3/12/12

Bỉ vỏ (C10-12)

Chương 10: 

Bính bày hàng bên một gốc xoan. ở bờ hè hãy còn nắng, nhưng người mua đã vắng. Chợ Vườn hoa sông Lấp chỉ còn vài hàng quà bánh, rau đậu, gạo muối, cá thịt..
Bính gọi một người đàn bà quét chợ bảo đem cho một liễn nước máy. Bính nhúng ướt vuông khăn tay con và té nước ra để rửa mặt. Sáng nay Bính dậy sớm quá, vội xẩy gạo rồi đi chợ ngay chẳng kịp lau qua mặt mũi. Một bạn hàng riễu Bính:
- Bận rộn đến thế nào mà bây giờ phải chải chuốt vội như thế?
Bính ngẩng đầu cười không nói gì, Bính vén những sợi tóc dính bết ở má và trán lên, nắn lại khăn vấn, khăn vuông. Gương mặt Bính sáng hẳn lên, ửng hồng, lông mi đen và cong thêm.
Người bạn hàng nọ vừa ngừng tiếng cười, một người đàn bà khác quài tay vuốt lưng Bính:
- Phải đấy, gọn ghẽ và tươi như hoa thế này mời ai mà chả đắt nhời!
Bính lặng không đáp vì chợt nhận ra có một bà cụ già đương chăm chú nhìn mình, Bính đăm đăm nhìn lại rồi chạy đến, rụt rè hỏi:
- Thưa cụ, cụ là người bến Sòi ở Nam Định ta phải không?
Bà cụ ngờ ngợ gật đầu:
- Phải, mà cô là cô Bính con ông lái Thìn?
Bính mừng rỡ, mời bà cụ lại hàng mình, nhường cái ghế con cho bà cụ ngồi và gọi hàng trầu nước đến. Bà cụ đón lấy miếng trầu, móm mém nhai và hỏi Bính:
- Cô ra ngoài này bao lâu rồi nhỉ?
- Thưa cụ được một năm.
- Buôn bán có khá không?
- Cũng kiếm được đồng rau đồng mắm ạ.
Bính dần gợi chuyện nhà và trong làng. Bà cụ kể cho Bính nghe đủ mọi điều. Ngay hôm Bính đi, khắp thôn khắp xóm ai cũng đặt điều đặt tiếng cho nàng. Khán Tốt em con nhà chú phó lý Thưởng, hỏi Bính không được, dám xưng xưng nói với các cụ và cha xứ rằng Bính chửa hoang đẻ xong sợ làng ngả vạ nên vứt đứa bé rồi trốn đi. Chính Khán Tốt trông thấy Bính đem con ra sông bỏ rồi đáp đò đêm ông lái Chuyên lên Nam Định.
Cụ quệt vôi ăn kèm thêm với mấy sợi thuốc lào, hỏi Bính:
- Vậy có thật thế không cô?
Bính lặng giây phút rồi ngập ngừng:
- Thôi thì có Chúa cả, con biết nói sao!
- ừ tôi đã biết mà, cô xưa nay vẫn là người ngoan đạo, cha xứ cũng phải nhận thế, chắc chả dám làm sự quái gở chước mốc ấy đâu. Nhưng sao cô lại bỏ nhà đi?
Bính bối rối hết sức, cố gắng mãi mới nên nhời:
- Cụ còn lạ gì trong làng buôn bán khó khăn nên con theo ngưòi bà con họ ngoại ra đây làm ăn vì tiếng thế ngoài này còn dễ dãi, con đi một buổi chợ không phải phiên chính cũng còn kiếm được vài ba hào.
- Được vài ba hào cơ?
Thấy bà cụ mở to mắt nhìn mình, Bính càng dịu lời:
- Vâng. ấy là con chả có dấn vốn nhiều như người ta.
- Thế thì ngoài tỉnh vẫn còn sung sướng lắm. ở quê ta dạo này làm ăn càng vất vả, cả ngày lấm mặt lấm mũi chắc đã được dăm xu chưa. à này cô Bính bao giờ cô về với ông bà để ông bà lo liệu cho chứ.
Bính sầm nét mặt, xót thương cho thân phận. Có cha mẹ mà cha mẹ dửng dưng không thèm nhìn nhận, thật chẳng còn chút tình nghĩa. Bính ứa nước mắt nhưng cố trấn tĩnh, tìm câu trả lời:
- Thưa cụ, thầy mẹ con vẫn gửi thư giục con về đấy, song con ở đây đã quen, buôn bán có đồng ra đồng vào nên con trù tính kiếm được cái vốn sang năm hay bao giờ qua được cái lúc khó khăn rồi con hãy về.
- Phải đấy! Cô ở đây là hơn. Dạo này lão thư ký Vân anh khán Tốt lên làm lý trưởng, nó hay kiếm chuyện lắm. Cô mà về, thế nào nó cũng làm rắc rối. Mấy lại ông cụ bà cụ dạo tháng năm năm nay đong nhiều thóc lắm, đến bốn chục thùng ấy, gặp kỳ gạo kém này cụ đem ra bán lại lãi không một đi ba ấy à, mát mặt rồi cô đừng lo!
Bà cụ lại khoe bố mẹ Bính mới tậu thêm hai sào vườn và nuôi thêm được đôi lợn, cái đò cũ đã bán đi lấy tiền mua nhiêu, ông bà giờ ở nhà làm say sáo.
Bính tê mê ngồi nghe. Bính thấy bao nhiêu sự vui sướng hả hê của bố mẹ. Với món tiền bán con Bính, bố mẹ Bính còn làm ăn sinh sôi nảy nở, trong khi Bính ngày càng héo hắt trong lòng.
- Thưa cụ, hai em con được cho ăn đi học đấy chứ?
Bà cụ sửng sốt:
- Đâu nào? Ai bảo cô vậy? Lạ thật. Thằng Cun thì ông bà cho ông Lý Xuân nuôi để cắt cỏ chăn trâu tập làm ruộng, vụ mùa năm nay thì ông bà cấy rẽ ruộng nhà phó Thưởng đấy. Còn cái Cút nghe đâu tháng trước chết về bệnh tả. Thế cô chưa biết tin hay sao?
Bính thở dài:
- Khổ thật! Thế mà hôm con gặp bác ỏn ở cuối xóm, bác ấy lại bảo con như thế đấy.
Bà cụ an ủi Bính, kể nốt:
- Mà dạo ấy trong làng chết nhiều người lắm, giàu có như ông phó Thưởng cũng lăn cổ chết sau cơn đau bụng đi ngoài.
Nói xong cụ trầm ngâm như đương nhìn thấy một hình ảnh gì ở trước mắt, cụ thấp giọng:
- ý bề trên thật khó mà chống lại được cô nhỉ.
Bính đã lo lắng, vội hỏi bà cụ:
- Còn bà phó Thưởng thế nào?
- Bà Thưởng ấy à? Bà ta không ở làng nữa cô ạ. Bà ta sang Lào ở với người em ruột làm gì bên ấy giàu có lắm mà người này cũng phải cái tội hiếm hoi.
Bính luống cuống:
- Cả mấy đứa con riêng của bà ấy cũng sang chứ?
- Phải! Tất cả mấy mẹ con. Tôi chắc chuyến này bà ta đi không về làng nữa. Ruộng vườn bán cả lại cho lý Vân.
Bính tái mặt đi, sự đau đớn lại ran lên trong lòng Bính dần dần như kết thành khối, vít chặt lấy cổ họng. Thế là hy vọng về quê chuộc con, nuôi con, săn sóc em, Bính chẳng còn dám mơ tưởng tới. Cái làng gần bến Sòi kia Bính cũng khó mà trở lại. Chưa nhắc đến tên nó, Bính đã bao nhiêu cay đắng, huống chi lại về trước những dấu vết buồn thảm của các kỷ niệm xưa.
Bà cụ ngồi nói chuyện đã lâu mà tàu về Nam sắp chạy, cụ tần ngần chào Bính để ra tàu. Bính vội đếm năm hào, buộc kỹ lưỡng, khẩn khoản nhờ cụ đưa cho thằng Cun và dặn nó chớ bép xép nói với ai rằng Bính ở ngoài này, độ giờ sang năm Bính sẽ về chơi.
Bính thờ thẫn nom theo bà cụ cho tới khi bà mất hút giữa đám ngưòi đi lại bụi mù thì Bính gục mặt vào lòng, giụi giụi mắt vào cánh tay áo. Đến bây giờ nước mắt Bính mới ứa ra, thoáng chốc đầm đìa cả làn vải nâu non đã bạc. Bính xót xa, cố gợi hình ảnh đứa con bé trong tâm trí, song cái khuôn mặt trứng nước và cái vệt chàm giống hình con thạch sùng bò và vết lẹm trên mí mắt đã lờ mờ càng mờ mịt thêm. Hơn năm trời ròng rã Bính đã phải xa con, đã làm nhòa hết mọi nét mọi vẻ của đứa bé. Và sau đây, cả tấm tình âu yếm người mẹ xấu số của đứa con khốn nạn chẳng biết mặt bố đẻ là ai kia cũng không còn gì nữa.
Bính nức lên một tiếng, lặng đi.
Một người bạn đến lay Bính, thấy mắt Bính đỏ hoe, người ấy ái ngại:
- Kìa mợ làm sao thế?
Bính không đáp, nước mắt càng ràn rụa. Người ấy chép miệng:
- Mợ lại buồn vì cảnh chồng con chứ gì? Thôi, tội gì buồn bã cho ốm thân, cứ vui vẻ mà buôn bán mợ ạ.
- à mà bác giai nhà ta làm gì mà mợ sắp ở cữ cũng phải đi chợ thế?
Bính ngập ngừng toan không trả lời, song thấy vẻ mặt hiền lành của người bạn hàng, Bính chấm nước mắt nói:
- Nhà cháu chẳng may bị bắt giam đã hơn một tháng nên cháu mới đi chợ.
- Làm sao thế?
- Khổ quá! Tự nhiên nhà cháu bỏ nhà đi bẵng mấy hôm mãi có người báo tin cháu mới biết rằng bị bắt tình nghi về cái vụ chém người gì ấy...
- Bác ở đâu? Tên bác giai là gì thế?
Bính sượng sùng:
- Nhà cháu ở Chợ con.. nhà cháu là Năm.
- Năm! có phải Năm Sài Gòn không? Mợ mới lấy hay lấy đã lâu? Lấy làm lẽ à?
Bính nghẹn ngào không đáp.
Người bạn hàng chăm chú nhìn Bính rồi lắc đầu:
- Tôi ái ngại cho người nhẹ nhàng phúc hậu như mợ mà gặp phải. Nhưng.. thôi cũng tại duyên kiếp cả, ở đời ai tránh khỏi số giời?!
Bính tê tái nghe. Bính hiểu hết cả ý thương hại và ghê sợ trong câu nói ngập ngừng nọ. Bính cúi hẳn đầu. Hai hàng nước mắt ròng xuống thềm xi măng ướt át. Người đàn bà im lặng một lúc dò la ý tứ, sau ngọt ngào hỏi Bính:
- Tôi hỏi thật cái này mợ đừng giận nhé, nếu bác ấy bị dăm bảy năm tù và mợ sinh nở mẹ tròn con vuông, liệu mợ có ở vậy nuôi con cho đến lúc bác ấy ra không?
Bính mím môi, càng nghẹn cả người:
- Bà bảo chả ở vậy nuôi con chờ chồng thì cháu làm gì?
Người bạn hàng cười:
- Tôi chịu mợ là người thủy chung nhất đời bây giờ đấy. Như người ta có chút nhan sắc, lại biết buôn bán mà lâm phải bước này họ đã bỏ thẳng tay đi lấy một ngưòi chồng khác tử tế để nương tựa trông cậy mãi mãi chứ chẳng tội gì?
- Vâng, thưa bà cháu còn biết hơn thế nữa, thế mà cháu cứ phải gắn bó, thật là chua xót cho cháu. Nhưng dù sao cháu cũng phải cắn răng chịu, vì chả ra gì vợ chồng ăn ở với nhau đã sắp có con, nếu bỏ chồng lúc này thì còn mặt mũi nào?
Người đàn bà về hàng mình, tâm trí nao nao. Còn Bính chạy lại đằng cuối chợ mua bánh kẹo và cân giò để chiều mai cùng Tư-lập-lơ vào đề lao thăm Năm Sài Gòn.
Thu xếp thúng mủng, tính tiền nong xong, Bính gồng quang gánh không về nhà.
Nắng đã xế bóng. Giời của một buổi chiều mùa đông ấm áp, rực rỡ. Giời cao và sáng, mây trắng như bông, như tuyết trôi về một phía xa xa.
Trên bờ hè, dưới rặng xoan lao xao phấp phới, phu phen thợ thuyền đã về tầm. Những chiếc mũ dạ lấm láp hắt ánh nắng và bụi. Những nón lá vàng rực lên. Những lồng ngực bóng nhẫy phơi ra giữa những tà áo vải thô nhuộm xanh. Những ống quần láng cộc nổi gọn trên những bắp chân tròn trĩnh bám đầy mạt than và cát lấm tấm như vụn bạc. Những bao gạo lấm láp quấn đằng trước theo nhịp chân hắt ra những làn bụi nhảy múa. Giữa đám người cười nói và chuyện trò ầm ĩ, tiếng guốc nện vang trong tiếng nô đùa hồn nhiên, giữa những hình thể nhuộm sắc trời chiều tươi sáng ấy, Bính đi thong thả ở mé đường. Bính thẫn thờ trông con đường giải nhựa trắng xóa, mỗi lần gió thổi mạnh lại lầm cát bụi, và chua xót nghĩ đến sự khốn nạn của đời mình.
Bính bỗng ngẩn mặt ra và không còn sức nhấc nổi bước: Hai cánh cổng sắt cao và dày sơn chạt hắc ín của đề lao Hải Phòng lù lù hiện trước mặt Bính. Bính thấy ngực lạnh dợi hẳn đi và choáng váng cả mặt.
- Anh Năm! Mình ơi! Mình ơi!..
Dừng lại, Bính lặng nhìn, không muốn dứt đi.

Chương 11: 

Bính nghẹn ngào, sự vui mừng sôi nổi làm mặt Bính bừng bừng. Hình như Bính sắp cuồng lên vì sung sướng.
ở tòa án ra, Năm Sài Gòn báo tin cho Bính chắc chắn Năm được tha bổng nhưng Năm còn phải về đề lao lấy quần áo ký kho và bóc số tù
Bính qua lại không biết bao nhiêu lượt và không một giây nào rời nhìn hai cánh cửa sắt đen kịt đóng chặt.
Còi xe hỏa đã rít vang. Chuyến Hà Nội Hải Phòng 10 giờ đã về. Bính càng bồn chồn, sau cùng, không thể nén được, Bính chạy sang, ghé mắt vào cái lỗ bằng đồng xu trên cánh cửa đề lao vừa thở vừa hỏi người lính gác:
- Thưa ông, Năm... Năm Sài Gòn sắp ra chưa?
Một giọng ồ ồ quát:
- Của nỡm nào đấy? Ai biết Năm Sài Gòn, Sáu Hà Nội nào mà hỏi. Có xéo ngay... không xếp nó lại "xạc" người ta bây giờ.
Bính năn nỉ:
- Cháu van ông, ông làm ơn xem giúp cháu những người vừa đi tòa về được trắng án đã sắp ra chưa?
Người lính càng hoảng sợ "tây" bắt được mình nói chuyện với người ngoài, liền mắng tát thêm vào mặt Bính:
- Cái mả mẹ chị, có cút ngay đi không. Người ta đã bảo không biết mà còn léo nhéo mãi.
Bính tím mặt lại, phải về chỗ cũ dưới gốc bàng trên hè, đứng chờ. Cánh cửa chợt hé mở, Năm Sài Gòn chưa kịp bước xuống đường, Bính đã vội chạy đến nắm chặt lấy tay:
- Anh Năm! Anh Năm! Mình ơi!
Rồi Bính ứa nước mắt khóc khiến Năm phì cười:
- Mình trẻ con quá, chùi ngay nước mắt đi!
Chẳng để ý đến chung quanh nhìn mình chằm chặp, Bính cứ luống cuống, xoắn xuýt bên Năm. Ngay một lúc Bính muốn nói hết những sự xảy ra trong ba tháng phải xa cách Năm, song nhời nọ chen nhời kia không thành câu gì cả. Năm ái ngại.
- Thì mình nói chậm chứ, nào có ai cướp mất nhời đâu!
Bính vẫn cứ hổn hển hỏi chuyện Năm, những tình cảnh Năm ở trong đề lao và kể sự tình của mình ở bên ngoài. Những khi phải ngừng nói thì Bính lại nhìn vào Năm. Chợt Năm Sài Gòn hỏi Bính:
- Mình đẻ thế nào?
Bính lặng một lúc mới cất được tiếng;
- Con chết rồi!
- Con chết rồi?
- Mà con giai mình ạ.
- Thằng "lỏi" à?
- Phải, thế có đau đớn không?
Năm bứt rứt một cách lạ thường, lặng đi một lúc rồi lắc đầu:
- Thôi! Chẳng may chết con này thì rồi đẻ con khác. Mình đừng buồn phiền quá.
Bính lại thấy tâm trí tối tăm rời rã, Bính thẫn thờ đi bên Năm không nói nữa.
Về đến nhà Bính gieo mình xuống giường, còn Năm ngồi cạnh Bính, cau mày đưa mắt trông bốn phía nhà:
- Ô kìa! Cái diềm màn đỏ đâu rồi?
- Tôi cất nó trong ngăn kéo ấy.
- Hai cái móc bằng sừng và hai cái dây tua lụa mình cũng cất đi ư?
- Phải.
Thấy cách bày biện trong nhà hoàn toàn thay đổi; bàn rửa mặt kê ở cuối giường đã dịch lại tận góc nhà, cái gương soi to và hộp xà phòng thơm cũng không có đấy, bộ ghế mây mới mua Bính để chiếc ở gần cửa xuống bếp, chiếc gần cửa ra vào, Năm sẵng tiếng:
- Sao đồ đạc lại thế này? Và lạ quá những khung ảnh, những tranh tàu mình vứt xó nào cả rồi?
Bính chưa kịp trả lời, Năm hỏi luôn:
- Và thúng mủng quang gánh ở đâu mình tha lôi về bừa bộn chật cả nhà thế này?
Bính ngồi dậy:
- Tôi đi buôn bán thì đừng có thúng mủng à, còn đồ đạc thu gọn vào để lấy chỗ xếp gạo nước.
- Nhưng những tranh treo trên tường có bận rộn gì mà mình cũng tháo cả đi?
- Chả cất đi thì mình bảo để làm gì? Tôi vui sướng lắm sao mà ngắm tranh ảnh? Chồng bị tù con chết, nghĩ chừng nào chết ruột từng ấy.
Năm ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Thế chúng nó không thu tiền "bồi" cho mình à?
- Không! Tôi không dính líu với họ một đồng nào vì tôi có thể chợ búa buôi thân cơ mà.
- Mình chịu khó nhọc được ư?
- Sao lại không! Mình hỏi lạ quá!
Chờ Năm uống chén nước, Bính nhìn Năm và hỏi rất dịu dàng:
- Em rắp tâm chờ mình ra để nói với mình xoay cho em ít tiền làm vốn buôn bán vợ chồng nuôi nhau vậy mình có bằng lòng không?
- Chết! Tôi lại để mình nuôi thì thà đâm đầu xuống sông cho rảnh kiếp.
- Không, em muốn mình đừng như thế nữa, khổ bao nhiêu em cũng vui lòng chịu cơ mà.
Năm xua tay:
- Anh không ưng thế. Thúng mủng này xem có ai xin thì cho quách đi, anh chẳng thích mình buôn bán gì hết.
- Ơ kìa!
Năm trợn mắt:
- Anh nói mình phải nghe.
Bính thở dài. Bính không thể can ngăn được Năm vì Năm cứng lòng quá. Một người tàn bạo ngoại hai mươi năm sống về nghề ăn cắp, bạn bè với toàn hạng du đãng, Bính đến hết trông mong kéo lại con đường sáng sủa. Bính buồn rầu ngước mắt nhìn Năm.
Năm lạnh lùng đứng dậy lôi cái bồ ở xó nhà ra, lấy những tranh ảnh phủi sạch bụi bậm rồi treo lên tường. ảnh một người đàn bà trần truồng tắm ở bên hồ treo giữa hai bức tranh "Tam anh chiến Lã Bố" và "Bàng Đức đại chiến Quan Công". Một đôi tranh truyện Thủy hử hồi Võ Tòng đánh hồ và hồi đánh Chúc gia trang ở hai bên cửa ra vào. Còn bức ảnh Năm Sài Gòn chụp bán thân, mình trần với một đôi rồng trổ lấy ngực, treo chính giữa.
Thấy Năm sắp sửa đến chỗ thúng mủng của mình, Bính vội xếp đưa xuống bếp. Năm liền cười:
- Phải đấy, đem thổi tuốt đi cho rảnh chuyện.
Một lúc sau, khi Bính trở lên nhà, Năm hỏi:
- Bây giờ mình coi có đẹp mắt không?
Bính phải vâng và tươi nét mặt cho vừa lòng Năm. Rồi khi Bính toan đi làm cơm chiều, Năm ngăn lại hỏi:
- Mình còn đồng nào không?
- Còn hai đồng thôi. Nhưng mình muốn tiêu gì để em vay thêm.
Năm khen "tốt lắm" giục Bính thay quần áo, chải chuốt xong, hai vợ chồng gọi xe kéo sang phố hàng Cháo.
Chợt thấy Tư-lập-lơ đằng đầu phố Khách, Năm đập chân xuống sàn xe bảo đỗ lại và che tay gọi. Tư-lập-lơ cuống quít chạy lại vỗ vai Năm:
- Anh "phóng" bao giờ thế?
- Ban trưa Tư ạ.
- Anh định đi đâu bây giờ?
Năm Sài Gòn trỏ một hiệu cao lâu hỏi Tư:
- Vào đây chứ còn đi đâu. Chú có đói thì vào "mổ" cho vui.
Tư đưa mắt nhìn bên kia đường rồi kéo tay Năm vào một hàng nước trước cửa hàng Năm định vào ăn.
Ngồi xuống ghế đâu đấy, Năm gọi lấy hai đĩa mì và một bát vắn thắn. Trong khi chờ đợi đầu bếp làm. Tư bảo khẽ Năm:
- Anh Năm! "So quéo" đương "mổ" ở "hậu đớm" "tễ bướu" lắm đấy(1).
Năm mỉm cười:
_________________________
1. Thằng khờ đương ăn ở sau lưng nhiều tiền lắm đấy.
- Chú "hiếc" được rồi à?
- Chưa! "cá" nó để ở "đắm thượng" áo ba-đờ-suy khó "mõi" lắm!(1)
Năm hơi chau mày:
- Sao chú biết "tễ bướu"?
- Tiểu yêu nó báo với tôi chính "so" này vừa mới nhận được "khươm chợm thanh"(2) của người cai hàng cá và tôi đương "trõm" thì gặp anh.
Hầu sáng đã bưng thức ăn trên bàn người kia và bàn Năm, Bính chửa biết xẻ đĩa nào, Tư liền bảo nàng:
- Chị thích ăn thứ nào thì xẻ thứ ấy, chúng tôi còn uống rượu cơ. Mà chị đừng "nhé"(3) sang bàn bên kia nó "sửng"(4) thì hỏng bét.
Bính gật đầu xẻ mì vào bát Năm trước rồi đến bát mình. Bính chực và. Năm giơ tay ngăn, rót nửa chén rượu ép Bính uống. Hết hai cút, Tư-lập-lơ bảo lấy thêm nửa chai mà lần này Năm cho Bính một chén thật đầy. Bính chối từ thế nào, Năm cũng không nghe, sau cùng Bính đỏ mặt, nhăn cả mặt mũi tợp một hơi gần hết.
Trước các dáng điệu ngộ nghĩnh ấy, Năm và Tư phá lên cười, Bính cũng cười theo.
Rượu nồng bắt đầu rạo rực khắp người Bính. Trước Bính còn e thẹn, sau Bính bừng bừng cả mặt, trong người đê mê, bứt rứt, chưa bao giờ như thế.
_________________________
1. Chưa. Ví tiền nó để ở túi áo trên ba-đờ-suy khó móc lắm.
2. 90 đồng
3. Nhé: nhìn
4. Sửng: giật mình. Còn tiếng sửng tươi: biết ngay, Sửng mòng: hơi biết
Bính long lanh nhìn Năm, Năm càng say sưa nhìn lại. Chợt Bính đưa mắt trông người có ví tiền và cười nụ với Tư-lập-lơ. Bính không còn chút trạnh nghĩ gì đến người nọ như ban nãy thoạt nghe Tư nói thì tưởng ngay tới sự đau đớn khi người ta bị thiệt mạng và run sợ vì cái việc làm xấu của mình. Bính hồi hộp ngồi chờ xem cái kết quả rủi ít may nhiều của công việc chồng và bạn chồng.
Thốt nhiên Tư cười bảo Bính:
- Kìa chị, thế này mà chị dám khoe một mình nhà chị có thôi.
Hắn vừa nói vừa kéo Bính đến chỗ người có ví tiền ngồi, trỏ một bức tranh treo trên tường:
- Đấy, cũng chim, cũng hổ, cũng cây cổ thụ, cũng là "anh hùng tương ngộ" như của nhà chị chứ gì?
Năm Sài Gòn chạy lại hỏi:
- Đâu nào? Nhấc ra cho tôi xem tí nào.
Nhanh như cắt, Tư-lập-lơ đứng lùi về đằng sau chừa lối cho Năm bước vào. Cái ba-đờ-suy vắt trên ghế bị Tư che lấp đi... Tinh mắt đến đâu người kia cũng không thể nom thấy ngón tay trỏ và ngón tay giữa của Năm thoắt thò vào cái túi áo ấy. Chỉ trong chớp mắt và êm như không, chiếc ví dày cộp đã chuyển sang tay trái Năm rồi nằm gọn trong túi... Bính.
Người kia vẫn cúi đầu đưa thìa cháo lên ăn.
Cả ba về chỗ cũ, Tư bấm Năm:
- "Chuỗn"!(1)
Năm nhếch mép:
- "Diễn sưa"(1) đã, vội gì.
Trống ngực Bính đập mạnh, Bính khẽ trách chồng:
- "Sưa" với "sừa" gì nữa!
Dứt lời, Bính bàng hoàng bước vội ra cửa trước, mặc Năm còn nán lại mua thêm gói thuốc lá thơm. Trời đã tối hẳn, qua những quãng trống ở rặng xoan tây, Bính thấy lờ mờ nhung nhúc những bóng người trên đường bên kia sông Lấp. Một lúc lâu, đèn điện đã bật lên, nhưng cái ánh sáng vàng đục chẳng đủ sức vén lên màn bóng tối phủ lấy cảnh vật nhộn nhịp, ồn ào nọ.
_________________________
1. Chuỗn: chạy đi nơi khác

Chương 12: 

Thằng Sẹo so vai, cong bàn tay phải, ngón tay cái để vào lỗ mũi, phì phì nói:
- Tao lạy mày cả nón thôi!
- Mày vẫn không tin à?
- Có giời tin được!
Thằng Minh văng tục, nói:
- Chị Tám Bính là bà mày hay sao mà mày phải bênh bà chầm chập lấy?
Sẹo cười mũi:
- ừ thì là bà tao, đã chết ai chưa? Và tao bênh bà tao thì đã làm sao?
- Giời ơi! Rõ ràng chúng tao nom thấy chị ấy "làm
_________________________
1. Diễn sưa: uống rượu say.
tiền", chúng tao nói thật mày cũng không tin!
Dứt lời Minh hăm hở chạy đến gốc xoan gần đấy, lôi tay một thằng bé chừng bằng chạc nó, nhưng quần áo rách rưới hơn, tóc cứng đen nháy cụp xuống che kín cả gáy và tai:
- Đây Hiếu, hôm kia mày trông thấy những gì mày nói cho thằng Sẹo nghe, chứ ông không hơi đâu cãi với nó cho tổn thọ.
Hiếu liền nhe bộ răng đầy **********, hóm hỉnh cười:
- "Bỉ" Bính "hắc" lắm!
Thằng Sẹo méo miệng nhìn, Hiếu vỗ vai nó nói:
- Mày cứ ngồi xuống hè đây rồi tao nói cho mà nghe.
Sẹo ngồi xệp trên vỉa hè, hai cánh tay choàng lấy Minh và Hiếu, chăm chú nghe Hiếu nói.
Ngày hôm kia, Hiếu và Minh đương phất phơ ngoài phố, chợt thấy một người đàn bà xách một bị nặng ở một cửa hàng vải bước ra. Chắc chắn cái bị nọ đựng ít ra cũng bạc chục nếu toàn tiền trinh, còn toàn hào hay "xanh xăng"(1) thì món tiền nhiều không thể tính xiết được. Chúng vội bấm nhau, cả hai đứa cùng theo sau người đàn bà. Nhưng, khi tới vườn hoa Đưa người, chúng gặp ngay Năm Sài Gòn và Tám Bính từ nhà Hát đi lại. Không biết cặp mắt Năm tinh đến chừng nào mà thoáng liếc qua cái bị đậy kín, Năm đã ra hiệu bảo chúng phải "chuỗn".
Minh bực tức ngắt lời:
- Sẹo! Mày tính thế có ức nhau không?
Sẹo cau mày, gật đầu, rồi giục Hiếu kể nốt.
_________________________
1. Xanh xăng: đồng tiền trị giá năm xu
Chúng nó bất đắc dĩ phải rẽ sang vườn hoa song vẫn để ý xem Năm Sài Gòn "làm tiền". Thốt nhiên người đàn bà dừng bước, Tám Bính sán đến bên, Năm Sài Gòn khẩn khoản đổi cái giấy bạc hai chục, các tám xu. Người đàn bà đặt ngay bị xuống đất.
Sẹo nhịn không được cười phá lên:
- Thế thì "mẻ béng"(1) còn gì!
Minh đáp:
- Phải bàn!
Hiếu chêm một câu:
- Mà Tám Bính "siên"(2) mới thần tình chứ.
Vừa nói Hiếu vừa bắt chước những cử chỉ của Bính ngồi bên cái bị tiền. Mắt nó cũng đưa nhìn sáng loáng, mồm nó cũng hỏi những câu không đâu, hai ngón tay cũng nhẹ nhẹ đưa vào cái mũ phớt bóp bẹp giả làm bị tiền. Nó lại còn làm ra một vẻ mặt rất bình tĩnh để nhắc lại vẻ mặt Tám Bính khi chuyền nhanh như chớp những cọc hào sang lòng Năm. Hiếu chuyên môn ăn cắp, nên các cửa chỉ của Bính nó diễn lại một cách khéo léo tự nhiên vô cùng làm Sẹo phải tròn mắt kêu lên:
- Tám Bính "dựa nhẩu"(3) đến thế cơ à?
Minh hất hàm cười:
- ấy chết. Bà mày có biết "làm tiền" tí nào đâu.
Mất hết cả ngờ vực, thằng Sẹo gật gù:
- Khoái đấy! Thích đấy!
Nó rất sung sướng được thấy một người đàn bà thùy
_________________________
1. Mẻ béng: mất ngay
2. Siên: lấy đi
3. Dựa nhẩu: lấy nhanh
mị như thế sa ngã. Nó coi như là sự an ủi cho cái số phận khốn nạn của nó. Nó vui vẻ cất tiếng:
- Chúng mày nhỉ "bỉ" ấy dễ lắm, tốt lắm, thế nào những lúc "đét"(1) chúng ta chả "trách phõ"(2) được tý tỉnh.
Thằng Minh nhiều tuổi hơn Sẹo, thấy nó cả tin như thế vội bĩu môi:
- Đấy mày xem, Tám Bính lại như chị Tư Khuyên dạo trước thôi!
Sẹo ngơ ngác:
- Tư Khuyên nào?
Minh không đáp. Nó chua chát nhớ tới năm nó 12 tuổi, cách đây đã bốn năm, và những ngày mùa đông rét mướt, buồn bã. Hai hôm ròng, nó không có lấy một hột cơm vào bụng. Cái đói đã hùa với rét mà nghiến rứt nó, làm nó mờ cả mắt, rã rời cả chân tay. Những tia mưa phùn cứ nhè mặt nó tới tấp sỉa vào. Đã thế chiếc áo cánh mướp của nó, mỗi lần gió bấc thổi, lại tốc lên, đón lấy cái lạnh tê buốt. Nó dựa lưng vào một góc tường, lờ ngờ trông những kẻ qua lại ngoài đường, để tìm một người bộ hành nhiều tiền và vô ý.
Nhưng nó thất vọng. Ai ai cũng co ro, hai tay thủ túi cho dẫu túi không. Xe nào cũng buông mui kín mít dù trong xe không có một người.
Chợt, một xe nhà đỗ gần chỗ nó ngồi.
Hai người đàn bà trong xe bước xuống, để lại trên đệm xe một gói đồ to xụ. Hai bà chủ vừa đi khỏi, anh xe tót ngay vào hàng nước. Một lúc lâu, rồi anh xe vẫn
_________________________
1. Đét: túng thiếu
2. Trách phõ: xin nhờ vả
sòng sọc hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, trong khi ngoài đường vẫn vắng lạnh dưới những lớp mưa rào rạt.
Thằng Minh vội hết sức rón rén vòng đến sau xe. Anh xe vừa hất hàm nhìn lên khói thuốc tỏa, nó bê liền gói đồ, lủi dần vào ngõ gần đấy.
Nhưng nó lại thất vọng, và lần này sự thất vọng và tủi cực lên không biết tới mực nào. Nước mắt nó chảy ra giàn dụa, nó chỉ còn sức thở nấc lên mấy tiếng rồi lịm hẳn đi. Chị Tư Khuyên không hiểu ở đâu lại xin khéo ngay nó cái gói kia, cướp trốc tay nó cái gói đựng bao nhiêu no nê ấm áp. Nó ừng ực nhìn chị giở từng thứ một, nào áo len, nào mũ nồi, nào bánh tây, nào thịt quay, nào sữa...
Đến giờ Minh vẫn còn đau, tức vì phải chịu lép vế vợ một người đàn anh. Nó nghĩ lại mà lặng cả người. Thấy thế, thằng Sẹo vội vỗ vai nó:
- Kìa sao mày đương vui lại thừ người ra thế?
Nó cười nhạt, đứng dậy lùi lũi lại ghế vườn hoa. Nó bâng khuâng nhớ nốt buổi khốn cùng ở trong cái ngõ hẻm kia. Nó đói quá, lả đi mê mệt, nằm rũ trên thềm gạch xây cạnh chuồng tiêu. Nó đã muốn nguyền rủa "chị" Tư, song cổ họng khô khan không sao cất tiếng được. May mà sáng hôm sau thằng Hiếu ăn cắp được một đôi giầy ta mới, bán được hai hào rưỡi, mua phở cho nó ăn, chứ không nó đến chết đói mất. Và may hơn, cuối tháng ấy vợ Tư Khuyên chết, Tư Khuyên bị kết án đi đày, dân "chạy" mất trùm, tiền "bồi" không ai thu.
Thật là những ngày không thể quên được. ở Hải Phòng từ "yêu tạ" đến "vỏ lỏi" đều phớn phở sung túc tung hoành. Nhưng từ khi Năm Sài Gòn ở Sài Gòn về, Tư-lập-lơ và Chín Hiếc trên Hà Nội xuống, các cánh chạy lại nép mình dưới một oai quyền cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết, bảo tù phải ngồi tù của Năm Sài Gòn.
Thằng Minh chán ngán. Nó lo ngại từ nay trở đi lại càng bị ức hiếp:
- Tám Bính! Tám Bính!
Nó nhắc tên đó hai ba lượt. Nó ghê rợn tưởng đến sự kiêu căng tàn ác của một người đàn bà thành "yêu ta". Nó sơn sởn gáy tưởng chừng đương bị hai bàn tay cứng như sắt của Năm Sài Gòn bóp chặt vì đã chót tiêu món tiền ăn cắp được.
Một ước vọng bỗng nảy ra trong tâm trí Minh.
Một ngày kia Minh trở nên anh chị, cũng năm bảy lần tù, tay Minh cũng từng phen đẫm máu, chẳng phải máu các kẻ tầm thường đâu, mà của bọn anh chị, của bọn "cớm" để có tên tuổi trong những phích(1) ở nhà Đo.
Cả ngực Minh sẽ trổ lằn lên những rồng xanh đủ các kiểu uốn khúc, vì thế người ta gọi Minh là "anh" Minh rồng, và vợ Minh là "chị" Minh rồng. Vợ Minh cũng là một "bỉ vỏ", song tinh anh sắc sảo hơn cả vợ Tư Khuyên, xinh xắn hơn cả Tám Bính, biết mọi cách trưng bảnh cái "anh chị" của chồng mình.
Minh khoan khoái quá đứng ngay dậy rảo bước đi. Minh mím chặt môi, nắm chặt tay, đấm thinh không, tự nhủ:
_________________________
1. Phích: (fiche) tờ giấy kể tên tuổi quê quán án tích của tội nhân và có cả hình ảnh điểm chỉ và các dấu vết riêng ở nhà Đo.
- Đã biết mặt Minh rồng chưa?
Nhưng, mặt tủ kính bỗng thoáng chiếu bóng Minh: một đứa trẻ thấp bé, bẩn thỉu, áo tây vàng dài quá đầu gối, tay áo đã sắn lên hai nấc mà vẫn còn chùm kín bàn tay, quần cháo lòng rách mướp, mũ dạ đội là thứ mũ "sọt rác", mũ "tầu phở".
Minh tủi thẹn vô cùng. Nó nghiến răng rít lên:
- Phải chơi. Đi "đọ" thì đi(1).

Nguồn: diendan.game.go.vn