21/12/12

Bong bóng lên trời (C1-5)

Chương 1

Lúc xảy ra sự cố, đồng hồ chỉ bảy giờ hai mươi lăm. Đó là giờ thành phố bắt đầu rộn rịp. Những bậc cha mẹ tất tả đưa con đến trường để kịp tới công sở. Những học sinh cấp ba đi trễ đang nôn nóng nhìn đèn đỏ ở các ngã tư. Những bà nội trợ lật đật xách giỏ ra khỏi nhà để mong chọn được những khúc cá tươi nhất. Các hàng quán dọc hai bên đường mở cửa từ sớm bây giờ tấp nập người ra kẻ vào. Lề đường mọc lên các quán cóc, các xe hủ tiếu, bột chiên, bánh bao, các gánh xôi, cháo lòng và các tủ thuốc lá.
Giữa không khí tất bật đó, cánh thợ hồ trông có vẽ nhàn nhã. Ba người đàn ông với thùng đồ nghề bên cạnh đang ngồi nhâm nhi cà phê sau khi chén đẫy mỗi người một tô hủ tiếu to tướng.
- Thôi, tụi mình đi chứ!
Cuối cùng, người đàn ông đứng tuổi trong bọn lên tiếng giục, sau khi uống một hơi cạn hết ly trà vừa mới rót. Vừa nói, ông vừa cuối xuống ôm thùng đồ nghề đặt dưới chân trong khi hai người kia lục tục đứng dậy kêu chủ quán tính tiền.
Ngay vào lúc bà chủ quán còn đang mấp máy tính nhẩm trong miệng, từ cửa hàng bên cạnh đột ngột vang lên những tiếng kêu thất thanh:
- Cướp! Cướp! Cứu tôi với!
Ba người thợ hồ lật đật dòm sang. Trước cửa hàng bách hóa, một cô gái đang giằng co với một tên thanh niên. Cô vừa níu lấy cái chụp đèn sau của chiếc Honda Cub vừa la bài hãi trong khi tên kia cố sức giằng chiếc xe khỏi tay cô.
Khách đi đường đứng cả lại. Hai người lao tới tên cướp nhưng chưa kịp can thiệp đã phải vội tháo lui. Không biết từ lúc nào trên tay tên cướp đã xuất hiện một khẩu súng ngắn. Hắn chĩa lăm lăm vào mọi người, giọng đe dọa:
- Lùi ra! Đứa nào nhào vô, tao bắn!
Rồi như để nhanh chóng thoát khỏi tình thế bất lợi này, hắn co chân đạp một phát, cô gái bắn ra xa.
Nhưng trước khi tên cướp kịp lên xe phóng đi, người thợ hồ đứng tuổi đã lặng lẽ tiến lại. Hai người bạn tái mặt, kêu khẽ:
- Anh Phong! Coi chừng!
Người đàn ông tên Phong không nói không rằng. Ông tiếp tục lù lù tiến đến sau lưng tên cướp. Và bất thần, ông vung tay ra. Thùng đồ nghề trên tay ông bay vèo một cái, đập trúng cánh tay tên cướp. Khẩu súng trên tay hắn rụng xuống đất đánh "bộp".
Trong khi tên cướp còn chưa hiểu ra chuyện gì, ông Phong đã nhanh tay chộp một chiếc ghế trên lề đường, xong tới quật túi bụi. Tên cướp một tay đỡ đòn, tay kia vẫn nắm chặt ghi đông xe, đôi mắt láo liên tìm cách vọt đi.
Ông Phong ra tay đột ngột đến mức những người chung quang đều sững sờ. Và sau giây phút bàng hoàng, mọi người liền hò reo xông vào trợ lực.
Hai người thợ hồ bạn ông vừa kịp chạy tới, bỗng một tiếng quát đanh gọn vang lên:
- Đứng im!
Tên cướp thứ hai thình lình xuất hiện với khẩu súng trên tay. Hóa ra nãy giờ hắn vẫn ngồi thu mình trên chiếc Honda 67 đậu sát lề đường. Tên đồng bọn có lẽ không định xuất đầu lộ diện nhưng tình thế bắt buộc hắn phải can thiệp.
Tiếng quát sắc nhọn, đầy đe dọa cộng với khẩu súng lăm lăm sẵn sàng nhả đạn khiến vòng người lật đật dạt ra. Vài kẻ nhát gan vội vã chuồn đi chỗ khác vì sợ đạn lạc. Hai người thợ hồ cũng hấp tấp thối lui. Tên cướp lập tức quay nòng súng về phía ông Phong lúc này vẫn đang tìm cách áp đảo tên cướp thứ nhất. Hắn nghiến răng:
- Tên kia! Dang ra! Nếu không, tao bắn!
Ông Phong vẫn phớt lờ. Ông giơ cao chiếc ghế tiếp tục quật những cú như trời giáng lên cánh tay cầm xe của tên cướp.
- Nằm xuống!
Tên cướp cầm súng hét lên.
Tên đồng bọn lập tức lăn người xuống mặt đường. Cùng lúc, hai người thợ hồ và cô gái chủ xe la lên thất thanh:
- Anh Phong, coi chừng!
- Bác ơi, nằm xuống!
Nhưng ông Phong chưa kịp phản ứng thì những tiếng súng đã vang lên chói tai:
- Đoàng! Đoàng!
Hai viên đạn xói thẳng vào ngực khiến ông Phong đổ vật xuống như một thân cây bị đốn gốc.
Thảm cảnh trước mặt khiến mọi người kinh hoàng nhốn nháo nhưng không ai dám chạy lại. Chỉ đến khi hai tên cướp lên xe rú ga vọt thẳng, hai người thợ hồ mới tất tả chạy tới đỡ bạn dậy. Bấy giờ, những tiếng còi cảnh sát mới vang lên.


Chương 2

Đó là tất cả những gì Thường biết về cái chết của ba mình. Lúc ba bị nạn, anh đang ngồi trong lớp, đùa giỡn cùng bạn bè.
Khi tiết học thứ hai bắt đầu được mười phút, bác bảo vệ chạy vào báo cho Thường biết có người nhà cần gặp. Sau khi xin phép cô giáo, Thường lật đật đi theo bác bảo vệ.
Bắt gặp Nhi, em gái mình, đang đứng khóc thút thít trước cổng, lập tức Thường linh cảm có chuyện không may. Anh vội vàng nắm lấy vai em, lo âu hỏi:
- Có chuyện gì vậy em? Sao em lại khóc?
Nhi ngước nhìn anh và trả lời qua màn nước mắt:
- Ba bị bắn.
Thường tái mặt:
- Bị bắn? Ai bắn?
- Bọn cướp. Thường nghe tim mình như thót lại. Anh lại lay vai em:
- Ba có sao không?
- Em không biết! Nhi đáp trong tiếng nấc. Người ta chở ba đi bệnh viện rồi!
Thường không hỏi nữa. Anh tức tốc quay vào trường lấy xe và vội vàng chở em tới bệnh viện. Anh đạp vội vã, quýnh quýu, mồ hôi đẫm cả lưng.
Khi Thường lách vào, anh nhìn thấy hai người bạn của ba cùng một cô gái lạ mặt đang ngồi ủ rũ bên cạnh mẹ. Bà Tuệ, mắt đỏ hoe, thấy Thường tất tả chạy vào, bỗng òa lên khóc.
Thường ôm vai mẹ, hốt hoảng:
- Chuyện gì vậy mẹ? Ba đâu?
Bà Tuệ gục đầu lên ngực con, khóc rấm rứt. Bà chưa kịp trả lời thì mọi người bỗng xôn xao. Họ dạt ra hai bên nhường chỗ cho những người mặt áo bờ-lu trắng khiêng ông Phong ra. Ông đã chết.
Nghe tiếng ồn ào, Thường quay vội về phía cửa phòng cấp cứu. Vừa nhìn thấy thi hài của ba, anh kêu lên một tiếng và ngất xỉu trên tay mẹ.
Khi Thường tỉnh lại, anh nhận ra mình đang nằm trên chiếc giường quen thuộc ở nhà. Bên cạnh anh vẫn là hai người thợ hồ và cô gái Thường bắt gặp nơi bệnh viện. Họ đang an ủi bà Tuệ và bé Nhi.
Lúc Thường chỏi tay ngồi dậy, mọi người quay nhìn anh với vẻ ái ngại. Một người thợ hồ nói:
- Cháu cứ nằm nghỉ đi!
Thường như không nghe câu nói. Anh nhìn thẳng vào người bạn của ba mình, hỏi bằng giọng khàn khàn:
- Sao ba cháu chết vậy bác?
Biết không thể tránh né được, sau một thoáng ngập ngừng, người thợ hồ chậm rãi thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Giọng ông run run như chưa hết xúc động.
- Ba cháu là một người tốt! Một người dũng cảm!
Người thợ hồ buồn bã kết luận.
Thường quay nhìn cô gái. Bây giờ anh mới biết cô ta là chủ nhân của chiếc xe và cũng là nạn nhân của bọn cướp. Cô ta là nạn nhân nhưng người chết lại là ba mình! Ý nghĩ đó khiến Thường cảm thấy đau đớn. Anh không trách cô gái nhưng nỗi đau của anh hiện lên trong ánh mắt cháy bỏng đến mức cô ta bất giác quay mặt đi. Tự nhiên cô gái cảm thấy cần phải làm một điều gì. Cô đã theo ông Phong vào tận bệnh viện. Rồi cô lại theo về đến đây. Suốt thời gian đó, lúc nào cô cũng cảm thấy mình như người có lỗi. Cô tưởng như chính mình là người gây ra tai họa cho gia đình tử tế này. Cảm giác đó khiến cô vô cùng ray rứt. Cô rất muốn làm một điều gì đó để giúp đỡ gia đình ân nhân. Nhưng lòng dạ đang rối như tơ vò, cô thật chẳng biết phải làm gì. Trong lúc đang bối rối, ánh mắt cô bất thần chạm phải hai chiếc nhẫn đang đeo trên tay. Ngay lập tức, một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu cô. Thoạt đầu, cô hơi đắn đo. Cô cảm thấy ý nghĩ của mình có vẻ gì đó như là sự gàn dở. Nhưng rồi chẳng nghĩ ra cách nào khác, vả lại cũng không đủ sức để nghĩ ngợi thêm, cô tặc lưỡi và ngại ngùng chạm tay vào vai bà Tuệ:
- Thưa bác!
Bà Tuệ ngước lên:
- Gì đó cô?
Cô gái lúng túng tháo hai chiếc nhẫn đang đeo trên tay và rụt rè đặt vào tay bà Tuệ :
- Bác cầm cái này để lo cho bác trai. Đây là tấm lòng của cháu.
Bà Tuệ khẽ lắc đầu:
- Tôi không nhận đâu! Tôi rất cảm ơn cô nhưng cô hãy cầm về đi!
Cô gái khẩn khoản:
- Bác nhận đi mà! Chính vì cháu mà bác trai gặp chuyện không may. Nếu bác không cho cháu chia sẻ phần nào, cháu sẽ rất áy náy.
Bà Tuệ không trả lời cô gái. Bà thở dài và chậm chạp nhìn ra cửa. Trong mắt bà, khung cửa bỗng trở nên rộng mênh mông. Bởi vì kể từ nay, chồng bà sẽ không bao giờ đặt chân qua ngưỡng cửa đó nữa. Bà sẽ không bao giờ còn nhìn thấy ông mệt mỏi trở về nhà sau một ngày lao động vất vả, tay chân dính đầy vôi vữa nhưng nụ cười tươi tắn và hiền lành vẫn luôn nở trên môi. Bà cũng sẽ không bao giờ thấy lại cảnh bé Nhi lục tung các túi áo túi quần của ba nó mỗi khi ông đi làm về để tìm cho bằng được gói kẹo ông giấu ở đâu đó trong người rồi hớn hở reo lên "A, đây rồi! Con tìm thấy rồi". Không, không còn gì nữa, kể từ hôm nay ông đã đi xa...
- Thưa bác...
Tiếng cô gái lại ngập ngừng vang lên bên tai. Bà Tuệ khẽ chép miệng. Bà thì thầm như nói với chính mình:
- Ông ấy là một người tốt. Những gì cần làm thì ông ấy đã làm. Ông ấy không cần đền đáp.
- Nhưng thưa bác...
Bà Tuệ không để cô gái nói hết câu. Bà cầm lấy tay cô, trầm giọng :
- Tôi cảm ơn cô. Tấm lòng của cô, tôi hiểu. Nhưng tôi đã nói rồi. Cô cầm về đi. Con người chẳng ai biết trước được chuyện sống chết, cô chẳng nên áy náy làm gì.
Trước thái độ dứt khoát của bà Tuệ, cô gái biết chẳng thể nài nỉ được nữa. Cô đứng dậy ấp úng cáo từ và chậm chạp tiến ra cửa bằng những bước chân lặng lẽ, nặng nề và đầy phiền muộn.
Tối đó, trước lúc đi ngủ, bà Tuệ nghiêm nghị nói với hai con:
- Kể từ hôm nay, chỉ còn ba mẹ con mình với nhau. Chúng ta phải nương tựa, và giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống...
Cố nén xúc động để nói năng ôn tồn, khúc chiết, bà muốn làm gương cho các con về sự trầm tĩnh. Nhưng bà không thể nào trình bày hết những suy nghĩ của mình. Đang nói nửa chừng, chợt bắt gặp ánh mắt thẫn thờ ngơ ngác của Thường và Nhi, bà bổng thấy nghẹn nơi cổ và lập tức bật lên tiếng nấc. Thường và Nhi liền òa lên khóc theo.

Chương 3

Từ ngày ông Phong đột ngột mất đi, mẹ con Thường bỗng trở nên khốn đốn. Lúc ông còn sống, gia đình Thường vốn đã chẳng dư dả gì. Ông làm thợ hồ, công việc lúc có lúc không. Có khi cả tháng trời rỗi việc, ông phải nằm nhà ăn bám vào đồng lương còm cõi của vợ. Nhưng dù vậy, những đóng góp dù chẳng nhiều nhặn gì của ông cũng giúp gia đình không lâm vào cảnh ngặt nghèo, quẫn bách.
Bà Tuệ dạy toán ở một trường cấp ba. Thời trẻ, bà học Sư phạm. Tốt nghiệp ra trường, đi dạy được một năm thì bà xin nghỉ vì lý do sức khỏe. Sau đó, bà xin vào làm thư ký đánh máy trong một công ty xây dựng. Tại đây, bà quen ông Phong, một người thợ giỏi, phụ trách một tổ xây lắp.
Một tháng trước khi bà và ông Phong cưới nhau, ông bị cho nghỉ việc trong một đợt giảm biên chế sau khi quyết liệt bênh vực cho một công nhân trong tổ bị sa thải một cách mờ ám. Từ đó, ông Phong trở thành một người thợ làm thuê.
Buồn phiền về hoàn cảnh của chồng, lại vừa sinh Thường, bà Tuệ rời bỏ công ty xây dựng để làm đơn xin đi dạy lại. Bà trở lại với nghề dạy học một phần vì đó là nghề bà yêu thích, phần khác với thời giờ của một nhà giáo, bà có được một buổi ở nhà để vừa soạn giáo án vừa chăm sóc con cái.
Khi Thường được năm tuổi, bà sinh bé Nhi. Với đứa con thứ hai, bà vẫn tiếp tục từ chối đi dạy thêm buổi chiều theo lời rủ rê của các đồng nghiệp tốt bụng chỉ để được gần gũi dạy dỗ và giúp đỡ con cái. Đối với bà, con cái phải được chăm sóc tỉ mỉ và chu đáo. Bà mong mỏi nếu Thường và Nhi không tạo dựng được sự nghiệp gì lớn lao mai sau thì ít ra cũng trở thành những công dân lương thiện. Như ba của chúng.
Từ trước đến nay, bà Tuệ vẫn sống trung thành với quan niệm của mình. Cuộc sống đạm bạc, đôi lúc khó khăn, nhưng thanh thản. Nhưng từ ngày ông Phong mất đi, ba mẹ con lâm vào cảnh ngặt nghèo. Tiền bạc túng thiếu, cơm ăn phải chạy từng bữa, gánh nặng trước đây hai người cùng gánh bây giờ đè nặng trên đôi vai mệt mỏi của bà.
Cuối cùng, không còn cách nào khác, bà Tuệ đành nhận lời đi dạy thêm các lớp học tư vào mỗi buổi chiều. Rồi một thời gian sau, bà lại nhận dạy thêm các lớp bổ túc văn hóa ban đêm. Cũng may là Thường và Nhi đều đã lớn, Thường mười bảy tuổi, học lớp mười một, Nhi mười hai tuổi, học lớp sáu; hai anh em lại cùng đi học buổi sáng, do đó vào buổi chiều và buổi tối bà vắng nhà, Thường và Nhi có thể trông nom lẫn nhau. Điều đó có làm bà Tuệ yên tâm phần nào, nhưng giữa những cơn ho húng hắng giữa đêm khuya, bà luôn chạnh lòng tự nhủ: ta chỉ đi dạy thêm một thời gian thôi, chừng nào cuộc sống đỡ vất vả hơn, ta sẽ lại ở nhà chăm sóc chúng nó!
Những lúc trằn trọc như vậy, bà Tuệ cảm thấy như mình có lỗi với các con. Nhưng biết làm sao hơn khi cuộc sống bươn chải không cho phép bà gần gũi Thường và Nhi như trước. Nhiều đêm nằm thao thức một mình, bà lại nhớ đến ông Phong. Và âm thầm bật khóc.

Chương 4

Nhi còn nhỏ nên không nghĩ nhiều đến nỗi cực nhọc của mẹ, mặc dù Nhi cảm nhận được sự lo toan tất bật của mẹ từ ngày ba qua đời. Chỉ có Thường là lộ vẻ lo âu trước công việc ngập đầu và sức khỏe ngày càng suy yếu của bà Tuệ.
Anh biết sức mẹ vốn yếu, lại bị viêm phế quản kinh niên, để đeo bám nghề dạy học mẹ phải cố gắng rất nhiều. Nhưng trước đây mẹ chỉ dạy một buổi, mọi việc dù sao cũng chưa đến nỗi nào. Chỉ từ khi mẹ phải dạy thêm buổi chiều rồi buổi tối, tình trạng sức khỏe của mẹ ngày càng xấu đi.
Những tối bà Tuệ phải thức khuya chấm bài, Thường trằn trọc không sao ngủ được. Anh leo lên giường giả vờ nhắm mắt để mẹ khỏi lo. Nhưng khi đèn tắt, cặp mắt Thường lại mở thao láo. Anh nằm lắng tai nghe ngóng và mỗi tiếng ho khúc khắc của mẹ từ nhà ngoài vọng vào đều khiến anh bồn chồn lo lắng.
Bà Tuệ dạy môn toán nên phần bài tập khá nhiều. Dạo này, tối nào bà cũng thức chấm bài đến khuya. Sáng, năm giờ bà lại phải thức dậy chấm tiếp để kịp trả bài cho học trò. Thường lặng lẽ theo dõi công việc nặng nhọc của mẹ với một tâm trạng bất lực.
Đã nhiều lần Thường muốn làm một điều gì đó để giúp đỡ mẹ. Ba mất, Thường là người đàn ông duy nhất trong gia đình, anh cảm thấy phải có bổn phận chia sớt một phần gánh nặng với mẹ. Nhưng anh lại chẳng thể làm gì.
Thường đã đến những trung tâm dịch vụ, những nơi giới thiệu việc làm. Nhưng anh lẳng lặng đến để rồi lẳng lặng ra về. Không có nghề chuyên môn, Thường chẳng thể xin việc bất cứ nơi đâu. Vả lại, nếu một nơi nào đó đồng ý nhận một người không nghề nghiệp, họ lại chọn những cô gái "có ngoại hình đẹp" thay vì chọn Thường.
Không nản, Thường lại tiếp tục dò tìm ở những mục "rao vặt, cần người" trên các báo. Anh hớn hở và vội vã chạy như bay đến những điạ chỉ cần người dạy kèm. Nhưng lần nào cũng như lần nào, những lời từ chối lịch sự của chủ nhà buộc Thường đành lủi thủi ra về. Những bậc cha mẹ thường tin tưởng vào trình độ của một sinh viên hơn là một học sinh lớp mười một như Thường.
Trong lúc hoàn toàn tuyệt vọng với ý định giúp đỡ mẹ, Thường bỗng sực nhớ đến câu chuyện về chú bé viết thuê xứ Florence trong cuốn "Tâm hồn cao thượng". Tuy đọc đã khá lâu, đến bây giờ Thường vẫn nhớ như in những chi tiết cảm động của câu chuyện. Một người cha già, để kiếm thêm tiền nuôi gia đình, phải nhận việc chép tên và địa chỉ những người mua sách báo dài hạn cho một nhà xuất bản nọ. Đêm đêm phải thức viết, sức khỏe ông càng ngày càng mòn mỏi. Người con muốn giúp đỡ cha, cứ đợi đến khuya khi cha đã mệt mỏi lê bước vào phòng ngủ, liền rón rén leo xuống khỏi giường và lần vào phòng làm việc của cha để lặng lẽ viết thay cho cha bằng những nét chữ bắt chước y hệt. Ngày tháng trôi qua, trong lúc người cha vui mừng vì tốc độ công việc tăng lên, tiền kiếm được khá hơn thì người con lại đâm ra uể oải, lơ đễnh trong học tập vì thiếu ngủ. Và tất nhiên, cậu thoạt tiên bị cha trách móc, sau đó là quở mắng và cuối cùng bị cha thờ ơ ghẻ lạnh. Tuy rất đau khổ, cậu bé vẫn âm thầm chịu đựng và tự an ủi dù sao hành động bí mật của mình cũng giúp cha cậu vui thích với ý nghĩ rằng ông vẫn còn khỏe mạnh. Chỉ đến khi, vào một đêm nọ, cậu sơ ý chạm tay vào một cuốn sách làm nó rơi xuống đất khiến cha cậu giật mình tỉnh giấc và tò mò vào phòng, chỉ đến lúc đó, bắt gặp cậu đang tập trung đầu óc say sưa viết hết mảnh giấy này đến mảnh giấy khác, ông mới chợt hiểu tấm lòng đẹp đẽ và nỗi oan ức đáng thương của con mình...
Cậu chuyện đột nhiên trở về trong trí nhớ khiến Thường suy nghĩ miên man. Hay là mình bắt chước cậu bé nọ âm thầm giúp đỡ mẹ, Thường nhủ bụng. Nhưng khác với nhân vật trong truyện, mình sẽ cố gắng học tập tốt để mẹ khỏi buồn phiền, lo lắng. Tất nhiên mẹ sẽ không hay biết. Sau những lúc thức khuya chấm bài, bao giờ mẹ cũng ngủ rất say. Mẹ sẽ không biết gì hết.
Ý định thoạt đầu còn phân vân, nhưng những tiếng ho húng hắng của mẹ đã nhanh chóng thôi thúc Thường hành động. Tối đó, anh nằm thao thức, dỏng tai nghe ngóng. Đợi cho bà Tuệ mệt mỏi rời bàn vào phòng ngủ, anh sè sẹ leo xuống khỏi giường và lần bước ra phòng ngoài. Không dám bật điện vì sợ gây chú ý, Thường lặng lẽ thắp cây đèn dầu đặt trên đầu tủ rồi cầm cây đèn tù mù trên tay, anh hồi hộp tiến lại bàn làm việc của mẹ.
Thường rón rén ngồi vào bàn và bắt đầu xem xét xấp bài truớc mặt một cách thận trọng. Đọc qua đề toán, Thường thở phào khi nhận ra đó là bài tập đại số lớp mười. Anh nhanh chóng hình dung ra cách giải và cẩn thận lần giở những bài tập mẹ đã chấm, xem xét và ghi nhớ kỹ lưỡng cách cho điểm và sửa lỗi trên từng bài.
Sau đó, Thường thu hết can đảm cầm lên cây viết đỏ trên bàn và bắt đầu chấm tiếp xấp bài dang dở của mẹ. Anh nhủ bụng: cũng may là mẹ dạy toán, chứ nếu mẹ dạy văn, hẳn mình sẽ không dám bịa ra những lời phê trên bài tập của học sinh!
Bà Tuệ đem về nhà hai xấp bài của hai lớp khác nhau. Một xấp chấm dở, xấp kia bà chưa đụng tới. Dĩ nhiên Thường không dám rớ vào xấp bài còn để trắng. Ngay xấp bài bà Tuệ đang chấm dở, Thường cũng không dám chấm hết. Làm như vậy, bà Tuệ sẽ phát hiện ngay. Chấm khoảng gần hai mươi bài, khi xấp bài đã vơi hơn phân nửa, Thường thở phào buông viết và loay hoay xếp tất cả lại cho ngay ngắn và đặt vào đúng vị trí cũ. Xong, anh tắt đèn, đem cất trên đầu tủ và nhón gót lần vào phòng ngủ.
Thường đặt lưng xuống giường, người mệt mỏi, mắt díp lại nhưng chưa bao giờ anh thấy lòng thanh thản đến thế.

Chương 5

Hơn nửa tháng đã trôi qua kể từ ngày Thường quyết định hành động theo gương cậu bé xứ Florence. Thoạt đầu, Thường còn lo lắng, thấp thỏm nhưng rồi thấy mẹ chẳng phát giác ra, dần dần anh cảm thấy yên tâm. Và từng đêm, từng đêm, Thường vẫn lặng lẽ tiếp tục công việc của mình.
Bà Tuệ quả chẳng hay biết gì. Bận rộn và mệt mỏi trước các buổi dạy kế tiếp nhau, lại không mảy may ngờ vực, chẳng bao giờ bà để ý cái bài tập mà bà tiếp tục chấm vào sáng sớm hôm sau có thực là đã nằm kế ngay theo cái bài tập bà đã kết thúc vào tối hôm trước hay không. Hơn nữa, khi chấm bài giúp mẹ, Thường đã cố gắng bắt chước y hệt phong cách của mẹ, từ phương pháp cho điểm đến cách viết những con số với những nét móc mềm mại, cả những dấu gạch chéo bên dưới những phép tính sai.
Những ngày đó, Thường thật sự ngạc nhiên trước những cảm xúc kỳ lạ mà mình trải qua. Anh thấy dậy lên trong lòng một niềm vui lặng lẽ chưa từng biết. Mặc dù không đem lại cho mẹ những lợi ích vật chất cụ thể như cậu bé xứ Florence đã làm, nhưng Thường cũng nhận ra việc làm âm thầm của mình đã giúp mẹ có nhiều thời giờ hơn vào mỗi buổi sáng. Trước đây, sau khi thức dậy vào lúc năm giờ, bao giờ bà Tuệ cũng vội vã ngồi vào bàn và dán chặt mình ở đó, xem xét giáo án và tiếp tục chấm nốt các xấp bài cho kỳ hết để rồi chỉ kịp ăn uống qua loa trước khi lật đật ra khỏi nhà. Cũng có lúc, bài vở nhiều, bà vội vàng đến lớp mà chẳng có thời gian đụng đến chén cơm chiên Nhi đã đặt sẵn trên bàn, cạnh tay bà.
Nhưng từ ngày Thường lén lút chia sớt một phần khối lượng công việc, bà Tuệ có tỏ ra thảnh thơi hơn chút đỉnh. Bà không còn bỏ bữa ăn sáng đạm bạc, điều thỉnh thoảng vẫn xảy ra trước đây. Thậm chí bà còn có được dăm mười phút ngắm mình trong gương, sửa lại mớ tóc rối hoặc bẻ lại cái cổ áo chưa được phẳng phiu, ngay ngắn, cũng như kịp dặn Nhi mặc thêm áo lạnh hoặc bảo Thường trưa đi học về ghé cửa hàng mua một món gia dụng lặt vặt nào đó.
Dĩ nhiên bà Tuệ không chú ý, cũng không có thì giờ để chú ý, những giây phút thư thả hiếm hoi kia từ đâu ra. Công việc và trách nhiệm đối với gia đình đã cuốn lấy bà như một cái đĩa quay cuốn lấy dây xích. Chỉ trừ khi bà bị đứt tung vì quá sức chịu đựng, còn thì bà chỉ biết tất bật quay theo những vòng quay lạnh lùng và cố định, không có đủ sức lực và thời gian để ngạc nhiên về bất cứ điều gì.
Thường là người hay lo nghĩ. Sự giáo dục nghiêm ngặt cũng như hoàn cảnh không may của gia đình đã tạo cho anh một tính cách như thế. Vì vậy, sự vô tâm của mẹ gây cho anh nhiều cảm giác trái ngược nhau. Vừa mừng vì không bị mẹ phát hiện, Thường vừa cảm thấy lo buồn vì điều đó quả thật trái với sự nhạy cảm xưa nay của mẹ. Anh hiểu nỗi lo toan cực nhọc đã khiến tâm trí mẹ chậm chạp hơn xưa. Càng nghĩ ngợi, Thường càng cảm thấy cần phải giúp đỡ mẹ và anh lại háo hức chờ đêm xuống để lẻn vào căn phòng làm việc thân thuộc, để thắp lên ngọn đèn dầu tù mù và ngồi đối diện hằng giờ với những bài tập chi chít những chữ số.
Thỉnh thoảng, Thường cũng gặp khó khăn, nhất là khi anh phải ngồi trước những bài tập của lớp mười một, lớp Thường đang học. Có những điều anh chưa nắm vững, thậm chí có những điều anh chưa học qua. Những lúc ấy, Thường phải tập trung đầu óc xem kỹ những bài giải đúng nhất, những bài mẹ đã chấm qua và cho tới điểm mười để ghi nhớ cách giải tối ưu nhất.
Mặc dù cẩn thận và chú tâm hết mức, đôi khi Thường không tránh khỏi nhầm lẫn, nhất là khi anh chấm những bài sau cùng, lúc mắt đã muốn díp lại mà lòng thì muốn nấn ná chấm thêm. Như mới đây, khi chấm các bài tập về giải bất phương trình mũ, không hiểu Thường trông gà hóa cuốc thế nào mà một bài giải đúng hoàn toàn lại bị anh cho điểm bốn.
Có lẽ Thường sẽ không hay biết gì về sai sót của mình nếu tối đó trong bữa ăn bà Tuệ không than thở:
- Lúc này mẹ bắt đầu lẩn thẩn rồi hay sao ấy! Một bài tập không thể nào chấm sai mà mẹ lại chấm sai! Đến khi học trò đứng dậy thắc mắc, mẹ mới biết!
Rồi bà thở dài, buồn bã:
- Trong đời dạy học, đây là lần đầu tiên mẹ bị học trò khiếu nại!
Hôm đó bà Tuệ buông đũa sớm. Có lẽ nỗi bứt rứt khiến bà không cảm thấy ngon miệng. Trong lúc đó, Thường cố tỏ ra bình tĩnh. Nhưng anh và cơm mà miệng nhạt thếch. Vẻ khổ tâm của mẹ khiến lòng anh quặn thắt. Anh hiểu, không phải mẹ lẩn thẩn mà chính anh lẩn thẩn. Chính sự nhầm lẫn tại hại của anh đã làm mẹ dằn vặt. Anh không ngờ để giúp đỡ mẹ, vô tình anh đã làm mẹ buồn lòng.
Tối đó, Thường nằm trằn trọc trên giường, lòng tràn ngập hối hận. Nửa khuya, anh thức dậy lần vào phòng làm việc của mẹ. Anh đến bên bàn với quyết tâm sẽ không để xảy ra sai sót lần thứ hai. Anh lại vớ lấy xấp bài trước mặt và lần này, trước khi hạ bút cho điểm, anh dò đi dò lại thật kỹ lưỡng.
Nhưng không phải Thường muốn là được. Một tuần lễ sau, tai họa lại ập đến. Lần này mọi chuyện xuất phát từ môn hình học với một đề toán cực kỳ đơn giản về phương pháp xác định tâm hình cầu ngoại tiếp tứ diện. Thường không hiểu tại sao anh lại quờ quạng đến mức có thể cho điểm chín một bài tập gần như vẽ sai hoàn toàn.
Sự vô ý của Thường dẫn đến việc lần thứ hai bà Tuệ bị học trò khiếu nại. Không phải nạn nhân may mắn của Thường khiếu nại mà là đứa ngồi cạnh. Bà Tuệ thuật lại tin đó trong bữa cơm và ngậm ngùi kết luận:
- Mẹ lẩm cẩm thật rồi! Chỉ trong vòng một tuần lễ, mẹ đã nhầm lẫn đến hai lần, lại là những nhầm lẫn sơ đẳng nhất!
Vẻ thất vọng hiện lên trên mặt mẹ khiến Thường ray rứt vô cùng. Anh hiểu mình đã mắc phải những sai sót khó thể tha thứ, những sai sót đã khiến mẹ đâm ra mất tự tin. Đã mấy lần, Thường định mở miệng thú thật hết mọi chuyện nhưng rồi anh cảm thấy ngần ngại. Nếu anh tiết lộ bí mật, hẳn anh chẳng còn dịp nào giúp đỡ mẹ. Chắc chắn mẹ sẽ không để cho anh tiếp tục hành động theo ý mình. Mẹ sẽ cấm. Và như vậy, anh sẽ lại tiếp tục chứng kiến sự tất bật, vội vàng của mẹ bằng ánh mắt lo âu và bất lực. Đang đắn đo nghĩ ngợi, Thường bỗng giật thót khi nghe mẹ thổ lộ:
- Có lẽ mẹ xin nghỉ dạy. Mẹ không muốn tiếp tục đứng trên bục giảng khi học trò đã bắt đầu mất tin cậy nơi mẹ. Mẹ sẽ tìm một công việc khác...
Thường không ngờ sự thể lại xoay ra như vậy. Những lời thú nhận chân thành và chua xót của mẹ khiến anh không còn một chọn lựa nào khác. Thường hốt hoảng kêu lên:
- Không, không! Mẹ không thể nghỉ dạy!
Bà Tuệ nhìn Thường bằng ánh mắt ngạc nhiên:
- Sao vậy con? Sao lại không thể? Chẳng lẽ con muốn mẹ tiếp tục lên lớp và tiếp tục phạm phải những sai sót trước mặt học trò hay sao?
- Không! Mẹ không sai sót! - Thường nói và anh nghe cổ mình như nghẹn lại - Chính con đã chấm những bài đó. Chính con đã chấm sai chứ không phải mẹ.
Trong một thoáng, bà Tuệ chẳng hiểu Thường muốn nói gì. Bà ngơ ngác:
- Con nói sao? Tại sao lại dính dáng đến con ở đây?
- Tại vì con...
- Con sao?
Biết không thể giấu, sau một thoáng ngập ngừng, Thường thu hết can đảm rụt rè thú nhận hết mọi chuyện. Xúc động, áy náy, Thường chỉ thốt được từng tiếng một. Chưa bao giờ Thường cảm thấy khó khăn khi nói chuyện với mẹ như vậy. Bà Tuệ lặng im nghe, bất động, suy tư. Ngay cả khi Thường đã nói xong, bà cũng chẳng thốt một tiếng nào. Bà ngồi như hóa đá, chẳng biết nghĩ ngợi gì, chỉ thấy trên đôi mắt vốn nghiêm nghị, khắc khổ xưa nay những giọt lệ đang lặng lẽ ứa ra và chậm rãi lăn dài trên má.
Mãi một hồi lâu, bà mới quay sang Thường và dịu dàng nói, giọng âu yếm xen lẫn trách móc:
- Cảm ơn con. Cảm ơn con rất nhiều! - Bà hắng giọng và khẽ đưa tay chùi nước mắt - Nhưng dù sao mọi chuyện cũng phải chấm dứt kể từ hôm nay. Ở đời, mỗi người đều có một bổn phận. Con phải lo học tập. Đó là bổn phận của con, Thường ạ!
- Dạ.
Thường dạ khẽ và cảm thấy nhẹ nhõm như vừa cất được một gánh nặng trên người. Thế là mẹ không quở trách gì mình! Mẹ đã bỏ qua, không những thế, mẹ còn cảm ơn mình nữa! Mẹ thật tuyệt vời! Chỉ có điều từ nay mình chẳng còn mong gì chia sẻ nỗi vất vả của mẹ nữa. Mẹ sẽ lại bương chải một mình. Mẹ sẽ gầy yếu. Tội nghiệp mẹ biết bao!

Nguồn: music.vietfun.com