhờ tiên nương Thiếu-Mai hay Đại-từ Liên-hoa hòa thượng trị cho.
Xích-phu viết:
– Trị được hay không, cũng không cần thiết. Điều quan trọng là sao cho chúng tôi thoát khỏi tay lão, thoát khỏi cái độc Chu-sa huyền âm độc tố. Tôi nghe nói, ở Đại-Việt hiện có Hồng-sơn đại phu, đại hiệp Tự-An, phò mã Thân-thiệu-Thái, Lê-Văn đủ công lực giải độc tố Hồng-thiết giáo vĩnh viễn. Không biết có đúng không?
– Đúng! Trước kia, chỉ mình phò mã Thân-thiệu-Thái làm được việc đó, vì người luyện Hồng-thiết công. Nhưng sau này Hồng-sơn đại phu đã tìm ra phương pháp giải, dù không luyện Hồng-thiết công. Đại-hiệp Tự-An cũng tìm được phương pháp khác. Sau các ngài dạy cho phò mã Lê-Văn, Tự-Mai. Ngoài ra Mộc-tồn Vọng-thê, Đại-từ Liên-hoa hòa thượng cũng biết giải nữa, song không biết các ngài chế ra hay học của ai?
– Vậy chú em có quen thân với một trong các vị ấy chăng? Liệu chú có xin các vị ấy trị cho tôi chăng?
– Chúng tôi không thân với các vị đó. Nhưng tôi nghĩ, có hai người rất thân với bằng ấy vị, mà tôi có thể nhờ cậy được. Hai người ấy là Ỷ-Lan thần phi và Tín-nghĩa vương. Điều kiện là...
– Điều kiện nào chú mới giúp chúng tôi?
– Dễ thôi, anh chị giúp chúng tôi bình Chiêm. Sau đó khải hoàn về Đại-Việt, tôi sẽ lo cho anh chị. Có điều...
Đến đó ưng binh hú lên báo hiệu. Phạm-Dật vội leo lên cây cao quan sát: xa xa, một đội kỵ mã mang cờ Đại-Việt phi trước. Phía sau là đoàn kị binh Chiêm đang đuổi theo. Nó cầm tù và rúc hên một hồi báo động, để hổ binh ra lệnh cho đàn cọp im lặng.
Lát sau, đội kị mã Việt chạy qua, bụi tung bay mịt mờ. Đoàn kị binh này vừa đổ đồi, thì đoàn kị binh Chiêm đuổi tới. Phạm-Dật núp trên cây cao quan sát, rồi đếm. Đợi kị binh Chiêm vượt qua, Kim-Loan hỏi:
– Quân số hai bên ra sao?
– Mình khoảng nghìn. Chiêm khoảng ba nghìn, chia làm mười đội.
Tuy đối đáp với nhau, nhưng Phạm-Dật cũng vẫn dùng cờ chỉ huy chim ưng báo hiệu cho đồi hai, đồi ba. Tại đồi hai, Vũ-Quang, Kim-Liên theo dõi đầy đủ tín hiệu Phạm-Dật truyền cho. Khi viên kị binh cuối cùng của Chiêm vượt qua, nó mới phất cờ đỏ báo hiệu cho Hoàng-Nghi biết.
Đội kị-binh Chiêm hăm hở đuổi theo đạo kị binh Việt, đâu biết những gì xẩy ra ở phía sau? Khi chúng vừa leo lên lưng chừng đồi thứ ba, thì có tiếng trống thúc nhịp nhàng, tù và rúc xé tai, nhức óc. Đạo kị binh Việt lên đến đỉnh đồi thì dừng lại, dàn ra nghiêm chỉnh. Một tiếng pháo nổ đến đoàng trên không, từ hai bên rừng, những tiếng vi vu rít lên trên không, rồi hàng loạt tên bay tới. Hơn trăm kị mã Chiêm ngã lộn xuống đất. Những con ngựa chiến không người điều khiển hí lên inh ỏi, rồi lao vào rừng, lao xuống đồi, làm những kị binh Chiêm đi sau ùn lại. Loạt tên thứ nhì, rồi thứ ba bay tới, mỗi loạt hơn trăm kị binh ngã lộn xuống đất.
Nói thì chậm, nhưng những tiễn thủ Long-biên đều thuộc hàng cao thủ, cung của họ cứng, tên của họ dài, kình lực tên bay nhanh rít lên vo vo, thành ra đám kị mã Chiêm không nhìn rõ mà tránh né.
Viên tướng Chiêm kinh hãi, vội cho quân ngừng lại, ra lệnh tác chiến. Viên phó tướng vội nói:
– Trong phép dùng binh, kị nhất là dừng quân ở lưng chừng đồi, núi. Nếu có gì xẩy ra, thì tiến lên không nổi, mà lui lại thì địch quân đánh xuống, ắt bị tiêu diệt.
Viên tướng nói cứng:
– Quân ta đông gấp ba quân nó, thì nếu như nó đổ đồi, có khác gì tự tử không? Ta bị trúng phục binh bị tổn thất đôi chút có xá gì? Thôi được, tiến lên.
Y định ra hiệu cho kị binh lại lên dốc đồi. Thình lình một hồi tù và rúc lên, trống thúc nhịp nhàng, rồi phía trước, đạo kị binh Việt đổ đồi. Viên tướng Chiêm cười lớn:
– Cho bọn bay tự tử.
Kị binh Chiêm vừa định dàn ra để ứng chiên, thì từ hông phải, một đội báo từ trên cây lao xuống. Chúng tru tréo lên, xông vào tấn công. Thoáng một cái, đạo kị binh Chiêm bị cắt làm đôi, giữa lúc hàng ngũ đang rối loạn, thì phía hông trái, một đội sói tru lên, rồi xông vào. Thế là tiền quân Chiêm bị cắt làm bốn. Phía trước, đội kị binh, đã đánh quặt trở lại.
Vì quân Chiêm dàn ra thành một hàng dài trên dốc đồi, nên viên tướng không thể ban lệnh phản công. Y định ra lệnh cho quân lui xuống chân đồi để ứng chiến, thì trên các ghềnh đá, trên các ngọn cây, những cung thủ xuất hiện, mỗi loạt tên buông ra, hơn năm trăm kị binh ngã ngựa. Kị binh Chiêm kinh hoàng thi nhau đổ đồi bỏ chạy, nhưng loạt tên rít lên, xé gió đuổi theo. Người ngã, ngựa dẵm lên người, hỗn loạn trên sườn đồi.
Hậu quân Chiêm rút xuống chân đồi, chưa kịp dàn ra, thì quân sĩ lại la hoảng, vì phía trái, một đội voi hùng hậu đã xông vào đánh cắt hậu quân làm đôi. Viên tướng Chiêm tỏ ra bình tĩnh. Y tập trung quân, phản công. Hàng ngũ chưa chỉnh xong, thì binh tướng Chiêm lại la hoảng, vì chúng thấy dọc con đường đi qua, trên các ngọn cây đều treo cờ ngũ hành. Hàng ngũ chúng dao động, gần như rối loạn. Phía trước, đội kị binh Việt xông thẳng vào giữa trận, bên trái đội báo, bên phải đội sói. Phía sau đạo tiễn thủ cướp ngựa của Chiêm, mỗi người đứng trên lưng một con ngựa, hướng đội hình Chiêm buông tên.
Hai viên chánh phó tướng Chiêm vừa dàn xong quân, y lên tiếng gọi:
– Ta muốn nói chuyện với tướng người Việt.
Y nói tiếng Việt rất rõ. Ba chiếc xe ngựa thủng thẳng tiến ra. Hoàng-Nghi nói với Đông-Thiên:
– Thưa giáo chủ, Chiêm có tới ba nghìn kị binh. Tuy ta loại được gần ngàn, nhưng với số hai ngàn còn lại, chúng thừa sức tiêu diệt bọn tiểu bối. Vậy xin giáo chủ, phó giáo chủ với các vị kỳ-chủ xông bào trận giết hết bọn tướng, bọn đội trưởng, chúng không người chỉ huy, thì ta có thể thắng chúng.
Đông-Thiên quay lại nói với em cùng các kỳ chủ:
– Hễ ta hô một tiếng thì các người xông vào nghe.
Hoàng-Nghi hỏi vên tướng Chiêm:
– Xin tướng quân cho biết cao danh quý tính?
– Ta ư? Ta tên...
Đến đó Đông-Thiên hú lên một tiếng dài, Hoàng-Nghi cầm cờ phất. Đội báo, sói tru lên lao vào đội hình Chiêm, đội tiễn thủ Long-biên đứng trên lưng ngựa lao về trước, tay buông tên. Đông-Thiên cùng đám kỳ chủ nhấp nhô mấy cái đã ông vào trận Chiêm. Cứ mỗi chiêu, là một tướng, một đội trưởng ngã ngựa. Quân hai bên hỗn chiến.
Đúng ra, nếu quân Chiêm bình tĩnh dàn trận chiến đấu, thì với đội thú ít ỏi, thêm nghìn kị binh Việt, không thể là đối thủ của họ. Nhưng vì họ bị phục kích bất ngờ, ngay loạt tên đầu hơn nghìn kị binh ngã ngựa, mấy trăm kị binh khác bị báo, sói làm bị thương. Hai là khi trận chiến vừa dàn ra, khai mạc; các tướng, các đội trưởng của của họ bị Đông-Thiên, Quỳnh-Hoa với các kỳ chủ xung vào trong quân, chỉ một hiệp là bị giết chết. Quân sĩ không người chỉ huy, hàng ngũ rối loạn, nên không còn quân khí. Thế là không ai bảo ai, binh tướng cùng bỏ chạy.
Phía sau, đội voi, báo, sói rượt bén gót.
Khi đạo binh Chiêm rút lên đỉnh đồi thứ nhất, thì một tiếng pháo nổ, một loạt tên bắn ra, hơn trăm kị binh ngã ngựa, rồi đàn hổ xông vào, đánh cắt làm đôi. Tiếng loa xướng lên bằng tiếng Chiêm:
– Quẳng vũ khí đầu hàng, bằng không thì bị thú ăn thịt.
Đám kị binh Chiêm trong cái kinh hoàng, chúng đều vứt vũ khí đầu hàng. Không một người nào chạy thoát.
Lúc mới gặp Long-biên ngũ hùng, anh em Đông-Thiên với mười kỳ-chủ Hồng-thiết thấy bọn Long-biên ngũ hùng chỉ là năm đứa trẻ, với bốn thiếu nữ, võ công bình thường... thì tỏ ra coi thường. Qua trận phục kích vừa rồi, y mới thấy rằng chúng là những chiến tướng tài ba, nào phục binh, nào tấn công, nào dàn quân, nào truy kích , chúng phối hợp với nhau rất nhịp nhàng. Đạo kị binh Chiêm mạnh như vậy, đông như vậy, mà chúng làm cho kinh hoảng, khiến quân khí mất hết, đến nỗi bị chết phân nửa, đầu hàng phân nửa. Y càng phục đội tiễn thủ hơn, vì mỗi lần buông tên, là mũi tên đều trúng giữa trán một binh Chiêm. Còn báo, sói, chỉ cắn kị binh, mà không cắn ngựa, thành ra số ngựa Chiêm chết không quá trăm con. Phía Việt thu được trọn vẹn mấy nghìn ngựa.
Phạm-Dật biết rằng, trong trận vừa qua, nếu không nhờ Đông-Thiên, Quỳnh-Hoa với mười kỳ-chủ ra tay đánh giết đám tướng soái, cùng đội trưởng Chiêm, thì anh em nó không thể thắng dễ dàng như vậy. Nó đưa mắt cho bốn em, rồi cùng hướng Đông-Thiên, Quỳnh-Hoa với mười kỳ-chủ:
– Bọn tiểu bối kính tạ ơn thần võ của giáo chủ với thập kỳ-chủ.
Đông-Thiên vuốt râu, gật gù đầu nhận lễ của Long-biên ngũ hùng.
Vừa lúc đó, có chim ưng mang thư tới. Phạm-Dật mở ra coi, rồi nói:
– Ngoài khơi, thủy quân Chiêm, Việt đang giao tranh, chưa phân thắng bại. Phía trước, quân của Trung-thành vương với Dư-Phi đang đại chiến với Chiêm, mình hơi bất lợi. Lệnh trên bắt chúng ta phải đánh cảm tử, chiếm thủy trại giặc, để làm bộ binh, thủy binh chúng kinh hoàng.
Đô-thống Trần-thạnh-Nhiên lắc đầu từ chối:
– Chúng ta vừa trải qua cuộc giao tranh, người, thú đều mệt mỏi, nhiều người bị thương. Ta hãy nghỉ quân nửa buổi đã.
Hoàng-Nghi lắc đầu:
– Giữa lúc hai đạo thủy, bộ đều trông vào ta để dành thắng lợi. Ta chỉ chậm một khắc, thì quân hai đạo kia chết hàng nghìn. Vì vậy dù có phải hy sinh hết đạo binh này, chúng ta cũng phải đánh gấp.
Nó ra lệnh:
– Chúng ta chấp nhận đánh cảm tử. Bây giờ sẵn tù binh Chiêm ở đây, ta lấy quần áo, vũ khí, cờ xí, lừa ngựa của họ, giả làm đội kị mã trở về lấy lương thảo. Còn thú thì ta nhốt trong xe đậy kín, nói là chở xác tử sĩ. Tất cả chúng ta đều im lặng, để cho mấy chị Kim-Loan, Kim-Liên, với hàng binh Chiêm đối đáp với binh canh. Đợi khi binh Chiêm mở cổng cho chúng ta vào trong rồi, thì ta mở cũi cho thú tràn ra đánh chiếm trại.
Nó nói nhỏ vào tai Kim-Loan, Kim-Liên mấy câu. Hai cô bèn cho gọi một đội trưởng kị binh Chiêm chuyên vận tải lương thảo lại, rồi ôn tồn nói:
– Nhà ngươi mới đầu hàng, các tiểu tướng quân nào có thể tin bọn người hàng thực hay hàng giả? Nên các tiểu tướng quân muốn đem người cho cọp ăn thịt. Trong năm mươi người đây, hôm nay ta đem mười người cho hổ ăn thịt, vậy ai tình nguyện?
Tên đội trưởng rét run. Y đáp:
– Xin cô nương nói dùm với các tiểu tướng quân rằng chúng tôi thành thực đầu hàng, không hề giả dối. Xin các tiểu tướng quân tha mạng bọn tôi, mà bắt ngựa cho hổ ăn thịt, thịt ngựa ngon hơn thịt người nhiều.
Kim-Liên lắc đầu:
– Người nói vậy thì ta tin vậy, nhưng ta nghĩ các người phải làm một cái gì chứng tỏ lòng ngay thẳng, thì các tiểu tướng quân mới tin. Người tên gì?
– Tiểu nhân tên Yan Đà-lị-tha.
Y chỉ đội quân của y:
– Chúng tôi xin đi tiên phong cùng với các tiểu tướng quân đánh lại quân Chế-Củ.
– Vậy thì được rồi. Lát nữa chúng tiến đánh thủy trại của Lê-phúc-Huynh. Vậy người dẫn binh đội của người theo tiền quân, giả lệnh của tướng chỉ huy kị binh, trở về trại lĩnh cỏ khô cho ngựa. Sao cho chúng ta vào được trại, bấy giờ chúng ta đánh chiếm trại. Nếu sự thành công, thì chúng ta cho các người về với vợ con, hoặc nếu các người muốn, chúng ta cho các người nhập ngũ làm quân Việt.
Đà-lị-Tha mừng rỡ, chắp tay lậy rối rít:
– Tiểu nhân là đội trưởng thường phụ trách lĩnh lương thảo ở thủy trại, binh tướng gác trại đã quen mặt. Tiểu nhân xin đi tiên phong.
– Được, chúng ta tin lời người.
Hoàng-Nghi đưa con mắt nhìn Trần-thạnh-Nhiên, rồi tiếp:
– Từ đây đến thủy trại Chiêm không xa. Ta chia quân làm ba. Một đạo đánh cảm tử, xông vào giữa trại, rồi đánh thốc ra bờ biển. Một đạo tiếp theo đánh dọc bờ biển thủy trại về Bắc. Một đạo đánh dọc bờ biển thủy trại về Nam. Sau khi chiếm được thì đốt trại liền. Khói lửa bốc lên, khiến đạo bộ binh, thủy binh Chiêm kinh hoàng. Vậy...
Nó cầm cờ phất lên ra lệnh:
– Anh Phạm-Dật, chị Kim-Loan lĩnh hai trăm tiễn thủ, đội hổ, ba trăm kị binh, cùng năm mươi hàng binh Chiêm, giả làm quân Chiêm đi lĩnh lương thảo. Khi vào được trại, ta đánh cảm tử, xuyên trại ra bờ biển. Anh Vũ-Quang, chị Kim-Liên lĩnh hai trăm tiễn thủ, đội voi, ba trăm kị binh tiếp theo, đánh quặt lên Bắc. Chú Lý-Đoan, cô Ngọc-Liên, lĩnh một trăm tiễn thủ, đội báo, ba trăm kị binh, tiếp theo, đánh quặt xuống Nam. Chú Trần-Ninh với cô Ngọc-Hương, lĩnh ba trăm kị binh, đội sói tiến ra bờ biển, chiếm, đốt hết những chiến thuyền Chiêm không dự chiến, đậu ở bến.
Nó nói với Trần-thạnh-Nhiên:
– Còn đô thống với tôi đem trăm kị binh với đội khỉ đi treo cờ ngũ hành khắp trên đường chúng ta đi. Để khi bộ binh Chiêm bại chúng chạy về, sẽ nghi ngờ có phục binh mà không dám đi vào.
Trần-thạnh-Nhiên lắc đầu:
– Tôi nhận lệnh của Dư tướng quân dụ địch chạy men theo bờ biển, chứ không được lệnh đánh thủy trại. Vả tôi là đô thống, không phải tuân lệnh một thiếu niên chưa có chức tước gì. Tôi không thể chia kị binh cho người khác xử dụng.
Trong khi Hoàng-Nghi ra lệnh, thì ngoài khơi, tiếng trống thúc, tiếng quân reo, tiếng pháo nổ, cùng khói bốc lên mịt mờ. Nó nhìn về phía Tây, nơi hai đạo bộ binh đang giao chiến, tiếng ngựa hí, tiếng trống thúc muốn át hẳn tiếng nó nói. Lòng nó nóng như lửa đốt. Nó nói với Thạnh-Nhiên:
– Đô-thống! Hãy bỏ ra ngoài tỵ hiềm, cùng anh em chúng tôi đánh cảm tử để cứu hai đạo thủy bộ của ta.
Mặt Thanh-Nhiên lạnh như tiền:
– Đánh giặc thì tôi sẵn sàng, chứ đánh theo lối tự tử đó thì tôi không đồng ý. Tôi phải cho quân nghỉ một vài ngày đã.
Phạm-Dật nổi cáu nói với anh em:
– Thôi, chúng ta đành dùng thú binh, với tiễn thủ đánh cảm tử vậy.
Đông-Thiên hỏi:
– Còn chúng ta? Chúng ta làm gì?
Hoàng-Nghi cung tay:
– Về kế hoạch thì đệ tử định. Nhưng về thần võ thì xin đại giá giáo chủ với các kỳ-chủ trổ thần oai cho. Xin nhị vị Xích-kỳ giúp anh Phạm-Dật; nhị vị Lam-kỳ giúp anh Vũ-Quang; nhị vị Huyền-kỳ giúp Lý-Đoan; nhị vị Bạch-kỳ giúp Trần-Ninh; đại giá giáo chủ, phó giáo chủ, nhị vị Hoàng-kỳ theo giúp đệ tử.
Nó nói với Trần Thanh-Nhiên:
– Tất cả tù binh, vũ khí, lừa ngựa bắt được của Chiêm xin nhờ đô thống giữ dùm.
Rồi nó phất cờ ra lệnh tiến quân.
Phạm-Dật, Kim-Loan cùng trăm tiễn thủ, năm mươi hàng binh Chiêm đi theo Đà-lị-Tha, đánh xe chở đàn hổ hướng trại Chiêm, kéo cờ Chiêm thủng thẳng mà đi. Phía sau là đội của Vũ-Quang, Lý-Đoan, Trần-Ninh. Tới cổng doanh trại Chiêm, viên đội trưởng giữ cổng thấy Đà-lị-Tha thì hỏi:
– Yan, tình hình ra sao?
– Ta thắng lớn, tướng quân lệnh cho ta về lĩnh cỏ khô, lúa cho ngựa đây.
– Đúng kỳ, mai mới là ngày lĩnh cỏ, sao hôm nay người đã về lĩnh?
– Sau trận chiến khủng khiếp, ngựa đói, ăn hết số cỏ mang theo, nên ta phải về xin lĩnh thêm.
– Được rồi!
Y vẫy tay ra hiệu cho binh canh mở toang cổng trại. Đà-lị-Tha cùng năm mươi quân canh vào trước, phía sau là xe chở hổ với Phạm-Dật, Kim-Loan với đoàn tiễn thủ, từ từ tiến thẳng ra phía sau trại. Kho cỏ nằm về phía Bắc trại, mà Đà-lị-Tha lại đi ra phía bờ biển, khiến viên đội trưởng gác cổng kinh ngạc chỉ tay về phía Bắc gọi:
– Yan, người lầm rồi, kho cỏ ở phía kia mà!
Đến đó đội binh của Vũ-Quang đã tới, đang vào cổng trại. Viên đội trưởng canh cổng thấy có sự khác lạ, y hỏi:
– Các người là ai? Tại sao lĩnh cỏ mà không mang xe, lại xua voi đi?
Kim-Liên trả lời:
– Sao người ngu thế, hiện quân Việt đầy khắp núi rừng, mà chở lương thảo đi khơi khơi thì bị cướp hết, nên chúng ta mang voi đi hộ tống.
Viên đội trưởng thấy Kim-Liên là đàn bà, y định hỏi nữa, thì véo một tiếng, một mũi tên trúng giữa óc y. Y ngã lộn xuống đất. Phạm-Dật cầm tù và rúc lên, đội binh của Vũ-Quang xua voi đánh về hướng Bắc. Hổ binh mở cửa xe, xua hổ đánh thẳng ra bờ biển. Phía sau, đội binh của Lý-Đoan, Trần-Ninh cũng vừa tới. Bốn đội nhanh chóng tràn vào doanh trại, rồi phóng hỏa, khói lửa bốc lên ngút trời.
Bao nhiêu binh tướng thủy bộ của Chiêm đã xuất trại, ra hai mặt trận thủy bộ hết, chỉ để lại những binh tướng bị bệnh, và khoảng hơn nghìn quân coi kho, thì địch sao lại với các đội thú với đội tiễn thủ? Không đầy một giờ, doanh trại Chiêm đóng dài trên mười dặm bị bao trùm trong biển lửa, binh tướng đều đầu hàng hết. Long-biên ngũ hùng tuyệt không ngờ mình lại thành công mau thế. Khi Vũ-Quang đánh tới khu nhà tù, nó ra lệnh cho voi phá cửa, rồi sai lùa tù nhân ra. Nhà tù tuy nhỏ, mà giam tới hơn hai nghìn người. Nó nhờ Kim-Loan, Kim-Liên, Ngọc-Liên, Ngọc-Hương phân loại tù. Hầu hết là tù nhân Việt-kiều, bị Chiêm nghi ngờ nổi dậy giúp quân Đại-Việt, nên bị bắt giam. Chợt Vũ-Quang chú ý đến một đám tù nhân, trông mặt hơi quen quen. Nó quay lại hỏi Kim-Liên:
– Em xem, những người này sao coi quen quá?
Kim-Liên nhìn theo tay Vũ-Quang, nàng kêu lớn:
– Nội giáo Vọng-hương! Đây là những thanh niên năm nữ nội giáo trang Vọng-hương nhà em. Họ đi theo vợ chồng Trần-Bình, Võ-xuân-Loan cướp voi của ta.
Hình ảnh những tượng binh chết phơi thây trên bình nguyên Tư-dung là một mối hận vô bờ bến của Long-biên ngũ hùng. Trần-Nghi hú lên một tiếng, ra lệnh cho đoàn chó sói bao vây lấy đám này. Vũ-Quang cũng nhận ra vợ chồng Trần-Bình đang cúi gầm đầu xuống, để che dấu mặt. Nó ra lệnh trói bọn này. Võ-xuân-Loan nói với Kim-Loan, Kim-Liên:
– Loan ơi! Dù gì thì cháu với ta cũng người đồng hương với nhau. Cháu cứu ta với.
Vũ-Quang cười nhạt:
– Thế còn mấy chục tượng binh phơi thây ở Tư-dung thì mi tính sao đây? Phen này ta sẽ cho hổ, báo gặm từng miếng thịt của mi ra để báo thù.
Hoàng-Nghi cùng Đông-Thiên đã trở về. Bọn trẻ xúm vào hỏi tình hình trận chiến giữa Trung-thành vương với quân Chiêm. Hoàng-Nghi tường trình công việc:
– Đại giá giáo chủ, phó giáo chủ với phu phụ Hoàng-kỳ chủ xử dụng bọn khỉ treo cờ dọc khắp con đường từ doanh trại đến mặt trận. Chúng tôi càng tới gần mặt trận, thì tiếng quân reo, ngựa hí càng lớn. Tôi leo lên cây cao quan sát, thấy đạo quân phía Nam của mình đánh lên đang có vẻ thắng thế. Còn đạo quân của tả-lãnh vệ đại tướng quân Dư-Phi trực diện với quân Chiêm đang giằng co nhau. Quân Chiêm núp sau những chiến lũy kiên cố dùng cung tên bắn ra. Quân Việt thì có hai đạo Long-dực tả và hữu, đạo Thần-điện tả, bốn nghìn kị binh với một trăm thớt voi. Quân Việt xung phong trước sau có tới mười lần trong hai ngày, mà không phá nổi chiến lũy. Thấy quân mình mệt mỏi, Dư tướng quân ra lệnh tạm lui binh, thì kị binh, tượng binh từ trong chiến lũy tràn ra đuổi theo. Đau một điều là trong đó có cả đội voi của mình bị vợ chồng Võ-xuân-Loan nộp cho Chiêm.
Nó ngừng lại để thở, rồi tiếp: Tôi bàn cùng giáo chủ, giữa lúc quân Chiêm đang đuổi theo quân Việt, chiến lũy còn không quá trăm người canh gác, ta bất thần vào đánh chiếm lấy. Tuy chỉ có trăm võ sĩ với đoàn khỉ, nhưng nhờ võ công của giáo chủ cùng các vị kỳ chủ cao siêu đến không tưởng được, chúng tôi giết trăm quân canh trong một vài khắc, rồi chiếm những cổng chính chiến lũy, cho đóng cổng lại. Chúng tôi sai treo cờ Việt la liệt khắp nơi, sau đó ngồi chờ. Tôi viết thư báo cáo tình hình cho tướng quân Dư-Phi.
Lý-Đoan suýt xoa:
– Mình chỉ có mấy cao thủ với trăm chiến sĩ, nếu mấy vạn quân Chiêm trở về thì sao?
– Thì mình đành tử chiến vậy.
Hoàng-Nghi tiếp: Cũng may, lúc đó khói ở thủy trại Chiêm bốc lên mờ mịt. Quân Chiêm kinh hãi, vội ngừng lại rút về chiến lũy. Nhưng khi tới gần, chúng thấy cổng chiến lũy đóng, cờ Đại-Việt treo la liệt. Chúng vội ngừng lại quan sát. Mấy viên tướng Chiêm xua một đội voi tiến tới cổng chiến lũy. Đội voi đó chính là đội voi của mình. Tôi đứng lên bờ cổng trại, phất cờ ra lệnh cho voi quay ngược lại đánh quân Chiêm. Đoàn voi nhận được lệnh của chủ tướng, chúng rống lên bất tuân lệnh quản tượng, lao vào đội hình quân Chiêm. Phía sau quân của tướng Dư-Phi đã trở lại. Quân Chiêm rối loạn hàng ngũ, cùng đánh dạt về phía Bắc để thoát thân. Hiện chúng bị cắt làm ba làm bốn. Tôi bắt tay được với tướng Dư-Phi. Một mặt ông cho đuổi theo tàn quân Chiêm, một mặt ông viết thư sai chim ưng chuyển tin cho Tín-nghĩa vương, để vương đem quân chặn đầu bắt đám quân Chiêm rút về vùng Bố-chánh.
Kể xong, Hoàng-Nghi hỏi:
– Tình hình tại đây ra sao?
Phạm-Dật vẫy tay:
– Tốt đẹp.
Phạm-Dật cho đánh trống thu quân. Mọi việc vừa hoàn tất thì từ ngoài khơi, hơn mười chiến thuyền Chiêm đang từ từ tiến vào quân cảng. Hoàng-Nghi sai ưng binh cho mười chim ưng bay ra tuần thán, rồi nó hô lớn:
– Phải cẩn thận. Dàn trận chuẩn bị tác chiến.
Các đội thú được dàn ra dọc bờ biển, núp vào những mỏm đá, những bức tường đổ. Đội tiễn thủ Long-biên chia nhau phục rải rác trên khắp quân cảng. Long-biên ngũ hùng cũng ẩn thân theo quân mình.
Phạm-Dật nói với Đông-Thiên, tay chỉ vào sau căn nhà cháy mất nóc:
– Xin đại giá giáo chủ cùng chư vị kỳ-chủ tạm ẩn vào sau bức tường kia. Hễ thấy bọn anh em chúng tôi thất lợi thì tiếp cứu.
Một là Đông-Thiên không biết gì về quân sự, hai là mấy ngày qua, y đi theo Long-biên ngũ hùng, y thấy đây là những thiếu niên cực kỳ thông minh, yêu nước, được huấn luyện rất chu đáo về hành binh, bố trận. Cho nên y để mặc bọn Phạm-Dật điều động. Trong lòng y, y nghĩ:
– Muốn làm vua Chiêm, muốn thống lĩnh tộc Việt, ta không thể dựa vào võ công cao cường, mà phải dùng tới quân sự. Dùng quân sự ta phải có tướng giỏi, bằng không cũng vô ích. Làm sao ta đào tạo được những thiếu niên như thế này, mới mong thành công. Ta cần quan sát bọn này hành sự, để biết thêm về dụng binh.
Vì vậy y im lặng theo sự điều động của Hoàng-Nghi, rồi cùng em gái với đám kỳ-chủ ẩn thân vào phía sau căn nhà cháy. Ngoài khơi mười chiến thuyền Chiêm vẫn lù lù tiến vào quân cảng, đang tìm cách ép vào bến. Đoàn chim ưng đang bay tuần tiễu, bỗng lượn một vòng, rồi từ từ đáp xuống mấy cột buồm. Hoàng-Nghi hơi nghi ngờ, nó nói hỏi Phạm-Dật:
– Anh thấy sao?
– Chim ưng của mình, không dễ gì ai sai phái được. Nay nó không bay tuần tiễu, mà đậu thế kia, thì có thể là trên chiến thuyền cũng có người biết chỉ huy chim ưng. Ta thử gọi chim ưng về xem.
Ưng binh vâng lệnh phất cờ gọi chim ưng về. Đoàn chim ưng thấy hiệu lệnh của chúa tướng vội cất cánh bay về. Ưng binh làm hiệu hỏi chúng, rồi trình:
– Thưa tiểu tướng quân, chiến thuyền kia là của mình.