2/12/12

Trại hoa vàng (C3-4)

Chương 3:

Từ khi "giải phóng" được chiếc huy Chương Vàng ra khỏi bàn tay hắc ám của ba tôi, tôi bắt đầu chiến dịch "đền ơn đáp nghĩa". Bạn bè tôi, mỗi đứa được cỡi chiếc Huy Chương Vàng ba mươi phút lấy le. Dĩ nhiên, Phú ghẻ, và Cường được ưu tiên, kế đến là những đứa khác.
Tôi không muốn làm cho ba mẹ tôi đau khổ nên hẹn tụi bạn xuống bờ sông. Trước khi đưa xe cho tụi nó "thử", tôi nhắc chằm chặp :
_ Nhớ chạy đúng nửa tiếng nghe chưa ! Lố một phút là không có lần thứ hai đâu đấy !
Chưa yên tâm, lúc Phú ghẻ phóc lên yên tôi bắt thằng Cường lấy xe đạp của nó chở tôi chạy theo. Ngồi sau lưng Cường chốc chốc tôi lại thò đầu ra nhắc cầm chừng :
_ Mày đạp nhè nhẹ thôi ! Đạp mạnh, gãy pêđdan tao bây giờ !
Phú ghẻ là thằng bạn ác ôn. Mặc cho tôi xót ruột, nó cứ phóng thục mạng như bị ma đuổi. Lại còn mở miệng chế giễu :
_ Gãy sao được mà gãy ! Đúng là nhà nghèo xót của !
Nhưng Phú ghẻ dù sao cũng còn đỡ. Thằng Cường mới làm tôi đứng tim. Nó cỡi chiếc Huy Chương Vàng như cao bồi Texas cỡi ngựa, cái mông sụm yên xe. Đã vậy, hễ gặp tụi con gái đi ngang là nó buông hai tay làm xiếc khiến tôi phải la oai oái :
_ Thằng ngu ! Té gãy cổ bây giờ !
Đang biểu diễn bị mất trớn, Cường ngoái đầu lại, sửng cồ :
_ Cái thằng đầu bò này, mày có im miệng đi không !
Khi ngoảnh cổ lại, Cường vẫn chẳng thèm cầm lấy ghiđdông. Thấy chiếc xe không người lái cứ lao vun vút, tôi hãi quá không dám ngoác mồm chửi nó nữa, mặc dù nó bắt chước ba tôi mắng tôi là "thằng đầu bò" khiến tôi muốn sôi gan.
Sau thằng Cường, tới những đứa khác, toàn lũ bạn trời đánh. Hễ "chớp" được chiếc Huy Chương Vàng, đứa nào đứa nấy đều cong lưng phóng bất kể sống chết. Suốt buổi hôm đó, tim tôi giật thon thót, phần sợ tụi nó húc phải cột đèn, phần sợ đứa nào đó cao hứng lượn ngang trước hẻm nhà tôi. Ba mẹ tôi mà biết được tôi đem món đồ gia bảo này đưa cho mấy "thằng bạn ăn hại" phá phách, không những tôi sẽ bị ăn đòn quắn đít mà lần sau tôi đừng hòng đem chiếc Huy Chương Vàng ra "chiêu đãi" bạn bè nữa. May mà rốt cuộc mọi chuyện đều suôn sẻ. Lũ bạn tôi mặt mày hể hả. Tôi cũng mừng rơn vì sau những màn biểu diễn rùng rợn của đám bạn quái quỷ, chiếc Huy Chường Vàng của tôi vẫn chưa biến thành đống sắt vụn.
Sau buổi "khai trương" trọng thể đó, cứ cách ba, bốn ngày, mấy đứa bạn thân lại mò đến nhà tôi đứng lấp ló ngoài cổng rào, ngoắt tôi ra.
_ Gì vậy ?
_ Đi chơi đi !
_ Đi đâu ?
_ Đi đâu cũng được ! Mày lấy chiếc Huy Chương Vàng chở tao đi !
Biết bị "dụ" nhưng bao giờ tôi cũng thấy khoai khoái :
_ Mày xuống nhà nội tao trước đi ! Lát nữa tao ghé đó "ăn sáng" rồi tụi mình đi !
Nói chung, chưa bao giờ tôi từ chối bạn bè, nhất là với hai thằng mắc dịch Cường và Phú ghẻ. Tôi luôn luôn biết ơn tụi nó. Chính nhờ sự sốt sắng của tụi nó, tôi mới có ngày nay. Khi đậu vào trường Trần Cao Vân, tôi đã hưởng biết bao nhiêu vinh quang và sung sướng, lẽ đâu không chia sẽ cho tụi nó chút niềm vui cỏn con là cỡi "ké" chiếc Huy Chương Vàng.
Sáng nay tôi từ chối lời rủ rê của Cường, đó là lần đầu tiên. Thực ra, tôi cũng muốn lấy chiếc Huy Chương Vàng chở nó xuống bờ sông "dợt le" với tụi Huỳnh Thúc Kháng chơi nhưng cuối cùng tôi đã dẹp bỏ ý định đó. Tôi nói với Cường là ba tôi không cho tôi ra khỏi nhà ngày hôm nay. Ba tôi quả có bảo như vậy thật nhưng đó không phải là lý do khiến tôi không thể đi chơi. Lát nữa đây, ba tôi sẽ đi thăm chú Sáu ở tít ngoài thành phố, chiều tối mới về. Tôi sẽ tha hồ đi rong, nếu tôi muốn.
Nhưng khổ thay, dù rất muốn tôi cũng chẳng thể bước chân ra khỏi nhà. Dù với Cường hay với bất cứ ai. Con người ta không thể bước chân ra khỏi nhà mà không mặc quần, nhất là khi người ta đã mười sáu tuổi. Nỗi khổ tâm vô hạn này tôi chỉ biết chôn chặt trong lòng, không dám hé môi than thở với ai, kể cả Cường và Phú ghẻ. Tụi nó mà biết được "sự cố" này tôi đừng hòng yên thân. Tụi nó sẽ trêu tôi đến bỏ học mất.
Nói ra thì không ai tin, chứ vô lớp mười rồi mà tôi chẳng có lấy một cái quần ra hồn để "diện" với thiên hạ. Năm ngoái, mẹ tôi may cho tôi ba cái quần, giữa năm học, hai cái đã biến thành giẻ lau nhà sau hai cơn giận dữ của ba tôi. Còn một cái duy nhất, tôi ráng kéo lê đến cuối năm. Nhưng bây giờ, cái quần "còn sống sót" đó chẳng vừa với tôi nữa. Nó đã trở nên chật chội so với cơ thể ngày càng phát triển của tôi.
Hồi đậu vô lớp mười trường Trần Cao Vân, tôi chắc mẩm để tưởng thưởng cho thành tích vô tiền khoáng hậu này của tôi, ba mẹ tôi sẽ dẫn tôi đi may thêm vài cái quần mới. Nào ngờ mẹ tôi vừa đưa ra ý kiến thông minh đó, ba tôi đã gạt phắt :
_ Dẹp ! Tưởng gì chứ ba cái quần thì dẹp ! Đi học chứ đâu phải đi thi hoa hậu mà se sua !
_ Nhưng con mình hết quần mặc rồi !
_ Hết quần thì lấy mấy cái quần của bà sửa lại cho nó mặc !
Tôi ngóc mỏ ngồi bên cạnh, nghe ba tôi phán một câu, miệng liền méo xệch. Niềm ao ước sắm sửa đồ mới của tôi phen này thế là đi tong ! Trước nay, ba tôi vẫn thường để ý đặc biệt đến cách ăn mặc của tôi. Không hiểu nghe lỏm được ở đâu, ông cứ đinh ninh chuyện quần áo luôn luôn liên quan chặt chẽ đến tính khí con người. Hễ ăn mặc giản dị, thanh bần mới là người chăm học. Còn ai quần áo đẹp đẽ đều bị ông liệt vào hạng đàn đúm, ăn chơi. "Mốt miếc," ông càng ghét tợn. Năm ngoái, thanh niên toàn thì trấn đều mặc quần ống chật, cỡ 16 - 18 li, ông bắt tôi may quần 28 li, đi quét đất hệt như bà nội tôi. Ngày đi may đồ mới, cả thế giới ai cũng hồi hộp vui mừng, chỉ riêng tôi là khóc nức nở.
Đã vậy, hôm tôi đi lấy quần về, ông còn lấy ra đo lại, miệng đe :
_ Ống quần của mày mà chật đi một li là tao xé ngay tại chỗ ! Cho mày mặc quần xà lỏn vô lớp luôn !
Tính khí ba tôi như vậy nên khi ông bác thẳng thừng đề nghị bác ái của mẹ tôi, tôi cay đắng hiểu rằng số phận của tôi đã được định đoạt. Kiếp này tôi chỉ được mặc loại quần áo may bằng "vải tái sinh" !
Nỗi đau khổ của tôi không chỉ có thế. Nếu được thừa kế những món đồ phế phẩm của ba tôi, dù sao tôi cũng còn dễ chịụ Đằng này phải mặc những chiếc quần sửa lại từ những chiếc quần ống rộng thùng thình của mẹ tôi thì quả thật mất mặt nam nhi.
Đã vậy, quần đàn bà con gái đáy dài thườn thượt, không cách gì rút ngắn lại được. Lưng mẹ tôi lại nhỏ hơn lưng tôi, muốn mặc vừa tôi phải nới lưng quần rạ Khổ nỗi, màu vải bên trong và màu vải bên ngoài đậm lợt khác nhau, do đó khi nới ra, sau mông tôi xuất hiện một cái hình tam giác to tổ bố, hệt như mũi tên chỉ dẫn : "nơi đây là đầu ra" ! Chỉ nghĩ đến mỗi chuyện đó thôi, tôi đã muốn chui ngay xuống đất.
Khi soi gương để mặc quần áo, thiên hạ đều đứng đàng hoàng tử tế. Chỉ có tôi là đứng quay lưng lại tấm kiến gắn trên cửa tủ và ngoảnh đến sái cả cổ để nhìn ngắm và nguyền rủa không ngớt lời cái "mũi tên" khốn khiếp kia.
Suốt mấy ngày liền, tôi đã đem cái "hình tam giác" không mời mà đến đó ra sau vườn phơi nắng phơi gió, thậm chí tôi vùi nó vào trong đất trong cát hàng buổi nhưng nó vẫn nhất quyết không chịu điệp màu với phần còn lại của cái quần "gia truyền" khủng khiếp.
Cuối cùng, không nén được, tôi đánh liều lên tiếng trong bữa cơm :
_ Con không mặc quần của mẹ đâu !
Ba tôi trừng mắc :
_ Vải tốt vậy mà mày chê hả ? Hay là mày không thích mặc đồ cũ sửa lại ?
_ Không phải vậỵ Nhưng con thích mặc quần của ba hơn. Quần của mẹ nó chật chội sao ấy !
_ Tao chỉ có hai cái quần để thay ra thay vô, sửa lại cho mày, tao lấy gì tao mặc ?
Tôi cười cầu tài : _ Thì ba may quần mới cho le lói với người ta !
_ Tiền đâu mà may hở con ? - Ba tôi chép miệng - Lúc trước có bao nhiêu tiền dành dụm, tao đã dốc ra mua chiếc xe cho mày rồi. Mới đây, mừng mày thi đậu, tao lại vét sạch tiền của mẹ mày để tiệc tùng chiêu đãi bà con, bằng hữu xa gần. Bây giờ nghe lời mẹ mày mua sắm quần áo thì nhà mình chỉ có nước nhịn ăn thôi, con ạ !
Mỗi lần ba tôi quát tháo hay giở "quyền cước" ra với tôi, tôi vừa sợ nhưng lại vừa tức. Những lúc đó, nếu có thêm một chút xíu dũng khí, tôi sẵn sàng ngoác mồm cãi lại. Nhưng khi ông hạ giọng tâm sự - thường là hiếm hoi - tôi lại hết ham nói tới nói lui. Như lúc này chẳng hạn, nghe ông than thở về "gia cảnh" một hồi, ý chí đấu tranh vì quyền lợi ăn mặc của tôi bỗng nhiên tắt ngấm.
Tôi biết gia đình tôi dạo này đang gặp khó khăn. Công việc làm ăn của ba tôi dường như đang trì trệ. Ngày nào mặt ông cũng đỏ bừng nhưng không phải do ngồi hàng giờ bên lò nấu như trước đây mà vì lúc này rảnh rỗi, ông ưa chén thù chén tạc. Quán nước của mẹ tôi cũng chẳng khấm khá gì. Quán gần như nằm trong hẻm nên khách khứa chẳng bao nhiêu, chỉ quanh đi quẩn lại mấy mgười quen trong xóm.
Càng nghĩ ngợi, tôi càng buồn phiền. Ăn cơm xong, tôi bỏ ra vườn hoa ngồi một mình gặm nhấm nỗi buồn của con nhà nghèo khó. Tôi quên bẵng "nỗi đau hình tam giác". Tôi biết tôi chẳng thể đòi hỏi ba mẹ tôi hơn nữa. Để thoát khỏi cảnh ngộ này, tôi phải cố học cho thật giỏi. Học giỏi mới đỗ đạt thành tài, mới làm ra tiền mua sắm quần áo, còn dư thì giúp cha mẹ. Dư nữa thì cho nhỏ Châu một ít. Vẽ vời trong đầu thì huy hoàng như vậy, nhưng khi nghĩ đến chuyện phải học giỏi, tự nhiên tôi đâm mất khí thế, chỉ muốn thối lui.
Nhưng trong khi chờ đến ngày đó, nếu quả thật có cái ngày đẹp đẽ đó, tôi vẫn phải đi học với chiếc quần khủng khiếp của mẹ tôi.
Buổi sáng tựu trường, sau khi dậy sớm và đứng nhăn nhó hàng giờ trước gương, tôi phóc lên xe đạp ra khỏi nhà với một tâm trạng buồn vui lẫn lộn. Vui vì năm nay tôi được vào lớp mười trường Trần Cao Vân, lại được tung tăng khoe mẽ trên chiếc Huy Chương Vàng sáng chóe, buồn vì sau lưng tôi vẫn đeo đẳng cái hình tam giác chết tiệt kia.
May làm sao khi tôi vào trường, tụi bạn mải xúm xít lại ngắm nghía vuốt ve chiếc Huy Chương Vàng nên chẳng đứa nào kịp để ý đến cách phục sức không giống ai của tôi. Mãi đến khi xếp hàng chào cờ, thằng Minh sún, một đứa năm ngoái học cùng lớp với tôi, mới phát hiện ra hai ống quần lòa xòa của tôi. Nó la bài hãi giữa sân trường:
_ Trời đất ! Bộ mày tính lăng-xê mốt mới hả Chuẩn ?
Nghe cái miệng nó oang oang, tôi hoảng hốt nhảy ngay vào hàng, lần tuốt xuống đứng dưới đuôi, không để nó kịp phát hiện thêm bất cứ điều gì nữa.
Nhưng tránh được Minh súng, tôi vẫn chưa hết lo. Lớp tôi học năm nay là lớp 10A1, mỗi lần xếp hàng chào cờ phải đứng trên cùng. Nối đuôi phía sau là tụi 10A2, 10A3, 10A4. Tôi thuộc loại lớn con nhất lớp, phải đứng tít đằng sau đuôi. Và trong cái vị trí bất lợi đó, ngay từ buổi chào cờ đầu tiên của năm học, tôi đã phải loay hoay khổ sở cố nghĩ ra cách nào để khỏi phải "triển lãm" cái "tam giác vàng" của mình trước mặt bọn con gái lớp 10A2 đứng sát đằng sau.
Tính tới tính lui một hồi, tôi làm bộ lơ đãng chắp tay ra sau lưng, ngầm che cái chỗ chết tiệt đó lại.
Quả như tôi dự đoán, tụi con gái phía sau chẳng hay biết gì hết. Tôi dỏng tai nghe ngóng, thấp thỏm chờ một tiếng khúc khích nhưng chẳng thấy động tĩnh gì.
Tưởng mọi sự trót lọt, nào ngờ khi bài quốc ca vừa dứt, bọn học trò đang rục rịch chuẩn bị vào lớp, thầy giám thị đột nhiên bước lại chỗ lớp tôi.
_ Em kia ! Ra đây !
Thầy thình lình chỉ ngay tôi khiến tôi tái ngắt mặt, trái tim suýt chút nữa văng ra khỏi lòng ngực.
Biến cố đột ngột này khiến những tiếng ồn ào vừa dấy lên chung quanh liền tắt ngấm. Sân trường gần một ngàn học sinh bỗng nhiên im lặng như tờ. Tất cả mọi cặp mắt đều đổ dồn vào chỗ tôi đứng khiến hai chân tôi tự nhiên cứng đơ, không nhúc nhích nổi.
_ Em bước ra đây ! - Thầy giám thị lại nhắc, lần này giọng thầy đã tỏ ra bực bội.
Người xanh lè xanh lét, tôi rụt rè bước ra khỏi hàng, lòng hoang mang không hiểu mình phạm tội gì. Đám bạn cùng lớp nín thở nhìn theo. Không khí nặng nề hệt như trước mặt tôi không phải là thầy giám thị mà là một cái giá treo cổ vậy.
Đợt tôi đến gần, thầy giám thị hắng giọng hỏi :
_ Năm ngoái em học trường nào ?
Tôi lí nhí :
_ Dạ, trường Trần Quốc Toản ạ ! _ Em đã chào cờ bao giờ chưa ?
_ Dạ rồi ạ ! - Tôi đáp, giọng âu lo.
_ Vậy khi chào cờ ta phải đứng ở tư thế nào ?
Đến đây tôi bắt đầu hiểu ra nguồn gốc của tai họạ Tôi lấm lét nhìn thầy, miệng ấp úng :
_ Dạ, đứng thế nghiêm ạ.
Giọng thầy vụt trở nên nghiêm khắc :
_ Thế sao lúc nãy em lại đứng chắp tay sau lưng ?
Từ khi cha sinh mẹ đẻ đến nay, thú thật chưa bao giờ tôi gặp phải một tình huống oái oăm như thế này. Trước câu hỏi hóc búa đó, nếu chỉ đối diện với một mình thầy, họa may tôi còn can đảm mở miệng phân bua. Đằng này, bị vây bọc giữa hàng trăm cặp mắt thô lố, có cho vàng tôi cũng chẳng dám thố lộ tâm sự cay đắng của mình. Đầu cúi gằm, hai tay nóng như hơ lửa, tôi cứ đứng trơ như phỗng giữa sân trường.
_ Sao, em trả lời đi chứ ! - Thầy giám thị lại giục.
Lòng rối như tơ vò, tôi chưa biết làm sao để thoát khỏi tình huống trớ trêu này thì Minh sún đứng trong hàng đã vọt miệng trả lời thay :
_ Thưa thầy, bạn ấy chắp tay sau lưng là để che cái tam giác đấy ạ !
Nghe cái giọng ồ ề của thằng Minh súng bộp chộp kia cất lên, tôi đã thầm kêu khổ trong lòng. Tôi không biết nó muốn cứu tôi hay cố tình hại tôi. Chỉ biết lời tố cáo của nó lập tức lôi kéo sự chú ý của tụi bạn vào cái vị trí tệ hại nhất trên người tôi. Lúc này hai tay tôi đã buông thõng, chẳng che chắn gì được. Mọi sự cứ thế hiện ra lồ lộ trước mắt bàn dân thiên hạ kéo theo những tràng cười rúc rích như chuột.
_ Cái tam giác gì thế ? - Thầy giám thị ngạc nhiên.
Minh sún lại đư ợc dịp bô bô :
_ Dạ, tam giác Béc-muđda ở sau lưng bạn Chuẩn đấy ạ !
Tam giác Bermuda là tên một vùng biển thuộc Đại Tây Dương, nơi tàu bè và phi cơ qua lại thường mất tích một cách bí mật, vì vậy người ta gọi là tam giác quỷ. Chuyện này báo chí đăng tới đăng lui hoài nên tụi tôi đứa nào cũng biết. Tự nhiên bữa nay Minh sún bỗng "hê" cái tên đó lên, khối đứa không nhịn được ôm bụng cười lăn bò càng. Khung cảnh bỗng chốc trở nên náo nhiệt, mất hẳn vẻ trang nghiêm giả tạo nãy giờ.
Thầy giám thị xoay người tôi lại và khi nhìn thấy cái "tam giác Bermuda" nằm chễm chệ ngay trên mông tôi, thầy cũng phải phì cười :
_ Thì ra là vậy !
Rồi thầy vỗ vai tôi, ân cần nói : _ Chẳng việc gì phải xấu hổ em ạ ! Hồi còn nhỏ, thầy cũng từng đến lớp với những cái quần như vậy !
Nói xong, thầy bảo tôi vào hàng, không một lời quở trách.
Mặc dù được "tha bổng", lòng tôi vẫn chẳng nhẹ nhõm tí ti nào. Chân nặng như đeo đá, tôi thất thểu lê bước vào chỗ như lê một cái xác không hồn. Thế là hết. Bí mật của tôi chẳng thể giấu giếm được ai nữa. Cả trường đã biết. Và ngày mai, cả thị trấn sẽ đồn ầm lên. Tôi sẽ chẳng dám ló mặt đi đâu, suốt ngày chỉ ru rú ở nhà đuổi gà giúp mẹ Thầy giám thị bảo tôi đừng xấu hổ nhưng làm sao tôi có thể thản nhiên được khi bọn con gái đứng sau lưng tôi cứ chốc chốc lại "hí hí há há" như đang xem tấu hài trong rạp hát. Thầy bảo hồi nhỏ thầy từng mặc những cái quần giống như cái quần "bảo bối" của tôi bây giờ nhưng thầy quên rằng hồi thầy còn nhỏ, tụi học sinh trường Trần Cao Vân đâu đã sinh ra, vì vậy tụi nó đâu có thấy lối ăn mặc trái khoái của thầỵ Rốt cuộc chỉ có tôi là lãnh đủ.
Trong khi tôi đang nghĩ xem có cách nào chui xuống đất như Thổ Hành Tôn trong truyện Phong Thần hay không thì bỗng có một cánh tay vắt qua vai tôi.
Tôi ngoảnh lại, hóa ra Phú ghẻ. Phú ghẻ nãy giờ đứng phía trên, chắc thấy tôi buồn tình sắp sửa tự tử, nó mò xuống khuyên can. Quả nhiên thấy mặt nó, tim tôi liền ấm lại. Những lúc hoạn nạn như thế này, có vài đứa bạn thân bên cạnh, dù sao cũng đỡ trơ trọi. Chỉ tiếc năm nay thằng Cường học bên Huỳnh Thúc Kháng, nếu không cái miệng ba hoa của nó sẽ giúp tôi "giảm đau" một cách đáng kể.
Phú ghẻ lắc vai tôi :
_ Thôi, quên chuyện đó đi Chuẩn !
Mới nguôi nguôi được một chút, nghe nó nói, tôi lại phát khùng :
_ Quên cái đầu mày !
Thằng Phú ghẻ ngứa này đâu có biết cái "tam giác Bermuda" chết tiệt kia là ngôi sao chiếu mạng của tôi trong năm nay. Mẹ tôi sửa cho tôi hai cái quần, cái nào cũng chình ình một miếng tam giác khủng khiếp như thế đằng sau lưng. Ngày mai dù có thay quần khác, tôi vẫn phải mang cái hình thù quái gở đó đến trường, vẫn phải phơi nó ra trước mặt bọn con gái nhiều chuyện và bấm bụng nghe tụi nó cười cợt, chỉ trỏ. Vậy mà Phú ghẻ bảo tôi "quên chuyện đó đi". Nó làm như tôi là thánh không bằng !
Mãi đến khi vào lớp, ngồi một hồi không nghe tụi bạn nhắc nhở gì đến chuyện vừa xảy ra ngoài sân cờ, tôi mới dần dần bình tĩnh trở lại. Nhưng tôi vẫn chưa thật sự yên tâm. Biết đâu tụi nó đang cười thầm tôi trong bụng, chỉ vì sợ thầy cô mà tụi nó không ngoác mồm ra chọc ghẹo đó thôi ! Nghĩ vậy nên mỗi khi có đứa nào nhìn tôi, tôi đều chột dạ quay đi chỗ khác.
Lúc ra về, khi tôi đang lui cui lấy xe thì Minh sún bước lại gần tôi, cười toe toét :
_ Hú vía hén mày ?
Với thằng sún răng này, tôi không biết nên xem nó là thù hay bạn. Năm ngoái, nó học cùng lớp với tôi nhưng hai đứa không thân nhau lắm. Hồi sáng, lúc tôi đang phân vân không biết nên nói thật với thầy giám thị hay là nín thinh chịu phạt thì nó đột ngột hô toáng lên bí mật của tôi khiến mọi sự vỡ lở tùm lum. Nhưng vì không biết nó hành động như vậy với ý tốt hay với ý xấu nên khi nó bắt chuyện, tôi cứ ậm à ậm ừ không đáp. Thấy vậy, nó cũng chẳng thèm hỏi nữa mà lẳng lặng dắt xe ra cổng, dông thẳng một mạch.
Trưa đó, tôi về với Phú ghẻ. Phú ghẻ biết tôi buồn nên không nhắc gì đến chuyện tóc tai quần áo. Nó chỉ nói độc mỗi chuyện học tập, về thời khóa biểu và về các thầy cô sắp dạy chúng tôi. Nhưng đang rầu nẫu ruột, mặc cho Phú ghẻ nói linh tinh lang tang, tôi cứ một mực ngậm tăm. Nói một hồi mỏi miệng, vả lại thấy tôi xuất sắc trong vai lầm lì, nó chán nản không thèm nói thêm tiếng nào nữa. Hai đứa lủi thủi đạp xe bên nhau như hai kẻ chán đời. Ngày khai giảng năm học đầu tiên ở cấp ba lẽ ra là một ngày hội đối với tôi bỗng dưng lại hoá thành một ngày chẳng ra ôn gì !
Buổi trưa, khi cả nhà ngồi vào bàn ăn, mẹ tôi hỏi :
_ Hồi sáng khai giảng vui không con ?
Tôi cay đắng :
_ Dạ vui lắm ạ !
Rồi như không kềm được nỗi uất ức và tủi hổ dồn nén từ sáng đến bây giờ, vừa thốt xong, tự nhiên nước mắt tôi ứa ra, chảy vòng quanh má.
Mẹ tôi nhạc nhiên :
_ Có chuyện gì vậy con ? Vui sao lại khóc ?
Lòng đầy giận hờn, tôi mím môi không đáp, cũng không buồn đưa tay chùi nước mắt.
Thấy vậy, mẹ tôi lo lắng :
_ Có chuyện gì vậy, kể cho mẹ nghe đi !
Tôi lắc đầu và lặng lẽ bưng chén cơm lên. Nước mắt tôi nhỏ từng giọt xuống chén.
Thái độ ù lì của tôi khiến ba tôi nổi cáu. Ông đập tay xuống bàn đánh "rầm" một cái khiến những chiếc đũa bắn tung lên và tô canh sóng nước ra đầy bàn :
_ Mày có nói không thì bảo !
Tiếng quát của ba tôi khiến tôi đành phải đặt chén cơm xuống. Tôi nhìn ông ngập ngừng :
_ Cái quần.
_ Cái quần sao ?
Tôi khụt khịt mũi, nức nở thuật lại câu chuyện hồi sáng.
_ Tại mày mà ra cả, còn khóc nỗi gì ! - Nghe xong, ba tôi hừ mũi - Quần của mẹ mày sửa lại cho mày mặc có gì là xấu ! Có phải đồ ăn cắp ăn trộm đâu mà lấy tay che !
Mẹ tôi liếc ba tôi :
_ Thôi, ông ơi ! Đầu năm học không may cho con được cái quần mới, còn trách nó làm gì tội nghiệp !
Trước nay, mẹ tôi không bao giờ dám cãi lại ba tôi. Bữa nay có lẽ do xúc động trước hoàn cảnh đáng thương của tôi, mẹ đánh liều lên tiếng. Ba tôi cũng phá lệ mặc cho mẹ bênh tôi, ông chỉ ngồi im uể oải nhai cơm.
Giữa bữa cơm, tôi buông đũa chạy ra vườn, ngồi thừ trên bậc đá. Một lát sau, tôi nghe có tiếng chân bước khẽ đến sau lưng. Rồi tiếng nhỏ Châu êm ái vang lên:
_ Anh đừng buồn ! Tết này bán hoa thế nào anh cũng có tiền may quần mới ! Lúc đó sẽ không có ai trêu anh nữa đâu !
Rừng hoa vàng đong đưa trước mặt lẫn giọng nói dịu dàng của nhỏ em thủ thỉ bên tai khiến nỗi buồn của tôi bỗng chốc bay xa, thật xa.


Chương 4:

Trái với sự lo lắng của tôi, những ngày sau đó bạn bè chẳng ai chòng ghẹo gì tôi về sự cố hôm khai giảng. Có lẽ không ai nỡ trêu chọc sự nghèo khổ của kẻ khác. Nhờ vậy mà tôi có thể yên tâm học hành, cũng như yên tâm cóp-pi bài làm của thằng Phú ghẻ ngồi cạnh.
Nỗi mặc cảm của tôi chắc chắn sẽ phai nhạt dần cuối cùng rơi tõm vào quên lãng nếu như cái ngày u ám đó không xảy ra một cách bất ngờ.
Hôm đó, mải bận bịu vun đất sau vườn để chuẩn bị trồng lay-ơn cho kịp Tết, tôi ra khỏi nhà trễ mất mười phút so với thường lệ .
Khi tôi đến trường thì cổng đã đóng. Lố nhố trong các hàng quán bên kia đường là những học sinh đi trễ đang ngồi tán dóc đợi vào hai tiết sau.
Trường tôi có thông lệ hễ chuông reo vào lớp là cổng khóa chặt. Học sinh đi trễ chỉ có cách ngồi ngoài đợi giờ ra chơi len lén chuồn vô.
Mặc dù biết vậy, tôi đánh liều rề xe lại sát cổng tìm cách năn nỉ bác bảo vệ. Bác bảo vệ trường tôi khó tính nhất thế giới, từ khi làm nghề gác cổng đến nay chưa hề xiêu lòng trước bất cứ một lời nỉ non sụt sùi nào, vậy mà không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, sau khi nghe tôi thủ thỉ một hồi, bác rút xâu chìa khóa trong túi ra mở cổng cho tôi vào. Có lẽ bác thấy tôi hiền lành, đần độn, thời buổi quần bó váy túm mà dám mặc một chiếc quần giống hệt chiếc quần của vợ bác ở nhà nên bác động lòng nhớ vợ mà rộng rãi với tôi cũng nên.
Tôi vừa lách qua khỏi cách cổng mở he hé thì đám nữ sinh ngồi ăn vặt chờ thời bên kia đường cũng vừa kịp phát hiện. Thế là cả đám lũ lượt kéo nhau ùa sang. Nhưng bác bảo vệ tinh quái đã nhanh tay bấm ổ khóa đánh "tách" khiến mấy con nhỏ tức tối làm ầm lên. Nổi bật nhất là một giọng the thé : _ Sao "ông Béc-muđda" vào được mà tụi này vào không được ?
Tôi đang tính nán lại xem tụi nó đôi co những gì nhưng chỉ mới nghe mỗi một câu, tôi đã thất kinh dắt xe chạy mất.
Vào đến cửa lớp, tôi mới thở phào và hậm hực ngoái cổ nhìn lại. Đám nữ sinh đã không còn bu trước cổng. Có lẽ thái độ cứng rắn của bác bảo vệ đã khiến tụi nó chùn bước và rút về cố thủ bên kia đường.
Mặt mũi mấy con nhỏ này chẳng xa lạ gì với tôi. Mặc dù không biết tên một đứa nào trong tụi nó nhưng chỉ nhìn thoáng qua, tôi đã nhận ngay ra đó là tụi nhãi ranh 10A2, cái đám vẫn thường đứng xếp hàng sau lưng tôi mỗi sáng thứ hai và lúc nào miệng mồm cũng chí cha chí choét, kể cả lúc đang chào cờ.
Trước nay, tôi chẳng bao giờ "để ý" đến mấy con nhỏ vô trật tự này, không ngờ tụi nó lại "để ý" tôi kỹ đến thế. Mấy hôm nay chẳng thấy bạn bè trêu ghẹo gì, tôi cứ đinh ninh cái sự cố hôm nào đã trôi vào quá khứ và chẳng ai còn nhớ. Hóa ra cuộc đời còn lắm chông gai. Cuộc đời còn có tụi nữ sinh 10A2 mồm loa mép giải.
Nhưng dù giận đến ứa gan, tôi cũng chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt. Trêu vào lũ tiểu yêu này chỉ tổ quê mặt. Tốt nhất là làm theo lời dạy của ông bà "tránh voi chẳng hổ mặt nào !", nhất là khi trong "bầy voi" đó có một con voi mồm miệng móm xọm, giọng chua như giấm, cứ một điều "ông Béc-muđda" hai điều "ông Béc-muđda" nghe muốn điếc con ráy !
Phú ghẻ không biết nỗi khổ của tôi nên đến giờ tan học, nó rủ tôi ra về, thấy tôi cứ nấn ná ngồi lì trong lớp, nó giương mắt ếch lên :
_ Hôm nay mày làm sao vậy ?
Tôi khịt mũi :
_ Tao có làm sao đâu ! _ Thế sao mày ngồi đây ?
Tôi bóp trán :
_ Tao nhức đầu quá !
Phú ghẻ nhìn tôi bằng ánh mắt ngờ vực :
_ Hồi nãy tao có nghe mày than vãn gì đâu !
Thằng Phú ghẻ ngứa này, sao nó lắm chuyện thế không biết ! Tôi đã bảo là tôi nhức đầu, vậy mà nó cứhỏi tới hỏI lui. Chẳng lẽ tôi lại nói thẳng với nó là tôi sợ "đụng đầu" với mấy con nhỏ quỷ quái bên 10A2 nên đành ngồi ru rú trong lớp, đợi cho tụi nó về hết rồi mới dám ló mặt ra.
Thấy tôi ngồi im, Phú ghẻ lại hỏi :
_ Giờ làm sao ?
_ Sao là sao ?
Phú ghẻ chép miệng :
_ Chẳng lẽ ngồi đây hoài ?
Tôi vung tay :
_ Mày chờ chút đi ! Tao sắp hết rồi !
Rồi sợ nó sốt ruột, tôi vội vã nói thêm :
_ Chừng mười phút nữa tụi mình về !
Tan trường chừng mười phút, chắc chắn sân trường không còn một mống. Tôi tính thầm trong bụng như vậy nên lên tiếng trấn an Phú ghẻ. Nào ngờ tôi vừa nói xong, nó lại càng thắc mắt tợn :
_ Nhức đầu gì mà có giờ giấc kỳ vậy ?
_ Ừ, cái đầu của tao nó kỳ lắm ! - Tôi bối rối đáp bừa.
Phú ghẻ chắc chẳng tin gì lời tôi. Nhưng biết tôi đã muốn giấu chuyện gì thì có ai cạy răng tôi cũng không bao giờ nhả ra nửa chữ nên nó tặc lưỡi đặt cặp xuống bàn rồi ngồi chống tay lên cằm nhìn ra cửa sổ, đợi "bệnh" của tôi thuyên giảm.
Quả như tôi dự liệu, lúc tôi và Phú ghẻ mò ra bãi giữ xe, tụi bạn đã về hết ráo. Mấy con nhỏ 10A2 mất tăm mất tích khiến tôi mừng rơn.
Bác bảo vệ nhăn nhó nhìn tụi tôi :
_ Hai cậu nấp đâu mà bây giờ mới chịu về ?
Tôi cười cầu tài :
_ Dạ, cháu bị nhức đầu, nằm ở trong lớp.
Sực nhận ra tôi, bác bảo vệ đổi giọng ôn hoà :
_ À, cậu đấy hả ! Nhức đầu thì về nấu một nồi lá, xông một hồi là khỏi ngay thôi !
_ Dạ, cảm ơn bác !
Vừa nói tôi vứa kín đáo nháy mắt với Phú ghẻ, hai đứa riu ríu dắt xe ra.
Nhưng tôi chỉ có thể gạt được bác bảo vệ mỗi một lần. Lần thứ hai, nếu tôi còn than nhức đầu đau bụng, chắc bác không tin. Nghĩ vậy, tôi quyết định thay đổi chiến thuật. Ngày hôm sau chuông reo hết giờ vừa vang lên, tôi đã hấp tấp xếp tập lại và kéo tay Phú ghẻ chạy vù ra cổng.
Phú ghẻ chạy theo tôi mà mắt trợn tròn :
_ Mày làm trò gì vậy ?
_ Hôm nay tao phải về nhà gấp có chuyện !
Vừa đáp tôi vừa liếc về phía hành lang và yên tâm khi thấy mấy con nhỏ 10A2 còn đủng đỉnh tít đằng xa. Không hiểu sao tôi chạm trán tụi nhãi này ghê gớm, hệt như tà ma sợ giáp mặt thầy bùa. Phú ghẻ vừa dắt xe ra tới cổng, chưa kịp hỏi thêm câu gì, tôi đã phóc lên chiếc Huy Chương Vàng chạy thục mạng khiến nó cong lưng đuổi theo miệng chửi ỏm tỏi.
Nhưng số tôi đúng là cái số ăn mày. Tránh mặt tụi 10A2 được ba bữa, đến bữa thứ tư vừa phóc lên yên xe chưa kịp chạy trốn, tôi đã điếng hồn phát hiện ra bánh xe trước xẹp lép.
Chẳng thể dắt bộ về nhà trên quãng đường dài dằng dặc đầy nắng nôi bụi bặm, tôi đành thất thểu tấp vào chỗ vá xe bên kia đường.
Tôi đứng chưa nóng chỗ, tụi nữ sinh 10A2 đã ùa ra. Sợ tụi nó phát hiện, tôi vội xoay lưng lạị Nhưng mới vừa quay người, hấp tấp quay thêm một vòng nữa. Khỉ thật, con người ta ai cũng có mặt trước mặt sau, chỉ riêng tôi cả hai mặt đều là mặt trước, nhìn phía nào cũng biết đấy là thằng Chuẩn mặc quần thừa của mẹ, đố có lẫn đi đâu được !
Mấy con nhãi ranh kia lại càng không lẫn. Vừa thấy tôi đứng trơ bên đường với chiếc Huy Chương Vàng nằm bẹp dưới cỏ, cả bọn liền chụm đầu lại thầm thì rồi cười rúc ra rúc rích và đấm lưng nhau thùm thụp. Chẳng biết tụi nó nói nhăng nói cuội những gì nhưng nhìn tụi nó ngả ngớn, vừa cười vừa xô vào nhau, tôi bỗng thấy nhột kinh khủng, cứ mong tụi nó đi khuất mắt cho rồi.
Nhưng mấy con nhỏ này có vẻ như muốn hù cho tôi chết khiếp. Tụi nó chẳng thèm về ngay mà lại líu ríu dắt nhau vào quán. Thị trấn tôi ở ban trưa trời nắng như đổ lửa, giờ tan trường học trò kéo vào quán uống nước, ăn chè đá lạnh trước khi gò lưng đạp xe về nhà là chuyện thường. Nhưng hôm nay không hiểu sao tôi cứ có cảm giác mấy con nhỏ kia nấn ná không chịu về là vì tôi. Một bầy cọp bắt gặp một con dê lạc đàn đang đứng lẻ loi, ngơ ngác trên đồng vắng mà cam tâm bỏ đi là chuyện không tưởng ! Tôi bần thần nhủ bụng và tự dưng đâm tức Phú ghẻ. Gặp bữa hiểm nghèo như thế này, nó lại nghỉ học mất, đúng là thằng bạn chẳng ra gì !
Đang thẫn thờ nghĩ ngợi, tôi bỗng giật bắn người bởi một giọng chua lè :
_ Ông Béc-muđda !
Tôi nhận ngay ra giọng con nhỏ miệng móm. Trong bọn, nhỏ này hình như đóng vai "chúa trùm", dây vào nó chỉ tổ to chuyện. Nghĩ vậy, tôi đánh bài lờ và cúi đầu xuống làm ra vẻ bận tập trung đầu óc vào thằng nhỏ sửa xe đang loay hoay nãy giờ với chiếc Huy Chương Vàng nằm tênh hênh trên bãi cỏ.
Con nhỏ miệng món không chịu thua. Nó lại ngoác mồm :
_ Ông Ba-muđdéc !
Tôi giận tím gan nhưng cố nén. Tôi biết mấy con nhỏ này thù tôi về chuyện tôi được hưởng "đặc ân" của bác bảo vệ hôm trước. Tôi đi học trễ hơn tụi nó lại được cho vào, còn tụi nó bị đứng bên ngoài, vì nỗi bất bình đó mà cả bọn quyết theo "ám" tôi cho bằng được. Biết thân biết phận, hổm rày tôi trốn chui trốn nhủi, bữa ra về nào cũng bắt Phú ghẻ rượt theo muốn xịt khói. Nhưng hôm nay thì tôi hết đường thoát, chỉ có cách trân mình chịu trận.
Sự nhẫn nhục của tôi đến đá cũng phải xúc động. Nhưng khỗ nỗi, con nhỏ kia không phải là đá. Vì vậy, vẻ phớt tỉnh của tôi chỉ tổ làm nó điên tiết. Nó tiếp tục ra đòn :
_ Ông Béc...
Nhưng lần này, nó chỉ vừa kịp "Béc" một tiết đã tắc tị . Một bàn tay nào đó của một đứa trong bọn đã bịt lấy cái miệng móm xọm của nó .
Tôi không nhìn nhưng hoàn toàn có thể hình dung được. Bởi sau đó là tiếng con nhỏ miệng móm thét lên the thé :
_ Mày làm gì vậy ?
_ Thôi, đừng chọc người ta nữa ! - Một giọng dịu dàng đáp khẽ.
_ Chà, nhỏ này bữa này lại bênh vực "kẻ thù", tụi bây ơi !
Tiếng cả bọn cười khúc khích. Rồi vẫn giọng dịu dàng khi nãy cất lên :
_ Tao có bênh vực gì đâu ! Mày muốn gọi gì thì gọi, nhưng đừng gọi người ta là Béc-muđda nữa !
_ Tao cứ .
Con nhỏ miệng móm khăng khăng. Nhưng mới thốt lên được hai tiếng, có lẽ sực hiểu không nên tiếp tục trêu chọc sự nghèo khó của người khác, nó bỗng đổi giọng :
_ Vậy tao gọi tên mày hén ?
_ Này, này
Tiếng nhỏ kia hốt hoảng. Nhưng nó chưa kịp ngăn cản thì con nhỏ miệng móm đã chĩa mồm về phía tôi, kêu lớn :
_ Cẩm Phô !
Từ nãy đến giờ, tôi không dám đảo mắt về phía tụi nó lấy một lần nhưng tai tôi dỏng lên như tai mèo và nghe rõ hết mọi chuyện. Tôi không hề lấy làm lạ về thái độ của con nhỏ miệng móm nhưng lại vô cùng ngạc nhiên về cách xử sự của con nhỏ kia. Hóa ra trong bọn nó cũng có được một đứa tử tế. Đã mấy lần tôi định liếc mắt xem thử mặt mũi con nhỏ đó đẹp xấu ra sao nhưng cuối cùng tôi kềm lại được. Tôi đang đóng vai một người điếc bẩm sinh nên không muốn mấy con nhỏ đó biết là tôi đang quan tâm đến tụi nó.
_ Cẩm Phô !
Con nhỏ miệng móm lại kêu tôi.
Khi nãy tôi tái mặt vì giận, còn bây giờ thì tôi đỏ mặt vì ngượng. Tôi cảm thấy người nóng bừng và mồ hôi ướt đầm lưng áo. Thậm chí tôi không cả nhúc nhích, tay chân bỗng chốc trở nên cứng đơ, vướng víu.
Dường như nhận ra sự bối rối của tôi, mấy con nhỏ khác liền hùa theo con nhỏ miệng móm réo om sòm :
_ Cẩm Phô ! Cẩm Phô !
Con nhỏ có tên Cẩm Phô không biết có mắc cỡ như tôi không, nhưng chắc là nó đang thò tay ngắt véo lũ bạn nghịch ngợm nên mấy con nhỏ kia vừa kêu réo chọc phá vừa la "oái, oái" luôn mồm.
Tôi vẫn đứng trơ thân cụ và chưa bao giờ cảm thấy thời gian trôi chậm như vậỵ Thằng nhỏ mới sửa xe chừng mười phút mà tôi tưởng như nó loay hoay tới hàng giờ và động tác của nó không hiểu sao trông cứ rù rờ như trong phim quay chậm. Đã mấy lần tôi định ngoác mồm ra giục nó nhưng lại sợ mấy con nhỏ kia nhìn thấy vẻ hốt hoảng của tôi nên cuối cùng tôi đành ngậm miệng làm thinh, lòng nóng như lửa đốt.
Mãi đến khi nó nhét ruột xe vào và cầm lấy cái bơm, tôi mới thở hơi dài nhẹ nhõm.
Khi cầm lấy ghiđdông chiếc Huy Chương Vàng, tôi định bụng sẽ chạy ngang qua mặt bọn nữ quái kia một cách ung dung, thong thả, ra vẻ thằng này cóc biết sợ ai, nhưng chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào, ngồi lên yên, tôi bỗng vội vàng mất hết tự chủ và cong lưng phóng thục mạng.
Chạy tít đằng xa, tôi còn nghe chuỗi cười của bọn nữ quái văng vẳng đuổi theo.

Nguồn: docsach.mobi