22/11/12

Nam quốc sơn hà (H41)

Ngày Nhâm Thìn, mùa Đông, tháng chạp, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng nguyên niên đời vua Nhân-tông bên Đại-Việt (10-12– Bính-Thìn. DL. 7-1-1077) nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ chín đời vua Thần-tông nhà Tống.
Trời Bắc-biên Đại-Việt đang mưa phùn, gió bấc đột nhiên mây quang, mưa tạnh, nắng ấm. Không khí trở lên khô quạnh, gió heo may rít trên những ngọn cỏ tiêu sơ.
Trên suốt một giải biên giới Hoa-Việt, các đạo quân Tống đóng thành một giải, trại nọ nối tiếp trại kia đến hơn hai trăm dậm. Binh tướng vừa nhận được lệnh:
Ngày 12 bắt đầu tiến đánh vào động Giáp, thủ đô của Bắc-biên.
Tin này, tế tác Bắc-biên thu được, lập tức sai chim ưng chuyển về cho Khu-mật viện. Một mặt Trung-Thành vương vội vã thông báo với Linh-Nhân hoàng thái hậu, Đại-tư mã Lý Thường-Kiệt. Một mặt sai chim ưng đi mời các tướng trấn thủ về thiết Tinh-triều.
Lễ nghi tất.
Trung-Thành vương trình bầy:
– Trong khoảng thời gian từ tháng ba đến giờ, mới có tám tháng, mà tình thế đã thay đổi gần như hoàn toàn. Trước hết là tình hình Tống. Hy-Ninh với Vương An-Thạch dốc quân nghiêng nước xuống đánh ta. Họ huy động tới bốn mươi vạn binh từ Tây-thùy, từ Bắc-cương, kể cả quân vùng Biện-kinh, vùng Kinh-Hồ, Mân-Triết. Họ lại huy động sáu mươi vạn bảo binh, vừa dùng để chuyển lương, vừa dùng để trấn thủ hậu cứ, trấn thủ vùng đã chiếm được.
Vương nói chậm lại:
– Với lực lượng đó, với quyết tâm của Tống triều, thì dù dân ta có đông gấp ba, quân ta có đông gấp hai, cùng không đủ khả năng chống đỡ. Hy-Ninh lệnh cho Quỳ, Tiết dùng lối đánh Thập kỷ, nhất bỉ, tức hy sinh mười của mình, chỉ để giết một địch. Quỳ cho viên trấn thủ Khâm-châu thí nghiệm lối đánh này ở Vĩnh-an. Quả nhiên đồn Ngọc-sơn thất thủ. Trong trận này, quân trấn thủ của ta có nghìn rưởi, Khởi dùng tới nghìn rưởi hàng binh của Thanh-Nhiên, ba nghìn rưởi hoàng nam của Vi Thủ-An, hai vạn quân Quảng, tức mười lăm người đánh một người. Dĩ nhiên Ngọc-sơn tử thủ, từ tướng tới quân ta đều tuẫn quốc. Nhâm Khởi hy sinh đến một vạn tám nghìn người, tức một đổi mười hai, mà Hy-Ninh vẫn coi là chiến thắng, ban chỉ cổ võ sĩ khí.
Thường-Kiệt tiếp lời Trung-Thành vương:
– Trong nguy cơ diệt tộc đó, Thái-hậu ban chỉ: Trước đây Tống đánh ta bằng Ngũ-lôi. Họ dùng hậu cung làm gian tế, họ dùng Chiêm đánh sau lưng, họ dùng người Việt gốc Hán làm nội ứng thì ta cũng dùng thuật đó đánh lại họ. Việc này xin để Trung-Thành vương phi trình bầy.
Trung-Thanh vương phi Nguyễn-thị Trinh-Dung, phụ tá Linh-Nhân hoàng thái hậu về Khu-mật viện đứng lên:
– Thái-hậu ban chỉ: Tống ra binh như đàn beo, đàn hổ đánh ta, thì ta cũng dùng năm mũi thần tiễn bắn chúng. Mũi thứ nhất quan trọng vô cùng. Mũi này mang tên dĩ hổ trị hổ. Ta dùng quân Tống đánh quân Tống, biến dân Tống thành kẻ thù của quân Tống. Nội dung thi hành như sau: Hồi ta ra quân Bắc-phạt, Thái– hậu ban mật chỉ cho Tín-Nghĩa vương tập hợp tù hàng binh, bắt hết bảo binh vùng Khâm, Liêm, các trại Như-hồng, Như-tích, Để-trạo, Thiên-long thành lập các đạo quân Lĩnh-Nam rồi trao cho Động-đình thất kiệt; vùng Tô-mậu, Tây-bình, Lộc-châu, Ung-châu thành đạo quân Nam-Việt trao cho Tuyết-sơn thập anh; vùng Thái-bình, Hoành-sơn, Ôn-nhuận, Quy-hóa và Dung, Nghi, Bạch châu thành đạo quân Đông-Việt trao cho Trường-bạch ngũ hùng. Sau đó để cho họ tổ chức những vùng này như một nước nhỏ. Nay Tống đem quân xuống, thì bao nhiêu tài nguyên, tráng đinh bị ba nhóm này lấy hết. Ba nhóm này huy động quân cơ hữu, dân chúng kháng chiến đánh Tống. Quỳ, Tiết có dẹp được họ, thì cũng hao tổn tinh lực rất nhiều. Dĩ nhiên khi ba nhóm này bị diệt, quân cơ hữu, bảo binh chết hết, thì vô tình dân Nam-thùy Tống coi quân Tống triều là kẻ thù. Đó là lý do Tống ra quân từ tháng ba, mà giờ này mới tới đây. Đó cũng là lý do, Tống phải dùng bảo binh trấn từ Quế-châu trở xuống, phòng bị đánh tập hậu.
Vương phi tiếp:
– Mũi tên thứ nhì mang tên Tôn nho diệt tả tức dùng Nho giáo đánh Tân-pháp của Vương An-Thạch. Trước ta đã dùng tiền bạc khích các bậc chính Nho, danh nhân, văn thi sĩ chống Tân-pháp; tức chống Hy-Ninh, Vương An-Thạch. Điều này các vị đều biết. Cho đến nay các đại thần chống đối trở thành lực lượng được dân chúng, hậu cung cảm tình. Họ gồm Phó Tể-tướng Ngô Sung, Vương Khuê, Binh-bộ thượng thư Phùng Kinh. Ngoài các châu thì có hàng trăm đại thần chống Tân-pháp bị đầy, trong đó có các danh sĩ Tư-mã Quang, Tô Thức, Tô Triệt, Tần Quan, Trình Hiệu, Hoàng Đình-Kiên.
Ghi chú,
Sau này Hoàng Đình-Kiên soạn bộ Thần-tông thực lục, tức bộ sách chép tất cả sự kiện diễn ra dưới thời Hy-Ninh (1067-1077) và Nguyên-Phong (1078-1084), là một trong những tài liệu chính yếu để viết bộ Nam-quốc sơn hà này. Niên hiệu Thiên-Thánh nguyên niên (1094), Tân-pháp của Vương An-Thạch lại được tái dụng. Ông đang làm chức Bí-thư thừa kiêm biên tu quốc-sử, Tể-tướng Chương Đôn thuộc Tân-đảng vu cáo rằng trong bộ Thần-tông thực lục ông cố ý chép sai sự thực. Ông bị vua đầy ra Phù-châu (Tứ-xuyên ngày nay). Những điều Chương Đôn cáo ông chép sai chỉ có ba phần chính: Một là phe đảng của Vương An-Thạch quá khích; hai là các tướng Việt quá anh hùng, quân Việt quá thiện chiến; ba là sự vội vã đem quân đánh Đại-Việt thay vì đánh Liêu. Đem so sánh với Quách-thị Nam chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, các bia ở đền thờ Tống ngũ đại vương từ tại Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp là Quách Thủ-Tiết, Ôn Nguyên-Dụ, Trương Biện, Hứa Dự, Vương Trấn...Tôi thấy trong ba vấn đề mà Chương Đôn nói rằng ông chép sai sự thực đó, thì trại lại quá sơ lược, gần như lướt qua mà thôi.

Mọi người đều gật đầu công nhân mũi này khá độc.
– Mũi thứ ba là dùng hậu cung chống Hy-Ninh, Vương An-Thạch. Mũi này mang tên Trung thứ bại tặc Nho, tức ta dùng lòng ngay thẳng, sự hiếu kính của ta, đánh tên tặc Nho Vương An-Thạch. Nguyên thời hàn vi, Thái-hậu được vua Anh-tông và Tuyên-Nhân Thánh-liệt hoàng thái hậu bên Tống tặng vàng, dạy võ thu làm đệ tử. Từ ngày người nhập cung, hàng năm vẫn sai sứ sang dâng lễ vật lên sư phu, sư mẫu vào dịp sinh nhật, vào dịp tết Nguyên-đán. Nay nhân dịp sinh nhật Tuyên-Nhân Thánh-liệt hoàng thái hậu; người sai hai quận chúa Trần Ngọc-Liên, Trần Phương-Quỳnh đi sứ, để kết thêm tình thân, và trình bầy tất cả thảm trạng chiến tranh do Hy-Ninh, Vương An-Thạch gây ra.
Vương-phi đưa mắt nhìn Phương-Quỳnh rồi tiếp:
– Mũi thứ tư là giết chết Vương An-Thạch. Mũi này mang tên Viêm-đế sát Bắc cẩu. Mũi thứ năm là dùng xác chết, hồn ma quân Tống, đánh vào tâm quân Tống, mang tên Xử ma bại quỷ. Mũi này xuất phát trong Võ-kinh Phù dụng binh chi đạo, công tâm vi thượng; công thành vi hạ. Tâm chiến vi thượng, binh chiến vi hạ. Nghã là: Phàm đạo dùng binh thì đánh vào tâm giặc là thượng sách; đánh vào thành giặc là hạ sách. Tâm chiến là thượng sách; binh chiến là hạ sách». Kết quả ba mũi tên này đều có liên hệ với nhau. Xin để quận chúa Phương-Quỳnh trình bầy.
Phương-Quỳnh đứng lên thuật lại: Khi hai nàng đến Biện-kinh, vào cung Bảo-từ yết kiến Tuyên-Nhân Thánh-liệt hoàng thái hậu dâng lễ mừng. Ngọc-Liên là người có giọng nói ngọt như cam thảo, rất dễ lọt tai. Nhân thái hậu là người Hào-châu, hai nàng cố luyện giọng nói, mặc y phục vùng này mà bái kiến. Cho nên vừa gặp hai nàng, Tuyên-Nhân hoàng thái hậu đã hài lòng. Hai nàng trình bầy đức hiếu kính của Linh-Nhân hoàng thái hậu lên sư mẫu; lại xin được đến điện Linh-thiên để dâng lễ, cùng bái yết di dung vua Anh-tông là sư phụ của Thái-hậu. Ngọc-Liên tâu với Tuyên-Nhân hoàng thái hậu: Khi thần lên đường, Linh-Nhân hoàng thái hậu dặn dò đủ điều. Người nhớ đến tình yêu vô bờ bến của tiên đế với Thái-hậu ban cho hồi ở Từ-quang tự, mà khóc đến hết nước mắt. Tuyên-Nhân Thánh-liệt nghe đến đây hồi tưởng lại lúc bà với vua Anh-tông rời chùa Từ-quang, bấy giờ Thái-hậu còn là Minh-Đệ gục đầu vào ngực bà mà khóc nức nở, không muốn xa; nay nghe Ngọc-Liên kể, bà chợt nhớ truyện xưa rồi cũng bật lên tiếng khóc.
Nhờ hai nàng nói giỏi, thông thạo kinh, sử, tử, tập Trung-quốc, nên được Tuyên-Nhân Thánh-liệt hoàng thái hậu giữ chơi hơn tháng ở trong cung để giảng kinh sách, lễ nghi cho. Hai nàng đã được bà thu làm đệ tử. Chính vì vậy mà hai nàng biết Thái-hậu rất ghét Tân-pháp, bởi Tân-pháp đi ra ngoài Nho. Hai nàng lại trình bầy: Đại-Việt đã lập Văn-miếu đắp tượng thờ Không-tử, bẩy mươi hai vị tiên hiền để thờ. Nhân lúc Tuyên-Nhân thái hậu vui lòng, hai nàng trình bầy rõ: Linh-Nhân hoàng thái hậu là người xuất thân dân dã, Thái-Ninh đế tuổi còn thơ, Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản không thích công danh, Lý đại tư mã là quan thị; chả ai có can đảm gây chiến với Thiên-triều. Tất cả chỉ mong ơn mưa móc của Thiên-triều xuống, mà khốn thay Vương An-Thạch muốn đánh Đại-Việt để giải làn sóng chống đối trong triều, ngoài trấn. Nay quân Thiên-triều hơn trăm vạn sang, Linh-Nhân hoàng thái hậu nhờ hai nàng tâu với sư mẫu rằng, nếu như Đại-Việt không giữ nổi, thì sẽ dùng thuyền vượt biển sang nương nhờ sư mẫu. Tuyên-Nhân thái hậu nổi lôi đình, người hứa sẽ tìm cớ cách chức Vương An-Thạch.
Trong khi ở trong cung Bảo-từ, hai nàng biết rất nhiều tin tức về Tống triều, đặc biệt việc An-Thạch kinh lý phương Nam. Ngọc-Liên vội báo cho hệ thống tế tác của ta do Trần Bảo-Dân điều khiển. Hệ thống tế tác gồm có Côi-sơn tam anh, Thần-vũ thập anh, thêm hai đại sư Minh-Không, Đạo-Hạnh đang nghiên cứu cách giết Vương An-Thạch. Ngặt vì từ khi phò mã Thân Thiệu-Thái, vua bà Bình-Dương, U-bon vương... đại náo Sùng-chính điện, thì từ trong cung, cho đến tư dinh đều bố trí thị vệ, võ sĩ rất cẩn mật, ta không có cách nào giết Thạch. Côi-sơn tam anh nhờ Kinh-Nam vương giúp đỡ. Nhưng Kinh-Nam vương với công chúa Huệ-Nhu đều từ chối rằng: Tuy Thạch cùng Hy-Ninh đế kiếm cớ để đến nỗi vương với công-chúa phải rời quân-lữ thực; nhưng đó là cớ có thực. Bình tâm mà xét, Thạch là đại thiên tài, là đại công thần của Tống, vương không thể, và không nên giết Thạch. Côi-sơn tam anh nhờ đến Quốc-mẫu, Mộc-tồn hòa thượng, tiên nương Bảo-Hòa, vua bà Bình-Dương, U-bon vương can thiệp, vương cũng lắc đầu, khoanh tay đứng ngoài cuộc: Ai giết Thạch được thì cứ giết, vương không cản; ngược lại vương không giúp ta giết y.
Mọi người đều gật đầu công nhận Ưng-sơn song hiệp có lý: Đối với luật pháp, đạo lý Tống; quả Thạch vô tội, lại có đại công. Hơn nữa y là một thiên tài.
Phương-Quỳnh tiếp:
– Nhân ngày sinh nhật chín mươi lăm của quốc-trượng Tự-An. Quốc-mẫu xin quốc trượng can thiệp, bắt Kinh-Nam vương giết An-Thạch. Không những quốc trượng không can thiệp, mà lại còn dạy: Bất cứ người Việt nào cũng có thể giết An-Thạch, trừ Tự-Mai. Vì An-Thạch là thiên tài, là đại công thần Tống, trong khi Tự-Mai là phò mã là Kinh-Nam vương của Tống. Nếu ta hay Tự-Mai là An-Thạch, ta cũng hành xử như y. Cuối cùng công chúa Huệ-Nhu đồng ý giúp Côi-sơn tam anh làm cho Thạch tiêu ma chí khí, hóa khùng hóa điên, bị cách chức, chứ không giết y.
Thế rồi nàng thuật chi tiết việc Kinh-Nam vương sai chân tay của người là Đô Kinh, làm gia tướng cho An-Thạch giúp đỡ Côi-sơn tam anh để lọt vào dinh An-Thạch, hậu cung; làm rối loạn dinh An-Thạch, hậu cung. Chính Đô Kinh bầy ra vụ Thần-vũ thập anh mãi võ, rồi tuyển làm vệ sĩ của Thạch; cố tình đánh xe cho Thạch qua vùng Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp, thay vì đi đường khác. Cuối cùng y bị tiêu ma chí khí, bị cách chức, suýt nữa tự tử ở bờ sông Trường giang. Đúng lúc đó Ưng-sơn song hiệp xuất hiện cứu y, và cho y biết rõ: Đáng lẽ y bị giết, song hai vị nhớ công, thương tài mà cứu cho. Nếu muốn sống thì phải ở yên Giang-ninh.
Công-chúa Côi-sơn hỏi:
– Phương-Quỳnh, thế còn mũi tên thứ năm, dùng quân Tống chết, đánh quân Tống sống ra sao?
– Trình thái sư thúc.
Phương-Quỳnh trình: Sau trận đánh Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp, Ung-châu; phu nhân với chồng huy động quân Việt thu nhặt tử thi quân Tống chôn riêng từng người một, suốt dọc đường Bắc-Nam từ Côn-lôn xuống Ung-châu. Trên mỗi mộ đề rõ tên tuổi, đơn vị, quê quán. Nay quân Tống từ Tây, Bắc xuống, khi qua hàng chục vạn nấm mồ ấy, dù can đảm đến đâu cũng tan nát chí khí. Một điều may mắn nữa, khi ban chỉ thiết kế thái hậu không ngờ tới: Đó là bố mẹ, vợ con, anh em tử sĩ nhân thấy quân Tống chiếm lại vùng đất bị ta đánh, đã theo xuống cải táng tử thi mang về nguyên quán. Vì xác chết mới chôn được hơn sáu tháng, nên khi đào lên hôi thối cùng cực, dòi bọ lúc nhúc, ruồi nhặng sinh ra hợp với lam chướng, khiến quân Tống chết vì bệnh không biết bao nhiêu mà kể.
Ghi chú,
Ngày nay quân đội các nước đều mang một tấm thẻ kim khí đeo ở cổ, để khi chết dễ dàng tìm ra căn cước. Còn đời Tống, quân sĩ đều phải dùng chàm xâm vào người các chi tiết: Họ tên, quê quán, ngày giờ tháng năm sinh. Có lẽ Đinh Hoàng-Nghi sai Thiên-tử binh căn cứ vào đó mà viết lên những mảnh gỗ cắm trên mộ, cho thân nhân dễ tìm kiếm.

Trung-Thành vương trình bầy tiếp:
– Bây giờ tới tình hình mặt trận Bắc-cương. Tên Vi Thủ-An với hai mươi trang động hàng giặc; tên Trần Thanh-Nhiên, Nguyễn Văn-Khan làm phản, vì vậy đồn Ngọc-sơn thất thủ, trại Như-hồng về tay giặc. Nhờ hạm đội Âu-Cơ yểm trợ, đô thống Lê Huy với quận chúa Chu Thúy-Phương vẫn cố thủ được ở Tiên-yên. Thế là mặt trận Bắc-cương bị hở cánh Đông-Bắc. Bây giờ vua bà Thiên-Thành cho biết tình hình cánh Tây-Bắc.
– Tâu Thái-hậu, kính Hoàng-thúc, kính đại huynh.
Công-chúa Thiên-Thành trình: Trong hai tên cầm quân đánh ta, thì tên Triệu Tiết là ngưới mưu lược hơn hết. Y tận dụng bọn trang trưởng, động-chủ thuộc vùng Tả-giang, Hữu-giang của Tống, vùng Tô-mậu của ta, vốn có giao hảo với các trang-động chủ thuộc quyền Lưu Kỷ; sai chúng dẫn bọn tướng Tống biết nói tiếng Việt như Tu Kỷ, Yên Đạt, Khúc Chẩn đi chiêu hàng. Có trang động ham danh mà theo, có trang động vì cô lập mà theo, cũng có trang động cương quyết chống, nhưng bị chúng đem quân ép mà phải nép. Cuối cùng, Lưu Kỷ mất hết các trang động trực thuộc đành phải hàng. Tiết biết Kỷ có uy tín, bất đắc dĩ mà khuất, nên sau khi hàng, chúng đưa Kỷ với cả gia quyến về Biện-kinh.
Thường-Kiệt hỏi:
– Còn Hoàng Kim-Mãn, xưa nay y thù hận Tống ghê lắm, mà sao y đầu hàng dễ dàng như vậy?
– Thưa đại huynh.
Phò-mã Thân Cảnh-Long trình: Từ lâu rồi, giữa 40 trang động của Môn-châu với ba mươi trang động của Vĩnh-bình thù hận, chém giết nhau khủng khiếp lắm. Khi Tống mạnh thì Vĩnh-bình dựa hơi chém giết người thuộc Môn-châu. Khi Việt mạnh thì Môn-châu dựa hơi chém giết người của Vĩnh-bình. Hồi tháng chín năm trước, ta đem quân Bắc-phạt, Hoàng Kim-Mãn với các trang động thuộc Môn-châu tàn sát các khê động của Vĩnh-bình khủng khiếp lắm, đến như sư thúc Tôn-Đản Cẩm Thi mà cũng không ngăn cấm được. Sau nhờ Kinh-Nam vương sai sứ lên bắt phải ngừng, bấy giờ cuộc chém giết mới hết. Từ ngày ấy, người của Môn-châu chia nhau cai trị các trang động Vĩnh-bình. Sau khi Yên Đạt, Tu Kỷ thu phục được các trang động thuộc Lưu Kỷ, y đem quân ép phía Tây Môn-châu; Khúc Chẩn đem quân ép phía Bắc, rồi Triệu Tiết sai sứ đến dụ rằng: Nay các thủ lãnh của khê động thuộc Vĩnh-bình bị Mãn giết hết rồi, nếu Mãn hàng thì không những vẫn cho cai quản trang ấp thuộc lãnh thổ Việt, mà còn cho tiếp tục cai quản các khê động Tống mà Mãn đang cai trị nữa. Thế là Hoàng Kim-Mãn đầu hàng.
Lý Thường-Kiệt thấy công chúa Thiên-Thành gọi mình là đại huynh, ông cũng dùng ngôn từ bình dân đáp lại:
– Thiên-Thành đừng lo. Mục đích của ta là dùng các trang động kéo dài thời gian, làm cho Tống hao tốn tiền của. Với mấy trang động, ta cản được quân Tống tới chín tháng, thì quả thực vượt ra ngoài điều ước muốn rồi; huống hồ ta còn nguyên 117 trang động thuộc Lạng-châu.
Ông nói với Trung-Thành vương:
– Hiền đệ hãy trình bầy tình hình mặt trận trên biển cho Thiên-Thành, Cảnh-Long biết đi.
– Về mặt trận trên biển.
Trung-Thành vương giảng giải: Tống có hai hạm đội. Hạm đội Tương-giang hồ Động-đình thường được gọi tắt là hạm đội Kinh-Tương do đô đốc Hứa Ngạn-Tiên, Lưu Sơ chỉ huy. Theo chỉ dụ của Khu-mật viện Tống, hạm đội này chạy ra thực xa bờ biển, rồi đổi hướng Nam vào giúp Chiêm đánh chiếm lại Nhật-lệ, kéo vào đánh sau lưng ta ở Thanh-Nghệ. Hạm đội thứ nhì là hạm đội Mân-Triết di xuống Khâm-châu. Hạm đội này do đô đốc Dương Tùng-Tiên, Tô Tử-Nguyên chỉ huy. Hạm đội có nhiệm vụ chuyển lương từ Giang-tô, Triết-giang, Phúc-kiến xuống Khâm-châu. Đợi sau Quách Quỳ tiến tới sông Như-nguyệt, thì phải vượt biển chở lương xuống tiếp tế, cùng chở quân bộ qua sông.
Vương ngừng lại uống chung trà, rồi tiếp:
– Tin này ngư dân ta thu được, báo cho đại đô đốc Lý Kế-Nguyên. Đô-đốc phái đô-đốc Trần Lâm đem hạm đội Động-đình, đô-đốc Trần An đem hạm đội Bạch-đằng ra khơi đánh tan hạm đội Kinh-Tương. Hứa Ngạn-Tiên, Lưu Sơ chỉ còn hai chiến thuyền chạy thoát về Quảng-châu. Đô-đốc Lý Kế-Nguyên lại sai đô đốc Trần An dùng tù binh Tống, chiến hạm Tống bắt được, giả thủy binh Tống cập bến Thi-nại đón quân Chiêm đi chiếm Nhật-lệ. Quân Chiêm không đề phòng, bị đánh tan ở cửa Thi-nại.
Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi phò-mã Thân Cảnh-Long:
– Từ tháng ba đến giờ, bọn Triệu Tiết, Ty Kỷ, Yên Đạt, chiếm được hết các trang động của Lưu Kỷ, Hoàng Kim-Mãn. Cánh tả của ta, bị hở. Trong khi cánh hữu, Vi Thủ-An hàng, đem quân trợ giặc đánh Ngọc-sơn. Lạng-châu hoàn toàn bị cô lập, chỉ còn hai ngày nữa quân Tống tiến đánh, vậy phò-mã ứng chiến ra sao?
– Tâu thái hậu:
Phò mã Cảnh-Long đáp: Hiện nay đại lực lượng quân Tống đang dồn vào khu hẹp, mà chỉ có con đường duy nhất tiến về Nam thì bị bốn tướng khạc ra lửa, mửa ra khói của ta trấn nhậm; đó là công-chúa Côi-sơn, phò mã Tôn Mạnh trấn ở Quyết-lý; Quán-quân thượng tướng quân Hoàng-Nghi với Phương-Quỳnh trấn ở Chi-lăng. Tình thế bắt buộc Tống phải nhổ hai ải này. Vậy lực-lượng hoàng nam của Lạng-châu sẽ cố thủ trong các trang động, để làm chậm bước tiến của giặc, đánh tập hậu. Nếu Quách Quỳ muốn đánh hai ải Quyết-lý, Chi-lăng, thì phải tốn ít nhất từ ba tới năm vạn nhân mạng.
Quán-quân thượng tướng quân Đinh Hoàng-Nghi đề nghị:
– Quân Tống đang đóng trại liên tiếp nhau như vậy, lại khinh thường ta không dám trực diện đối chiến. Thần xin đề nghị: Ta đem quân bất thần trong đêm cướp trại, đốt lương, khiến chúng kinh hoàng, trở thành e dè. Như vậy còn hơn ngồi chờ chúng đến đánh.
Linh-Nhân hoàng thái hậu đưa mắt cho Đại-tư mã Lý Thường-Kiệt, rồi tuyên chỉ:
– Cách đây ít lâu, đệ tử của sư bá Mộc-tồn là Thập-bát Kim-cương từ Chiêm về để dự cuộc chống Tống cứu nước. Cô phụ đã trao cho Binh-bộ thượng thư cứu xét tài năng, rồi bổ nhiệm. Mới đây Binh-bộ tâu rằng, về võ công, cả mười tám vị đều cao thâm không thua Thần-vũ thập anh làm bao. Về tài dùng binh, thì chỉ thua Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt chút kinh nghiệm mà thôi. Cô phụ với đại tư mã Thường-Kiệt quyết định bổ nhiệm như sau.
Mười tám Kim-cương bước ra quỳ gối nghe chiếu chỉ:
– Tất cả các Kim-cương vì sinh đẻ ở Xiêm, mang họ Tha-ma-đạt, Lôi-ki-đa, Vong-si-vít, U-bộc than-na rất khó cho binh tướng Việt gọi, nên triều đình quyết định ban cho nam quốc tính Lý, còn tên thì vẫn giữ nguyên. Riêng nữ, đều xinh đẹp, dáng điệu thanh nhã, nên ban cho chữ mai. Tất cả chín người đều được giữ chức Đô-thống. Lý Nhất với vợ là Mai-Nhất chỉ huy phó hiệu Ngự-long. Lý Nhị, Mai Nhị chỉ huy phó hiệu Quảng-thánh. Lý Tam, Mai Tam chỉ huy phó hiệu Quảng-vũ. Lý Tứ, Mai Tứ chỉ huy phó hiệu Bổng-nhật. Lý Ngũ, Mai Ngũ chỉ huy phó hiệu Đằng-hải. Lý Lục, Lý Thất, Mai Lục, Mai Thất theo Trung-Thành vương. Lý Bát, Ly Cửu, Mai Bát, Mai Cửu theo Tín-Nghĩa vương.
Mười tám Kim-cương lạy tạ, rồi về chỗ.
– Xin sư huynh điều quân.
Nghe Thái-hậu tuyên chỉ, Thường-Kiệt để kiếm lệnh lên trước mặt:
– Tổng chỉ huy phòng tuyến chặn giặc ở Bắc-cương là phò mã Thân Cảnh-Long với vua bà Thiên-Thành. Ngay bây giờ hai vị về Bắc-cương, cùng công chúa Côi-sơn, phò mã Tôn Mạnh; Quán-quân Thượng tướng quân Đinh Hoàng-Nghi, quận chúa Phương-Quỳnh, đô thống Lý Tam, Mai Tam... xử dụng hoàng nam, hiệu binh Kinh-Bắc, hiệu Thiên-tử binh Quảng-vũ cướp trại giặc, đánh cho chúng kinh hoàng. Sau đó phò mã, công chúa dùng hoàng nam 117 trang động làm chậm bước tiến của chúng, cướp lương đánh tập hậu, khiến chúng phải chia quân phòng vệ khắp nơi. Còn công chúa Côi-sơn với tướng quân Hoàng-Nghi cố thủ trong ải Quyết-lý, Chi-lăng.
Tám người đứng dậy nhận lệnh.
– Tuy nhiên phía Tây, còn một con đường từ Quảng-nguyên, qua Đâu-đỉnh. Có thể khi đánh không được Quyết-lý, Chi-lăng, bọn Quách Quỳ sẽ dùng đường này xuống đồng bằng. Trước ta đã cử Vũ-dực đại tướng quân Dư Phi với hiệu binh Đại-hoàng trấn ở đây. Nay không có gì thay đổi.
Dư Phi đứng dậy nhận lệnh.
– Về phòng tuyến sông Như-nguyệt, thì tại thượng lưu, phía sau núi Tam-đảo là Phú-lương do phò mã Hoàng Kiện, công chúa Động-Thiên trấn thủ. Lực lượng gồm hiệu Thiên-tử binh Vũ-thắng, do Quy-đức đại tướng quân Trần Di, phu nhân Phương-Lý chỉ huy; hiệu Bổng-nhật do Hoài-hóa thượng tướng quân Lý Đoan, với phu-nhân là quận chúa Trần Ngọc-Liên chỉ huy. Các tướng phụ trấn gồm các đô thống Hùng Trí, Hùng Tín, Lý Tứ với bốn phu nhân.
Mười hai người đứng đậy nhận lệnh.
– Tại hạ lưu, khu Vạn-xuân, Lục-đầu do Tín-Nghĩa vương với vương phi Lê Ngọc-Nam trấn thủ. Lực lượng gồm có hiệu Thiên-tử binh Đằng-hải do Vân-ma thượng tướng quân Trần Ninh, với phu nhân là quận chúa Trần Ngọc-Hương chỉ huy; hiệu Long-dực do Trung-vũ đại tướng quân Dương Minh, với phu nhân là Phương-Cúc chỉ huy. Phụ trấn có đô thống Lý Bát, Lý Cửu và hai phu nhân.
Mười người đứng dậy nhận lệnh.
– Tại chính phòng tuyến Như-nguyệt là cửa ngõ vào Đình-bảng có lăng tẩm tiên đế, lại gần Thăng-long, ta có hai vòng đai bảo vệ. Vòng đai chiến lũy Như-nguyệt do Trấn Bắc thượng tướng quân Nguyễn Căn, phu nhân là công chúa Vũ Thanh-Thảo chỉ huy. Lực lượng gồm hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh do Tuyên-uy đại tướng quân Mai Cầm, phu nhân Phương-Đơn chỉ huy; hiệu Bảo-thắng do Minh-uy đại tướng quân Quách Y với phu nhân là Phương-Tiên chỉ huy. Phụ trấn có đô thống Hùng Nhân, Hùng Nghĩa, Hùng Trí và các phu nhân Âu Hoàng, Âu Thanh, Âu Huyền.
Mười hai người đứng dậy nhận lệnh.
– Tại vòng đai thứ nhì bao gồm khu rừng tre tới Thăng-long do công chúa Thiên-Ninh chỉ huy. Lực lượng trực thuộc gồm có hiệu Ngự-long do Long-nhương thượng tướng quân Phạm Dật, với phu nhân là quận-chúa Lê Kim-Loan chỉ huy; hiệu Quảng-thánh do Hổ-uy thượng tướng quân Vũ Quang với phu nhân là quận chúa Võ Kim-Liên; hiệu Phù-đổng do Vũ-kị thượng tướng quân Hà Mai-Việt; hiệu binh Hồng-châu do đô thống Dương Nghi chỉ huy.
Chư tướng đứng dậy nhận lệnh.
– Một lực lượng nữa, lĩnh nhiệm vụ thần sầu, quỷ khốc, là dùng thuyền nhỏ di động ở những sông lạch phía Nam sông Như-nguyệt; khi thì thình lình vượt sông làm rối loạn địch; khi địch vượt sông, thì chặn đánh địch ở ngoài chiến lũy, gây cho địch luôn ở thế bất an. Người lĩnh nhiệm vụ này, phi Trung-Thành vương với vương phi Nguyễn-thị Trinh-Dung không ai đảm trách nổi.
Trung-Thành vương với vương phi đứng dậy nhận lệnh.
– Lực lượng thống thuộc vương gồm hạm đội Thần-phù do đo-đốc Trần Hải chỉ huy. Lực lượng xung kích gồm: Hiệu Thiên-tử binh Hùng-lược do Định-viễn đại tướng quân Ngô Ưùc với phu nhân là Phương-Dược chỉ huy; hiệu Vạn-tiệp, do Ninh-viễn đại tướng quân Tạ Duy với phu nhân là Phương-Quế chỉ huy; hiệu Thần-điện do Tuyên-vũ đại tướng quân với phu nhân là Phương-Liễu chỉ huy. Phụ tá có Lý Lục, Lý Thất, Mai Lục, Mai Thất.
Thường-Kiệt hỏi đại đô-đốc Lý Kế-Nguyên:
– Xin đô đốc cho biết việc phòng lãnh hải.
Tất cả các võ tướng, đô đốc đều mặc quần áo võ, duy Lý Kế-Nguyên vẫn trang phục nho sĩ, tay phe phẩy quạt lông, dáng thực nhàn nhã. Ông chắp tay vào nhau:
– Thủy quân ta đã làm chủ, đang làm chủ, và sẽ vẫn làm chủ trên biển Đông.
Cử tọa vỗ tay hoan hô.
Ông tiếp: Tống hiện chỉ còn hạm đội Mân-Triết do Dương Tùng-Tiên, Tô Tử-Nguyên chỉ huy đang đóng ở Khâm-châu, chờ khi bộ binh của họ tới sông Như-nguyệt là chúng đánh xuống, rồi vào chở qua. Nếu như ngay bây giờ tôi diệt hạm đội này, thì bọn Quách Quỳ sẽ dùng phương thức khác qua sông. Vì vậy tôi để chúng yên. Khi Quách Quỳ đến sông Như-nguyệt, hạm đội Mân-Triết vừa tới Tiên-yên là tôi bao vây chặt cứng, để cho Quách Quỳ chờ đỏ con mắt ra, mà không hiểu tại sao.
Vũ-dực đại tướng quân Dư Phi hỏi:
– Kính tiên sinh, vì cớ nào tiên sinh không diệt chúng, mà chỉ bao vây thôi?
Kế-Nguyên cười:
– Nếu tôi diệt hạm đội Mân-Triết, khi tin đưa về Biện-kinh, Tống triều sẽ sai hạm đội khác xuống; mình lại phải đánh hạm đội này, có phải tốn thêm máu, thêm của không? Hoặc giả Tống báo cho bọn Quách Quỳ, để chúng tìm cách khác qua sông; thì sao bằng mình bao vây chúng, để Quách Quỳ đóng quân ở chỗ vô dụng, hao tốn lương thảo; ngày đêm binh tướng bị muỗi, bị nước độc giết dùm ta ?
Triều đình cùng vỗ tay hoan hô. Ai cũng nghĩ như nhau: Một nho sinh cầm quân, nên có những cái nhìn thực xa, thực rộng, mưu trí thâm sâu vô tận.
Buổi thiết Tinh-triều chấm dứt.
Ngày Quý Tỵ, mùa Đông tháng chạp, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng nguyên niên đời vua Nhân-tông bên Đại-Việt (11-12 Bính-Thìn,DL.8-1-1077)nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ chín đời vua Thần-tông nhà Tống.
Bấy giờ đã là giờ Dần (3-5 giờ), tại ải Quyết-lý, thuộc Bắc-cương; phò mã Thân Cảnh-Long, công chúa Thiên-Thành; công chúa Côi-sơn Trần Thanh-Nguyên, Trấn Bắc đại tướng quân Tôn Mạnh; Quán-quân thượng tướng quân Đinh Hoàng-Nghi, quận chúa Phương-Quỳnh, cặp Kim-cương đệ tam; bàn luận, phân công, để thi hành chỉ dụ của triều đình: Cần đánh một trận, để dằn mặt quân Tống, và nâng cao sĩ khí quân Việt.
Công chúa Thiên-Thành trình bầy:
– Tin mới nhất cho biết, bọn chúng đã chuẩn bị sẵn, ngày mai tiến quân vào đánh Lạng-châu. Kế hoạch tiến quân như sau: Mũi thứ nhất xuất phát từ Vĩnh-bình vượt biên đánh vào hông trái, chiếm mười hai trang động, rồi tấn công động Giáp. Cánh này do Tu Kỷ chỉ huy. Quân tham chiến có đạo binh đệ tứ do tướng Lý Hạo chỉ huy với hơn nghìn hoàng nam của con trai Hoàng Kim-Mãn là Hoàng Kim-Khôi dẫn đường. Mũi thứ nhì xuất phát từ Tây-bình vượt biên chiếm mười bốn trang động, rồi tấn công trực diện vào Quyết-lý. Cánh này do Yên Đạt chỉ huy. Quân tham chiến có đạo đệ ngũ do tướng Trương Chi-Giám chỉ huy với hơn nghìn hoàng nam của con trai thứ nhì Hoàng Kim-Mãn là Hoàng Kim-Ngọc dẫn đường. Mũi thứ ba phát xuất từ Lộc-châu vượt biên chiếm mười sáu trang động, rồi tấn công phía sau Quyết-lý, cản trở không cho quân Chi-lăng cứu viện. Cánh này do Khúc Chẩn chỉ huy. Quân tham chiến có đạo đệ lục do tướng Dương Vạn chỉ huy với hơn nghìn hoàng-nam của con trai thứ ba Hoàng Kim-Mãn là Hoàng Kim-Ngân dẫn đường.
Công chúa đưa ra ba tấm lụa, trên đó vẽ bản đồ đồn trú quân của ba trại. Đinh Hoàng-Nghi mở to mắt ra nghiên cứu, rồi hầu gật đầu, như tìm được điều gì khoan khoái vậy.
Công chúa Côi-sơn sẽ vỗ vai Đinh Hoàng-Nghi:
– Bây giờ chúng ta phải hành động ra sao? Cô chỉ giỏi dùng binh, chứ mưu mẹo thì không bằng cháu. Cháu lắm mưu, nhiều mẹo, cháu định làm thịt chúng cách nào đây?
Hoàng-Nghi từng tham dự trận đánh Cổ-vạn, Tiểu-dã, Khâm-châu với Thanh-Nguyên, hầu biết rằng: Bà cô này cực kỳ yêu thương hầu, lại rất tin tướng hầu. Về võ công bà cao thâm không biết đâu mà lường, tài dùng binh thì thuộc loại số một, số hai Đại-Việt. Nhưng mưu kế thì bình thường thôi. Hầu cung tay:
– Thưa cô! Ngày mai chúng vượt biên tấn công, thì trong lòng chư tướng Tống vốn đã có ý tự phụ, không đề phòng kỹ. Vậy đêm nay ta tấn công chớp nhoáng vào ba căn cứ trên, đốt sạch lương thảo, rồi rút về. Như vậy, nhất định thành công.
Tôn Mạnh cau mày:
– Ba đạo quân này của Tống, cùng với hoàng nam phản bội, ít ra là bốn vạn. Trong khi ta chỉ có khoảng hai vạn, lại phải để lại giữ nhà, phục kích chặn đường nếu chúng đuổi theo. Liệu có thành công không? Con nên cẩn thẩn hơn.
– Thưa phò mã, ta có cần cướp trại giết quân giặc đâu? Ta chỉ cần đốt lương thảo rồi bỏ chạy mà thôi. Đốt lương thảo, ta đánh cảm tử, mỗi trại chỉ cần nghìn người cũng đủ rồi.
– ???
– Cháu đã nghiên cứu bản đồ ba trại, thì thấy rằng bọn hoàng nam đều đóng bên cạnh kho lương. Vậy ta âm thầm đột nhập, thình lình đốt lương, rồi cứ nhắm bọn hoàng nam phản bội mà chặt, miệng la bai bải Bọn Môn-châu làm phản! Anh em họ Hoàng đốt lương. Thế là tụi nó chém giết nhau hỗn loạn, còn ta thì chuồn êm. Vì các đạo quân Tống là người Hà-Bắc, vậy ta phải dậy cho quân sĩ hô câu này bằng tiếng Hà-Bắc.
Thanh-Nguyên hiểu liền:
– À, phải rồi. Hồi đánh Cổ-vạn mình chiếm được kho vũ khí, quân trang của Tống, cháu sai cất đi, rồi nói rằng sau có chỗ dùng đến. Bây giờ ta cho quân mình mặc giả làm quân Tống, nhưng trên cánh tay mỗi người phải buộc thêm một miếng vải trắng để khỏi ngộ nhận.
Cảnh-Long vui vẻ:
– Được! Đúng giờ Hợi, khi Lôi-tiễn bắn lên trời, thì đồng tấn công.
Sau khi luận bàn xong, chư tướng trở về trại mình.
Tối hôm ấy, khi màn đêm buông xuống Lộc-châu, sau ba tiếng trống báo hiệu tắt đèn đi ngủ, các trại quân Tống chìm vào trong không gian đen tối. Lát sau, quân tướng đã riu riu nhập hồn vào giấc ngủ.
Thình lình một tiếng rú như cú kêu, tiếp theo một vệt xanh-vàng-đỏ bay vọt lên trên bầu trời, rồi phát ra tiếng nổ như sấm. Một trái cầu lửa từ vệt xanh-vàng-đỏ ấy chụp xuống trại Tống. Binh canh chưa biết đó là cái gì, và phải làm gì; thì lửa trong khu chứa lương thảo ngùn ngụt bốc lên, rồi tiếng ngựa hí, tiếng cọp gầm, tiếng beo rống, tiếng sói tru như muốn nổ tung trại ra. Đâu đó có tiếng la lớn:
– Phản! Phản! Phản!
– Bọn Man làm phản đốt kho lương.
– Anh em họ Hoàng làm phản.
Bấy giờ bọn binh canh mới biết rằng có biến, vội thúc trống báo động. Binh tướng Tống mới từ Ung-châu di xuống Lộc-châu được mấy ngày, trong thế công chuẩn bị đánh thẳng vào Lạng-châu, nên không có kế hoạch đề phòng. Sáng hôm nay, các sư trưởng tập họp quân lại, giảng giải cho biết, sáng mai bắt đầu tiến đánh Bắc-cương đại Việt. Bây giờ thấy báo động, họ choàng thức dậy. Các cơ đội đều ở nguyên chỗ, trong thế thủ.
Đội hổ, đội báo, đội sói từ trong rừng xông thẳng vào tấn công quân Tống. Không đầy một khắc đã vượt qua trung ương trại, tới phía Nam, là nơi chứa lương thảo.
Tại khu chứa lương thảo, các căn trại đều bốc lửa. Đám binh Việt giả quân Tống lăn xả vào chém giết bọn hoàng nam phản bội. Bọn này ngơ ngơ ngác ngác không hiểu gì cả. Thoáng một cái, hơn nghìn tên đều bị hạ.
Khúc Chẩn, Dương Vạn là những tướng kinh nghiệm chiến đấu. Trong nhất thời, hai người chỉ biết ban lệnh cho quân đâu ở đấy, giữ vững doanh trại, chờ các khu báo cáo:
– Bọn Việt của họ Hoàng làm phản đốt lương ở khu Nam.
Khúc Chẩn ra lệnh:
– Hãy giết chết chúng ngay, không để sót một đứa.
Lại có quân báo:
– Khu Đông có đàn sói xông vào trại đánh xuyên xuống Nam, binh sĩ đang chống trả.
– Khu Bắc có đàn cọp, đánh xuyên xuống Nam.
– Khu Tây có đàn báo, đánh xuyên xuống Nam.
– Binh đội ta đang vây đánh bọn họ Hoàng làm phản. Nhưng không biết thuộc sư nào. Bởi y phục, vũ khí thì giống ta, nhưng mặt thì lạ hoắc.
– Kho lương bị cháy sạch.
– Bọn họ Hoàng bị giết chết hết.
– Đội quân nhà lạ mặt, sau khi giết xong đám họ Hoàng đã rút về hướng Nam với đội hổ, báo, sói.
– Trại Vĩnh-bình lửa bốc cao, có nhiều tiếng quân reo, dường như đang đánh nhau.
– Trại Tây-bình dậy lửa, có tiếng trống trận lẫn với tiếng quân reo.
Đến đây Khúc Chẩn hiểu ra liền: Quân Việt đã giả làm quân Tống, đột nhập đốt lương. Có lẽ hai trại Tây-bình, Vĩnh-bình cũng đang thọ địch.
Dương Vạn là tướng chỉ huy đạo binh đệ lục từ hơn năm năm qua, võ công y cực cao. Đạo binh đệ lục này của y nổi tiếng thiện chiến, từng thắng Tây-hạ nhiều lần. Trong mỗi đạo binh Tống, có một sư khoảng 2.500 người, mặc giáp sắt, cực kỳ dũng mãnh, gọi là sư thiết đột. Quân Tây-Hạ, Bắc-Liêu nghe đến sư thiết đột là kinh hoàng. Y lại có hai Đô-thống phụ tá là em ruột y, tên Dương Thiên, Dương Bách, tài dùng binh thua y, nhưng võ công cực kỳ cao thâm. Bây giờ xuống cái sứ Nam-man này, chưa kịp ra quân, lương đã bị đốt cháy hết. Mất mặt, Vạn nói với Khúc Chẩn:
– Cứ tình hình quân nhà báo, bọn Việt đánh trộm không quá nghìn đứa. Xin tướng quân cho anh em chúng tôi đuổi theo, bắt về băm ra từng mảnh cho nư giận.
Khúc Chẩn cũng đang có ý tưởng đó:
– Tướng quân mang sư thiết đột đuổi theo ngay, chúng chạy không xa đâu.
Dương Vạn hô một tiếng, sư thiết đột trực thuộc y xuất trại liền. Viên sư trưởng đi đầu là Dương Thiên. Dương Vạn đi giữa. Dương Bách đi đoạn hậu. Tuy trong đêm tối, quân phải đốt đuốc soi đường, nhưng việc tìm vết tích quân Việt không khó; duy một điều Dương Vạn bực mình, vì quân của y rất giỏi trong việc dàn trận, đổi thế trận, thì nay phải đi trên con đường chật hẹp, chỉ có thể hai người một hàng lọt qua mà thôi. Đuổi được khoảng hơn năm dậm, Dương Thiên cho người báo:
– Phía trước, có khoảng hai chục quân Việt. Ta đã dùng tên tấn công.
Lát sau lai báo:
– Không phải hai chục quân, mà là hai chục bộ quần áo, quân Việt mắc lên cây, để đánh lừa.
Dương Vạn ra lệnh:
– Như vậy là chúng sợ hãi, bỏ chạy, nên làm nghi binh khiến ta chậm bước mà thôi. Đuổi gấp.
Y bỏ trung quân, vọt lên hàng đầu. Quả nhiên đuổi được khoảng năm dặm nữa, đã thấy quân Việt đang cầm đuốc chạy phía trước, hậu quân do một đôi nam nữ tướng cầm kiếm cản hậu. Dương Vạn hô quân đuổi thực gấp. Quân Việt vất vũ khí lại mà chạy. Dương Vạn càng thúc quân đuổi rát hơn, khi qua khu bằng phẳng, hai quân sắp giáp nhau, thì có tiếng nổ như sấm trên không, rồi một trái cầu lửa chụp xuống, trống thúc vang đội.
Quân Việt từ trong các bụi cây bắn ra như mưa, rồi đám đang chạy từ phía trước, đã quay trở lại đánh rất hung hãn. Đôi tướng trai gái dẫn đầu đội quân Việt, võ công cực cao, cứ mỗi chiêu của cặp này đánh ra, là một thiết đột bị giết. Dương Vạn bình tĩnh, truyền Dương Bách chỉ huy hậu đội đánh sang phải, Dương Thiên đánh sang trái, còn y đánh vào giữa. Nhưng đôi tướng trẻ cầm tù và rúc lên một tiếng, từ hai bên hông, đàn báo, hổ, sói gầm lên xung vào tấn công. Thoáng một cái, quá nửa quân bị thương, bị chết. Đội thiết đột vốn gan dạ, thiện chiến, chúng quay lưng vào nhau chống thú dữ. Viên tướng trẻ Việt lại cầm tù và rúc lên, thú dữ biến vào rừng mất, trong khi tên liên châu từ mười cỗ xe tác xạ vào đội hình. Binh tướng Tống la hét, nhưng trong bóng đêm mờ mờ ảo ảo lửa đuốc, không sao biết rõ tình hình địch.
Vô tình nhìn lên đỉnh một mỏm đá cao gần đó, Dương Vạn thấy lại một thiếu phụ khác được hơn trăm xạ thủ bảo vệ, đang cầm đuốc chỉ huy cho quân Việt tấn công. Y giận cành hông, than thầm:
– Muốn sống sót hôm nay, phải giết chết con nhỏ kia.
Y thân dẫn hơn trăm thiết đột tiến về phía thiếu phụ. Nhưng một đàn hổ hơn hai mươi con từ đâu xông ra cản đường. Nhanh nhẹn quân thiết đột tập trung lại thành thế trận, binh sĩ quay lưng vào nhau chờ đón đối thủ.
Lại một tiếng nổ lớn trên không. Bao nhiêu đuốc của quân Việt tắt hết, tiếng vũ khí, tiếng người, tiếng thú cũng im bặt. Giữa khu rừng cây cối âm u, chập chờn, quân Tống tay cầm đuốc, tay cầm đao chờ đợi.
Rừng núi hoàn toàn im lặng, chỉ có tiếng thương binh kêu khóc, tiếng binh sĩ lạc đội ngũ gọi nhau.
Một khắc trôi qua, vẫn không thấy quân Việt đâu. Dương Vạn ra lệnh thu nhặt xác chết, thương binh để rút về trại. Viên sư trưởng trình: Ra đi hai nghìn rưởi, bây giờ chỉ còn nghìn hơn.
Dương Vạn chửi thề:
– Bọn chó Việt chỉ quen đánh trộm! Rút! Tức thực là tức. Từ nãy đến giờ chúng ta chưa được đánh một chiêu võ, chưa được bắn một mũi tên, mà đã hao hụt quá nửa quân số!
Đội quân Tống vác thương binh, vác tử sĩ đổi hậu đội làm tiền đội rút lui. Lui được khoảng hai dặm, thì đâu đó có tiếng tiêu vọng lại thê lương, thảm não. Dương Vạn cười với viên sư trưởng:
– Bọn chó Việt định bắt chước Trương Lương dùng tiếng tiêu làm loạn lòng quân ta đây. Vô ích.
Bỗng Dương Thiên thấy vật gì lạnh ngắt, mềm mềm từ trên cây rơi xuống đầu y, rồi y cảm thấy đau nhói ở cổ. Y vội cầm vật đó lên xem, thì ra là con rắn. Kinh hoảng, y nói với Dương Vạn:
– Tôi bị rắn cắn.
Tiếp theo Dương Thiên, đến lượt binh sĩ kêu oai oái:
– Rắn! Rắn cắn. Rắn ở đâu nhiều quá.
Rồi chính Dương Vạn cũng bị rắn cắn.
Đến đây bao nhiêu đuốc đã cháy hết. Quân Tống phải người nọ dắt người kia, lò mò di trong đêm. Lại có tiếng kêu:
– Ối! Tôi dẵm phải chông.
– Tôi cũng dẵm phải chông.
Dương Bách ra lệnh:
– Ngừng lại! Chờ trời sáng. Đi nữa sẽ dẵm phải chông.
Giữa lúc quân Dương Vạn tuyệt vọng, có ba tiếng thanh la vang lên, rồi tên từ trong các bụi cây bắn ra. Quân Tống kinh hãi la hét thảm thiết. Trong lúc chúng tuyệt vọng đó, thì phía trước mặt, có ánh lửa lóe lên, rồi bốn ngọn đuốc cắm ở bốn gốc cây bốn góc một bãi đất. Đâu đó đâu đó vang lên tiếng loa:
– Ta! Quán quân thượng tướng quân Đinh Hoàng-Nghi và quận chúa Phương Quỳnh. Hồi tám tháng trước, chúng ta từng chôn xác bốn vạn quân Tống ở Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hoả-giáp. Nay chư quân bị thương, bị rắn cắn, bị chông đâm cũng sắp bỏ mình ở rừng hoang này. Chúng ta không nỡ giết chư quân. Vậy chư quân mau bỏ vũ khí tiến lên chỗ có lửa này đầu hàng. Chúng ta sẽ tha cho.
Đám quân Tống còn sống sót, vội buông vũ khí chạy về phía bãi đất có đuốc sáng.
Biết có gào thét, cũng vô ích với đám binh sĩ thương tích tuyệt vọng, Dương Vạn cùng một số thiết đột khỏe mạnh, nhắm hướng Bắc bỏ chạy. Bỗng có tiếng tù và rúc lên, rồi phía trước đèn đuốc sáng lòa; thiếu phụ ban nãy cùng một đội cung thủ, với hơn trăm thú vừa hổ, vừa báo chặn mất lối đi. Dù can đảm, dù võ công cao, nhưng Dương Vạn bị nọc rắn chạy vào cơ thể, y lại dẵm phải chông tẩm thuốc độc, nên không còn sức chiến đấu nữa. Đưa mắt nhìn số binh sĩ sống sót, không người nào còn ý chí chiến đấu.
Thiếu phụ cung tay:
– Quận-chúa Phương-Quỳnh nước Đại-Việt xin kính chào Dương tướng quân. Đã đến tình cảnh này, tướng quân định sao đây?
Bà chỉ vào đôi thiếu niên trẻ:
– Xin giới thiệu với Dương tướng quân, hai vị này là sư huynh, sư tỷ của tiểu nữ.
Dương Thiên la lên:
– Ta nghe nói, quân Giao-chỉ có Giao-chỉ ngũ kiêu, Tây-hồ thất quái, Thần-vũ thập ma, Kim-cương thập bát qủy. Chồng mi là đệ tam nhân trong Giao-chỉ ngũ kiêu, còn hai đứa này là???
– Thưa tướng quân, hai vị này chính là đệ tam nhân trong Kim-cương thập bát hùng đấy ạ.
Dương Vạn nổi cáu:
– Bọn Nam-man các ngươi chỉ quen cắn trộm. Họ Dương này không phục. Nếu mi có bản lĩnh, hãy cùng ta chiết ngàn chiêu. Còn không thì mi giết ta đi cho rồi. Ta hận mình sơ tâm trúng kế mi, thì chỉ biết chết chứ ta không hàng đâu.
Thiếu phụ mỉm cười:
– Thế nào là cắn trộm? Phàm dùng binh, thì một là dùng mưu, hai là dùng sức, ba là dùng trận. Đây tiểu nữ dùng mưu, mà tướng quân bảo là cắn trộm ư? Còn như nếu tướng quân muốn chiết chiêu, thì tiểu nữ xin sẵn sàng nghinh đón.
Bà nói với Mai Tam:
– Sư tỷ, xin sư tỷ ra lĩnh mấy cao chiêu của đô thống Dương Bách. Sư tỷ phải cẩn thận, vì Dương tam gia xuất thân từ phái Liêu-Đông nổi danh về độc chưởng đấy.
Dương Bách thấy đối thủ chỉ là một thiếu nữ, lại biết rõ y giỏi về độc chưởng mà còn dám khiêu chiến với y, y khinh thường cho rằng đây là bọn ngu xuẩn. Vỗ hai tay vào nhau, y hất hàm:
– Người xuất chiêu đi.
Mai Tam phát chiêu trong Thiên-vương chưởng đánh thẳng vào mặt Dương Bách. Bách thấy công lực đối thủ không lấy gì làm mạnh, mà lại phát chiêu trong dương chưởng thì khinh thường. Y vận độc công, rồi phát chiêu đỡ, chưởng phong của y cực kỳ trầm trọng. Khi hai chưởng gặp nhau, thì kình lực của Mai Tam biến ra âm nhu. Dương Bách kinh hoàng, nhưng y không kịp biến chiêu. Bộp một tiếng, chưởng của y mất tăm mất tích. Y nhảy lùi lại, rồi tấn công tiếp. Cứ mỗi lần Dương Bách đánh ra một chưởng, Mai Tam ung dung đỡ, rồi lùi một bước. Nhưng cứ sau một chiêu, y cảm thấy cánh tay nặng hơn một chút. Sau khi y đánh đến chiêu thứ chín, thì Mai Tam chuyển sang dương cương. Bùng một tiếng, Dương Bách bị bay tung trở lại, y cảm thấy lạnh buốt, chân tay run lẩy bẩy, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập.
Dương Thiên lạng người đến bên em hỏi:
– Tam đệ sao rồi!
– Trúng Huyền-âm độc chưởng.
Dương Thiên chỉ tay vào mặt Mai Tam:
– Không ngờ Kim-cương là đệ tử của Mộc-tồn hòa thượng, nức danh chính phái, mà cũng dùng Huyền-âm độc tố hại người. Con lỏi kia, mi dùng Huyền-âm chưởng với chúng ta, không khác gì đọc Hiếu-kinh trước nhà Khổng-tử, múa búa trước cửa Lỗ Ban. Tam đệ sơ tâm bị trúng kế mi, nhưng không hề gì.
Y móc túi lấy ra cái lọ nhỏ, rồi đổ ba viên thuốc vào miệng Dương Tam. Dương Tam nuốt đi, rồi ngồi vận công. Dương Thiên cừơi nhạt:
– Con lỏi kia, hãy lĩnh chưởng của ta.
Mai Tam lại dùng Thiên-vương chưởng đấu với Dương Thiên. Bình tâm ma xét, thì Mai Tam không thể là đối thủ của Dương Thiên. Nàng vừa đánh, vừa lui, cũng như Dương Bách, sau chín chiêu, cánh tay Dương Thiên trở thành nặng chĩu, rồi y lảo lảo đảo như người say rượu. Mai Tam điểm một chỉ vào ngực y, rồi túm áo y ném về phía quân Việt.
Dương Vạn thấy hai em võ công có phần cao hơn mình, mà bị đánh bại trong trường hợp mờ ám, thì kinh ngạc vô cùng. Y quát lên:
– Con lỏi kia, mi đã dùng võ công tà môn gì hại nhị, tam đệ của ta. Nếu là anh hùng, hãy nói ra trước mặt ba quân.
Nói rồi y vận đủ mười thành công lực đánh vào người Mai Tam. Biết Mai Tam không hiểu tiếng Hoa, Phương-Quỳnh dịch lại cho nàng nghe. Phương-Quỳnh vừa dịch xong, thì chưởng của Dương Vạn đã bao trùm người Mai Tam. Mai Tam lạng người sang bên cạnh, khiến chưởng của Dương Vạn đánh vào chỗ không.
Mai Tam nói với Phương-Quỳnh:
– Phương-Quỳnh, sư tỷ không biết tiếng Hoa, muội dịch dùm chị.
Rồi nàng giảng giải, Phương-Quỳnh dịch:
– Này Dương tướng quân! Người phải biết rằng ta là đệ tử yêu của Mộc-tồn hòa thượng, thì sao biết Huyền-âm với tà thuật? Vừa rồi hai gã em người dùng Huyền-âm công tấn công ta, ta dùng nội công âm nhu đẩy những gì chúng gia đánh ta về cơ thể y. Trong khi đẩy, ta dồn một ít thuốc Phá mạch, loạn huyết vào Thủ Khuyết âm tâm bào kinh của chúng. Chúng không biết cái nguy, lại đi uống thuốc giải, rồi vận công cho thuốc tan ra khắp cơ thể. Do đó, thuốc Phá-mạch, loạn huyết nhập tâm mạch, mới khiến tâm mạch vỡ ra mà vong mạng.
Lời giải thích của Tam Mai, dù tướng Tống, dù tướng Việt, đều kinh hồn động phách. Tất cả cùng nhớ lại truyện xưa: Lão sư Phan Nam của phái Sài-sơn, bị hai ma đầu trong Hồng-hiết giáo hại thành tàn tật. Ông cắn răng chiu nhục, nghiên cứu, tìm ra phép đẩy thuốc vào kinh mạch đối phương. Trong trận đánh tại hoàng thành Biện-kinh, ông đã dùng thuốc độc đẩy vào kinh mạch hai ma đầu, khiến y bị mù mắt, tai điến, lưỡi cứng, chân tay tê liệt. Suốt hơn bốn mươi năm qua, giang hồ huyền thoại về thuật này, và cho rằng đã tuyệt tích, không ngờ nay Mộc-tồn hòa thượng lại đem ra dạy đệ tử, và Dương Bách là nạn nhân đầu tiên. (Xin xem Anh linh thần võ tộc Việt, của Yên-tử cư-sĩ,)
Phương-Quỳnh vẫy tay cho quân lui lại, rồi cung tay nói với Duơng Vạn:
– Nếu như tướng quân cho rằng võ công của sư tỷ tôi là tà môn, thì tôi xin dùng võ công Đông-a lĩnh giáo cao chiêu của tướng quân. Xin mời tướng quân chỉ giáo.
Dương Vạn nghiến răng phát chiêu, chưởng lực của y trầm trọng, cương nhu hợp nhất, sát thủ cực kỳ ác liệt. Phương-Quỳnh liếc nhìn qua, biết đối thủ thuộc phái Liêu-Đông, bà phát chiêu Đông-hải lưu phong trả đòn. Bình một tiếng, cả hai cùng lảo đảo lùi lại ba bước. Phương-Quỳnh lại tấn công liên tiếp bằng chiêu Phong ba hợp bích, rồi Phong đáo sơn đầu. Dương Vạn bình tĩnh trả đòn. Hai người đấu với nhau được trên trăm chiêu, thì công lực Phương-Quỳnh bắt đầu cạn dần. Cứ mỗi chiêu, bà lại phải lùi một bước.
Nguyên phụ thân Phương-Quỳnh là đô-đốc Trần Lâm, con trai của Trần Phụ-Quốc, đại đệ tử chưởng môn phái Đông-a Trần Tự-An. Nhưng thời thơ ấu, bà được gửi vào trường của sư thúc là Lý Thường-Kiệt học. Trường của Thường-Kiệt dạy cả văn lẫn võ. Vì vậy võ công của bà không do phụ thân truyền dạy, mà do Thường-Kiệt dạy. Kể ra với bản lĩnh của bà, cũng thuộc vào loại hiếm hoi so với những người ngang tuổi. Nhưng đối thủ của bà hôm nay là Dương Vạn, một cao thủ phái Không-động, lại đang ở tuổi trên bốn mươi, nội công thâm hậu, nên dù bà đã xử dụng hết công lực, mà cũng dần dần yếu thế.
Phương-Quỳnh chợt nhớ lại: Ngày sinh nhật 95 tuổi mới đây của tổ-sư Trần Tự-An, bà đã được người dạy cho Cổ-loa tâm pháp, rồi dặn rằng:
"Trọn đời, ta nghiên cứu võ công khắp Trung-nguyên, Đại-Việt, rồi tốn không biết bao nhiêu tâm huyết mới tìm ra môt loại nội công tâm pháp, khắc chế tất cả các nội công Trung-nguyên. Bây giờ ta truyền cho con. Nhưng ta dặn trước: Chỉ được dùng khi nào nguy đến tính mệnh và vị quốc đối trận với quân thù."
Bây giờ trước trận, trước thế nguy của Bắc-biên, bằng mọi giá, bà phải thắng Dương Vạn. Như vậy bà có thể xử dụng nội công Cổ-loa.
Nghĩ vậy, bà đánh liền ba chưởng bằng tất cả bình sinh công lực, khiến Dương Vạn lùi lại hai bước, rồi bà vận công theo Cổ-loa tâm pháp. Vừa lúc đó Dương Vạn đánh tới một chưởng mạnh như núi lở, băng tan. Phương-Quỳnh nghiến răng đỡ. Binh một tiếng, Dương Vạn lảo đảo bật lui hai bước. Không nhân nhượng, Phương-Quùnh đánh liền hai chiêu nữa, Dương Vạn nghiến răng đỡ, người y lắc lư như sau rượu, rồi ngã ngồi xuống. Y xua tay, tỏ ý xin thua, miệng mửa ra một búng máu:
– Quận chúa là chỗ thế nào với Kinh-Nam vương?
Thấy Dương Vạn không gọi mình là Nam-man, mà gọi là quận chúa, Phương-Quỳnh mỉm cười nghĩ thầm:
– Ta không cần giết tên này, cứ chần chờ cho nọc rắn, độc tố của chông ngấm vào người y, rồi tha cho y về. Y sẽ chết trước mặt quân tướng Tống, để chúng kinh hồn.
Nghĩ vậy Phương-Quỳnh cung tay:
– Tôi họ Trần. Còn Kinh-Nam vương ư? Tôi gọi người là Ông trẻ. Bởi phụ thân tôi gọi người là chú.
Dương à lên một tiếng:
– Quận chúa là cháu của vương, hèn chi chiêu Đông-hải lưu phong vừa rồi bao hàm sát thủ kinh khủng. Tiểu tướng từng ở dưới trướng vương gia với công chúa Huệ-Nhu. Người thường ban thưởng cho tiểu tướng luôn.
– Thì ra chúng ta đều là người nhà cả. Tục ngữ Việt có câu: Đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận họ. Ông chú trẻ của tôi cũng nhắc đến Dương tướng quân luôn. Sự việc đã như thế này, thì tôi xin thu nhặt tử thi của thuộc hạ tướng quân, để tướng quân đem về.
Nói rồi Phương-Quỳnh phất tay ra lệnh, lát sau nào tử thi, nào thương binh đều được thu gọn lại. Quân Việt cấp cho quân Tống mấy cái xe để chở thây ma, rồi dẫn lối cho ra con lộ lớn.
Dương Vạn chắp tay:
– Non xanh còn đó, lục thủy còn kia, sẽ tái ngộ với quận chúa sau.
Bọn Dương Vạn đi rồi, thì Hoàng-Nghi từ trên ngọn cây nhảy xuống:
– Em hay thực. Lát nữa đây, gần hai nghìn cái thây ma chở về trại, sẽ trở thành quỷ nhập tràng hớp hồn đồng đội. Lại cái đám binh Tống bị rắn cắn kia, e cứu không kịp nữa. Chúng sẽ đau đớn quằn quại hàng nửa ngày mới chết. Anh nghĩ ba hồn bẩy vía bọn quân khỏe sẽ thăng thiên mất.
Bốn người rút quân về tới Chi-lăng, thì có sứ giả của phò mã Thân Cảnh-Long tới. Sứ giả trình bầy:
– Thưa thượng tướng quân. Đạo Lạng-châu đột kích vào trại Vĩnh-bình thành công mỹ mãn. Công-chúa Thiên-Thành giết chết tên Hoàng Kim-Khôi, diệt sạch bọn hoàng nam phản bội, đốt hết kho lương; sau đó rút lui. Tu Kỷ, Lý Hạo đem quân truy kích. Trên đường rút lui ta gặp đạo binh của Hoàng Kim-Mãn đang di chuyển. Hai bên tao ngộ chiến giữa giữa rừng. Quân của công chúa chỉ hơn nghìn, phải rút vào rừng. Hoàng Kim-Mãn đem quân vây kín. May đâu sau khi chặn đánh truy binh; phò mã biết công chúa bị vây, người đem quân đánh tập hậu Kim-Mãn. Y thua chạy, thì chúng ta lại gặp lại gặp quân của Tu Kỷ. Tu Kỷ đấu với phò mã ngang tay. Còn Lý Hạo bị công chúa giết hết. Giữa lúc bên ta gặp nguy, lại có tin đạo binh Dương Vạn đuổi theo tướng quân bị bại, Tu Kỷ phải ra lệnh rút quân về.
– Hiện phò mã ở đâu?
– Hiện phò mã với công chúa đang đi khắp các trang động, tổ chức ban lệnh lại. Phò mã có lệnh cho tướng quân: Người được tin Hy-Ninh đế ban chỉ cho Quách Quỳ rằng hễ trang động nào không chống Tống, thì không được đánh. Vì vậy phò mã muốn cho các trang động Lạng-châu tuyệt đối im lặng. Như vậy mình giữ được toàn vẹn. Đợi khi Tống xuống đồng bằng, đang giao chiến phòng tuyến Như-nguyệt, bấy giờ các trang động mới đánh tập hậu, cướp lương.
Hoàng-Nghi trình bầy diễn tiến trận đột kích, đánh quân truy cản của mình cho sứ giả nghe, hầu tường trình với Thân phò mã. Hầu còn gửi thủ cấp tên Hoàng Kim-Ngân đem về nộp cho phò mã, để người đem đi bêu khắp các trang động, làm gương cho bọn động chủ, trang chủ phản bội.
Cho đến trưa, vẫn chưa có tin tức của công chúa Côi-sơn. Hoàng-Nghi sai tế tác mang chim ưng đi dò thám. Hơn giờ sau, tế tác về cho biết: Trại Quyết-lý đang bị quân Tống bao vây, tấn công. Trận chiến diễn ra ác liệt vô cùng. Người trực tiếp đốc chiến là Quách Quỳ. Giữa Quyết-lý với Chi-lăng, Tống có một đạo binh khoảng năm nghìn người mai phục, dường như sợ ta tiếp cứu. Đạo này do Khúc Chẩn chỉ huy.
Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh nóng nảy vô cùng, đi đứng bồn chồn không yên. Ý hầu muốn đem quân tiếp viện cho Quyết-lý, ngặt vì lệnh bắt phải giữ đồn, cố thủ, kéo dài thời gian, nên đành chịu. Trong khi hầu kiểm điểm binh mã, thì phu nhân viết tấu chương, sai chim ưng mang về triều, tường trình ba mặt trận.
Mãi đến giờ Ngọ, mới thấy chim ưng mang tin tức tức từ Quyết-lý về.
« Ta tấn công Tây-bình, đốt lương thảo, diệt bọn Hoàng Kim-Ngọc dễ dàng. Khi ta rút lui, thì Trương Chi-Giám mang thiết đột đuổi theo. Y bị trúng phục binh của phu quân ta. Ta cũng đánh quặt trở lại. Ta giết Trương Chi-Giám tại trận tiền. Giữa lúc chiến trận nghiêng về phía ta, thì Yên Đạt, mang quân đến tiếpviện; rồi Tu Kỷ, đánh vào bên trái, Đào Bật đánh vào bên phải. Diêu Tự đánh vào phía sau. Chính Quách Quỳ đốc chiến. Chúng ta đành rút quân về đồn Quyết-lý. Hiện ba tên này đem quân đánh ta. Từ sáng đến giờ chúng xung phong đến ba lượt, đều bị đánh lui. Quân Tống, quân bảo giáp chết trước sau ước hơn vạn. Bây giờ chúng rút lui nghỉ ăn trưa. Kết quả ba đợt xung phong chúng đã lấp được hai cái hào, phá ba lớp hàng rào rồi. Nếu chúng thí một vạn quân nữa, thì Quyết-lý thất thủ mất. Có cách nào tiếp cứu ta không? »
Hoàng-Nghi bàn với Phương-Quỳnh:
– Tuy lệnh không cho chúng ta xuất trại, nhưng trong trường hợp này ta cũng phải tìm cách gì tiếp cứu Quyết-lý chứ?
– Em thấy đội quân của Khúc Chẩn chặn đường Chi-lăng đi Quyết-lý đóng ở khu rừng lau sậy. Mùa này lau sậy chết khô, mấy hôm nay trời nắng, lau sậy rất dễ bắt lửa. Vậy ta có thể dùng hỏa công đốt chúng không?
– Ừ nhỉ. Đêm nay ta sẽ dùng Lôi-tiễn đốt bọn Khúc Chẩn.
Hầu suýt xoa:
– Ta ra quân kỳ này, giết được năm tướng Dương Vạn, Dương Thiên, Dương Bách, Lý Hạo, Trương Chi-Giám, chắc quân Tống dao động lắm.
Chiều hôm đó, có tin tế tác của công chúa Thiên-Thành báo:
« Quách Qùy biết rõ ta cố tình làm chậm bước tiến quân Tống. Nên y quyết định để lại vài vạn quân công ải Quyết-lý cầm chừng, rồi đánh Chi-lăng thực gấp. Tu Kỷ hiến mưu: Dùng hư kế đánh Quyết-lý, để dụ cho quân Chi-lăng tiếp viện, thì đánh mới dễ. Vậy phải cẩn thận ».
Hoàng-Nghi rùng mình:
– Suýt nữa bọn mình trúng kế giặc. Nhưng lỡ chúng đổi hư thành thực, đánh Quyết-lý thì sao?
Lý Tam bàn:
– Ta cứ chờ. Nếu đúng như tin của công-chúa Thiên-Thành báo, thì ta không cần tiếp cứu Quyết-lý, chỉ nội sáng mai chúng tiến đánh ta. Đám quân Khúc Chẩn phục suốt ngày, không thấy ta xuất đồn, thì chiều chúng sẽ rút về nơi nào đó đóng trại. Ta sẽ liệu tình hình mà đối phó.
Quả nhiên chiều hôm đó, tế tác báo cho biết, quân Khúc Chẩn đã đóng trại ngay giữa khu bãi trống lau sậy, dưới chân núi Kháo-mẹ.
Hoàng-Nghi vỗ tay:
– Tên Khúc Chẩn khôn bỏ mẹ đi ấy. Y đóng quân ở khu bằng phẳng, lại dựa lưng vào núi, thì không sợ ta tập kích. Nhưng y không biết rõ trang bị của ta. Đêm nay ta đánh y một trận cho biết tay nhau. Được, ta cho binh sĩ đi ngủ sớm, sang giờ Sửu thì khởi sự.
Trong khi đó bên phía quân Tống:
Đêm trước, vì Quách Quỳ không phòng bị, nên bị quân Việt đánh vào ba căn cứ Vĩnh-bình, Tây-bình, Lộc-châu là nơi đồn trú ba đạo binh đệ tứ, ngũ, lục với ba lữ hoàng nam thuộc Môn-châu. Kết quả, ba tướng chỉ huy ba đạo quân bị giết, ba anh em họ Hoàng chỉ huy đám phản quân cũng bị giết; ba đạo quân bị hao hụt nặng: Đạo đệ lục bị chết gần hết, chỉ còn sót hơn ba trăm quân cùng với ba anh em họ Dương bị rắn cắn, dẫm phải chông, bị trúng độc chưởng; thất thểu chở thương binh, tử sĩ trở về, rồi đến trưa cũng chết hết. Lập tức Quỳ ra lệnh lấy quân bảo giáp bổ xung cho đạo đệ tứ, đệ ngũ. Còn đạo đệ lục, Quỳ du di quân của các đạo khác một nửa, lấy một nửa là bảo binh, tái lập lại, rồi sai Khúc Chẩn chỉ huy đạo này.
Quỳ họp chư tướng bàn kế tiến về Thăng-long.
Tu Kỷ hiến kế: Để lại vài vạn quân vây Quyết-lý, rồi dốc toàn lực đánh Chi-lăng. Ải Chi-lăng quá kiên cố, vậy hãy giả công ải Quyết-lý để dụ Chi-lăng tiếp viện rồi chặn đánh.
Quỳ đồng ý. Y dùng bốn danh tướng Yên Đạt, Tu Kỷ, Diêu Tự, Đào Bật xua quân tấn công Quyết-lý suốt nửa ngày, chỉ phá được lớp rào thứ ba, lấp được con lạch thứ ba, thế mà chết mất hơn bẩy nghìn bảo giáp với năm nghìn quân triều.
Cảm thấy chán nản, Quỳ than với thủ hạ:
– Quân thủ trong Quyết-lý là hiệu quân Kinh-bắc, chứ chưa phải Thiên-tử binh, mà chúng trấn thủ đồn còn vững như vậy; huống hồ quân trấn Chi-lăng là hiệu Quảng-vũ, nổi tiếng thiện chiến, lại do vợ chồng Đinh Hoàng-Nghi, Lý Tam thống lĩnh!!!
Đến trưa, Quỳ ra lệnh ngừng tấn công, cho quân nghỉ ngơi, hy vọng Hoàng-Nghi xuất ải cứu Quyết-lý. Y sẽ tung phục binh bao vây, rồi tiến đánh Chi-lăng. Nhưng chờ đến tối, vẫn không thấy quân Chi-lăng xuất ải. Quỳ đành ra lệnh cho Khúc Chẩn đóng quân lại nghỉ ngơi, giữ sức.
Để tỏ tình phụ tử chi binh Quỳ qua đêm với đạo quân đệ lục, mới được tái lập, để binh sĩ lên tinh thần..
Nguyên Quách Quỳ với Triệu Tiết có sự bất hòa lớn lao: Năm trước, Tiết được cử làm chánh tướng, Lý Hiến làm phó. Tiết thì cậy tài kiêm văn võ, lại thuộc vây cánh Vương An-Thạch. Hiến thì ỷ mình là Tổng– lĩnh thị-vệ, được Tuyên-Nhân thánh-liệt hoàng thái hậu tin dùng. Vì vậy Hiến thường cãi Tiết. Vương An-Thạch khuyên vua không nên dùng hoạn quan, xin cách Hiến. Cách Hiến rồi, vua hỏi Tiết nên dùng ai thay Hiến? Tiết tiến cử Quách Quỳ. Khi vua hỏi Tiết: Ngươi với Quỳ, ai giỏi hơn ai, Tiết nói nhún Quỳ giỏi hơn. Vì vậy vua cử Quỳ làm chánh tướng, Tiết làm phó. Oan nghiệt thay Quỳ lại thuộc phe của Cựu-đảng, họ xa gần với phó Tể-tướng Ngô Sung, người đối đầu số một của Vương An-Thạch. Vì vậy, trong những lúc nghị sự ở Biện-kinh, Quỳ với Tiết thường cãi nhau. Đôi khi cãi nhau ngay cả trước mặt vua.
Trong khi trên đường đem quân xuống Nam, thì Vương An-Thạch bị cách chức. Ngô Sung chủ hoà lên làm Tể-tướng. Ngô viết thư cho Quỳ dặn: Hãy tiến quân chậm chậm, đóng tại biên cương, chờ đợi xem sao. Chính vì vậy, mà bây giờ Quỳ còn đóng quân ở đây.
Quỳ hỏi Khúc Chẩn:
– Trên đường xuống Nam, qua chiến trường Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp, Ung-châu, thì từ tướng cho đến quân đều mất hết chí khí chiến đấu. Chính vì vậy mà đêm qua quân Việt cướp trại, phục binh đánh quân truy kích thành công.
Chẩn đề nghị:
– Hôm qua, ta đã vào được đến lớp rào thứ ba. Nếu như ngày mai, ta quyết đánh nữa, thì có thể tràn ngập được ải này.
– Ta thực không nỡ. Ta mới vào lớp thứ ba, mà đã chết hơn vạn. Nếu như muốn đánh đến lớp thứ mười, rồi cận chiến chiếm đồn, e phải hao hụt gấp đôi, thì thực là phí nhân mạng sĩ tốt quá đáng.
Khúc Chẩn an ủi:
– Nhưng... hôm trước một chỉ dụ trong kinh đưa ra về vụ đánh đồn Ngọc-sơn: Nếu cần một đổi mười, thì vẫn được coi là chiến thắng. Vì vậy tiểu tướng thấy các tướng Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt, Diêu Tự, Đào Bật đều nhất quyết đánh Chi-lăng. Dù tổn thất, ta cũng đành hy sinh vậy.
Hai người bàn cho đến giờ Dậu, trong quân đánh trống báo hiệu tắt đèn đi nghỉ. Y vừa chợp mắt một lúc thì có tiếng la:
– Cháy! Cháy! Cháy!
Rồi có tiếng trống báo động. Quách Quỳ, Khúc Chẩn cũng vùng dậy, thì trước mặt hai người hiện ra một biển lửa: Xung quanh khu đóng quân, lau sậy bốc cháy ngùn ngụt. Chẩn hô quân dập tắt lửa, nhưng ở giữa rừng lau sậy, lấy đâu ra nước, ra dụng cụ cứu hỏa?
Binh sĩ đạo đệ lục này, một nửa lấy từ các đạo khác, một nửa lấy từ bảo binh, mới tái lập, nên tổ chức còn lộn xộn, trên dưới chưa thuộc mặt nhau; lệnh ban ra không được thi hành nghiêm minh. Tướng quát tháo mặc tướng quát tháo, binh sĩ la hét mặc binh sĩ la hét.
Lửa mỗi lúc một bốc cao, chỗ sậy bốc cháy, mỗi lúc một thu hẹp, quân sĩ bỏ chạy hỗn độn, không còn phân biệt đội ngũ nữa. Quách Quỳ ra lệnh chém đầu hơn mười người, mới chính được đội ngũ.
Quỳ bàn với Chẩn:
– Khi bọn Nam-man thiết kế dùng hỏa công, chúng nghĩ rằng gặp lửa cháy, ta sẽ bỏ chạy về phía Bắc. Vì vậy chúng đốt ba phía Đông, Tây, Nam rất kỹ. Còn phía Bắc, y để hở khu thông với con đường lớn. Như vậy rõ ràng chúng dụ ta chạy về phía đó, rồi phục binh chận đánh. Đã vậy, ta cố dập tắt lửa, rồi đóng quân tại đây, cho chúng biết ta không ngu như chúng tưởng.
Hai tướng ra lệnh cho binh sĩ dùng đao phát quang một khu xung quanh một bãi lớn, rồi truyền quân rút vào đó. Quả nhiên, biện pháp này, khiến lửa không lan đến chỗ trú quân.
Quỳ cho quân sĩ ngồi dựa vào nhau mà qua đêm, chờ trời sáng sẽ có quân tiếp viện. Mọi sự vừa xong xuôi, thì bỗng có hàng chục tiếng rít xé gió trên không. Hàng chục vệt lửa xanh-đỏ-vàng bay vọt lên cao, trông rất đẹp mắt, rồi những vệt đó phát nổ, biến thành trái cầu lửa nổ chụp xuống chỗ đóng quân. Hoàng thạch, mã não, nhựa cháy chụp xuống đầu binh tướng Tống. Binh tướng Tống la lớn:
– Lôi tiễn! Lôi tiễn!
Nhiều người bị cháy như cây đuốc.
Hàng loạt Lôi-tiễn tiếp tục bắn tới. Lôi-tiễn tuy không làm chết nhiều người, nhưng làm quân Tống kinh hoàng, vì nhựa cháy, hoàng thạch rơi trúng người, bị phỏng. Một vài mũi trúng khu cỏ khô, lại làm lửa bốc cháy ngùn ngụt. Quân-sĩ bị Lôi-tiễn bắn chụp lên đầu, muốn bỏ chạy, nhưng vì sợ bỏ chạy sẽ bị chém đầu, nên đành ngồi trơ thân ra chịu trận, miệng la hét, kêu khóc.
Khúc Chẩn bàn:
– Cơ chừng này, đến sáng, quân sĩ bị phỏng sẽ chết hết. Chi bằng ta rút lui thì hay hơn.
Quách Quỳ ra lệnh:
– Binh pháp có câu: Tìm chỗ sống ở chỗ chết. Bọn Nam-man đốt bốn phía, để hở phía Bắc, vậy chắc chúng phục binh ở đây chờ ta. Nay ải Chi-lăng ở phía Nam, tức chỗ chết của ta, chúng sẽ không phục binh tại đây. Vậy ta cho quân âm thầm rút về phía Nam, sau đó vượt con đường ở chân núi vòng lên Bắc.
Lệnh vừa ban ra, lập tức quân Tống rời chỗ trú quân, rút theo con đường cái, hướng về Chi-lăng. Khi người lính cuối cùng ra khỏi khu vực, thì Lôi-tiễn cũng ngưng bắn. Đoàn quân âm thầm rút lui. Vừa được khoảng bốn dặm, thì có ba tiếng thanh la, rồi thiếp theo trống thúc vang dội, tên từ bên vệ đường bắn ra như mưa. Trong đêm tối, quân Tống không biết ai bắn, bắn từ đâu, mà chỉ thấy đồng đội trúng tên kêu thét lên, lăn ra chết.
Quách Quỳ hô lớn:
– Nằm xuống hai bên lề đường để tránh tên. Đề phòng phục binh tấn công.
Biện pháp này quả nhiên hữu hiệu, không thấy tên bắn ra nữa, lại cũng không thấy trống thúc quân reo. Rừng núi trở lại yên tĩnh, chỉ còn tiếng thương binh rên rỉ.
Thời gian trôi qua khoảng hơn khắc, thì lình có tiếng tù-và rúc lên thê lương:
– Úúú, uuu, úúú, uuu!
Rồi tiếng hổ gầm, tiếng sói rống, tiếng sói tru. Tiếp theo, hổ, báo, sói trong rừng nhảy ra. Quân Tống kinh hoàng, bỏ hàng ngũ chạy tứ tán. Đến trình độ này, thì Quách Quỳ, Khúc Chẩn cũng đành buông xuôi. Hai người tập họp được đội võ sĩ cận vệ binh xung quanh; cố thủ, chờ trời sáng, sẽ có viện quân.
Sau đợt tấn công của thú binh, rừng núi lại trở về yên tĩnh. Quách Quỳ, Khúc Chẩn cùng đội quân còn sống sót đành ngồi xuống đất chờ đợi, trong khi lòng rối như tơ vò.
Trời sáng dần, trong màn sương dày đục, Quách Quỳ đứng dậy quan sát: Trên con đường dài hun hút, ngổn ngang tử thi, cái thị bị tên xuyên qua đầu, qua ngực; cái thì bị thú vồ nát thây; cái thì nằm ngửa mắt mở thao láo nhìn trời.
Quách Quỳ hỏi Khúc Chẩn:
– Theo như Khúc tướng quân đoán, thì bọn nào bắn Lôi-tiễn, phục binh đánh ta đêm vừa qua?
– Thưa nguyên soái, với kế phục binh để trống phương Bắc, khiến ta rút phương Nam, thì Tôn Mạnh với Thanh-Nguyên không thể nghĩ ra được. Tiểu-tướng đoán là Đinh Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh, Lý Tam, Mai Tam.
– Ta cũng nghĩ vậy.
Khúc Chẩn hỏi:
– Bây giờ ta rút về, hay chờ viện quân?
– Chờ viện quân biết đến bao giờ? Ta rút thôi!
– Còn thương binh? Không lẽ để chúng lại? Trong khi ta chỉ còn không quá năm trăm người toàn vẹn!
– Đành vậy!
Quỳ cùng Chẩn thất thểu đi trước, đoàn quân không cờ, chẳng hàng lối lê bước theo sau. Đi được khoảng sáu dặm, thì có tiếng trống thúc, rồi một đội quân Việt hùng tráng dàn ra chặn mất lối đi. Phía trước có hai cây cờ. Cây thứ nhất cờ nền mầu vàng, trên thêu con rồng mầu đen với hàng chữ Thiên-tử binh Quảng-vũ, cấy thứ nhì nền xanh có hàng chữ Quán-quân thượng tướng quân, Chính-Tâm hầu, Đinh, một đôi nam nữ cỡi... cọp đứng song song chặn mất lối đi. Quỳ đưa mắt nhìn: Nam thì hùng vĩ uy nghi, nữ thì sắc nước, hương trời, dáng điệu ôn nhu văn nhã.
Quách Quỳ đã được Khu-mật viện Tống cung cấp đầy đủ tình hình trận liệt quân Việt, tiểu sử các tướng: Tài năng, sư thừa, sở thích, gia cảnh. Vì vậy nhìn lá cờ, y biết ngay người đối diện với y là Đinh Hoàng-Nghi Phương-Quỳnh. Y nghĩ thầm:
– Chỉ với hiệu Thiên-tử binh Quảng-vũ, mà vợ chồng tên nhóc con này đánh tan đạo binh đệ lục ngày hôm qua. Ta đã tái lập, hôm nay chúng lại đánh tan một lần nữa. Đau đớn cho ta, một danh tướng Thiên-triều, mang đại quân bình man, chưa được đánh một chiêu võ, bắn một mũi tên, mà bị thất bại như thế này.
Vợ chồng Đinh Hoàng-Nghi ngồi yên trên mình cọp, miệng tủm tỉm cười, rồi nghiêng mình:
– Quán-quân thượng tướng quân nước Đại-Việt, trấn thủ Chi-lăng, xin kính chào Tuyên-huy Nam-viện, kinh lược Nam-thùy sứ Quách đại tướng quân, và Vũ-dương đại tướng quân Khúc.
Quách Quỳ nổi cộc lên chửi:
– Bọn Nam-man các người chỉ giỏi đánh trộm. Mi có giỏi, đem cả hiệu binh Quảng-vũ ra đối trận với ta, ta có thua, cũng đành cam chịu. Chứ mi đánh trộm như thế này, thì không đáng mặt nam nhi đại trượng phu.
Đến đây có tiếng trống thúc pha với tiếng quân reo, tiếng vũ khí chạm nhau từ xa vọng lại. Phương-Quỳnh đưa mắt cho một nữ binh tế tác, nữ binh này đi liền. Bà cười rất tươi nói với Quách Quỳ:
– Quách nguyên soái ơi! Người đem quân đốt kho lương Lộc-châu là tiểu nữ chứ có phải phu quân tiểu nữ đâu? Rồi phục quân diệt đạo quân đệ lục cũng là tiểu nữ, với sư tỷ Mai Tam. Trận bắn Lôi-tiễn, dùng thú binh, cùng băn tên đêm rồi lại cũng là tiểu nữ với sư tỷ Mai Tam cả, chứ phu quân tiểu nữ nào đã ra tay! Bọn tiểu nữ là đàn bà, chứ có là đàn ông đâu mà nguyên soái bảo nam nhân đại trượng phu?
Hoàng-Nghi chỉ tay về phía Chi-lăng:
– Quách nguyên soái! Tiểu tướng được lệnh nguyên soái Thường-Kiệt trấn thủ ải Chi-lăng. Tiểu tướng nghe nói, thời niên thiếu nguyên soái từng sang Đại-Việt, hẳn biết nhiều về địa danh này. Tiểu tướng cũng được biết xưa kia tổ phụ của nguyên soái là Quách Quân-Biện từng theo nguyên soái Hầu Nhân-Bảo đánh Đại-Việt; trận ấy Hầu bị giết, còn tổ phụ của nguyên soái bị bắt cầm tù. Nay tiểu tướng cũng chuẩn bị một căn nhà thực đẹp, trồng đủ hoa thơm cỏ lạ ở bờ hồ Tây, đợi khi nguyên soái qua Chi-lăng, sẽ rước nguyên soái về đó ở. Nguyên soái nghĩ sao?
Ghi chú,
Trong Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký chép rằng: Tuy Hoàng-Nghi nói đùa, nhưng Quách Quỳ vốn úy kị địa danh Chi-lăng; vì vậy sau này Triệu Tiết, Tu Kỷ đề nghị bỏ đường Chi-lăng, dùng đường thượng đạo Đâu-đỉnh đánh xuống Phú-lương, Quỳ tuy ghen tài, ghét Triệu Tiết, nhưng cũng phải nghe theo. Chính vì vậy, mà có trận đánh đẫm máu ở Phú-lương, Vạn-xuân, Như-nguyệt, sau này.

Trong khi Hoàng-Nghi đối đáp với Quách Quỳ, thì nữ binh tế tác trở lại báo với Phương-Quỳnh:
– Bốn đạo quân Tống lại đánh Quyết-lý rất hung hãn. Có hai đạo thiết kị Tống đang tiến lại đây.
Đến đó tiếng vó ngựa phi lộp cộp tới gần. Biết bản lĩnh cả hai vợ chồng với đội nữ binh có vây bắt Quách Quỳ với Khúc Chẩn cũng không nổi, mà phía sau viện binh của chúng đã tới. Hoàng-Nghi nghiêng mình vái Quách Quỳ hai vái, rồi nói với vợ:
– Bây giờ Quách, Khúc nhị vị chẳng may sa cơ, lỡ thế, mà vợ chồng mình bắt người, thì không phải là anh hùng hảo hán. Thôi, mình để hai vị về chỉnh đốn lại quân mã, rồi sẽ gặp nhau ở Chi-lăng cũng không muộn. Bấy giờ em muốn trói hai vị lại, đâu có khó?
Hai người hô lên một tiếng, đôi cọp thủng thẳng tến vào khu rừng cây rậm rạp, đội nữ binh cũng theo sau, phút chốc mất dạng.
Vừa lúc đó, một đạo thiết kị Tống phi đến như bay. Tướng dẫn đầu là Trương Thế-Cự. Y thấy Quách Quỳ, Khúc Chẩn trong tình trạng thê thảm, thì kinh ngạc vô cùng:
– Nguyên soái! Cái gì đã xẩy ra?
Khúc Chẩn đáp:
– Đêm qua chúng ta bị thú binh, Thần-nỏ, Lôi-tiễn đánh suốt đêm. Người mau thu nhặt xác tử sĩ, rồi đem về bên đất Trung-nguyên chôn cất.