Chương 3
Tất cả những bạn bè ở London của tôi đều bị sốc trước cái chết của Tanith.
Tôi gọi điện báo cho họ biết, và dĩ nhiên câu hỏi đặt ra là liệu tôi có cần giúp đỡ gì không.
Tôi muốn tự mình xem xét trong giai đoạn đầu, nhưng cũng thông báo địa chỉ để bạn bè biết cần phải tìm tôi ở đâu khi cần thiết.
Vùng quê mà người dân Pháp gọi là Bretangne có một bãi biển rất dốc ở phía Tây. Người ta gặp ở đây những vệt đá kỳ lạ, nhiều vách núi hùng vĩ, mọc thẳng đứng như những bức tường chống giữ những con sóng tràn vào từ ngoài khơi. Tôi đã biết những tảng đá tương tự như vậy ở miền Cornwalll, mà dân cư ở Bretangne cũng thưa thớt y như vùng đất anh em của nó tại nước Anh. Có những bãi biển rất dài hoàn toàn chẳng có một ngôi làng nào, chỉ lâu lắm mới có một trang trại cô đơn, hoặc nhô lên một thành lũy rất cổ. Một mảnh đất tuyệt vời với những người yêu thiên nhiên, cô độc mang đạm dấu ấn của ngọn gió tây.
Một mảnh đất thấm đẫm những huyền thoại bí ẩn.
Từ Paris, tôi thuê một chiếc xe và cùng nó đi về hướng Tây.
Trước mắt tôi là một bài toán khó. Tôi phải tìm cho ra ngôi nhà nơi người họa sĩ đó đang sinh sống. Nó không nằm trong một ngôi làng, mà cũng chẳng nằm trong thị trấn. Chắc chắn người đàn bà này sống trong một ngôi nhà hẻo lánh bên cạnh những vách đá, để có thể toàn tâm toàn lực phục vụ cho công việc của mình.
Chiếc Ranault ngoan ngoãn thực thi nhiệm vụ, nhưng tôi bỗng thấy mệt mỏi và sau một vài tiếng đồng hồ đi đường, tôi quyết định nghỉ đêm trong một ngôi làng bên đường.
Chắc nó phải nằm ở giữa khoảng đường từ Paris xuống Bretangne. Đêm đó tôi ngủ không yên. Cái chết của Tanith là một đòn quá mạnh, và đến ngày hôm sau, tôi tiếp tục lên đường với một cơ thể và trí óc mệt mỏi.
Thời tiết tỏ ra hiền hòa. Thật ra tôi đã tính là trời sẽ mưa, nhưng thay vào đó, tôi càng đi về phía tây bao nhiêu thì trời càng sáng ra bấy nhiêu.
Khung cảnh hai bên đường trở nên hẻo lánh, cô đơn hơn. Những ngôi làng nhỏ hay những nhóm nhà mỗi lúc một trở nên thưa thớt, những khu đất bằng và trống trải nhiều khi trải rộng tới tận chân trời.
Ngang bên đường, tôi nhìn thấy những con cừu, những đàn bò và những cánh đồng trồng lương thực rất lớn, chúng chuyển động trong gió như một bãi biển khổng lồ. Mặt trời bây giờ ló ra, lộng lẫy sáng rỡ giữa không trung. Những tia nắng chiếu thẳng vào bên trong chiếc Renault nho nhỏ.
Ngôi làng có tên là Pont-Even. Nó là địa phương nằm gần mục tiêu của tôi nhất. Tôi địng dừng xe lại ở đó để hỏi đường đi.
Qua một cây cầu cổ lỗ bằng đá và sau đó là những đoạn đường lót gạch, tôi lăn bánh vào thôn Pont-Even.
Người dân ở đây có vẻ thô kệch và kín đáo. Tôi nhận ngay ra điều đó khi bước vào một quán rượu. Khách ngồi chẳng đáp lại câu chào hỏi của tôi, chỉ chăm chăm chú ý đến món ăn và thức uống của họ.
Tôi gọi một tách cà phê lớn. Phải hỏi đến lần thứ ba, tôi mới được người ta chỉ đường đi.
Câu trả lời của người bồi bàn nghe thấp thoáng màu sắc cấu kỉnh, khó chịu.
Hình như người họa sĩ đó không được ai yêu mến.
Tôi hỏi nguyên nhân.
– Đó là người lạ. – Người ta chỉ trả lời đơn giản như vậy thôi. Ngồi thêm một chốc, tôi trả tiền rồi đi tiếp.
– Tôi không gặp khu cư dân nào nữa. Con đường nằm như một mảnh vải mỏng manh giữa một khung trời xanh tươi, mỗi đoạn một thấm đẫm nhiều hơn những màu sắc của biển cả.
Cỏ không còn mơn mởn nữa. Trông chúng đã ngả màu rơm.
Con đường dốc nhẹ lên trên. Tôi đã mở một cửa sổ xe. Không khí bên ngoài bây giờ có mùi vị khác lạ. Nó vừa tươi hơn, thoáng đãng hơn vừa đậm mùi muối. Thấp thoáng xa xa đã vang lên tiếng gào của sóng biển.
Chiếc Renault nhảy chồm chồm qua một con đường đất. Nhựa đường ở đây là thứ hàng cao cấp mà người dân không biết tới. Thích thoảng đã hiện ra một vài tảng đá khổng lồ. Những khối đá sáng màu, to bằng cả một ngôi nhà, tựa như được bàn tay của kẻ khổng lồ thuở trước vung tung tóe xuống mảnh đất này.
Chiếc xe lăn bánh về hướng một khoảng đất bằng phẳng.
Mặt trời mùa hè phủ xuống vạn vật làn ánh sáng mờ. Ánh phản quang của nó phủ lên lớp cỏ mỏng màu nâu xanh trông như mái tóc vàng và dài của một cô gái trẻ, mái tóc đang được chải không phải bằng lược mà bởi những ngọn gió.
Chẳng bao lâu sau, việc lái xe trở thành khó khăn. Đất bây giờ lẫn lộn quá nhiều cát, khiến bánh xe rất khó quay. Nhưng máy xe đã cặm cụi làm nhiệm vụ của nó và cuối cùng tôi cũng đến được khoảng đất bằng phẳng nọ.
Khoảng đất bằng phẳng này có độ rộng của một sân bóng đá. Không thể đi tiếp được, tôi dừng lại và bước ra khỏi xe. Ngay lập tức, làn gió tới đón tiếp tôi.
Nó thổi từ phía trước, hất ngược mái tóc và mang theo vô vàn những hạt cát nhỏ li ti, phủ lên mặt, bám vào da vị khách mới tới.
Tôi ngửi thật rõ mùi vị của mảnh đất xung quanh, hít nó vào phổi, và bước đến bên rìa vách đá.
Sau mỗi bước chân, tiếng gầm gừ và vật vã của những ngọn sóng lại mạnh hơn lên. Khi đã đến bên rìa đất và nhìn xuống dưới, tôi thấy những con sóng đang nổi bọt. Chúng lồng lộn đập vào vách núi như một con thú dữ luôn luôn tìm cách tấn công trở lại, mặc dù lần nào cũng bị chặn ngang. Những tia nước bắn vọt lên thật cao, và khi ánh nắng mặt trời chiếu qua đó, chúng tạo thành những vệt cầu vồng yếu ớt.
Một khung cảnh giành cho các nhiếp ảnh gia. Đằng xa kia là Đại Tây Dương. Một sa mạc nước dài vô tận. Xám xịt, dập dềnh, thỉnh thoảng có gài những chiến lược bằng bọt trắng.
Ngôi nhà ở đâu?
Khi nhìn về bên phải, tôi thấy một cái vịnh nhỏ. Hai vách đá nhô về phía trước, che chở ngôi nhà trước tính khí cuồng nộ của biển, và lấy đi ba phần sự hung hãn của sóng bể, chỉ còn lại những làn nước tương đối yên tĩnh chạy hiền hòa lên một bải cát.
Nhìn từ vị thế này, tôi trông thấy một dáng người trông chỉ như một chấm nhỏ vô cùng tận. Tôi nhìn thấy nó chạy ra khỏi những cơn sóng, rồi nằm xuống làn cát. Chỉ khi nheo mắt nhìn thật kỹ, tôi mới phát hiện ra một mái tóc thật dài và biết đây là một cô gái.
Có phải đó là Fedora?
Có lẽ. Tôi tìm đường leo thẳng xuống, nhưng gò đất quá dốc. Vì vậy, tôi quyết định quay trở lại xe, tin rằng mình đã đi lầm đường. Tôi cho xe lùi một đoạn, rồi quả thật tìm thấy con đường thứ hai, nối vào con đường thứ nhất.
Theo cái nhìn dự đoán đầu tiên, con đường mới này có lẽ sẽ hướng về nơi tôi đã nhìn thấy con vịnh nhỏ và một bãi cát mịn.
Quả tôi đã không lầm. Con đường không dẫn lên một tầng đất cao hơn, mà chạy thoai thoải xuống dưới. Nó uốn vòng như một con rắn về hướng biển, rồi cuối cùng đổ vào cái vịnh nhỏ mở ra trước mặt tôi một hình bán nguyệt.
Ngay lập tức, tôi cũng nhìn thấy ngôi nhà. Trước khi tới đây, tôi cứ nghĩ là mình sẽ gặp một ngôi nhà cũ, cổ lỗ. Nhưng bây giờ tôi bất ngờ trước hình dáng hiện đại của nó. Người ta đã sử dụng gỗ làm chất liệu xây dựng chính. Trước mắt tôi bây giờ, tức là phía đằng sau ngôi nhà, là một nửa mái nhà lợp ngói rất dốc. Lên tới đỉnh, mái gập về phía bên kia một chút, có hình dáng gần giống như một chiếc Bungalow. Tôi nhận ra điều đó khi lái xe đi ngang ngôi nhà, qua một khoảng vườn nhỏ.
Con đường dẫn xuống bãi biển hòa vào một nền cát mịn. Tôi cho xe lăn bánh đến vách đá cao chắn gió rồi tắt máy. Bước khỏi xe, tôi tiến lại gần ngôi nhà.
Hiên nhà hướng về phía biển, cửa đang mở. Tôi nhìn vào trong và phát hiện ra một căn bếp cùng một phòng khách rất rộng, được trang hoàng trông ấm cúng và có vẻ vững chãi.
Không một bóng người.
Tôi nhớ lại cô gái mà tôi đã nhìn thấy từ gò đất trên cao. Chắc chắn cô ta vẫn còn ở bãi biển kia. Tôi quyết định tới gặp và hỏi thăm cô ta bởi không thể tự nhiên bước chân vào một ngôi nhà lạ.
Tôi bước đi chầm chậm qua bãi cát, rồi phát hiện cạnh một túp lều hình nấm bằng khung gỗ lợp rơm một vài phần trang phục. Vẫn không thấy bóng dáng của cô gái.
Chỉ tới khi những làn sóng trào tới đã gần chạm vào người, tôi mới dừng chân lại. Ánh nhìn lướt qua mặt nước, những làn sóng của nó phản chiếu ánh mặt trời và khiến tôi lóa mắt. Cánh tay người vẫy thật khó nhận ra.
– Này ông, ông muốn đi đâu vậy? – Giọng nói ném câu hỏi về phía tôi còn rất trẻ, trong vắt, và chỉ sau đó một thoáng, một cô gái rất trẻ bước lên từ mặt nước, có vẻ như cô chẳng quan tâm tới chuyện một người lạ đang nhìn cô lõa thể.
– Thở dồn dập, cô bé dừng lại trước mặt tôi và giơ tay vắt tóc.
– Ông muốn đến thăm chúng tôi hay sao?
– Vâng, tôi tìm Fedora ...
– Đó là mẹ tôi. – cô gái nhanh nhảu nói và đưa bàn tay còn ướt cho tôi bắt. – Tôi là Lisa Golon, con gái Fedora.
– Tôi tên là John.
– Nghe như tên của người Anh.
– Đúng vậy. – Tôi nhìn thấy làn da cô bé đang dợn lên vì lạnh. – Cháu không muốn mặc quần áo vào sao?
– Thế thì tốt hơn. – Cô bé cười và chạy ngang người tôi, hướng về túp lều bằng nấm, cầm lấy chiếc khăn bông và lau khô tóc. Sau đó, cô mặc quần áo vào.
– Chú muốn gặp mẹ cháu làm gì? – Cô bé hỏi khi nhìn thấy tôi bước vào dưới mái che.
– Chú muốn nói chuyện với bà ấy.
– Về chuyện gì? - Cô bé đột ngột cười vang. – Nhưng cháu nghĩ ra rồi, chắc chú quan tâm đến những bức tranh của mẹ cháu. Đúng không nào?
– Có lẽ thế!
Cô bé nhún đôi vai mỏng manh.
– Nhưng cũng có thể chú muốn bàn chuyện làm ăn với ba cháu? Nếu thế thì chú phải chờ lâu đấy. Tối nay ba cháu mới về.
– Không, không, chú chỉ muốn nói chuyện với mẹ cháu thôi. Kể cả về Paris!
– Tôi thêm vào câu cuối cùng.
– Ô! Hay quá, thành phố đó rất đẹp. Mẹ cháu vừa ở Paris về đấy.
– Chú biết!
– Chú có gặp mẹ cháu ở đó không?
– Không, nhưng cả hai chúng tôi cùng quen một người. Bà ấy tên là Tanith.
Cháu đã nghe thấy cái tên này chưa?
Lisa không mang giày. Cô bé thò ngón nhân cái sục cát lên, suy nghĩ.
– Chưa, cháu không quen bà nào tên Tanith cả. Bà ấy sống ở đâu ạ? Có phải ở Pont-Even?
– Không, ở Paris.
– Ra thế. – Cô bé cười. – Chú biết không, chú John, cháu chẳng mấy quan tâm đến việc làm của mẹ cháu đâu. Cháu không thích những bức tranh đó.
– Tại sao cháu lại không thich chúng?
Cô bé tiếp tục thò ngón chân xoay xoay trong cát.
– Sao cháu thấy chúng u ám và bi quan quá.
– Có phải mẹ cháu cũng vậy không?
– Mẹ cháu có thể thuộc loại người hướng nội, ít nhất là khi bà vẽ tranh.
Nhưng lúc khác thì và rất bình thường. – Lisa cười. – Chú đã vào nhà chưa? – Cô bé hỏi tôi.
– Chưa, tại chú không nhìn thấy mẹ cháu.
Cô bé xoay người.
– Kỳ thật. Mẹ nói là sẽ ngồi đó chờ và nấu ăn cho cháu.
– Nhưng chú cũng chỉ mới nhìn qua hàng hiên thôi.
– Thế thì chắc mẹ đang ở phòng khác. Đi nào, chú John, ta vào nhà thôi! – Cô bé giơ tay vẫy tôi và đi trước.
Tôi nhìn sau lưng cô bé. Hai cánh tay cô chuyển động nhịp nhàng cùng với mỗi bước đi, thế rồi đột nhiên, tôi nhìn thấy một vệt thẫm màu trên hai bàn tay đó. Cái thứ thẫm màu ấy chảy dọc theo những ngón tay, tụ lại nặng lên, và chỉ một nửa tích tắc sau, nó nhỏ những giọt đầu tiên xuống cát.
Để lại những vệt màu đỏ.
Máu!
Chương 4
– Lisa! – Tiếng gọi gắt gao của tôi khiến cô bé dừng phắt lại.
Đột ngột, tôi cảm nhận được một sự thay đổi kỳ lạ. Mặc dù tôi vẫn đứng trên bãi biển, nhưng mọi chuyển động tại sao đều chậm hẳn lại một cách bí ẩn.
Tôi nhận ra điều đó khi Lisa xoay người lại phía tôi. Toàn bộ chuyển động như bị khuấy đảo. Tôi có cảm giác cô bé như một vũ công balet đang trôi bồng bềnh trên một đám mây, giơ hai tay ra và máu phủ trên hai bàn tay cô đã bị lực ly tâm xoay rộng ra ngoài. Những giọt máu tiếp tục vẩy xuống cát.
Thế rồi chỉ một tích tắc sau đó, mọi việc trở lại bình thường. Lisa nhìn tôi.
Cả khuôn mặt cô bé bây giờ là một câu hỏi lớn, cô nói:
– Tại sao chú lại gọi cháu?
– Tôi giơ tay chỉ xuống hai bàn tay cô, muốn nói một câu gì đó nhưng rồi kịp nuốt những lời đó xuống họng. Thật vô lý. Hai bàn tay nhìn rất bình thường.
Suýt nữa thì tôi đã bị bẽ mặt.
– Thôi được rồi! – Tôi khẽ nói.
– Không mà, hình như đã có chuyện gì xảy ra!
– Chú nhìn nhầm thôi. Thôi quên đi, cô bé.
– Thôi, tùy ý chú. Nhưng mà kỳ lạ thật!
– Ừ chú cũng thấy thế. – Câu trả lời thật ra tôi dành nhiều hơn cho bản thân mình, bởi tôi biết rất chính xác là mình không nhìn lầm. Rõ ràng lớp máu kia đã tồn tại và pháp thuật từ phía đối chọi thậm chí khiến cho cây thánh giá thần đeo trên ngực tôi nóng lên. Vậy là một nguồn điện pháp thuật đã chạm vào nó. Nó quá đủ là một bằng chứng, cho biết chuyến đi của tôi về đây không hoài phí.
Hai chúng tôi bước lên hàng hiên. Hàng hiên có che mái để gia đình kể cả khi trời mưa vẫn có thể ngồi được ngoài này. Nó được bao bọc bằng một hàng rào lửng tạo bằng những mảnh gỗ sơn trắng. Hai chiếc ghế dài được mở ra cũng như một chiếc ghế bành, cho thấy gia đình Golon khi đi mua sắm hoàn toàn chẳng cần quan tâm đến giá cả.
Gió đã mang cát lên tận hàng hiên. Nó kêu sào sạo dưới những bước chân của chúng tôi.
Cô bé là người đầu tiên bước vào nhà. Cô bé dừng lại trong căn bếp hoàn hảo và cất tiếng gọi mẹ.
Lisa gọi rất lớn, chắc chắn người ta phải nghe rõ, kể cả người đứng ở tầng trên.
Nhưng không có câu trả lời. Cô bé quay về phía tôi, nhún vai:
– Cháu không biết chuyện gì đã xảy ra. - Lisa nhìn về hướng bếp. – Nồi súp vẫn còn sôi đây này. – Cô nói và đi tới bếp, tắt lửa. – Có lẽ mẹ cháu lại vẽ nữa rồi.
– Nhưng cháu gọi rất lớn mà.
Lisa phẩy tay.
– Lúc vẽ mẹ cháu quên cả trời lẫn đất. Để cháu đi xem nhé?
– Được thế thì rất tốt!
Đúng vào lúc cô bé muốn quay người đi thì cả hai chúng tôi cùng nhận thấy chấn động. Nó đến thật đột ngột. Đất dưới chân chúng tôi rung chuyển. Những cơn địa chấn nối tiếp nhau như từng đợt sóng cuộn đến khiến cho bát đĩa kêu lên loảng xoảng trong tủ bếp. Lisa thét lớn lên, lao mình vào tay tôi.
Tôi ôm lấy cô bé và giữ chặt lấy cho tới khi cơn chấn động qua đi.
Lisa đứng thẳng người dậy.
– Cháu xin lỗi chú. – Cô bé thì thào. – Nhưng cháu không hiểu được. Có cái gì kỳ lạ quá!
– Chuyện này có xảy ra thường xuyên không? – Tôi hỏi.
– Không chưa bao giờ cả!
– Thế thì theo chú, tốt nhất là ta nên đi tìm mẹ cháu đi. Có vẻ như ở đây đang có một vài chuyện hỗn độn.
– Cháu cũng tin như vậy. – Cô bé thành thật thú nhận với tôi rồi nuốt khan một vài lần.
Tôi đã quan sát cô bé rất kỹ. Qua phản ứng của cô, tôi biết cô hoàn toàn chẳng biết gì cả. Cô cũng chẳng nhận ra được vệt máu trên tay. Còn bản thân tôi thì có cảm giác mình đang từ từ chìm vào một vòng xoáy nguy hiểm của Pháp Thuật Đen – Đi nào. – Tôi nói. – Dẫn chú vào phòng mẹ cháu đi!
Lisa gật đầu và bước đi trước. Tôi nhìn rõ hai cánh tay cô bé đang nổi da gà.
Nét vui vẻ hồn nhiên của tuổi thiếu nữ đã bỏ ra đi.
Chúng tôi ra khỏi căn bếp, đi dọc theo một khúc hành lang hẹp, và cuối hành lang hiện ra một cầu thang bằng gỗ. Cầu thang dẫn lên tầng trên. Lisa đi rất nhanh. Đôi bàn chân trần của cô bé dẫm lên những bậc thang, tôi chậm rãi bước theo cô.
Nếu mẹ cô ở trên này, tôi nên để Lisa có thời gian báo cho bà biết, để người phụ nữ có thể chuẩn bị cho vị khách mới tới.
Điều đó không xảy ra.
Cô bé bước vào một căn phòng, rồi lên tiếng gọi tôi:
– Chú vào đây, chú John.
Có một cánh cửa mở toang. Đó là cửa dẫn vào phòng vẽ. Nó nằm ở phía sau của ngôi nhà. Một khung cửa sổ rất rộng mở thẳng ra hướng biển và tạo thành một góc vuông với mái nhà bằng. Những ai đứng trước khung cửa rất rộng này có thể quan sát bao quát toàn bộ bãi biển và nhìn ra rất xa trong vịnh.
Chẳng thấy một dấu vết nào của Fedora Golon. Thay vào đó, tôi được ngắm những bức tranh của chị ta. Chúng được treo dọc theo hai bức tường không cửa sổ. Một số được dựng bên dưới, sat nền phòng. Tôi đi chậm chậm dọc những bức tranh, quan sát.
Lisa đã nói rất đúng. Đây không phải là thứ giành cho những con người lạc quan, vui vẻ, Fedora Golon làm việc với những tông màu u ám. Chị ta thường vẽ phong cảnh, tĩnh vật mang đậm sắc mùa thu. Những thân cây quằn quại trong bão, những cành cây xương xẩu đang uốn mình trong gió, những núi mây dày cộm đang tấn công bầu trời.
Còn những bức tranh khác lại gây ấn tượng như những hình ảnh được lấy từ những chuyện cổ tích u ám. Có những con người đang chạy trốn trong nỗi sợ hãi tột cùng trước những thế lực ma quỷ nào đó, hoặc bay thẳng vào những địa ngục lửa, và bị thiêu sống. Một bức tranh nhắc nhở tới những chiều thời gian lạ đã có lần tôi lạc vào. Nhắc tới một mảnh đất lẽ ra không được tồn tại. Những con chim vẽ trong tranh thật giống với những thứ mà tôi đã chứng kiến nơi đó; những vật thể hình dạng rồng, đang uốn lượn trên một bầu trời tăm tối.
Lisa nhìn tôi.
– Chú có thích chúng không, chú John?
– Không, thật ra thì ... - Những từ ngữ tiếp nối bị giật vụt ra khỏi đôi môi tôi bởi một tiếng động rất mạnh và đột ngột. Cả hai chúng tôi giật nảy người lên.
Thế nhưng không có hiểm họa. Chỉ cánh cửa bị gió đập sập vào ổ khóa.
Lisa giơ một bàn tay áp lên ngực.
– Trời đất, cháu sợ quá! Hôm nay sao cháu hay hoảng hốt đến thế nhỉ?
– Tôi chuyển đề tài.
– Mẹ cháu bây giờ có thể ở đâu nhỉ?
– Có lẽ dưới tầng hầm.
– Bà ấy vẽ ở dưới đó sao?
– Không, cháu nghĩ là không. Nhưng nếu hai chú cháu không thấy mẹ cháu ở tầng trệt cũng như ở trên lầu này thì chỉ còn lại tầng hầm thôi.
Thật ra cô bé có lý.
– Cháu sợ cái tầng hầm đó lắm. – Lisa khe khẽ nói cho tôi biết.
– Cháu mà sợ à?
– Vâng, tầng hầm đó rất là khác. Nó rất kỳ lạ. Chú có biết không, thật ra nó chẳng thuộc về nhà cháu, mà đã có từ rất lâu rồi. Ít nhất thì cũng là những bức tường. Khi tạo ngôi nhà này, ba mẹ đã để nguyên như vậy mà xây lên trên.
– Thế còn bây giờ?
– Nó được dùng làm nơi chứa rượu vang.
Đầu lưỡi tôi cháy lên trong câu hỏi, liệu bà họa sĩ có phải là một đệ tử ma men không lộ mặt. Nhưng may mà tôi kịp thời nuốt câu hỏi xuống.
– Vậy thì ta xuống tầng hầm xem thử đi! Hay là cháu sợ cả chú nữa?
– Không đâu!
– Sao chú lại vinh dự vậy?
Mặt Lisa đỏ lên.
– Chú biết không, chú John, cháu thường nhận ra điều đó trong ánh mắt của người khác. Lúc ban nãy ở bãi biển, cách chú nhìn cháu bước ra khỏi mặt nước thật khác với kiểu nhìn của đám con trai hoặc của những người đàn ông ở đây.
Nó rất ... - Cô bé nhún vai. – Ánh mắt rất đàng hoàng.
– Tôi bật cười.
Cháu tinh mắt thật đấy, Lisa. – Vừa nói, tôi vừa cố ném một cái nhìn cuối cùng về hướng những bức tranh.
Chính trong tích tắc đó, tiếng hét của cô bé như giật chuông báo động!
Nguồn: docsach.mobi