Chương 4
Con chó cái nằm ở gậm phản bỗng chốc vẫy đuôi rối rít, tỏ ra dáng bộ vui mừng.
Anh Dậu lữ thử từ cổng tiến vào với cái vẻ mặt xanh ngắt và buồn rứt như kẻ sắp
bị tù tội.
Cái Tý, thằng Dần cùng vỗ tay reo:
- A! Thầy đã về! A! Thầy đã về!...
Mặc kệ chúng nó, anh chàng ốm yếu im lặng dựa gậy lên tấm phên cửa, nặng nhọc
chống tay cào gối và bước lên thềm. rồi lảo đảo đi đến cạnh phản, anh ta lăn
kềnh lên trên chiếc chiếu rách.
Chị Dậu ôm con vào ngồi bên phản, sờ tay vào trán chồng và sẽ sàng hỏi :
- Thế nào? Thầy em có mệt lắm không? Sao chậm về thế? Trán đã nóng lên đây mà!
Anh Dậu nằm thừ không cựa, cũng không trả lời. Chị Dậu lại gặng :
- Chắc thầy em mệt lắm thì phải? Từ sáng đến giờ đi những đâu? Hỏi vay của ai?
Vắt tay lên trán, anh Dậu thở một tiếng dài và cất cái giọng lề dề của người ốm
:
- Tôi lên nhà lão Hội Ích.
- Có được đồng nào hay không?
- Chẳng được gì cả. Tôi cũng biết cái thằng già ấy nó bẩn như chó, mình đả mắc
nợ của nó, chẳng khi nào nó lại cho mình vây thêm. Nhưng vì bí quá cho nên phải
nhắm mắt đi liều. Quả nhiên mới cất miệng hỏi, nó đã mắng sấm xơi sới, rồi lại
dọa rằng : Ba đồng cầm đất cầm nhà, lãi mười hai phân, đến tháng sáu này thì
vừa hết hạn, tính thành ra năm đồng một hào sáu xụ Nếu không trả được nó sẽ cắm
cả nhà đất để làm chuồng xí .
Chị Dậu cau đôi lông mày:
- Trời đất ơi! Cắm cả nhà đất để làm chuồng xí! Ăn nói như thế thì còn trời đất
nào nữa?... Thế sao thầy em không đến ông cậu hỏi tạm lấy một đồng vậy?
- Có! Tôi có hỏi! nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Ông ấy nhiếc mãi vợ chồng sức
dài, vai rộng mà có vài ba đồng bạc tiền sưu cũng không chạy nổi...
Chị Dậu giậm chân xuống đất :
- Khốn nạn! Ấy ông cậu đấy! Ông cậu giàu có nứt đổ lá vách, cả đời cháu mới hỏi
vay mấy đồng, còn nỡ nhiếc móc như thế, trách chi người ngoài!... Thế bây giờ
thầy em đã định hay chưa?
Anh Dậu nín lặng một hồi, rồi lại thở dài tiếng nữa :
- Tôi đã nói với cụ Nghị Quế ở thôn Đoài... hay là bán quách...
Đương nói giở câu, anh Dậu ngập ngừng lại thôi, như có vật gì nghẹn ở cổ họng.
Chị Dậu cố gắng:
- Bán quách cái gì? Thầy em cứ nói, ở đây có ai mà sợ!
Anh Dậu đơm dớm nước mắt :
- Hay là bán quách cái Tý cho cụ ấy?
Chị Dậu cũng nước mắt chảy qua gò má dòng dòng. Chị cứ cúi gầm mặt xuống, không
biết trả lời ra sao. Cái Tý nghe thấy ru,ng rời củ khoai trong tay, vội vàng
đứng lên năn nỉ :
- Con van thầy! Con van U! thầy u để con ở nhà chơi với em con. Con van thầy!
Con van U! Thầy U đừng đem bán con.
Thằng Dần nhả vội miếng khoai trong miệng, và sụt sịt khóc:
- Em không, nào! Em không, nào! em không cho bán chị Tý nào! Có bán thì bán cái
Tỉu kia kìa!
Anh Dậu cũng như chị Dậu, ai náy sè sẽ gạt thầm nước mắt và cũng giả cách làm
thinh.
Cái Tý vẫn bai bải van như tế sao, một hai xin thầy u đừng bán nó đi, tội
nghiệp cho nó.
Chừng như cầm lòng không đậu với những lời ngây thơ và thê thảm của con bé
ngoan ngoãn. Chi.
Dậu xoa suýt cái Tỉu và yên ủi cái Tý:
- Không! Thầy con nói đùa ấy thôi! Bán con thì lấy ai ẩm con bé này cho u đi
làm?
Cái Tý vui vẻ ngồi vào cạnh đống rễ khoai, nó lại hý hoáy bới bới nhặt nhặt.
Một bầu không khí tẻ ngắt bao phủ cả mấy gian nhà, người ta có thể nghe rõ
tiếng dập ở hai trái
tim của hai vợ chồng anh trai cùng.
Ngoài đường có tiếng chó sủa xô xát. Rồi tiếng roi quất vào vách đèn đẹt. Rồi
tiếng người hỏi dữ dội:
- Đĩ Dậu có nhà đấy không?
Chị Dậu lật đật bỗng con bé con ra cổng đuổi chó. Anh Dậu cũng ngồi nhỏm dậy và
ngó ra sân.
Người nhà Lý trưởng nghênh ngang múa chiếc tay thước với sợi dầy thừng, đưa ông
Cai lệ và cây
roi song hùng dũng bước vào trong cổng. Hai người cùng ra oai giộ con chó cái
và cùng nhẩy lên thềm. Phủ đầu, ông Cai lệ chỉ cây roi vào mặt anh Dậu và quát
:
- Sưu đâu? Sao không đem nộp? Người ta vào hỏi vẫn còn ngồi ỳ ra đó!
Anh Dậu lẩy bẩy đứng dậy. Cái mặt xanh xao khi ấy đã đổi ra sắc tái mét. Run
run, anh sẽ giơ tay gãi tai :
- Thưa ông, tôi chưa có.
Ông Cai lệ thị hùng bằng hai con mắt giương tròn:
- Cả năm chỉ có hai đồng bảy hào tiền sưu, bây giờ anh vẫn chưa có bao giờ anh
định mới có?
Với cái dáng điệu có vẻ van lơn, anh Dậu hổn hển thở và đáp :
- Thưa ông, vì tôi đau yếu, nên chưa lo kịp, xin ông thư cho đến mai. Thuế còn
năm bữa nữa mới đăng trường kia mà!
- À! thuế còn năm hôm nữa mới đăng trường, cho nên anh không nộp vội, phải
không?
Hỏi vậy nhưng ông Cai lệ không để cho kẻ bị hỏi được có thời gian phân trần.
Nhanh như cắt, ông chuyển phắt cây roi song sang tay trái và nắm chặt năm ngón
tay phải, đưa luôn vào ngực anh Dậu một mớ quả thụi. Cái thụi chuyên môn của
người công khác hẳn thứ thụi phổ thông của thường dân. Anh Dậu chỉ ức ức mấy
tiếng, chứ không thể kêu lên được. Thuận tay, ông Cai lệ túm lấy cổ áo anh Dậu
và ngảnh lại bảo ông người nhà lý trưởng;
- Thừng đâu? Trói cổ nó lại. Có một suất sưu bây giờ chưa nộp lại còn chực giở
lý sự?
Tức thì hai người xúm lại, mỗi người nắm một cánh tay anh Dậu bẻ quặt ra đằng
sau lưng, rồi luồn thừng vào và riết thật chặt. Họ trói anh chàng khốn nạn
giống kiểu như nhà quê trói chó để làm thịt vậy.
Thằng Dần òa khóc :
Cái Tý mếu máo nhếch nhác, chạy đến cạnh ông Cai lệ, chắp tay vái lấy vái để :
- Cháu lạy hai ông! Hai ông tha cho thầy cháu. Hai ông đừng trói thầy cháu!
Sẵn cây roi trong tay, ông Cai lệ quất luôn cho nó mấy cái vào đít và quát :
- Bước ngay!
Con bé đau quá. Nó lăn đành đạch xuống đất và nó rẫy rụa như con gà phải nước
nóng. Thằng Dần càng khóc dữ.
Ông Cai lệ đương cơn thịnh nộ, lại thẳng tay giơ cay roi song, toan trừng phạt
thằng bé này. Chị Dậu lếch thếch ôm con bé con chạy vào :
- Thôi. Tôi xin ông Cai! Ông tha cho cháu... Chúng nó hãy còn bé bỏng.
Lời nói tiết tha của người đàn bà có duyên vẫn có đôi chút hiệu lực. Thằng bé
ngây thơ đã được ông Cai ân xá.
Ngảnh lại thấy chồng bị trói chặt quá, mặt mũi nhăn như chuột kẹp, chị Dậu lạ
dẽ dàng kêu van ông Cai :
- Nhà tôi đương ốm... Xin ông làm phúc nới rộng nút thừng ra cho!
Lần này không có kết qủa, những lời nằn nì của chị chỉ được ông Cai đáp lại
bằng một giọng oai nghiêm :
- Không phải nới! Trói thế cũng chưa chết nào! Mà có chết nữa, chồng chị càng
khỏi đóng sưu.
Anh Dần nói xen :
- Nhưng tôi đau quá... xin ông hãy nới lỏng ra cho tôi một tý. Nào tôi có chạy
mất đâu!
Ông Cai lệ nổi cơn lôi đình, tặng luôn anh Dậu năm bảy cái tát vào mặt và hằm
hè:
- Bướng với ông à. Mày có tội thì ông mới trói. Lại còn bướng với ông à!
Chị Dậu nhìn ông Cai lệ bằng đôi con mắt đỏ ngầu:
- Thôi, tôi cũng lạy ông nữa! Chẳng qua nay mai đủ thuế thì thôi, làm gì ông
phải hành hạ chồng tôi quá vậy? Có đánh thì ông cứ đánh tôi này. bao nhiêu tội
tôi xin chịu cả. Chồng tôi đau ốm chẳng làm nên tội.
- À! Mày thách ông phải không? Hừ! Thấy ông nể mặt mày càng làm già! Được! Ông
thử cho mày biết tay! Này thách! Này thách! Này thách!!!
Mỗi tiếng này thách từ miệng ông Cai đã đưa ra, chị Dậu lại được hai ba quả
thụi vào ngực.
Đứng không vững, chị này ngã phịch xuống đất. Cái Tỉu nằm trong lòng mẹ khóc
ngặt khóc nghẻo. Cái Tý, thằng Dần mỗi đứa nấp một xó cột nhìn trộm bố mẹ phải
đòn. Cả hai đứa cùng nức nở khóc không ra tiếng.
Người nhà Lý trưởng chỉ cái tay thước vào mặt chị Dậu :
- Không thấy người nào lắm đều như chị. Nếu nhà ai cũng bướng như nhà này, có
lẽ thuế của nhà nước đến bỏ. Thôi! Đứng dậy mà đi chạy sưu cho chồng, đừng ngồi
ăn vạ đây nữa!
Rồi hai ông hằm hằm túm lấy đầu thừng, sền sệt điệu anh Dậu xuống thềm. Tới
cổng, anh chàng khốn nạn quay lại dặn vợ :
- U nó để cái Tỉu ở nhà, sang ngay bên cụ Nghị Quế cho tôi...
Chương 5
Bước vào khỏi cổng thôn Đoài, đã thấy nhà ông Nghị Quế.
Nó là một đám bung xung nhọn như ngọn tháp, hùng dũng úp trên đoàn bịch vừa đồ sộ, dường như
phô nhà mình thóc để hàng bốn, năm mùa.
Nó là một lũ đốn rơm, đốn ra. lớn bằng trái núi, chen nhau đứng bên cạnh ngọn mít, ngọn sung, dường như khoe ông chủ cầy cấy đến mấy trăm mẫu.
Nó là những tòa mái ngói muốn bảo tồn quốc túy bằng những đấú vuông tròm trõm, những sôi tầu cong rướn và những con cá chép mảnh sứ há miệng nằm giáp tường hồi.
Nó là một ngôi dương cơ rộng chừng ba mẫu, quây quần trong bốn bức tường gạch cắm mảng chai, cảnh tượng phức tạp, giống như ngôi chợ đóng trong khu trại, họp đủ các vật sang, hèn, các kiểu cũ, mới.
Cái cơ nghiệp ấy tuy tự tổ tiên để lại, ông Nghị cũng có khai thác thêm nhiều.
Ông không đi buôn, không đi thầu, chỉ làm ông chủ ruộng kiếm ông chủ thả lãi.
Đụng đến của ông nhẹ nhất cũng là mười phân. Và vay từ một đồng trở lên, đều phải viết ruộng
hay nhà, hoặc phải gửi vật gì khác làm đồ bảo đảm. Qúa hạn thì mất. Dương cơ ông ở cũng nhờ ruộng nương ông cấy, hạc đồng, lọ sứ ông thờ, phần nhiều là của những người vay nợ hết hạn không trả, bị Ông chiếm lấy và bắt lấy.
Nhà ông đời đời phát phát về bên hào. Bước đường công danh của ông cũng bắt đầu từ chức Lý trưởng vượt qua những bậc Phó tổng, Chánh tổng rồi, cơm rượu, bò lợn và quan phủ, quan tỉnh hiệp sức vó nhau đưa ông lên ghế nghị viên.
Không như những kẻ mặt người dạ thú, mượn tiếng thay mặt dân để hót Chánh phủ mà xin xỏ việc này việc kia, ông ra nghị trường, chỉ cốt mua cái vị thứ tân thờí, lấy chỗ mỗi năm vài lần, ăn uống và... ngồi nằm với bọn tai mặt trong xứ.
Cái đức không thèm biết... chữ của ông hơn hẳn các bạn đồng viện, tuy những ông ấy chỉ xuất thân bằng nghề lái lợn hay cai phụ Vào viện ông cũng như hầu hết các ông nghị khác, không bàn và không cần nghe ai bàn. Nhưng, ông cũng chỉ ngáp vặt, chớ không ngủ gật bao giờ, vì sợ đôi giầy chí long để dưới chân ghế lỡ bị mất trộm trong khi ông phải co chân đặt lên mặt ghế cho hợp thói quen của ông.
Từ ngày giữ chức ông Nghị , danh tiếng của ông đã bay khắp tỉnh Trung sơn. Thế nhưng suốt năm chí tối, ông không phải thết một ông khách sáo, trừ ra hai ngày giỗ cha và giỗ mẹ.
Cố nhiên, ông phải là một người cơ chỉ, so kè từ một đồng xu trở đi. Vậy mà lắm khi ông lại rất hào. Nhất là những dịp tết ta, tết tây, không dịp nào ông quên không bắt chim ngói, gà mái theo những thúng gạo tám thơm vào cửa mấy ông to lớn.
Với ông, vợ chồng Đĩ Dậu không có họ hàng thân thích gì cả. Nhưng vì các hắn cầy thuê cấy mướn
cho ông đã nhiều, nên đều biết nhà, biết người.
Sau khi Cai lệ và người nhà Lý trưởng đã dẫn anh Dậu ra đình, chị Dậu theo lời chồng dặn, trao con bé con cho cái Tý, vớ chiếc nón rách đeo vào cổ taỵ Thằng dần khóc nhếch khóc nhác, rầm rĩ kêu đói. Giả điếc, chị cứ lủi thủi cắp nón ra đi.
Ánh nắng tháng năm rát như lửa chàm vào mặt. Hơi nước dưới đồng bốc lên, nóng như hơi trong chõ xôi. Những con cua chửa và những con rắn nước chịu không nổi sức nóng của nước trong ruộng, rủ nhau bò lên mặt đường và núp vào các khóm cỏ.
Đông xá với Đoài thôn vẫn là một xã, cách nhau độ ba cây xộ trong lúc nắng gắt, người ta coi đoạn đường ấy như con đường thiên lý trong bãi cát già. Nhưng, với chị Dậu nó không mùi gì, vì đời chị đã quen hàng ngày rạn mặt với thần nắng.
Nhờ sức che chơ của chiếc nón rách, chị chỉ bước rảo một thôi thì tới cổng nhà Nghị Quế. Mặt trời
đứng bóng. Trâu bò lũ lượt lôi thợ cầy ở ngoài đồng về. Thập thò ngoài cổng, chị nâng vạt áo nâu mốc lau những giọt mồ hôi nhễ nhoại trên đôi lông mày và mở to đôi mắt quáng nắng nhòm vào trong cổng.
Trên cái sân gạch Bát tràng mông mênh như bãi đá bóng, không điểm một vết bóng râm. Đàn chim bồ câu chổng mông mổ trên nong đỗ. Con gà mái ấp cục tác từ trên cửa chuồng nhảy xuống, ưỡn đít bón một bãi phân cho chậu lan. Mấy con lợn con theo mẹ nghễu nghện diễu chung quanh chậu nước vo gạo.
Không có người nào qua lại. Đánh bạo, chị Dậu xăm xăm tiến vào sân. Một đàn chó dữ như đàn hùm ở đâu nhất tề sồ ra. Chúng nó nhảy chồm lên tận mặt người lạ.
Hoảng quá, chị Dậu ngồi phịch xuống gạch, vừa vung cái nón khua đuổi những con ác thú, vừa kêu:
- Anh bếp có nhà không? Làm phúc đánh chó cho tôi với!
Trong nhà có tiếng thét ra the thé, nghe rõ là tiếng đàn bà:
- Làm gì mà nheo nhéo thế? Nhà ai không có chó? Làm sao đi không mang gậy? Thằng bếp còn bận việc khác, nó không phải hầu chúng bay!
Rồi lại im. Thì ra vợ chồng ông Nghị đương ăn cơm ở nhà khách. Nghe tiếng chị Dậu léo xéo, bà Nghị bực mình, quát đổng vài câu cho oai, chứ bà không thèm đứng dậy. Tính bà xưa nay vẫn thế, chẳng khi nào lại chịu hạ mình mà đi mắng chó, đuổi chó cho kẻ vay nợ hay người làm thuê.
Đàn chó cứ vây kín chung quanh chị Dậu như quân đèn cù. Hình như chúng nó muốn cố làm hết phận sự với chủ : con nào con ấy nhe răng lè lưỡi, chỉ chực vồ vào hai chân chị chàng đáng thương. Cái nón dùng làm khí giới đã bị đàn vật cắn rách tan tành. Chị Dậu luống cuống không biết làm thế nào. Bí quá, chị phải giơ hai nắm tay đánh nhau bộ với đội lính coi nhà của ông Nghị.
Một mụ thợ cấy ở dưới nhà bếp lật đật vác gậy chạy lên. Mụ đuổi đàn chó tán loạn mỗi con chạy đi mỗi ngả.
Chị Dậu lóp ngóp đứng dậy và đi đến trước nhà khách. Bàn tay phải bị chó cắn vào lúc nào không biết, máu chảy đầm đìa. Ghé răng, chị xé một miếng ở đầu dải yếm, buộc chặt lấy chỗ bị thương. Rồi rụt rè, chị lên bực thềm :
- Thưa lạy hai cụ ạ!
Bà Nghị gắt:
- Chó cắn vào tay phải không? Cho chết!
Đương lúc người ta ăn uống, ai bảo cứ dẫn xác vào? Hỏi gì?
Ông Nghị đặt bát xuống mâm, vừa nhai nhồm nhoàm vừa đón :
- Sáng ngày chồng nó đã sang xin bán đứa con. Chắc nó đến để nói nốt chuyện ấy, chứ gì nữa.
- Bẩm cụ phải, con sang thưa cụ về việc ấy.
Bà Nghị đưa mắt ra hiệu cho ông Nghị rồi bảo chị Dậu :
- Thong thả! Hãy ngồi đấy! Để cho người ta ăn xong cái đã. Đừng quấy rầy!
Ông Nghị như đã hiểu ý của vợ, cứ việc chan chan gắp gắp, không nói không rằng.
Khép nép, chị Dậu ngồi phệt xuống mặt thềm gạch. Mọi ngày tuy vẫn làm mướn cho ông Nghị ấy,
nhưng chi, chỉ thì thọt ra vào trong mấy gian bếp, chưa biết nhà trên thế nào. Hôm nay bạ men tới đây, ấy là lần đầu chị được trông thấy cảnh tượng nhà khách của ông dân biểu. Trong mắt chị nhà ấy lịch sự vô cùng. Nào ở cạnh bức hoàng phi khảm trai, mấy cô con gái tồng ngồng đùi, vú vừa nằm, vừa tủm tỉm cười tình.
Nào ở giữa đôi câu sơn then thiếp vàng hai thằng bé con béo tròn và xoay trần, lễ mễ khiêng hộp sữa bò cao lớn gần bằng chúng nó.
Nào ở bên chiếc độc bình men đỏ, cái điếu ống vất vểu vươn cành xe trúc dài thườn thượt như cái cần câu.
Rồi ở trong cái tủ chè chạm dây nho, một rổ trứng gà đầy lùm, ngất nghểu chồng trên bộ khay chè
trắng bóng. Rồi ở trước cái sập gụ lên nước, bốn chiếc ghế gụ mặt đá cùng chầu vào một chiếc bàn
mây sơn xanh. Và ở đầu cái giường tây sơn quang dầu, quần lĩnh thâm và khăn quàng nhiễu xanh cùng vắt một chỗ. Biết bao của quí vật lạ, chị Dậu nhìn vẫn chưa khắp. Trên bàn ăn có tiếng leng
keng.
Ông Nghị đâm chéo đôi đũa qua mặt mâm, bưng bát nước canh, trợn mắt húp một cái đánh soạt . Rồi ông vừa nhai, vừa nuốt, vừa giục thằng nhỏ lấy tăm. Bà Nghị cầm đĩa dò kho ăn dở, chút vào trong niêu, sai thằng bếp treo lên lao màn và dặn :
- Bà đã đếm kỹ từng miếng rồi đấy. Còn mười bốn miếng tất cả. Hễ mất miếng nào thì chết với bà!
Thằng bếp bưng mâm cơm ra. Thằng nhỏ đệ chậu nước vào. Ông Nghị, bà Nghị mỗi người dúng ba
ngón tay vào chậu, vuốt qua hai mép một lượt, rồi cùng uống nước, xỉa răng. Hai đứa đầy tớ đứng hai
bên cầm quạt phẩy lại. Bà Nghị mở cái tráp tròn lấy trầu và cau nhai với một vài sợi thuốc. Ông Nghi.
nhắc cái điếu ống để trên trốc tủ, giặt thuốc, châm lửa, vít cái xe chúc vào miệng. Bắt chân chữ Ngũ ông vểnh mặt hút sòng sọc một hơi :
- Con mẹ kia! Bán con bán cái thế nào? Vào mà nói chuyện với bà... !
Rón rén, chị Dậu đứng nép vào cửa và ngập ngừng:
- Thưa lạy hai cụ, nhà con túng quá, xin hai cụ cứu giúp con.
Bà Nghị nhả miếng bã trầu cầm tay, quai thật dài cặp môi cắn chỉ :
- Chẳng cứu với vớt gì cả! Mày có bán đứa con gái tao mua!
- Xin vâng!
- Sáng ngày chồng mày nói rằng con bé ấy đã lên bẩy tuổi, xin lấy ba đồng. Cụ Ông tưởng nó nói thật, bằng lòng cho nó hai đồng. Nhưng giờ nghe nói con mày mới có sáu tuổi, thì tao triết đi một nửa, chỉ cho một đồng thôi. Thuận bán thì về đưa nhau sang đây!
Chị Dậu ngơ ngác:
- Thưa cụ, thật quả cháu đã lên bẩy, nó đẻ tháng dần năm Tý. Chúng con không dám nói dối thưa cụ!
- Tao không thể tin cái miệng vợ chồng nhà mày! Người ta mách tao là nó lên sáu, thì tao hay nó lên sáu. Chứ tao biết đâu nó đẻ năm tý hay đẻ năm tỵ năm tỳ.. !
Chị Dậu đờ mặt, không biết nói sao. Bà Nghị tiếp:
- Vì cái hai bên kia...
Ông Nghị cau mặt ngắt lời :
- Sao bà cứ gọi con bằng lối xách mé như vậy? Tôi đã dặn bà phải gọi nó là mơ... Bây giờ ở nhà các quan, con gái đều được kêu là mợ tất cả. Tôi hèn ra cũng là một Nghị viên, có lúc ngồi với quan Sứ quan Thượng, danh giá không kém gì một ông quan. Bà có gọi con gái bà là mợ, cũng không quá lạm kia mà!
Bà Nghị cười ngặt, cười nghẹo :
- Thế thì ông lầm rồi! Con dâu kia... người ta mới gọi là mợ; con gái thì người ta gọi là cộ Chẳng cứ gì nhà các quan, tôi thấy những nhà ông ký, ông phán, những nhà buôn bán ở Hà Nội đều như thế cả.
- Miễn là đừng có gọi chúng nó bằng cái kiểu tục tằn của những nhà bố cu, bố đĩ... Mợ thì mợ, cô thì cô...
Bà Nghị ra bộ đắc ý :
- Vâng, thì cô!... Cô hai bên kia hiếm hoi mấy lần xem bói, thầy bói đều bảo cô ấy phải nuôi con nuôi thì mới đứng số. Bởi thế, tao muốn mua cho cô ấy một đứa, để nó gánh vác đỡ đí. Chứ nhà tao đây thiếu gì người hầu hạ? Vả lại, con bé mới lên sáu tuổi, đã làm được công trạng gì mà tao phải chuốc? Huống chi nó sang ở với cô ấy, cơm no áo lành, lại không sung sướng gấp trăm gấp nghìn ở nhà với vợ chồng mày hay sao? Đáng lẽ biếu không thì phải... Cho một đồng cũng quá lắm rồi. Không phải nài nẫn gì nữa!
Chị Dậu ngồi đờ như gỗ, không biết trả lời ra sao.
Chương 6
Bà Nghị chỉ tay quát thằng nhỏ lấy nước. Bà uống một hớp dấp giọng rồi hỏi chị Dậu :
- Thế nào mày nghĩ tao nói có đúng hay không?
Chị Dậu dơm dớm nước mắt :
- Vâng. Thưa hai cụ ý con cũng biết rằng cháu được sang đó nương nhờ hai cụ và cô Hai, thật là phúc cho nó lắm... Nhưng vì, nhà con thiếu hơn hai đồng tiền sưu, mới phải đến kêu cửa cụ. Nếu chỉ có một đồng, thì còn hơn một đồng nữa, chúng con không biết chạy vào đâu được. Vậy xin hai cụ đón tay làm phúc...
Ông Nghị quát :
- Thiếu bao nhiêu mặc kệ mày, kể lể gì? Mày định bổ vào nhà tao đấy à?
Chị Dậu thèn lẹn nâng dải yếm sẽ chùi vào mắt.
Bà Nghị yên ủi:
- Thiếu một đồng nữa thì xem trong nhà còn có cái gì đáng tiền, đem mà bán nốt đi vậy! Chứ đứa con gái sáu tuổi, bây giờ cho không cũng không đắt thay, ai động rồ mà trả mày hơn...
- Thưa lại hai cụ, thật quả nhà con không còn cái gì đáng giá hai hào.
Bà Nghị cười nhạt :
- Sao bảo nhà mày có con chó cái khôn lắm?
- À, thưa cụ có! Nhưng nó mới đẻ, con nó hãy còn non lắm, có bán cũng không ai muạ Nếu có người mua cho, chúng con không phải bán con cháu.
- Nó đẻ mấy con? Con nó đả mở mắt chưa?
- Bẩm bốn con! Nó đả biết ăn cơm hai hôm nay... hay là xin cụ đỡ con hai đồng, lờ lã thế nào con cũng xin vâng. Chỉ độ hai phiên chợ nữa, mấy con chó ấy cứng cát, bán được thì con xin nộp cụ.
Bà Nghị bĩu môi :
- Tiền tao có phải vỏ hến mà tao quẳng ra cho mày bây giờ? Dễ tao hám lãi của mày lắm đấy? Thôi.
Thế này này : Chó non tao cũng mua vậy. Bắt cả con chó cái và đàn con chó con sang đây, tao trả cho một đồng nữa. Với con bé kia một đồng là hai.. Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu, lại khỏi nuôi chó, khỏi nuôi con. Sướng nhé!
Rồi bà Nghị vui vẻ nhìn mặt ông Nghị :
- Ấy tôi cứ hay thương người thế đấy! Người khác thì họ mặc kệ, ai hơi đâu? kêu lắm thì bã bọt mép.
Chị Dậu lại chứa chan nước mắt. Buồn rầu, chị sẽ ngồi xuống bực cửa và nói chầu lên :
- Vâng! Con cũng biết cụ có lòng thương nhà con mới thế. Chứ đàn chó vừa mới mở mắt, ai mua làm gì... ? Nhưng, thưa cụ, giá chó bây giờ cũng không rẻ lắm, một con chó cái, con đem ra chợ bán ít nhất cũng được đồng rưỡi. Còn bốn con chó con, nếu nuôi thêm vài phiên chợ nữa, thế nào cũng được năm hào một con. Vậy là tất cả đến ba đồng rưỡi, cụ cho một đồng thì thiệt con quá. Xin cụ trông lại!
Ông Nghị đập tay xuống sập :
- Đem ngay đi chợ mà bán! Không nói lôi thôi! Mất thì giờ! Thời Tây bây giờ, thì giờ là vàng bạc, không ai công đâu mặc cả với mày... Hừ! Vừa mới ngoen ngoẻn nói rằng bán không ai mua , người ta làm phúc mua cho, lại còn nhằng ngằng kêu rẻ! Rẻ thì đem ngay ra chợ mà bán. Ra ngay!
Chị Dậu nhổm đít toan đứng lên. Bà Nghị thẽ thọt :
- Chúng bay cứ cái thói ấy, không trách chẳng ai buồn thương, khổ là đáng kiếp. Trong lúc thuế má ngặt ngòi, đồng bạc cho vay, lãi ngày năm xu, người ta đã phải bỏ ra mà mua đàn chó mới mở mắt,
thế là người ta làm ơn cho mày. Mày tưởng người ta không thể mua đâu được chó đấy chắc? Hay là chó của nhà mày bằng vàng? Thôi, cho thêm hào nữa, thế là vừa con, vừa chó, cả thảy được hai đồng
mốt. Bằng lòng không?
Chị Dậu lại tần ngần ngồi xuống :
- Bẩm cụ, một vài hào ở cụ chẳng thắm vào đâu, nhưng, ở con thì nó lớn lắm. Xin cụ cho con lấy năm hào nữa vậy.
Bà Nghị ra bộ dễ dãi :
- Con mẹ mày cũng ghê gớm lắm! Thấy bở thì đào mãi! Ừ, thì tao trả thêm một hào. Là hai đồng hai.
Bằng lòng thì lên nói với ông giáo làm văn tự chọ Và phải trả ông ấy hai hào giấy mực. Nghe không!
Chị Dậu thất vọng :
- Thế thì con chỉ được hai đồng đem về...
Ông Nghị lại cáu :
- Chứ bao nhiêu nữa? Hai chục nữa nhé! Thôi, cho thế cũng đắt lắm rồi. Bán thì đi làm văn tự. Không bán thì về. Về thẳng!
Về thì đăm đầu vào đâu? Để chồng bị trói đến bao giờ nữa?... Thôi, trời đã bắt tội, cũng đành nhắm mắt liều... Bên tai chị Dậu, văng vẳng có tiếng như vậy. Nước mắt ứa ra, chị lại đứng dậy với bộ mặt não nùng :
- Vâng con xin bán hầu hai cụ. Nhờ các cụ cho bảo ông giáo làm giấy giúp con!...
Bà Nghị dõng dạc gọi xuống nhà dưới :
- Đứa nào lên nhà học mời ông giáo xuống đây cho tao!
Đồng hồ trên tủ thong thả đánh mười một tiếng. Giấy cót sổ ra xoe xòe.
Bà Nghị tươi cười nói với ông Nghị :
- Sao bây giờ mới mười một giờ? Hay là đồng hồ nhà ta chạy sai?
Ông Nghị rung đùi, vuốt chồm râu tây cong vắt trên mép ngậm tăm :
- Bà quê lắm! Đồng hồ của Tây làm ra có bao giờ sai? Bây giờ mười một giờ là đúng. Nhà ta ăn cơm khi sớm.
Bóng nắng xuống thềm gần một hàng gạch.
Xe lửa một giờ toe toe hét còi.
Ông giáo kéo đôi giầy vá từ đầu nhà thờ đi sang. Trong tay đủ cả quản bút, lọ mực, giấy trắng và
giấy thấm.
Với cái búi tóc ngất ngưởng trên đầu, với cái sức học chữ Nho bằng rưỡi quốc ngữ, ông ấy gọi là thầy đồ thì đúng hơn. Chỉ vì về phần nhà chủ nuôi cơm, tiếng nuôi ông đồ không bằng tiếng nuôi ông giáo, cho nên ông ấy phải đổi sang ngạch thầy giáó, để dậy mấy đứa trẻ học tam tự kinh và A B C, và viết văn tự cho những người đến nhà ông Nghị cầm cố vay mượn. Vào nhà khách, ông giáo se sẽ đẩy thúng gạo nếp trên chiếc tràng kỷ gỗ lát và lễ phép ngồi vào chỗ đó.
Sau một hồi để ý nghe lời ông Nghị dặn dò, ông giáo nghiêm trang cúi vào mặt bàn. Trịnh trọng ông ấy viết.
Cả nhà im lặng.
Năm phút, mười phút, nửa giờ... Ông giáo ngẩng lên ngó mặt chị Dậu :
- Chị kia, sang đây tôi đọc cho nghe, rồi điểm chỉ vào!
Dón dén, chị Dậu đến cạnh tràng kỷ. Ông giáo đằng hắng ba tiếng, rồi bằng giọng cắt nghĩa cho học trò, ông ấy đọc :
Tên tôi là Nguyễn Văn Dậu, hai mươi sáu tuổi ở làng Đông xá, và vợ tôi là Lê thị Đào, hai mươi bốn tuổi, cũng ở làng ấy, có mượn ông của ông bà Hoàng thị Sẹo, năm mươi tám tuổi, vợ cả ông Nghị viên Trần Đức Quế ở làng Đoài thôn, một đôi hoa tai bằng vàng nặng ba đồng cân, đáng giá hai chục đồng bạc. Hạn trong năm năm phải trả. Nếu không trả, chúng tôi xin chịu tội bội tín. Giấy này làm tại làng Đoài thôn ngày... tháng... năm...
Chị Dậu nghe rồi rẫy nẩy :
- Thưa ông, ông lầm rồi. Tôi bán con và chó, chứ có mượn hoa tai của bà đâu?
Ông Nghị rút vội cái tăm trong miệng mình, đặt ngang vào miệng tách nước :
- Không ai thèm đánh lừa chúng baỵ Bây giờ luật mới nghiêm cấm cha mẹ bán con, cho nên văn tự phải viết như thế, chứ không nói con, nói chó vào được. Sau này, mày cứ để cho con mày ở mãi với cô hai, thì cái giá ấy tao cũng coi như không có. Nếu mày trở mặt mà đem con về, tao sẽ chiếu giấy bỏ tù cả vợ lẫn chồng. Giấy làm như vậy, chỉ cốt giữ cho nhà mày khỏi lật nhà tao, chứ nhà tao không đời nào thèm lật nhà mày. Thế là bao giờ tao cũng nắm đằng chuôi, chứ tao không cầm đằng lưỡi. Nghe không?
Dứt mạch diễn thuyết, ông Nghị bưng tách nước uống mọt hớp lớn, súc miệng òng ọc mấy cái, rồi nhổ toẹt xuống nền nhà:
- Tùy đấy mày có tin nhà ta thì điểm chỉ vào đem về cho chồng mày ký tên, và xin chữ lý trưởng nhận thực tử tế. Rồi mang sang đây, thì tao sẽ giao tiền chọ Nếu mày không tin thì thôi. Đây tao không ép.
Hai hàng nước mắt hòa với những giọt mồ hôi thánh thót rơi xuống gò má, chị Dậu cắm mặt đứng im. Một lát sau, chị quả quyết :
- Con xin vâng theo lời cu.
Thế rồi chị giơ bàn tay buộc rẻ chìa hai ngón tay để cho ông giáo bôi mực và in vào bứa văn tự. Xong việc, chị gập bức văn tự, giắt vào dải lưng. Bước ra thềm, chị nhặt lấy cái mê nón bị chó cắn rách. Ngần ngại, chị đặt mê nón lên đầu, cúi chào vợ chồng ông Nghị và ông giáo. Bà Nghị căn vặn nhắc đi nhắc lại :
- Nhớ lấy cái gì đậy cho mấy con chó con, kẻo nó bị nắng.
Nguồn: truyenviet.com