27/2/13

Đảo hoang (C5-6)

Chương 05

Một sớm kia, Phong Châu còn ngủ im trong làn sương dày. Những người đi mò hến và bắt ốc, hớt tôm sớm trong bờ sông Cái nhìn ra còn thấy từng đoàn thuyền rúc mũi vào nhau, đỗ san sát. Thấp thoáng ánh lửa nấu nước uống sớm ở đầu khoang nào đó vừa chợt ló ánh lên lại bị vùi ngay vào mù sương trắng xóa vừa xuống tận mặt nước, làm cho cái bến sớm càng hiu hắt hơn. Giữa lúc ấy, có sáu chiếc thuyền to lần lượt rời bến, êm như biến đi. Thuyền nào cũng đốc sào đẩy lẳng lặng xuôi ra đến giữa dòng mù sương mới động chèo. Đấy là đoàn thuyền áp giải cả nhà An Tiêm đi biệt xứ. Vợ chồng An Tiêm và hai con ló đầu lên khoang thuyền nhìn lại cái bến vẫn đang còn ngủ trong làn sương thấp bọc hai bên bờ nước, chỉ thấy nhấp nhô người lầm lũi mò hến và những con vạc đi ăn đêm về. An Tiêm cảm thấy bùi ngùi, khi nhớ rằng cũng cứ ngược con sông Cái, chèo độ tháng ròng thì tới vùng Bãi Lở. Ba Vì núi nhọn hoắt trên đỉnh Tản Viên đối nhau với bên kia ba gờ núi Tam Đảo xanh thẫm, trông cũng đoán biết cứ theo dòng sông Cái này lên sẽ qua Bãi Lở, dưới chỗ xanh xanh ấy là đất Bãi Lở. An Tiêm cười, nói:
- Mình ạ, hơn mười năm trước, vợ chồng ta lên ngược đi mở đất, bây giờ thì xuống xuôi, cũng đi mở đất... An Tiêm trỏ tay bảo hai con:
- Nhà ta trước ở đằng sau làn sương kia. Trong tâm trí hai người lớn, Bãi Lở hiện ra, lẫn lộn những nét buồn. Mon và Gái đương thích chí. Trẻ con ở cạn, mỗi khi được cưỡi lên nước, bao giờ cũng vui. Chỉ một bơi chèo đẩy con thuyền xa vài sải, đã ra vẻ phong cảnh đổi khác rồi. Bấy giờ, đỉnh cao trời trong, mặt nước còn mờ sương. Mon nói:
- Mọi khi con trông thấy khói thổi cơm sớm Bãi Lở bay xuống sông cũng thành sương dày thế này.
Gái lạ lùng nhìn những đàn vạc đi ăn về bay lẻ tẻ trên dòng sông tan sương, phút chốc đôi cánh vỗ nhịp nhàng đã loang loáng chấp chới đầy ánh nắng, càng bay càng xa. Chẳng bao lâu, sáu chiếc thuyền giương buồm băng băng xuôi trên dòng cứ mỗi lúc một lớn, hai bên bờ càng tít tắp. Bỗng đằng đuôi, hiện ra một chiếc đò dọc nhỏ như chiếc lá tre, vun vút đuổi theo. Đã sang ngày thứ hai rời bến. Đúng ngày mà người kinh đô đã nghe đồn hôm ấy quan lạc tướng An Tiêm đi nhậm chức. Người tiễn quan lạc tướng kéo ùn ùn ra bến sông Cái. Đến sáng đã đông đặc khắp ven sông. Nhưng chờ đến trưa, rồi chiều cũng không thấy gì. Bến quan thuyền bè xuôi ngược và ra vào áp mạn chen chúc kín mặt nước. Người ra tiễn cứ đi hỏi thăm mãi, cũng không ai biết thuyền quan lạc tướng An Tiêm đi nhậm chức ở Cửu Chân đậu đâu. Các cụ già Bãi Lở lo lắng:
- Có khi chủ tướng đi rồi. Một cụ nói:
- Tôi dò thấy một người lái đò ngang nói tinh mơ hai hôm trước có đoàn sáu thuyền xuôi, nghe đồn thuyền quan trảy ra cửa bể.
- Thế thì đúng rồi. Một cụ thở dài:
- Chuyến này chủ tướng đi, lành ít dữ nhiều. Nhưng mới đi hai hôm, chắc không xa.
Thế rồi, một chiếc thuyền nhỏ rời bến, vụt đi như tên bắn. Trên thuyền, một cụ già và một người trai trẻ, có đủ đồ nghề lưới gõ như chiếc thúng câu được con nước đương xuôi mạnh. Chẳng bao lâu đã bắt kịp được đuôi đoàn thuyền chở An Tiêm. Cái thuyền nhỏ khôn ngoan không áp vào hàng thuyền trên đầu, cũng không đến bên thuyền cuối, mà họ chèo ghé tới chiếc thuyền thứ năm, kề ngay dưới đuôi lái. Bấy giờ nước đương cữ lớn, lại được gió, những cánh buồm cói căng hết góc, còn người chèo thuyền thì được lúc thong thả thả tay, nằm dài cả ra ngủ trên mui. Chỉ có mỗi người lái phải thức, đương gà gưỡng đưa đẩy cái cán lái to tướng. ạng già dưới mặt nước gọi vọng lên:
- Chú lính ơi! Người lính choàng trông ra:
- Gì thế, cụ? ạng già nói:
- Già hỏi không phải thì chú bỏ đi cho, có phải ông An Tiêm trên thuyền này? Người lính trợn mắt, đảo nhìn vội lên mặt sông phía trước. Đoàn thuyền vẫn xuôi thẳng băng giữa cơn gió bấc nhạt nhẽo còn sót lại của những ngày cuối mùa hoa bưởi đương lồng lộng trong nắng nhẹ, làm cho con nước cứ truồi đi đâm lại, xôn xao lên một cách kỳ lạ. Người lính hỏi khẽ xuống:
- Cụ già ở đâu?
- Già người Bãi Lở.
- ...
- Già ra đến bờ sông thì nghe tin chủ tướng đi rồi. Già này đã gần kề miệng lỗ, không biết có còn được gặp chủ tướng lần nào nữa không, chú lính thương già.
Người lính nghe ông già nói thế thì mủi lòng. Vả chăng, ai người đã xem hội kinh đô vừa rồi mà không mến yêu người Bãi Lở! Bèn quăng cái chão néo xuống cho chiếc thúng con buộc núp vào đuôi lái, rồi đỡ ông già và người trẻ leo lên.
- Tôi đi mời quan lạc tướng lại đây. Này, đừng ai lên mui, thuyền quan tuần qua mà biết thì chết cả.
- Dạ dạ... ạng già vừa trông thấy An Tiêm, đã rơi nước mắt. An Tiêm chỉ cười:
- ạng lão chớ lo cho tôi. Gian nan đến như khi Bãi Lở, thì cũng đến thế mà thôi. Chân cứng đá mềm, ông lão ạ. ạng già đưa biếu An Tiêm một đôi giày cỏ và một chiếc nón lá cọ.
- Đây không phải của riêng lão mà là của người Bãi Lở tiễn chân chủ tướng. Vật thì thường, nhưng quý ở lòng, xin chủ tướng giữ cẩn thận, có khi cần đến. An Tiêm toan nói:
“Khi xuống thuyền, đến lúc gà gáy sắp đi, bọn quan quân còn khám gắt khám kỹ từng nẹp áo, không cho mang gì theo, cốt hãm ta vào chỗ chết", nhưng An Tiêm lại không nói như thế. An Tiêm bảo ông lão:
- Những người ấy không hiểu được ta. Khám thì khám, phỏng thử đem đi một mảy thóc, một mảy hạt vừng thì có khó nỗi gì! Nhưng ta không mang, ta nhất quyết không khuất tất, không mang. Con người nương tựa ở bàn chân bàn tay này chứ còn ở đâu. Ta chẳng cần một mảy may gì. ạng lão khẩn khoản:
- Vật thì thường, nhưng quý ở tấm lòng người Bãi Lở chúng tôi, xin chủ tướng biết cho... Nói mãi, An Tiêm phải nhận. Rồi lại cứ tự nhiên và sôi nổi bàn bạc, dặn dò mọi chuyện làm ăn ở Bãi Lở. Trước sau, An Tiêm nói đi nói lại:
- Phải trông con nước mà chặn lại thì mới có đất sống được, bảo nhau thế.
- Chủ tướng đừng lo, bao nhiêu năm nay người Bãi Lở ta đã biết ngăn lũ lấy đất sống. Nhưng An Tiêm vẫn khắc khoải. Buồn như chim lìa đàn, như tổ ong vỡ, ong mất chúa. Mặt trời đã gác núi. Chiều mờ mờ trên sông. An Tiêm và ông già cùng người trẻ Bãi Lở vẫn ngồi trò chuyện, chưa nỡ chia tay.
Bỗng có tiếng quát dưới lòng sông vang lên:
- Thuyền nào đây? Lúc ấy đương buổi tuần chiều. Thấy có cái thúng lạ buộc vào thuyền lớn, bọn lính tuần quát hỏi. Người lính lái thuyền vội bảo An Tiêm lui vào trong khoang. Rồi người lính cầm hai cái giỏ to, nhúng nước, ném lên vai cho người trai trẻ và ông già. Sau đó, hai người trèo xuống. Như người đánh cá trên sông. Người lính nọ ngồi lái thuyền, thò đầu ra ngoài cửa, đủng đỉnh, tay gạt lái miệng nói vọng ra, trả lời bọn lính tuần:
- Gọi phường chài lên đổi cá để ăn lấy sức chèo đêm đấy!
- Đã bẩm quan chưa?
- Chỉ đổi cá ăn thôi, việc gì phải bẩm.
- Không được, không được. Chiếc thuyền canh chèo lướt lên, đi báo quan.
Thấy thế, người lính buông ngay tay lái rồi hấp tấp nhảy theo xuống chiếc thuyền của hai người Bãi Lở. Người lính ấy sợ quan đến khám thì có khi phải tội, đã bỏ trốn. Chiếc thuyền nhỏ được cởi dây trôi băng ra giữa dòng, cả ba người cùng chèo lẩn nhanh vào sương mù đã bắt đầu giăng trên mặt sông rộng. Lát sau, ở đoàn thuyền, mấy cái thúng chở lính đã ập tới. Họ lên thuyền thấy vợ chồng con cái An Tiêm vẫn bình thường ngồi trong khoang cái. Nhưng hỏi đến người lái lúc nãy vừa đối đáp thì không thấy. Bốn phía mặt nước mù mịt rồi. Cả toán chèo thuyền ấy phải đóng gông vào cổ, lập tức bị điệu sang tù giam trong gian đáy thuyền khác. Đoàn thuyền xuôi ròng rã hơn mười ngày thì ra đến cửa biển. Nhìn ngược lại, không còn biết núi Tản Viên, núi Tam Đảo ở đâu. Rồi có đến mấy ngày nữa, vẫn chỉ thấy nước đỏ xuộm như đi trong sông. Đấy là vì phù sa ở cửa sông Cái tuôn ra ngày đêm bồi biển thành những sườn cát non lênh láng màu đỏ son. Xa xa, những vùng nấm đá đỏ hắt như ánh hoàng hôn. Những bãi hầu lởm chởm giống những bông hoa đá vừa nở vừa chuyển động. Cửa sông đã lùi lại, man mác dần dần, rồi có một lúc, trông lại, chẳng thấy đất quê đâu, đến khi ngước ra trước mặt thì chỉ còn một trời một nước với từng đợt sóng nguồn dài như những con trăn quăng mình, và từng đợt con mòng, con sếu bay thành đàn trên trời cao. Bấy giờ đã vào mùa nắng, những đàn mòng, đàn sếu đi tránh rét bay rợp vùng biển trở về phương bắc. Lần đầu tiên, anh em Mon trông thấy biển. Còn đương ngơ ngác, những cơn gió mạnh đã thổi tới, muốn làm bay người xuống nước. Từ lúc ấy, nỗi nhớ đất cứ bâng khuâng day dứt hai anh em. Những dấu vết sau cùng của mùa hoa còn sót lại cũng đã lặng lẽ qua. Mọi hôm, còn ở trong sông, cứ đến chặp tối, khi những cánh lính đổi bọn chèo thì những tiếng hò lại rộn mặt sóng. Phách nhất chèo mở mái ra Phách nhì chân dặm Phách ba reo hò Phách tư bớt dặm khoan chèo Dô ta Dô tà...
Bây giờ, chặp tối im bặt. Những người lính chèo thuyền ra biển sợ không dám cất tiếng hò nữa. Trên mặt biển, ngày đêm chuyển động những cơn gió lớn báo hiệu trận bão đầu mùa có thể thổi đến, làm vật vã mệt nhọc cả người và thuyền. Vừa một tuần trăng. Đã sang vùng biển xanh như lá và từ đây, chỉ còn những thăm thẳm buồn bã thế. Một hôm, thấy bóng chim rập rờn đầu thuyền, rồi bay trở lại. An Tiêm nói:
- Thế là ta ra đã xa lắm.
- Sao bố biết?
- Chim đã bay trở lại đất trong bờ rồi. Suốt đêm, đoàn thuyền vào vùng biển phẳng lặng. Giàn sao lấp lánh cả trên trời dưới nước và tiếng nước óc ách gõ nhịp quanh người. Đột nhiên, gần sáng, Mon đương ngủ say, bỗng mê thấy mình ngã vật mạnh vào bên mạn. Đến khi thật sự thấy đau điếng hẳn bên vai, mới biết ngã thật. Lúc ấy, Mon nhìn ra, cả nhà đã nhốn nháo xô giạt về một phía. Chiếc đèn bấc quang treo trên vách khoang xoay tròn. Rồi vụt tắt. Tiếng thình thình đập vào mạn thuyền, như vồ nện. Ngay trên đầu, chân người chạy liên tiếp xô lên xô xuống ngoài mui. Tiếng hú, tiếng xô của những người chèo báo hiệu đẩy thuyền cho nhau kéo dài rồi mất hút vào tiếng gió, tiếng sóng và bóng tối gào thét. An Tiêm nói:
- Bão rồi. Vợ chồng con cái ngồi quây một chỗ trong chiếc thuyền đương nhấp nhô nhảy nhót. Có lúc mất đà, thuyền trượt tuột theo chân sóng, người như bị ngã cây, ruột gan hẵng lên. Rồi tự dưng sóng lại ào ào trở lại, quay cuồng, xoay con thuyền chong chóng. Cơn say sóng mấy hôm vừa bớt, bây giờ lại nôn nao.
Nàng Hoa gục một góc khoang. Gái nằm lả. Chỉ còn mình An Tiêm ngồi nguyên, có Mon bám hai tay lên vai bố. Như không biết cả bốn phía sóng đương điên đảo đập chiếc thuyền. Một chiếc thuyền đằng sau bị sóng độn nhô vút lên, rồi lao xuống, không thấy ngoi lên nữa. Những cơn sóng ngầm đã lắc vỡ tan cái thuyền, ngay trước mắt. An Tiêm bình tĩnh nói:
- Các con ạ, lúc nào trông ra bể, các con cứ nhớ câu chuyện Bãi Lở bố kể hôm nọ nhé. Các con cứ nhớ chuyện bố khi bố còn bé, bố ở bờ bể, ngày nào cũng thấy sóng gió thế này, đến khi lên Bãi Lở, ngày nào trời đất cũng thử thách thế này. Đây cũng lại thế, hàng nghìn hàng vạn con trăn bể, con rắn bể, con trâu bể đến húc, đến quấn, đến thử lá gan các con đấy. Mon ngẩng đầu, rắn rỏi hỏi bố:
- Bây giờ lấy đá ở đâu ném nó? An Tiêm cười:
- à, giỏi lắm! Nhưng lúc này chúng ta đương ở trong thuyền. Bình tĩnh, nó không thể làm gì được. Nó không thể hung hăng mãi thế đâu.
- Tại sao vậy?
- Sóng to không thể to mãi. Có lúc sóng cũng phải mỏi, phải rút chạy mà ta thì vẫn như thường. Con cứ chú ý mà xem. Trời đã mờ sáng, Mon trông ra ngoài mặt biển, thấy hàng nghìn vạn con thủy quái xám sì hung hăng dựng đứng lên, nanh vuốt trắng xóa. Cái thuyền càng bị đe dọa, cứ phút chốc bị nhấc bổng, phút chốc bị ném sâu xuống. Mon khiếp quá, nhắm mắt. Nhưng Mon lại nhớ chuyện bố kể. Những ngày đầu bố mẹ đến Bãi Lở. Những ngày thuở bé trôi nổi của bố. Mặt biển và con sóng ngày ấy cũng hung tợn thế này... mà bố mình vẫn mạnh khỏe. Thế là Mon bảo Gái:
- Đừng nhắm mắt, đừng sợ, em ạ!
Mon cứ mở mắt trân trân nhìn qua cái lỗ ống tre cửa khoang bằng bàn tay. Mỗi lần thuyền bị vùi trong sóng, sóng ngầm lắc thuyền kêu răng rắc, nước ào qua mui, lại phun ộc vào như mở cống. Mon không sợ, Mon cứ nhìn. Mon không sợ! Như bố ngày trước. Không sợ! Quả nhiên, đến chiều, những làn sóng dữ dần dần thu mình lại, biến đâu mất. Biển lại bâng khuâng, hiền hậu. ồ, sóng cũng phải có lúc mỏi, thế thật. Một hôm, An Tiêm nói:
- Sắp đến đảo.
- Sao bố biết?
- Sóng cứ lăn tăn lúc nhỏ lúc to, sóng vướng bờ đằng kia rồi mà. Đến chiều, thấy nổi lên ngang mặt một vệt đen lởm chởm dài. Mon hỏi bố:
- Đảo này a?
- Có nhẽ thế. Mon bỗng thấy cái đảo này cũng thường thôi. Đằng xa, Mon thấy mình đứng lên, cao hơn cả hòn đảo lúc ấy chỉ dẹt đét bằng sợi chỉ trên mặt nước. Mon hỏi bố:
- Đảo này có người ở không ạ? An Tiêm nhìn con, ngần ngừ, rồi nói:
- Bố chưa biết. An Tiêm không ngơ ngác, cũng không thơ thới như các con. An Tiêm trầm ngâm. Thế là cuộc đời sắp sang khúc khác. An Tiêm lặng nhìn bờ đảo xám dài, lạnh lẽo dầm chân trong nước và sương mù. Mặt biển đùn lên những cơn gió đột ngột, đẩy đoàn thuyền lướt nhanh vào bóng tối run rẩy, bạt về phía cái đảo hoang.


Chương 06

Chạng vạng tối, đoàn thuyền đến sát bờ đảo
- vách đá trố ra như tường dựng. Còn ở ngoài mênh mông, Mon đứng trên mui, thấy bóng đảo chỉ đến ngang ống chân. Bây giờ, ngồi dưới thuyền ngửa cổ nhìn lên, không trông hết được một tảng đá. Rồi, núi đương sẫm tím thoắt đổi màu. Núi vừa gần kề trên sống mũi bỗng mù mịt tận đâu. Hoàng hôn vàng ệch dựng cả một rặng núi cắm chân xuống nước, xa trước mặt. Đằng sau, mây cuồn cuộn lan đầy mặt biển như khói hun. Viên quan coi thuyền ra đứng ngoài mũi, nhìn ngang đảo, cơ chừng muốn xem chỗ nào áp mạn được rồi gọi các thuyền lại. Mặt tái ngắt như còn hoảng cơn bão, viên quan dằn giọng:
- Từ giờ đến tối, phải tìm cách bỏ cho được người ta lên trên kia. Rồi quay ra luôn. Một người lính nói:
- Trời im ắng lắm. Chỉ sợ sắp có gió bốc thôi. Mùa này mà gặp gió cạn còn sợ hơn bão nữa! Viên quan cau mặt, trỏ tay lên đảo, nói:
- Biết thế nào mà nằm đêm trên núi ma kia! Muốn tao tống một mình mày lên a? Không ai dám cãi một lời. Tất cả đoàn thuyền đỗ lại ngoài vùng nước ráng đỏ. Viên quan tránh mặt không gặp An Tiêm mà chỉ có một cái thuyền đưa vợ chồng con cái An Tiêm từ từ lướt vào mặt nước lẫn đá và bóng tối. An Tiêm trông lại, chép miệng:
- Bọn nhát sợ đã rúm khoeo lại ngoài kia cả rồi!
Nàng Hoa cúi mặt, lặng im. Thấy bố bảo bọn hèn nhát như thế, lúc đầu Mon và Gái cũng có ý sờ sợ. Thuyền vào gần. Bóng đảo đổ sụp xuống trước mặt, mù mịt cả hai phía. Nhưng thấy bố nhìn thẳng vào núi, hai mắt đăm đăm, cằm bạnh suy nghĩ, không nói gì nữa, hai anh em cũng vững bụng hơn. Thuyền đã kề gờ đá. Nhưng không cách nào bám. Những đợt sóng lại đẩy thuyền rập rềnh đập vào thành đá rồi thuyền lại trôi ra. Cố trèo men một quãng nữa, lại phải quay lại. Chẳng tìm ra chỗ nào bám được. Cứ dò dẫm mãi thì tối trên vực mất. Bỗng thấy một vấu đá lừng lững chĩa ra. Mấy người lính xuống cái thúng, loay hoay bơi liều vào, giắt theo chiếc chạc lớn. Cái chạc được kéo theo, quàng trên vấu đá. Người đứng trên, lôi thuyền áp khít vào rồi chìa một khúc gỗ ra làm cầu. Cầu tròng trành như cầu noi. Dưới vực sâu im lặng không một tiếng động nước. Người bước cứ bước, không biết thế nào, không dám trông xuống. An Tiêm, lưng cõng Mon, tay dắt Nàng Hoa. Nàng Hoa cõng Gái. Khúc gỗ rung rẩy bàn chân. Một người lính kêu ồi ồi rồi xốc nhanh cái Gái lên trước, thế là cả Nàng Hoa cũng bíu người lính theo lên được. An Tiêm còn quay lại, định khiêng hai tay nải bánh dày, nhưng mấy người lính đã nhanh tay cắp đỡ. Tất cả lên đảo chỉ có thế. Họ ngồi lại chon von ngay trên mỏm đá. Chưa tìm được lối nào trèo lên nữa. Trời đã tối thui. Trên đỉnh núi, mây thấp vùn vụt đổi màu đỏ đậm như những lá cờ điều phất qua. Đám người chụm lại, bật hồng. Có người tìm quanh, quơ được mấy mảng rêu khô, nhen thành đám lửa. Chưa phải mùa lạnh, nhưng hơi núi gây gây toát ra bóng tối, đã lạnh thít người lại rồi. Đống lửa nhỏ lom đom, run rẩy. Những người lính lại móc ở đâu được mấy nắm rêu nữa, buộc thành cái nòm dài như chiếc đòn vác lên vai. Họ làm đuốc để dò đường trở xuống thuyền. Một người nói:
- Bây giờ chúng tôi theo lệnh quan phải trở lại. Xin chủ tướng biết cho lòng thành của chúng tôi. Có mệnh hệ thế nào đừng oán chúng tôi. An Tiêm cười, nói:
- Không, không, thế là các người đã tốt với chúng tôi quá. Các người cõng giùm các cháu lên, lại để cho lương ăn.
Lại đốt cho đống lửa. ở chỗ cùng trời cuối đất này, tôi không bao giờ quên được. Tối rồi, hãy trở lại thôi. Bó đuốc rêu trên vai người lính đã cháy đỏ. Bóng những người trở xuống thuyền lẫn vào bóng tối mờ, còn trông thấy mảnh ván nhấp nhoáng. Họ đã sang thuyền được. Phút chốc, tiếng rút soạt mảnh gỗ rồi mái chèo khua oàm oạp trên nước, nghe một lát, thuyền đã ra xa, ra xa, rồi im. Chỉ còn trông cái nòm đuốc đỏ mờ mờ trong sương trên đầu thuyền, biết dưới ấy có người và những người ấy đương rời đảo ra khơi. Hốt nhiên, từ các đỉnh núi, như cùng một lúc, khạc ra một tiếng gầm chuyển động. ấy là một cơn giông cạn xoáy tới, tràn luồn qua các khe đá. Những đầu gió va vào nhau, vập vào núi, phát ra những tiếng kinh rợn. Đống lửa trước mặt vợ chồng An Tiêm bốc lên, xoáy đi mất. Xung quanh tối bưng. Dưới kia, cái nòm đuốc của đám lính trên thuyền cũng đương tan rữa vào bóng tối. Bắt đầu có tiếng sóng hú. Rồi sóng dâng cao lên trên đầu, hình như trông thấy cái thuyền dềnh lên, một bóng đen như núi đổ lao qua rồi chìm xuống, giữa tiếng gầm sóng có tiếng người kêu thét như từ nơi âm ty nào lọt tới. Đoàn thuyền, đoàn người ngoài kia, mới nãy còn thấy thấp thoáng ánh lửa, bây giờ chỉ còn bóng tối và tiếng biển gào. Có lẽ cũng ngụp cả rồi. An Tiêm thét to:
- Bíu lấy đá, bíu lấy đá, mình ơi, các con ơi! An Tiêm đã nằm rạp rồi lại chồm ngay lên, gạt Mon và Gái và Nàng Hoa lăn vào trong giữa gờ đá. Những cơn gió lại ầm ầm giựt lên, đánh cả những tảng đá to đổ rào rào xuống biển. Trông ra thấy những con sóng trắng xóa bóng đêm. Con sóng khủng khiếp gieo xuống ngay chỗ lúc nãy thuyền mới đặt chân lên. Nếu không bíu kịp vào khe đá, cả người chắc bị quăng theo. An Tiêm bảo Nàng Hoa:
- Con sóng này mà lên đến đây nữa thì... Phải cố trèo lên cao nữa mới được. Cứ thế, bò chạy trốn sóng. Những con sóng lên cao lưng chừng trời, ngã vào nhau, vỡ ra xung quanh. Nhưng may, chưa một đợt sóng gieo xuống núi ấy...
- Mình xem thế nào, nghỉ lại đây được chưa.
Cái Gái mỏi lắm rồi, tay nó lạnh, đầu nó nóng quá, khéo mà sốt... An Tiêm bíu đá, nhón chân bước ra. Lần thêm mấy bước nữa, rồi đứng lại. Chỗ ấy, có một khoảng rộng, nhưng quanh vẫn chỉ lồi lõm đá. Tiếng sóng đã ở dưới sườn. Nhưng con sóng dữ nhất, xô lên, nghe như sóng chỉ ghè đầu đập vách ngoài. Tiếng gió xiết quanh rồi cuống cuồng leo lên cao. An Tiêm giơ tay. Cánh tay bị gió hất loạng quạng vào đá. Nhưng chỉ đứng thẳng lên mới bị gió tạt, ngồi xuống, đã khuất hẳn. "Có thể núp đây được. Hãy tạm cho qua đêm nay!"
An Tiêm nghĩ thế rồi toan quay lại chỗ Nàng Hoa và hai con. Nhưng chợt nhớ, cả hai cái tay nải bánh dày đã quên dưới ghềnh đá. Lúc nãy, cơn gió đột ngột đến, chỉ biết bối rối chạy. Làm sao bây giờ? Phải xuống tìm cái tay nải bánh dày mới được, phải xuống ngay. Sóng còn đánh to nữa. Có thể trôi mất. Mà có khi trôi mất rồi. Phải xuống tìm ngay. An Tiêm có trí nhớ lạ lùng, giỏi như con ngựa đi đêm. Chỉ hai bàn tay bíu đá, hai chân bước mò. Thế mà, tay chân như có mắt, cứ chăm chắm thẳng vào tảng đá đã bíu, cứ thế, lần xuống. Một lưỡi sóng đùng đùng đột lên, tưởng sắp úp xuống kín núi ngay trên đầu. An Tiêm vội nằm xuống. Nhưng những con sóng đâm vào nhau trên cao rồi cùng ngã vật xuống, tiếng nước xiết ghê hai mang tai. An Tiêm đã lần tới mỏm đá lúc nãy. Đây rồi. Bãi đá ướt nham nhở nhưng sóng chưa cuốn tới. An Tiêm vớ được cả hai cái tay nải. Lập tức, An Tiêm vác bổng lên một bên vai, bao đằng trước, bao đằng sau. Bấy giờ đã mệt lắm. Nhưng cũng không thể trù trừ đứng lại. An Tiêm ré chân trèo thốc lên. Một cơn gió khác lại giựt người xuống. An Tiêm nắm hai cái tay nải. Bấy giờ mới chợt nhớ cái nón lá cọ vẫn buộc úp trên cái tay nải sau lưng. An Tiêm sờ xem nút buộc có chắc không. Nghe có tiếng lăn lọc cọc trong nón, An Tiêm nắn thấy hai hòn cuội to cộm, lại thấy gồ một cục, An Tiêm biết ngay đấy là cái sừng trâu. Đá cuội và sừng trâu để đánh lấy lửa. Bất giác, An Tiêm thở dài, nghĩ:
“Ta chỉ biết khinh ghét bọn tầm thường mà không biết lo xa. Người Bãi Lở biết lo xa hơn ta". Rồi móc trong nón ra hai hòn cuội và mẩu sừng trâu, giắt vào cạp khố, cho chắc chắn. Bỗng giữa tiếng sóng, tiếng gió có tiếng người kêu. An Tiêm vừa hú vừa nhô khỏi gờ đá đã nghe tiếng hú ập vào trước mặt. Thì ra, đã trở lại được chỗ cũ rồi, nhưng vách đá cản tiếng xa đi. Ngay ở trước mặt, Mon hét lớn:
- Bố về à... Mon chạy ra, choàng vào người bố, thật bố. Mon lại hỏi reo lên:
- Cái gì đây?
- Bánh dày. Nàng Hoa hỏi An Tiêm:
- Sao đi đâu lâu quá?
- Bỏ quên cái nải dưới kia.
- ại chao! Trong bóng tối cơn bão, không trông thấy nhau, tiếng nói cứ vời vợi. An Tiêm bảo:
- Tìm được nơi kín gió, chắc chắn hơn, sóng không đến. Thế là lại lần ra gờ đá. Bốn phía có đá chắn cao. An Tiêm xếp cho mẹ con Gái vào trong cùng, kê cái tay nải chắc chắn bên cạnh. An Tiêm và Mon ngồi ngoài. Mọi người lặng im. Vừa lúc chiều còn trong thuyền, bây giờ đã trên đỉnh núi, không biết ở đâu, giữa tiếng sóng, tiếng gió quay cuồng. Nhưng vẫn đủ mặt mọi người trong nhà. Mon cũng không lấy gì làm lo lắng. Bố con ngẩng đầu lên nhìn trời. Chẳng biết còn sớm hay đã khuya. Trời cũng đen như đá. An Tiêm bảo các con:
- Bão cạn thì không có cơn trận gì đâu. ở những vùng núi đá hay thình lình có bão cạn. Gió lùa vào ngóc ngách núi, quẩn không ra được, xoáy mãi lên thành bão. Nhưng đến lúc thoát ra được thì chỉ một lúc tan cơn. An Tiêm dỗ các con:
- Các con nằm xuống, ghếch đầu lên cái nải này. Gió chỉ ở ngoài kia thôi, sóng chỉ xô đến dưới kia thôi, không sợ. Ngủ đi, ngủ yên, Gái ạ. Gái thiêm thiếp sốt giật, nằm trong lòng mẹ, nghe không rõ lời bố.
Nhưng Mon nghe mỗi câu nói của bố, tin cậy, vững chắc. Mon muốn ngủ mà không ngủ được. Không phải vì lo, mà Mon đương mải nhìn lên xem mảng trời trên đầu. Bốn phía đá tối đen, hở một mảng trời lúc mờ lúc sẫm, ào ào chuyển động. Dù sao cũng còn có một mảng trời đụng đậy, còn có cái để xem. Mon ngắm lên mãi. Mắt Mon hoa chăng. Mon vừa thấy lóa một đốm sáng. Không, rõ một đốm sáng. Mon lại nhìn. Nhưng không thấy nữa. Mình hoa mắt rồi. Một lát sau, lại thấy, lần này thấy một đốm, hai đốm, ba đốm rồi một lúc, những đốm sáng lại biến mất. Lạ lùng, Mon hỏi bố:
- Bố ơi! Cái gì sang sáng trên trời... An Tiêm nhìn lên rồi nói to:
- Sao! Sao đấy! ạng sao đấy! Từ chặp tối, nền trời chỉ có đen sũng, khiến Mon quên rằng trên trời còn có những ông sao. An Tiêm đứng dậy, vươn vai, nói:
- Thế thì bão đương tan. Mây đen đã mỏng lắm, lác đác thấy sao rồi. Hai bố con không ngủ, cứ chong chóng nhìn lên trời, xem bão tan. Những vì sao loáng thoáng sáng rồi lại tối, có lúc còn sẫm hơn, rồi lại thoáng bóng sao. Cứ thế, cho đến một lúc cả bầu trời, như ai vừa cụp cái quạt thóc, các ông sao được rắc lên, lóng lánh, ngời ngợi. Sao mai nghiêng về phía ấy, đất quê ở đây kia. Mon lại đếm đủ các thứ sao như đã thấy những đêm mùa nắng còn ở sông Cái, bố trỏ xem sao, đếm sao. Mon thấy trời sao trên núi này chẳng khác trời sao ven sông Cái. Sao lưỡi cày, sao gàu nước, sao gông cỏ... Cả trời sao rời rợi. Sau cơn bão, ánh sáng sao rợn hơn đêm bình thường. Khắp trời bao la, những ánh sao sắc ngọt, những ánh sao đứng im, những ánh sao lung lay, đương rơi. An Tiêm nói:
- Lặng gió rồi, con thấy không? Những ngọn gió cuối cùng nhẹ nhàng rút đi lúc nào cũng không ai biết. Tiếng sóng nào là tiếng sóng cuối cùng vật vã lên ngọn đá, cũng không nghe nữa. Bây giờ, trông đến tận mù mịt cuối trời, chỉ thấy lay láy những ánh sao. Rồi cả nhà bỡ ngỡ nhìn ra một buổi sáng trên lưng núi. Trận bão cạn đêm qua còn phảng phất như một cơn mê hoảng. Bấy giờ mới nhận ra nơi này chênh vênh ở sườn một dãy núi, hút mắt nhìn sang hai bên cũng chỉ toàn một giống đá tảng đen sẫm lởm chởm xuống tận mặt biển. An Tiêm để tay lên trán, dõi mắt một lúc, rồi nói:
- Không thấy cái thuyền nào. Mon nói:
- Thuyền đắm rồi còn gì.
- Sao con biết? Mon đăm đăm nhìn xuống nước, nói:
- Thấy cái cột buồm, bố ạ. Trên mép nước dưới kia, rõ những cái cột và những mảnh buồm cói. Những con sóng hiền lành làm lăn lên lăn xuống những miếng ván gãy. Những người trở về ấy không bao giờ về nữa. Chỉ thương mấy người lính tốt bụng. An Tiêm còn đương bâng khuâng, đã nghe tiếng Nàng Hoa ở trong hốc đá nói ra:
- Mình ạ, con nó đòi uống nước... Bấy giờ, An Tiêm mới nghĩ tới điều cần kíp. Nước uống. Giữa nơi trơ trọi những núi đá, An Tiêm có cảm tưởng không có nước. Tuy lo, nhưng An Tiêm bình tĩnh bảo vợ:
- Tôi ra ngoài kia kiếm nước cho con. Mình hãy xem những gì ta còn mang theo đây. Một tay nải, trong đựng bốn buộc bánh dày, mỗi buộc được chục chiếc, đã khô quắt, sau một tháng thuyền lênh đênh. Một tay nải mấy cái váy áo. An Tiêm lấy trong tay nải ra đôi dép cỏ của ông lão Bãi Lở đưa hôm trước. Của đất quê cho ta có nón cọ và giày cỏ này đây. An Tiêm cởi mảnh mo buộc đôi giày cỏ, thấy giữa hai chiếc giày, ngả ra một con dao, dọng dao dày bằng nửa đốt tay. An Tiêm nói với Nàng Hoa:
- Người Bãi Lở biết ta phải đến chỗ hiểm nghèo nên cho lửa, lại cho dao, những của quý này không gì so với được. Ta không thể chết là nhờ tấm lòng này đây. Rồi An Tiêm đưa cho Nàng Hoa xem và giữ cái sừng trâu và hòn cuội đánh lửa. An Tiêm cầm con dao và nói:
- Mình đánh lửa nướng bánh cho cái Gái ăn. Tôi lên núi tìm nước cho con uống. Mon ơi, mày đi với bố. Hai bố con ra khỏi khe núi.
An Tiêm nhìn cả hai cánh núi. Không thấy đâu một bóng cây. Trèo lên đỉnh cao nữa, nhìn sang bên kia, đầu tiên, ùa đến một nỗi bàng hoàng. Cả hai bên cánh núi chỉ thấy dài một màu đá xám, nhìn đến rợn mắt. Như đứng giữa miệng con hổ, con báo, con gấu khổng lồ đương nhe hàm răng lởm chởm ra. An Tiêm trỏ tay về một phía:
- Núi đằng kia thấp xuống rồi, có thể đằng ấy có rừng. Mon hỏi:
- Bây giờ ta xuống đấy a? An Tiêm nói:
- Rồi hôm nào bố con mình sẽ đi. Giờ hãy tìm quanh đây lấy nước uống đã. Lời An Tiêm nói đem hy vọng lại cho con trẻ, nhưng cái việc "lấy nước uống đã" tưởng như dễ dàng ấy cũng chưa biết trông vào đâu có. Núi đá trọc không bao giờ có nguồn nước. Mà chỉ từ giờ đến trưa, nếu không nước uống thì người lử lả rồi. Cái Gái lại sốt cả đêm, đương khát. Không thể chùng chình đứng lo ở đây. An Tiêm bảo con:
- Trèo xuống chỗ này! Trên núi cao, mỗi tảng đá như một cái tường. Có khi đứng chỗ này kín bưng, nhưng chỉ dịch sang tảng đá bên cạnh, đã trông ra một phong cảnh khác mà ngay sát đấy, không thấy. Hai bố con vừa đặt chân được đến một mỏm đá, đột nhiên trông thấy một đốm xanh xanh cuối ghềnh đá đằng kia. Mon nói to:
- Đằng kia có cây, bố ạ. An Tiêm gật đầu:
- May ra thì phải. Phỏng thử vết xanh xanh xa dưới kia chỉ là một lớp rêu đá thì sao. Đá bờ biển thường có rêu thế. Xa nhìn đỏ khé như rặng cây nở hoa, đến gần chỉ là bờ đá rêu đỏ.
Nhưng cũng có thể bụi tre, bụi trúc đấy. Song, tre trúc vào mùa này trong ống cũng không còn nước. Chỉ đến khi trời mưa hết sấm, mới có nước trong ống. Giờ đã sang tiết giêng hai, nước đọng ở ống các giống cây có đốt, đã ứa lên ngọn ngậm vào măng vào lá rồi. Cả đến thân chuối rừng mùa này cũng cạn nước. Thảng hoặc, có còn thì nước chuối cũng đắng lắm. Bây giờ thấy cái đốm xanh đằng ấy. Dù phân vân, nhưng đấy cũng là hy vọng và chỉ có một cách xuống đấy. Mon bíu đá, xuống thoăn thoắt. Chân tay nó nhẹ như vượn. An Tiêm trông con, nửa buồn nửa mừng. Buồn nỗi con mới dúm tuổi đầu phải vì bố mẹ mà chịu lăn lộn, khổ cực. Nhưng cũng mừng nó nhanh nhẹn thế kia, rồi những ngày sắp tới, còn bao nhiêu gian nan chưa biết như thế nào... phải nhanh nhẹn thế mới được... Hai bố con đã xuống tới. Đây có những tảng đá lớn cao vòi vọi, đứng ken khít lấp bóng mặt trời. Giữa những khe, mủn đá đọng lại, ẩm ướt, mọc lên mấy cây cọ rừng. An Tiêm đứng ngắm, chịu không đoán ra cây cọ hay cây móc diều. Chỉ nghĩ:
“Lá này có thể lấy về lợp nhà. Nó là giống cọ rừng. Thế là có được một thứ dùng". An Tiêm cúi xuống, xem xét chỗ đất cọ mọc. Không thể hy vọng trong đá có mạch nước. Cọ mọc như chui từ khe đá ra, rễ chùm xòe quanh đá đã khô xác. Trong rừng có những loài cây tính nết trái nhau, giống cọ này xem chừng cũng giống ương ngạnh. Bây giờ đương mùa hanh khô thì cọ rừng lại lên tốt, tụm lá già bọc dưới xanh sẫm. Trong ngọn cọ, lá nõn nhú thành búp và trổ cả bẹ hoa, như cái măng. Trông cây tốt tươi, thấy mát hẳn. Lúc ấy, Mon nói:
- Con khát nước rát cả cổ, bố ạ.
An Tiêm ngẩng lên nhìn những cây cọ. Màu xanh tốt thế kia! Lá nõn như tơ thế kia! Tưởng như mía, nhá cũng ra nước được. Nghĩ thế, An Tiêm giắt chặt con dao vào lưng, tót lên một cây rậm và cao nhất. Như con nhái bén, chỉ ba bước chân bám, An Tiêm đã đến lưng cây. Mon nói:
- Con lên với! Rồi Mon cũng trèo thoắt lên theo bố. Hai bố con rúc cả vào trong đám lá ngọn cọ. An Tiêm vạch từng kẽ lá cọ non, xem. Cọ mùa này đương trổ lá mới. Trong mỗi khe, ụ lên những tràng hoa nõn. Bẹ cọ non trắng ngà như cái ruột măng tre. An Tiêm cầm dao, vạch vào giữa bẹ cọ. Một làn nước bềnh bệch đột ngột phụt ra. An Tiêm gọi reo lên:
- Mon! Mon! An Tiêm vốc tay hứng nước cho Mon uống rồi lại ghé miệng vào ngọn cỏ. Làn nước ngọt mát đùn ra, uống một hơi thỏa thuê. Đến lúc rút con dao thì mạch nước cọ cũng vừa cạn, chỉ còn ri rỉ xuống thân cây. An Tiêm nhớ lại, có cõi người ta đã lấy nước trong cây móc diều và lấy thân cây báng giã thành bột để ủ rượu. Giống cọ rừng này cũng có nước như thế
- mà thế là có nước quanh năm, cả những khi đương ra lá. Cái cây cứu được người rồi. An Tiêm bảo con:
- Cây này là cái suối đứng giữa trời. Không còn lo nữa. Rồi An Tiêm lại trèo lên ngọn. An Tiêm đâm dao liền hai nhát vào nõn cọ. An Tiêm ngửa nón ra hứng. Nước cọ chảy đầy lòng nón. An Tiêm bưng ngược cái nón rồi hai bố con leo nhanh về. Nước cọ thấm xuống, đầy giàn tay cầm. An Tiêm cởi phăng áo, ấp vào chỗ nước chảy. Bên kia núi, Nàng Hoa chốc lại đứng ra ngoài, nghển nhìn quanh. Bố con đi mãi đâu mà lâu! Gái đã thức từ nãy. Mẹ hỏi:
- Con ăn bánh dày nhé? Trẻ con sốt, bao giờ cũng ngoan hơn thường ngày. Gái lắc đầu.
- Con khát nước, mẹ ạ. Mẹ nói:
- Bố đương tìm nước về cho. Gái nằm yên, thiêm thiếp, hai má vẫn nóng ửng. Lát sau, Gái gọi:
- Mẹ ơi!
- Con gọi gì mẹ?
- Con ăn bánh dày vậy. Mẹ nướng bánh dày cho con.
- Con nằm yên nhé. Mẹ ra kiếm củi vào nướng bánh. Rồi Nàng Hoa bước ra ngoài. Ra mãi ngoài mấy tảng đá, nhưng không thấy một cành củi nhỏ. Hết đá tảng, lại đến đá tảng. Nàng Hoa không dám đi xa hơn. Nàng Hoa trở về, bảo Gái:
- Con chịu khó vậy. Bố kiếm củi về nướng bánh cho. Gái ngoan lắm. Gái lại him mắt, nằm lặng lẽ. Chỉ thỉnh thoảng, chiêm chiếp hai vành môi. Nhưng dáng Gái đã mệt lắm rồi. Tưởng nếu không chiếp như thế thì hai cái môi khát nước sẽ khô kiệt đến dính vào nhau mất. Nàng Hoa nhìn con, nước mắt lã chã rơi. Rồi lại nghển nhìn ngoài kia. Vẫn chẳng thấy gì. Gái mở mắt, gọi:
- Mẹ ơi!
- Con gọi gì mẹ?
- Bố về chưa? Mẹ không biết trả lời con thế nào. Chốc chốc, Gái lại hỏi lại. Nhưng hỏi mấy câu rồi Gái không nói ra tiếng được nữa, Gái nằm cúi ngoẹo đầu. Miệng Gái đã khô hẳn, chỉ nghe tiếng phao phảo vào tảng đá. Nàng Hoa òa khóc. Nàng Hoa tưởng Gái ngáp hấp hối sắp nhuôi ra. An Tiêm và Mon từ ngoài xộc vào. Tay An Tiêm bưng cái nón. An Tiêm nói to:
- Con ơi! Nước đây! Rồi đưa cả cái nón vào trước mặt Gái. Gái đương nằm lử lả thế mà Gái ngồi dậy, đỡ nón, cúi uống nốt vành nước còn sóng sánh lại. An Tiêm cầm cái áo ướt sũng, đưa cho Nàng Hoa.
- Mình vắt nước áo này ra mà uống. Nàng Hoa kề cái áo vào miệng Gái. Nhưng Gái lắc đầu:
- Mẹ uống đi! Nàng Hoa vặn cái áo, làn nước phòi ra. Chỉ nhấp một chút nước. Nàng Hoa đã thấy tỉnh. Nàng Hoa lại đưa áo, vắt vào miệng Gái vẫn còn chóp chép. Gái đẩy tay mẹ, không uống. An Tiêm cầm áo vắt thật kiệt, cho Gái và Nàng Hoa uống nốt cái nước sệt mồ hôi khét. Thế là cả nhà được hơi nước rồi. Cái u ám nặng nề xung quanh suốt từ sáng, giờ đã tan. An Tiêm hỏi Nàng Hoa:
- Nướng bánh dày cho con ăn chưa?
Nàng Hoa đáp:
- Chưa tìm được củi. An Tiêm nói:
- Có nguồn nước rồi, không sợ khát nữa. Bây giờ Mon đi kiếm củi nướng bánh. Bố xuống rừng cọ, mang nước về, cả nhà cùng ăn bánh uống nước. Mặt trời nghiêng trước mặt, đã chiều. Bóng núi in đậm đen trên mặt biển. Những đám mây tụ lại, vàng xuộm trên đầu núi đứng gió, như chiều hôm qua. An Tiêm nhìn quanh, nói:
- Khéo không đêm nay lại có bão nữa. Ráng vàng đương ùn lên kia kìa. Ta phải nướng bánh ăn sớm thôi.
Lúc ấy, cả những mỏm đá cũng ánh vàng chóe rồi. Nhưng không ai có vẻ lo sợ. Người đã về đủ. Gió to thì cũng đến như hôm qua, đã có hốc đá kín. Sóng biển có đến đổ cây nước cũng không ập được lên đây. Sửa soạn nướng bánh. Đói ngấu nghiến cả rồi. Cạnh tảng đá, đống củi đã chất cao. Gái đã khỏi sốt. Có lẽ đêm qua sợ quá mà thành sốt thôi. Bây giờ Gái đương cùng Mon khuân củi vào xếp chồng bên tảng đá. Rồi Gái lấy cái sừng trâu cọ lửa ra. Gái kiếm đâu được bùi nhùi bằng một nắm rêu khô, nhồi vào trong sừng trâu. Nhưng lúc ấy lại kéo ra được nắm bùi nhùi nỏ trong sừng trâu. ạng lão Bãi Lở cẩn thận đã nhét sẵn bùi nhùi vào đấy. Thế là Gái kéo mạnh hai hòn đá mấy cái, trong mặt sừng trâu bật xẹt một tia sáng xanh, bắt vào bùi nhùi thành đốm lửa vàng như mọi ngọn lửa thường ngày ở các nơi. Gái cầm ra, nhóm vào đống củi. ánh lửa nhảy nhót trên vách đá. Những ánh lửa đầu tiên của con người nhóm lên ở đây, rực rỡ hắt trên mặt đá, đẩy bóng tối đã xạm hẳn lại, lui ra ngoài kia. Nàng Hoa lấy chiếc bánh dày trong tay nải ra. Chiếc bánh dày đã khô cứng, nhưng trắng mịn. Nàng Hoa cắt từng miếng rồi xếp quanh vành ngoài đống lửa. Mon và Gái được chén trước mỗi đứa một miếng. Vợ chồng An Tiêm cầm miếng bánh dày nướng, ngửi mùi nếp thơm mà nhớ Bãi Lở. †n miếng đầu tiên ở chỗ trơ trọi này, vẫn công của ở nơi đã sinh sống, bồi hồi nhớ về đất nước - còn thấy gần gũi như mới hôm nào trảy hội.
Ngoài kia, trời xuộm vàng rồi đỏ khé, đặc sệt. Cả một vùng suốt từ dưới mặt biển đến chân trời, như vũng máu đỏ lòe. Hốt nhiên, nghe một tiếng hú. Tiếng gió hú đã cất lên, kéo dài thành vạn vạn tiếng từ trong các khe đá ùa ra kêu xé trên đầu. Như trời nứt toác, sắp sập xuống. Hai đứa trẻ ngơ ngác đứng lên. An Tiêm thong thả nói:
- Lại bão như đêm qua. Tiếng sóng cồn lên, như sét đánh mặt nước. Trên cao, gió vẫn đùng đùng khủng khiếp. Những cái thuyền quan quân đêm qua có sống sót, chắc đêm nay cũng đến chìm nghỉm tất rồi. Nhưng trong khe đá này có đống lửa cháy. Góc bên kia, Nàng Hoa và Gái còn lúi húi hơ từng miếng bánh vào mặt than hồng. An Tiêm đương tìm một mảnh đá ghép chỗ dựa để dựng ống nước. Không ai cảm thấy lo lắng bên cạnh đám ánh sáng bập bùng đương vun cả nhà lại quanh lửa. An Tiêm nói:
- Ta đã tạm có lửa có nước, không sợ nữa. Ngày mai sang ở bên kia núi, chỗ gần đám cây cọ. Mình ạ, lúc trưa tôi lâu về vì tôi mải dọn cái hang ở ngay đấy. Ta sang ở tạm, rồi liệu sau.


Nguồn: http://vnthuquan.net/