27/2/13

Chiều chiều (C21-22)

Chương XXI

Tôi lại về xóm Đồng.
Chẳng phải vì thế nào. Mỗi người đều có thói quen, nếp nghĩ, sinh hoạt, đi đứng... Tôi hay nhẩm lại những nơi tôi thèm đến mà chưa khi nào được đặt chân, càng thèm: huyện Sông Mã ở Sơn La, đảo Phú Quốc ngoài biển Đông... Tôi lại về xóm Đồng, cuốn sách người đã đến đoạn ấy, bây giờ xem tiếp.
Mỗi khi trở lại những nơi đã từng đến, tôi hay nhớ lại kỷ niệm từ thuở bé. Năm nào cũng vậy, tháng mười giỗ ông tôi lại thấy bà Bống về. Người lớn bảo bà ở tận trên ngược, bà là em ông tôi, bà quảy về một gánh những bó sắn, củ mài và đôi gà trống. Trên ngược đây là huyện Lập Thạch. Nhưng thuở ấy Lập Thạch với tôi đã là rừng xanh núi đỏ xa xôi tận đâu và tôi cũng không bao giờ biết tại sao bà em ông tôi lại phải đi lấy chồng xa thế. Hàng năm, bà Bống về với họ hàng ăn giỗ ông tôi, lại khiến tôi cảm thương tình máu mủ ruột thịt. Và sau này, lại một điều trông thấy đã khiến tôi nghĩ đến sự thăm hỏi và tình nghĩa.
Năm ấy, chúng tôi ở Phia Biooc tỉnh Bắc Kạn, trên núi những làng Dao Dỏ. Tết đến, từng đoàn người, cả trẻ con, khăn chít và váy áo đỏ rực rỡ, đeo túi.
Tôi hỏi: “Đi đâu?”. Bà con nói: “Đi chơi tết với người trong họ". Người trong họ ở các núi tận trên Cao Bằng hay dưới Thái Nguyên, có khi đi rừng mấy ngày mới tới. Nhưng mà năm nào cũng đi, không hề quản ngại.
Tình nghĩa cũng trong lẽ sống tự nhiên, khi nào nhớ những chuyện trên tôi cũng thấy một niềm vui đầm ấm rồi lại bùi ngùi.
Cảm thấy đã quên mặt, quên tên nhiều người. Thế mà vẫn nhớ cái hôm tôi buộc cây hóp làm cột dây đồng vào thân cây cau, ông Ngải ngồi trong nhà lim him mắt, tay cầm cái galen to bằng trôn bát “cứ nói eo éo như con ma nói". Hoàng Trung Thông- tôi nghe Trần Lê Văn kể, thỉnh thoảng gặp, Thông hay hỏi: “Dạo ấy mình thế nào” Tổ trưởng Thông ngại những chuyện lố lăng gì chăng hay là anh cũng vẫn nhơ nhớ những ngày ấy.
Tôi đi xe hàng, không đáp tàu thuỷ và không mang theo xe đạp như hai lần trước. Bạn bè hay đi bảo bây giờ xó xỉnh nào cũng nhan nhản xe ôm, tội gì mà chen chúc ô tô hàng, còn khiêng cái xe trâu để mà chết a. Mà từ thị xã xuống Thái Ninh thì cũng chẳng mấy bước đường.
Phố xá Thái Bình đã nhiều cái khác xưa. Những lần trước trông chỉ loi thoi vài ba ngôi nhà, gió thổi rào rạt cuốn rối lên những búi cỏ tranh. Từ ngày hoang vắng ấy, nhưng có cái hay là đã sẵn vết đường bằng phẳng dễ cho những đại lộ sắp mở, đương dọn cỏ.
ở đây mấy năm nay đã lên thành phố giữa những bước tiến giằng co. Một dạo, vô số xe và máy với chuyên gia nước ngoài đổ về khoan dò dầu khi khắp một miền ven biển. Báo Nhân Dân đã đăng ảnh một mũi khoan có khói và dầu (hay nước) phụt toé lên. Thật thì đã tìm được khí. Nhà máy sành sử Tiền Hải chạy điện lấy từ khi khoan này. Nhưng ai tầng qua lại Nam Định, Thái Bình đã biết tử thuở xa xưa ngày trước có nơi ở vườn, ở ruộng chọc lỗ xuống, trong đất nhả ra hơi nóng ngùn ngụt. Có thể bắc bếp thổi cơm, cả thui chó được. Người ta đã làm như thế. Giờ mới biết đấy là khí, rồi sẽ có ét xăng, rồi mở mang khai thác qui mô. Những người hay đọc báo nói rằng Thái Bình sắp giàu đến nơi, nước ta sẽ nhiều mỏ dầu khổng lồ như Brunây, như Trung Đông.
Thế là Thái Bình được gấp rút xây đón đầu một thành phố công nghiệp. Giữa những bãi lau sậy ngập đầu nguy nga nhô lên các nhà trụ sở uỷ ban, nhà thư viện, nhà bảo tàng đã lên tường cao cao, cái khách sạn năm tầng cho chuyên gia và khách du lịch được khánh thành trước tiên. Dưới bãi Đồng Châu quanh năm nước xuộm đỏ các cửa sông đổ ra biển, nhưng đất bồi màu mỡ, nhiều nhà nuôi vịt, chiều đến, người ta đi nhặt trứng vịt đẻ trên cát, đội hàng thúng về.
Bây giờ đồ sộ ngôi nhà nghỉ Công Đoàn. Mọi cơ ngơi đã huy hoàng nhưng vẫn là cái sự hóng. Cho nên nhiều công trình còn dang dở. Đường xuống Đồng Châu sẽ tráng lệ còn đợi, chưa nâng cấp, ô tô chạy chồm chồm trên ổ trâu. Cái nhà bảo tàng giữa thị xã chẳng biết bao giờ mới xây tiếp, tường nhoe nhoét vôi vữa, những lỗ cửa chưa có khung, như cái hàm răng móm.
Thành phố vẫn đương đợi vận hội. Dù sao, không đến nỗi “Cao Biền dậy non” như Xuân Hoà, Xuân Mai, những thị trấn vệ tinh tưởng tượng quanh Hà Nội.
Thái Bình không bị đứt đoạn, mà chuyển đoạn quang cảnh hôm nay hiện ra vẻ nhộp nhịp cũng em em mấy phố Sinh Từ, phố Hàng Lọng náo nhiệt hàng hoá trên Hà Nội. Đường Cầu Bo qua cổng tỉnh sang Nam Định không còn nhà vách đất lợp phibrô xi măng xám, đã nhấp nhô những nhà một tầng mái ngói, mái bằng.
Trước cửa thừng ni lông chăng, vắt từng đệp quần áo loang lổ đủ các màu trên đòi, đòn ngang nối liền với những chiếc bàn, những cánh phản phủ tấm nhựa đỏ trên bày tú ụ bánh kẹo gói bọc giấy bóng nhấp nhoáng, Tết trung thu ngày trước cũng không được như thế. Phố “siđa", lại phố “quân khu” và choáng lộn bánh kẹo lạ mắt rối mắt như Hà Nội lan xuống dưới này đông như chợ. Người trong làng kéo lũ ra, đi xem, đi sắm. Anh kia trả tiền rồi đến đứng tựa lưng vào gốc cây tụt quần cũ xỏ quần mới vào rồi bước ra, người nọ ngắm người kia, vỗ tay cười hê hê như được bạc. Rồi lại tạt sang các bàn kẹo bánh xanh đỏ đến hoa mắt.
Đầu cần Bo, mấy nhà lá hàng cơm chứa trọ năm trước đã lên nhà gạch cả. Không còn cái gậy tre chống tấm phên cửa lên, mà buông phất phơ một rèm vải hoa, lụa trứng sáo, ở trong đi ra một cô mặt mũi nhẹ nhõm, kẹp tóc. Cô chào: "Mời bác vào nghỉ hàng nhà cháu” Cô này hẳn ở trong làng mới ra, chỉ mai kia thì mắt xanh mỏ đỏ tới nơi. Vẫn bến tàu, nhưng người không đeo vai cái tay nải, cái bọc mà hàng chục gánh nối nhau đi một dãy. Mụ nọ khoác cái túi giả da bóng nhoáng hộc tốc chạy xuống chỉ trỏ tốp người gánh thúng bọc lá chuối khô đặt dọc lòng tàu, trên boong, cả khoang lái Đấy là những thúng trứng vịt lộn từ vùng biển lên. Tàu thuỷ thì mất một ngày đường nhưng của hàng hoa không lo bị xô đẩy dễ vỡ như gác nóc lên xe tải.
Cả chuyến tàu ngược Phà Đen chở trứng vịt lộn. Mụ đeo túi, áo kếp trắng viền đăng ten, môi son phơn phớt, đương cau có chỉn diết gióng, lại cười cợt bả lả. Kiểu người này năm trước mộc mạc hơn, đã gặp ở Cầu Bo, ở Hải Dương, tôi tưởng như bọn đây là con cái chúng họ xuôi ngược nối nghiệp. Ông bạn tôi quanh năm ngồi xó hàng nước, nghe hóng đủ chuyện, chẳng cần đi đâu mà mách đúng cho tôi. Chỗ nào bây giờ cũng lắm giống xe ôm. ở Hà Nội chỉ có xe máy ôm, dưới này vô khối xe đạp ôm nữa. Cái xe hàng vừa vào bến, đã cả chục xe máy, xe đạp ôm xô đến hỏi bác về đâu, xe đạp giá mềm, cam đoan chạy suốt, không bán khách... mời bác, mời...
Một thanh niên áo xắn tay kẻ carô tím, đội mũ lưỡi trai. Trông vạm vỡ khoẻ mạnh, tôi đã ưng ý. Chợt nghĩ lại ngại. Đường xa, mấy chục cây số đồng vắng, nó lực lưỡng thế kia mà trấn thì mình bỏ đời. Nhưng nghĩ lại, thấy là tôi cũng lẫn lộn thời sự. Hồi này khách bỏ thuốc mê, khách giết lái cướp xe ôm nhiều lắm. Tôi bèn chọn anh tài chắc chắn ấy. Anh ta rõ cẩn thận. Anh lấy dưới yên một khúc dây da quấn quanh bụng tôi rồi mắc hai đầu móc xích xuống đệm ghế. “Đây an toàn, bác ạ. Tha hồ ngủ gật, có ngã cũng không văng ra được. ở bên Đức, bước lên xe là cài dây an toàn, đội mũ bảo hộ, luật đi đường thế, không thì phải phạt ngay". Nhớ rồi, tôi đã thấy bên thành phố Quảng Châu, chẳng biết khách ngồi đèo có buộc dây an toàn thế này không, nhưng người lái, người đằng sau đều đội mũ bảo hộ, nom như hai cái đầu con dế mèn tròn bóng. Tôi bằng lòng sự cẩn thận mà tôi nghĩ nhân lên là có tính hiện đại, tính quốc tế của anh tài này.
Anh lái có vẻ vui chuyện. “Tên cháu là Khế, khách quen gọi là Khế ôm. Bác vào đến đầu phố huyện hỏi Khế ôm, trẻ con cũng chỉ nhà Khế ôm đúng ngay".
Tôi hỏi:
- Cháu đã sang Đức à?
- Bốn năm.
- Cháu ở tỉnh nào, Béc Lin a?
- Không ạ, Lai Xích.
- Cháu ở quận nào dưới Lai Xích?
Tôi buột miệng hỏi câu ấy để làm gì. Anh lái có trả lời hay không, tôi không nghe. Đán, con trai tôi đã ở Lai Xích, đã chết ở Lai Xích, tôi đã có lần tới Lai Xích, tôi vẫn nhớ địa chỉ, cả số nhà, phố, quận...
Một lúc lâu, tôi không nói được.
- Bác đã đến Lai Xích rồi a?
- Chưa, cháu ạ.
Khế nói:
- Bác mà đến Lai Xích thì bác phải mê. Nhà ga xe lửa mái lợp to bằng trăm cái chợ Bo mà cấm thấy một cái rác. Tài chưa!
Tôi hỏi Khế chuyện khác.
- Đi bốn năm rồi về?
- Cháu chẳng thiết ở đâu cả. Cháu sốt ruột về nhà. Mẹ thì già. Vợ còn con nhỏ. Hết hạn lao động mà lại không còn nước dân chủ Đức nữa mới chán chứ. Cháu về thẳng. Khối đứa trốn ở lại.
Đương khoái chuyện, Khế kể:
- Tổ cháu có sáu đứa ở lại, cả bọn con gái. Tìm việc bên ấy chẳng khó. Nhổ cỏ cũng ra cái ăn. Nhưng chúng nó thích đi buôn. Chúng nó bảo đi buôn kiếm tiền nhanh.
- Buôn thế nào?
- Buôn đi bán lại vớ vẩn ấy mà. Đứng đường bán thuốc lá, thấy công an thi lủi. Dễ ợt!
- Đầm với đìa, bác ơi! Sẵn quá, bọn đầm lười như quỉ, chỉ nằm ườn bắt thằng bồ nuôi.
- Buồn cười nhỉ!
- Cơm nhà, cơm nhà, cháu cứ là cơm nhà...
Khế cao hứng, ngêu ngao:
- Ta về ta tắm ao ta. Dù yrong dù dục ao nhà vô tư, có phải không bác?
Xa xa, đã trông thấy bóng đen những thanh sắt trên cống Trà Linh. Xóm Đồng kia rồi. Mặt cỏ vệ đê cống Bắc phẳng mờ, đến gần nữa, hoa cỏ may trắng như hơi sương. Mỗi khi nghĩ đến đồng quê, tôi lại cảm giác như thuở bé, mong mãi chưa thành người lớn, ký ức dừng lại, xóm làng ở đâu cũng chẳng khác, mà khác cũng cứ nhớ ngày xưa thế.
Mấy nóc nhà lèo tèo và cây đa chợ Thượng không còn. Một trường tiểu học, dãy nhà quây trong bốn phía tường gạch quét vôi vàng. Trơ trọi không một bóng cây. Tôi nói:
- Đến nơi rồi. Tôi xuống làng bên chân đê kia.
Khế hỏi:
- Làng bác ở đấy à? Bác về quê chơi.
- Không, tôi thăm người quen.
Rồi tôi dặn Khế:
- Tôi vào làng, nếu chẳng gặp người quen thì tôi lại nhờ cháu cho về tỉnh ngay. Bằng như gặp được thì ta tính sau. Có khi mai mới về cũng nên. Giá cháu cũng ở lại, mai đưa tôi về thì vui quá.
Khế sốt sắng:
- Bác cho cháu đi cùng xuống làng. Để xem thế nào.
Khế dắt xe đi với tôi. Xóm Đồng ngay kia. Cái mà tôi nhận ra, ấy là mặt nước con sông nhỏ cong cong quanh xóm. Còn những khoanh tre thì đã bị phát quang. Cái xóm trọc lốc, giống nhiều nơi bây giờ. Có điều ngạc nhiên mà không lạ đối với tôi, ở nơi nước ngọt nước lợ tít mù thế này mà các đầu xóm cắm biển cũng đánh số xóm l, xóm 3 như ở Cầu Giấy, ở Nghĩa Đô đất Kẻ Chợ. Lổm nhổm bát úp cao thấp, không một mái lá, một tường đất, nhà nhà mái bằng, nhà tầng, nhấp nhô tường xám xi măng. Vẫn lối ấy vào xóm, nhưng đã mất hai bờ rào ô rô và những cây xương rồng, bụi duối, mà so le trồi ra thụt vào những góc tường, ba người cùng đi thì đụng vai nhau.
Tôi bỡ ngỡ đôi chút khi nhớ chỗ ấy là một cái ao. Bây giờ mọc lên nếp nhà hai tầng, dưới sân trên giại bể có dàn trầu không, cồng sắt khoá. Tôi đương vào ngõ nhà ông Ngải mà cứ vừa quen vừa lạ. Cái nhà vẫn trong kia, nhưng không vách đất mà tường lên vàng khè. Đầu nhà trổ ra vườn chỗ áv đặt chõ nước đái, chúng tôi đã làm hố ủ phân xanh, ngoài kia những cây chè khẳng khiu. Bây giờ xi măng trát phẳng, mất cả mấy cây cau lùn đằng trước. Nhưng dòng sông vẫn thấp thoáng sau bờ rào búi hóp. Cái chuôm thả vịt còn nhưng chỉ như vũng nước bên chân tường.
Trên bờ chuôm, lạ lùng chưa, vẫn đám tre lép phờ phạc chết khô. Không phải, những cây tre vào mùa hanh hao đều xơ xác vậy, búi tre đã bề thế ra thành một vòm tre hẳn hoi. Ô hay, ai như ông Ngải. Như mấy chục năm nay, từ hôm ăn bữa thịt vịt rắn cắn rồi tôi lên tỉnh. Có phải chỉ là một cảm tưởng, một mong mỏi eái bóng. Không, ông Ngải đấy, ông Ngải tựa lưng vào bờ tre, hai chân duỗi. ống chân tóp như cái ống giang ngày Tết chẻ lạt gói bánh chưng và nước da ông Ngải trời hanh nhờ nhờ mốc trắng.
Ngày trước, ông ngồi búi tre thường cầm con dao chẻ lạt vót nan đan rổ rá, cái đăng, cái lờ. Khi này ngồi im. Một bức tranh tĩnh vật: chân tường, mặt đất, một búi tre lưa thưa, một ông lão không có tuổi, một chuôm nước cạn.
Pho tượng phật nhịn ăn gày giơ xương trên chùa Tây Phương, đấy là ông Ngải. Cái nước da vẫn nhờn nhợt như một ông Phan Khôi- nhận xét hay hay ngộ nghĩnh của Phùng Quán hãy còn đây. ở nhà ông Ngải, tôi còn thấy cả chân tay, mình mẩy ông Ngải cũng bềnh bệch ít bắt nắng. Ngày ấy và bây giờ, ông Ngải vẫn thế, ngót hay là hơn bốn mươi năm đã qua, dễ thường ông Ngải có hàng trăm tuổi. Người Mông ở trên núi cao, nhiều cụ không nhớ tuổi. Lắm cụ ở trong làng như ông Ngải cũng không nhớ, cứ thong dong ngày trời tháng bụt mênh mông thế. May ra, có cụ bảo tao sinh năm con mèo, năm con gà thì con cháu còn tính được. Ông Ngải da bọc xương, mặt trắng nhọt, lại càng hệt ông Phan Khôi hơn. Ông Phan Khôi nằm trong đất từ 1959, cái năm lần đầu tiên tôi ở Thái Ninh về. Không lẽ ông Ngải là ông Phan Khôi, ông Phan Khôi dưới suối Vàng mới lên ngồi đây sao.
Nhẽ ra tôi cũng chẳng rõ ông Phan Khôi mất bao giờ. Tôi mà biết cũng chẳng vì cơn cớ gì. Hồi ấy, nhà tôi thuê ở đầu ngõ cuối đường Bà Triệu cửa sổ trông chếch ra phố chính. Buổi sáng, chợt thấy đi qua ngoài đường một cái xe tang một ngựa phủ vải đen. Sau xe, có mấy người khăn trắng bước theo. Tôi nhận ra có chị Hằng Phương. Chị Hằng Phương là cháu gọi ông Phan Khôi bằng cậu. Tôi liên tưởng đoán chắc đám ma ông Phan Khôi. Ông đã ngoài bảy mươi, ốm đã lâu, từ độ dọn lên ở gác trong một nhà phố Thuốc Bắc. Ngày tháng chạp cuối năm âm u, đám ma lạnh lẽo ra ngoại ô ngoài ngã tư chợ Mơ.
Tôi vốn thích đọc Phan Khôi, dù vẫn biết đã nhiều năm ở cùng cư quan ông chẳng coi tôi là cái đinh.
Viết báo, tạp văn, ngòi bút Phan Khôi sắc đọng, ngang như cua mà đọc lại chịu, như ăn gừng cay. Phó Chi Ngô Tất Tố là phó lý, phó cối cãi nhau văng gạch vào mặt; Ngô Đức Kế, Phạm Quỳnh thì chữ nghĩa trang trọng cân đối; Hoài Thanh là nhà thơ viết lý luận... Đọc Phan Khôi ngang ngạnh vẫn muốn đọc.
Cái ông gia trưởng này cũng không một bề, mà ông không nổi nóng khi tôi cãi với ông, có khi lại hăng hái biện luận là khác. Ông khó hiểu mà dễ hiểu, vừa người lớn lại vừa chất chưởng trẻ con. Vừa khờ lại cũng khoái được đưa lên mây. Ông không để mắt đến tôi nhưng ông cũng hãi tôi chứ. Cũng như ông không biết tôi lắm lúc cũng cho ông như con trẻ. Thật vui.
Ông ra tắm ngoài suối. Hồi ấy anh Trần Ngọc Danh đã mất. Tố Hữu bảo lên đưa chị Thái Thị Liên về cơ quan. Chị Liên với cháu Hà từ Quặng trên Chiêm Hoá xuôi sông Lô. Chị ở tạm với chúng tôi trước khi sang công tác ở đoàn Văn Công bên kia sông. Chị đã học nhạc ở Tiệp Khắc. Ông Phan Khôi chúa chùm tiếu lâm. Chị Liên cũng được một mũi. Suốt ngày, cái gian nhà chỗ ông “con, cây, cục, cái này” cứ chốc lại om lên tiếng cười. Ông Phan Khôi bước vào, lưng trần còm nhom, khăn mặt ướt vắt vai. Ông nói:
- Tư Mã Thiên mỗi khi nhớ là đã bị thiến thì rùng mình, toát mồ hôi. Tôi bây giờ mà trông thấy đàn bà được mắt thì có một luồng điện chạy suốt sống lưng. Ông kia bị người ta cắt, còn tôi là đồ bỏ, điện toát ra ngoài.
Mọi người lại cười rầm lên khi ông kết luận “Tôi cũng là cái xác thuốc hết thuốc. Võ Tắc Thiên vứt ra vườn". ấy là lúc vui, nhưng cũng có lúc khác, tôi giở trò cật vấn ông. Tôi hỏi:
- Cái năm 1945, ở Quảng Nam, có phải ông suýt bị bắt rồi anh Hoàng Hữu Nam cứu ông ra Hà Nội?
- Anh là Việt Minh thì anh phải biết việc ấy, hỏi tôi làm gì
- Tôi nghe nói.
Ông chừng mắt:
- Không biết thì đừng mở miệng.
Tôi chỉ muốn hỏi ông.
- Thì hỏi nữa đi.
- Ra Hà Nội, ông đến 80 Quán Thánh ở với Nguyễn Tường Tam.
- Thì đến xem chúng nó làm ăn thế nào.
- Ông bị bắt ở báo Việt Nam, ông lại được bàu làm Trung ương Việt Nam quốc dân Đảng.
- Bao giờ chứ? Ai bảo anh thế? Anh làm mật thám à?
- Tôi làm phóng viên báo Cứu Quốc. Báo có đăng tin
Thế là tôi đã khơi được nguồn cơn. Ông đăm đăm mắt rồi thở dài:
- Kể anh nghe. Anh nói tôi mới biết, chớ tôi có họp hành với họ bao giờ. ở ít ngày, nhìn ra mặt thật chúng nó. Chè chén, hám chức trong Chính phủ liên hiệp lắm, lại làm ra bộ. Cái hôm bị bắt ở báo Việt Nam là tôi đã định đi, nhưng chưa tìm được chỗ ở. Tôi mang tiếng là ghét con cháu, con cháu không ưa tôi tôi xung khắc không nhìn mặt con cả tôi là Phan Thao. Không phải, không phải vì nó cộng sản, tôi không là cộng sản. Tôi chỉ ghét sự nhờ vả con cháu. Cái hôm Phan Thao ở trong Nam ra, trước khi nó đi nhận công tác, đã về đây ở với tôi cả tháng, anh biết đấy. Anh có thấy cha con tôi cãi nhau không? Nói láo. ở trong kia ra, tôi đến Quan Thánh còn vì lẽ nữa, tôi không muốn nhờ cậy Phan Bôi quá. Sau cái việc ở báo Việt Nam, tôi về Cầu Giấy ở nhờ ông Tú Mỡ. Anh bảo nó cải tổ Quốc dân đảng tháng mấy? Tôi đi khỏi đã lâu rồi.
- Ông về ở nhà ông Tú Mỡ, ông làm bài ca dao “đốt nhà” tiêu thổ kháng chiến, ác lắm. Tôi không nhớ...
- Anh biết lắm thế! Tôi nhớ tôi cũng không đọc cho anh nghe...
Ông Phan Khôi mất rồi, mất lâu rồi, mà da dẻ như ông Phan Khôi nào vẫn ngồi tựa bụi tre lép kia.
Năm trước sang sân bay Gia Lâm, tôi tiễn ông đi Trung Quốc dự kỷ niệm năm sinh Lỗ Tấn, máy bay ấy ghé Côn Minh rồi mới lên Bắc Kinh. Cà vạt màu đỏ thậm dưới bộ râu lưa thưa. Tướng ông giống một học giả Nhật Bản, vẻ phương đông mà hiện đại. Tri thức của ông xứng đáng ra thế giới kỷ niệm Lỗ Tấn lắm chứ.
Lúc này thì tôi quên những hoang dã ngang ngược của ông ở Việt Bắc, ông đau dạ dày phải mổ cấp cứu. Thể lực đuối, lại trọng bệnh giữa rừng, ông không chết nhờ nơi bác sĩ Tôn Thất Tùng trên Chiêm Hoá mới nhận được máu khô ngoại viện. Khi ông bình phục, chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mừng ông bộ quần áo lụa.
Hoạ vô đơn chí, ông thường kể chuyện vui “trời đánh ông cũng không chết” là cũng có sự thực của nó. Hồi ở Phú Thọ, đêm mưa sấm sét dữ dội, ông trông thấy một con sét hòn xanh lẹt ngoằng giữa nhả. Mà ông không việc gì. Tôi nghe ông kể chuyện ấy, nhưng việc này thì tôi chứng kiến. ở Tuyên Quang dự lớp chỉnh huấn, buổi sáng ông ngồi trước lán. Một cành cổ thụ to như cột nhà gẫy rơi ngay trước hai chân ông duỗi ra sưởi nắng. Rồi về Hà Nội, ông viết bài Ông năm Chuột.
Tôi cũng không gần ông liền năm, tuổi tác lại chênh đến ngót ba con giáp. Tôi biết ông ương bướng, mà cũng không phải chỉ thế, ông vốn trọng công việc. Khi đương tập kết ông được mời vào khu 5 nói chuyện kháng chiến thắng lợi với đồng bào ở Bình Định, Quảng Ngãi lúc ta chuyển quân ra Bắc. Ông đi ngay. Và mỗi khi tôi nhờ việc, nhờ viết bài, ông làm đến nơi đến chốn. Tôi đã cậy ông so sánh các bản dịch tiểu thuyết Mặt trời trên sông Tang Càn của Đinh Linh, ông soát và viết báo cáo nhận xét cẩn thận, kỹ lưỡng.
Ông thích nói tiếu lâm chọc cười, cũng như không biết giận, tưởng như ông cốt nói ngang hơn, to tiếng vặc lại, chỉ vì ông không để bụng lâu. Chao ôi, không ương bướng thì đã không phải là Phan Khôi, cái câu giễu “Lý luận Phan Khôi” mà các báo Phong Hoá, Ngày Nay đã đặt cho ông chẳng đã thành tiếng thuở nào.
Tôi lại mơ màng rồi, trông cái ông Ngải không biết chữ mà lại hoá ra học giả Phan Khôi một bồ chữ sao được.
Ông Ngải ngồi như đống đất, thế mà ông nghiêng tai, lối nghe của người ngễnh ngãng, ông đã đánh hơi được có người đi tới.
- Ai thế?
Tôi gọi to.
- Ông Ngải!
- Ai...
- Cán bộ Tư chào...
Tôi chưa dứt câu, ông Ngải đã run run gối đứng lên.
- Anh Tư đấy à?
Ông lão lại nghếch mặt hỏi:
- Có anh Quán đấy phải không?
Ông lão nghe rất thinh. Khế cười ngặt nghẽo:
- Khế ôm đây, cụ tổ ạ.
- Anh Quán...
Tôi nói:
- Anh Quán mất rồi.
- ối sao thế?
- Giỗ đầu, giỗ hết rồi.
- Khốn khổ
Ông Ngải nắm cánh tay áo tôi. Tôi đỡ ông ngồi xuống, lại tựa vào bờ tre. Ông Ngải bảo tôi, như ngày trước, như mọi khi: “Anh ra vườn ngắt mấy cái lá chè". Rồi ông hỏi: “Anh vẫn uống nước chè vò chứ?
Mảnh vườn chỉ còn một luống đất. Không biết chỗ nào cái hố phân xanh ngày xưa. Nhưng tôi vẫn nhớ bài học hái chè ông Ngải dạy. Bỏ lá già, tôi ngắt một ôm lá đương bỡi. Bên bờ tre, Khế đã đun nồi nước.
Rồi Khế vò chè, luộc chè, đổ nước cho ngấm. Như ở nhà chú và cả đất Thái Bình này đều biết món chè vò.
Để ý kỹ, búi tre xác xơ nhưng đã lan ra thành hũm vững chắc trông như trong cái hang có ổ mái lợp những tàu cau, xung quanh táp phên vách, trên đặt một giát giường to hơn cái mâm chõng, như túp nhà trẻ con dựng chơi đình chùa.
Tôi hỏi:
- Ông vẫn ngủ trong bụi tre à?
Ông lão đương ủ hai bàn tay xù xì trên mặt cái ấm vừa sưởi để xem chừng hơi nóng mà biết chè chín đến đâu. Tôi hỏi lại rõ từng tiếng, ông Ngải mới à à ừ ừ: “Ngủ ngoài này chứ ở cái nhà trong kia thì chết ngạt chẳng ra bộ gì. Thế các anh bây giờ...”. Tôi hiểu ý ông Ngải hỏi anh em chúng tôi dạo ấy. Tôi kể: tổ trưởng Thông mất rồi, anh Chu Ngọc đã được sang nước Tiệp Khắc ấy mà, cũng ốm chết rồi. Cả tổ còn anh Trần Lê Văn, anh Hoàng Cầm và tôi. Ông Ngải trầm ngâm nhm ra rồi nói: “ ở ngoài tỉnh hại người lắm. Anh Quán còn ít tuổi, khoẻ mạnh thế mà cũng đi rồi. Tội nghiệp, ở tỉnh làm quái gì! ”
Trên cành tre tay tre vẫn cái bát đàn, thêm chiếc ca nhôm, cả ống điếu cày treo lủng lẳng. Chắc vẫn có người qua lại, ghé ngồi. Ông Ngải nói: “được", rồi bảo Khế rót nước trong ấm đất ra bát.
- Người ta miếng giầu làm đầu câu chuyện, tôi cả đời chỉ có miếng nước". Ông Ngải tưởng tôi vẫn uống chè vò như ông.
Đã lâu, một lần tôi đi Hà Tnh về làng có uống chè vò bây giờ mới lại được nhắp, nước nóng vào đến đâu thấy chát ngọt lìm lịm đến đấy. Nhớ những tinh mơ ông Ngải dậy từ gà gáy uống hết hai ấm vại chè vò mặc cả nhà ăn cơm đèn rồi ông xách cuốc ra ruộng, lòng không dạ đói đến quá trưa mới về, đeo một giỏ ếch nhái, cá cua sau lưng. Trông ông lão vẫn phảng phất đồng áng bờ bụi thế. Hai con mắt toét nhèm viền vải tây điều đã sụp xuống ti hí. “Lúc nào tôi cũng thấy trời sắp tối, anh ạ". Nhưng ông nhìn bằng tai, cái tai ông dở điếc mà vẫn nghe ra tiếng người, mấy người và tiếng chó, tường lắm.
Ông Ngải đưa tôi vào trong nhà. Tôi trông thấy trên giường thờ ảnh cu ốc, mặt trang nghiêm, đội mũ cát sao vàng.
Ông Ngải nói:
- Cái thằng ốc lại mải đi theo anh Quán tập dân quân rồi. Cả bà nó nhà tôi cũng đi chơi với nó. Mẹ con nhà mày ạ, có anh Tư về chơi.
Tôi bấm Khế ra sân.
Tôi ở lại, sớm mai về. Nếu cháu ở lại được...
- Để cháu xem.
- Bây giờ cháu lên trên Cống mua thẻ hương, tìm đâu được con gà. Tôi cúng cậu ấy, cả bà cụ...
Khế nổ máy xe, đi ngay. Tôi rút nén hương trên bàn thờ rồi lấy diêm châm cái đèn hoa kỳ. Tôi đã đến nhiều nhà thấy trên bàn thờ ảnh và tryuền thần chân dung các chiến sĩ. Tôi cứ tưởng như không phải người đã khuất. Anh ấy ốm đau gì đâu, cái ảnh lại trẻ đẹp thế kia, ý nghĩ ngây dại thường trở lại trong tôi.
Nhà ông Ngải chỉ khác cái mái bằng và tường xây để mộc, giường phản vẫn tuềnh toàng thế. Nhà kín bưng, ẩm mốc. ở trong làng bây giờ cứ đua nhau nhà tầng, nhà gác, có người méo mặt vì ganh nhau làm nhà.
Ông Ngải thắp nén hương rồi lại lò dò ra ngồi bụi tre. Ông Ngải nói:
- Xóm này nhà ngói, mái xi măng hết. Bữa ăn bữa nhịn, cũng lên nhà tây. Anh Quán mà về thì không kiếm ra đất bức vách ủ phân.
- Thời buổi mới, đâu cũng ăn nên làm ra, ông ạ. ối người đi vay lãi, bán lúa từ lúc vào đòng để làm nhà. Chỉ khác ngày xưa lý trưởng, phó lý giầu có bây giờ chủ tịch, bí thư, xà đội, dạo trước còn chân chủ nhiệm, kế toán nữa cũng trộm cắp mà nên giàu có cả. à anh biết chủ nhiệm Sự...
- Ông ghét ngói hoá, bê tông hoá nên ra nằm đây.
- Có mà hoá điên hoá rồ. Hồi còn thằng Tây tôi đã sợ cái hầrn lô cốt. Tôi không chịu được ở nhà hầm, tôi mà ở trong nhà hầm ấy thì tôi chết đã lâu.
- Sao ạ?
- Suốt ngày nắng nung sân xi măng, mái xi măng, đêm vẫn oi như trong chảo rang. Tôi làm thằng kéo vó, ra đây chui vào cái lều vó cạn. Chẳng nắng gió nào động được lông chân. Chân mễ tôi kê cao cho con hổ mang, hổ lửa lấy đường đi, tôi nằm trên. Chỉ có thằng rắn ráo thì đợi nó leo lên, tôi tóm cổ. Thịt rắn ráo ngon hơn thịt gà. Anh chưa được ăn nhỉ?
Tôi rụt rè hỏi về ốc. Nhưng ông Ngải nói như đương chuyện với ma:
Nó tập bắn súng gỗ với anh Quán. Rồi đến dạo ngày đêm máy bay ngoài bể vào, bay ngang mặt đê.
Đến mùa nước có đứa đồn máy bay Mỹ sắp phá đê cho cả tỉnh chết đuối. Các làng lên đê đặt ụ súng bắn cho nó không dám xuống thấp, bắn súng thật.
Cả đêm cũng đòm đòm.
ấy thế mà thời buổi tàu bay tàu bò lại kiếm ăn được. Chuyện này cô Hến về đã kể cho nghe. Chặp tối, đàn máy bay chúng nó đi ném bom về qua ném xuống hàng trăm cái vỏ thùng hết dầu. Đầu tiên tưởng nó ném xăng đốt làng. Ra xem mới biết cái thùng rỗng, thế là vớ bở. Thôi thì làm nồi, lảm vại, làm thùng, làm muôi, bán đồng nát, bán cân cho nhà mậu giũa làm lược, làm hình máy bay đồ trẻ con chơi...
Thanh niên ca cẩm: ngày nào cũng bắn mà cấm nhặt được thằng Mỹ nào. Rồi có đợt tuyển quân.
Thế là đi, ốc cũng theo. Nhà con một, xã cho miễn. Nhưng ốc bảo làm tiểu đội trưởng dân quân thì phải đi với quân, đi ít lâu xem sao rồi về thôi mà. Được một năm rưỡi, giữa tháng tám nhận được giấy báo hy sinh ở mặt trận phía Nam. Một năm sau thì mẹ cũng mất.
Cô Hến kể:
- Bố em bảo thôi thì nằm xuống ở đâu cũng là nằm. Bố em hãi cả ai nhắc đến, bố em sợ nghe ai nói thương binh liệt sĩ. Nhưng chúng em không yên lòng. Giải phóng rồi, nhà em đi tìm mộ. Đeo một tay nải thẻ hương, tối nào cũng thắp một nén khấn, rồi c thế đi. Run rủi thế nào lên núi Trường Sơn đến khu mộ liệt sĩ Thái Bình có hơn một nghìn ngôi đã bốc về đấy. Dò hết một ngày, tàn nén hương thì gặp mộ anh, rõ ràng cả quê quán, cả tên ở nhà, tên lúc đi bộ đội. Nhà em đã lấy giấy rập khuôn đá bia đem về tạc hệt cái bia ở núi Trường Sơn trong kia.
Trên bàn thờ, sau tấm ảnh ốc, một tấm đá bia khắc dòng chữ: Liệt sĩ Kiên Cường tức Lại Văn ốc hy sinh ngày...
Ngày trước, có lần ông Ngải đã kể như tâm sự với tôi ông vào hợp tác sớm vì ông tin ở Chính Phủ, con ông lớn lên trông vào hợp tác, chứ vợ chồng già rồi chết rồi, con cái biết nhờ cậy ai. Nhưng bây giờ ông Ngải không nói chuyện ốc, có nói thì cứ như ốc vẫn đứng đâu đấy trong nhà.
Tiếng xe máy xè xè ngoài đê. Khế về. Con gà trống, thẻ hương buộc trên túi trước tay lái. Tôi bảo Khế:
- Bây giờ cháu về...
Khế nói:
- Cháu ở lại với bác.
- Nhà mong thì sao?
Cháu đã vào uỷ ban gọi nhờ điện thoại, nhà cháu yên chí rồi.
Ông Ngải bỗng nói góp:
- Xã này có điện mồm rồi, chưa có điện đèn. Chỉ nghe nói mà tôi đã ghê cái điện đèn. Thấy bảo có nơi mắc điện bẫy chuột bãy cá, điện chạy sang người giật chết nhiều người lắm.
Khế đã nhanh nhẹn bắc bếp ngoài bờ ao đun nước làm gà. Tôi vào đặt thẻ hương lên giường thờ, thắp nén hương mới. Ông Ngải lại đã ngồi ngoài búi tre.
Cả ngày ông quanh quẩn đấy. Ông đem ra cái áo bộ đội- chắc áo của ốc để nhà, ông mặc thêm vào.
Trời chiều đã se lạnh. Tôi đỡ ông xỏ tay áo, lộ mảng xương sườn gồ ghề. Bao nhiêu năm rồi, ông Ngải ngồi bên búi tre lép, ngày ngày mọi việc trôi qua như dòng sông quanh ngoài chân tre. Tôi cũng đã móm mất cả một hàm răng rồi mà ơ hay, ông lão vẫn còn răng cửa như ngày trước, buổi chiều vàng mùa lúa, mùi rơm mùi thóc mới, con trâu kéo đá. Không biết có còn cái sân trâu kéo đá không. Nhưng vẫn đây, cái búi tre cổ thụ búi tre thấp lè tè đốt thẳng không gai, búi tre trâu cọ lưng nhẵn thín trông ra miếng ruộng xuống bờ sông, bàn tay ông Ngải đã cuốc nên. Cũng đồng đất ấy, nhưng chẳng ai nhắc đến thời hợp tác xã. Người đòi hay tránh cái đau, cái hèn kém cả đến trong ăn nói cũng kiêng những tiếng thô, tiếng bỗ bã.
Một con trâu vào xóm. Đường ngõ vướng tường và nhà cao, chân trâu bước âm âm rời rạc như tiếng chày giã bèo. Rồi ló ra con trâu đi, một bé cưỡi trâu, một người đàn bà vai vác như cái sào, như cây mía, một bé quảy gánh cỏ rảo bước như chạy. Ông Ngải không nhìn ra, nhưng nói:
- Mẹ con nhà nó.
Nói rồi ông ngước mặt:
- Anh Tư về chơi, mẹ Hến à!
Cô Hến ngả nón. Cô Hến chỉ bé sắt người lại còn thì vẫn như trước, cứ hao hao mà không khác mấy.
- Anh mới về. Mấy chục năm rồi...
- Năm nay cô bao nhiêu tuổi, cứ trừ đi khoảng mười lăm năm thì là bấy nhiêu lâu.
- Tính làm gì cho già người. Trông anh vẫn thế, bố em mà không gọi tên. em vẫn nhận ra.
- Cô với cháu đi làm đồng về. Thằng bé cưỡi trâu này ngày trước nằm võng phải không?
- Em vào trong xóm mua chuối.
- Có lần tôi đi với vợ chồng cô khiêng buồng chuối xuống chợ Diêm.
- Anh nhớ dai quá. Nhưng bây giờ không khó nhọc thế nữa. Em đi các nhà có chuối, được giá thì mua để đấy Đến hẹn có xe công nông về chở xuống Diêm.
Mà cũng không phải bán chợ, đem xuống tàu hết. Làm sao mà các nước người ta ăn chuối xanh khoẻ thật lực bao nhiêu cũng bỏ vào tàu tải đi bằng hết.
- Thế thì cô là lái chuối.
- Lèo lái chẳng ra sao, có điều cũng đỡ vất. Nhưng thừa người lại thiếu việc. Không còn gian dối như cái hồi hợp tác năm xưa cứ bầy việc ra để gãi công điểm.
Tôi hỏi:
- Anh Toàn nhà cô đâu?
- Đấy thừa người thiếu việc là cái tích ấy. Nhà em đi bộ đội về, cả nhà em với ông, bác ốc liệt sĩ vẫn được tính, có mấy sào mẫu ruộng, con trâu với cái máy đập thuê nó nuốt sạch việc, nửa năm làm nửa năm chơi nhong nhóng. Báo cáo với anh, nhà em lên Hà Nội làm xế lô. Có khi anh gặp mà không nhận ra thôi. Đến mùa thì về đỡ đần việc nhà. Cày cuốc ra hạt gạo, thì đồng tiền lại hiếm Chẳng đạp cái xế lô thì đào đâu ra tiền làm nhà, trát sân, lại tiêu pha cho các cháu đi học. Thằng nhớn cũng thôi học rồi, chưa đến tuổi tuyển quân, đương đòi xuống Diêm làm cửu vạn, dưới ấy bây giờ còn vui hơn Hà Nội. Cả làng, cả vùng kéo ra Diêm bốc vác, có nguời sắm xe máy chuyển hàng cho nhanh. Để nhà em về, chuyến này chúng em tính. Có khi nhà em cũng về làm dưới Diêm cho gần gũi cửa nhà, anh nhỉ?
Cô Hến lại kể:
- Nhà em bảo em lên ở Hà Nội. Giàu có nhà quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ, vẫn đồn thế mà. Người hèn đớn cũng kiếm được, không mất bữa. Gánh đồng nát mà lãi quan viên. Nhà em bảo thế, em cũng đã lên xem sao.
Rồi cô Hến cười rúm mặt lại:
- Chưa nổi phiên chợ em phải nhảo về. Kệch đến ngày xuống lỗ
- Thủ đô đấy, mà cô chê a?
- Mỗi tối thuê cái chiếu nằm gầm cầu, có tiền bạc của nả thì gối đầu, giắt lên ngực. Bốn bên lủng củng người nằm, nói anh bỏ lỗi, nó đéo nhau huỳnh huỵch rồi lại chửi nhau, quát nhau to tiếng hơn ô tô chạy ngoài đường. Cả đêm không tải nào chợp mắt, ăn cơm lại oẹ ra, ốm đến nơi. Thế là cút ngay. Thuê kẹo em cũng không bao giờ dám lên Hà Nội nữa.
- Anh ấy ở Hà Nội cả năm, cả tháng thì sao!
- Có cái chiếu nằm tơ hơ không màn mùng, muỗi như chấu. Em bảo cho nhà em ở trên ấy tha hồ vơ váo con nào cũng được. Nói ra nặng thế chứ nhà em hiền lành, vài ba tháng lại đem tiền về, cả quần áo các con cũng lo tươm tất. Tội nghiệp, anh Quán còn trẻ, khéo chỉ bằng tuổi nhà em, thế mà đã mất, ốm thế nào ạ?
- Sau này chú ấy để râu, lọm khọm lắm.
- Để râu thì để râu, trẻ thì vẫn trẻ chứ.
ở sân sau, con trâu giẫm đứt cái mành mành che chuồng xí, hai con cô Hến hí hoáy buộc lại, xong rồi ra xúm quanh anh Khế ôm. Khế đã nhanh lại khéo tay. Khế làm gà, cô Hến vo lẻ gạo nấu cơm nếp. Đun bếp lá tre, một mình Khế tay dao tay thớt làm cả.
Tôi khen thì Khế bảo: “ ở bên Tây cháu cũng chân bếp núc, những thằng lười đi làm về thuê mình làm. Cũng kiếm thêm tí ti".
Ông Ngải bước vào trong nhà. Mới biết lúc nãy ông mặc thêm cái áo bộ đội không phải vì chiều gió heo mà ông mặc áo cho tề chỉnh. Ông lấy thẻ hương, rút hai nén cắm lên bình rồi vái, lẩm nhẩm khấn, lại nói như nhắn:
- Anh Tư về chơi, có mâm cơm cúng. Mẹ con nhà mày về ăn với cả nhà.
Mọi người đã vào mâm. Ông Ngải ngồi tựa lưng vào tường, nhìn ơ hờ. Cô Hến nói: “Ông em dạo này có chứng nghẹn, mắt lại kém, cứ vừa ăn vừa thở, lâu mới xong bữa". Ông Ngải cầm đũa. Ông và miếng cơm, nhai mãi. Quả là ông hay nghẹn. Cô Hến đã mua về một lẻ rượu. Ông Ngải vẫn không rượu như ngày trước.
Còn tôi, đụng đến rượu thì phải có sự thế nào, chẳng vui cũng chẳng cơn cớ gì mà uống, tôi và Khế cũng chỉ đểnh đoảng một chén. ánh cái đèn phao treo sáng cả gian nhà, bữa chén buồn buồn.
Ông Ngải nói:
- Có anh về tôi vui không biết nói thế nào cho hết, không ăn được mà cái lưng không cho ngồi lâu. Hai ông cháu cứ cơm rượu tự nhiên, tôi phải đi ngả lưng.
Sang canh tôi dậy nấu nước thì anh ra uống với tôi.
Ngày trước hôm nào anh cũng uống chè sớm. Rồi anh có nghiện không? ừ mà rượu Tây rượu Tàu, chứ nghiện đâu cái nước chè nhà quê!
Cô Hến nói:
- Đêm nay giở gió, ông không được ra ngoài bụi. Mà nhà có khách, ai lại nằm bờ ao. Ông em lẩn thẩn lắm, cứ bảo ra ngoài ấy dễ ngủ.
Ông Ngải nói:
- Hay là bố con anh ra với tôi. Cái lá chuối khô, ấm hơn chăn bông.
Cô Hến lại bảo ông Ngải:
Cháu nó giải lá chuối phản trong nhà rồi. Cả chỗ nằm cho hai ông con anh Tư.
Ông Ngải ngồi im rồi đứng dậy, nhưng ông không ra búi tre mà sang cái phản bên. ổ lá chuối khô hai thằng cháu đã ôm vào từ lúc nào.
Tôi nói:
- Ông Ngải này!
Ông Ngải sột soạt cựa quậy trong ổ lá. Tôi ghé xuống:
Có cái quà biếu ông. Ông có nhớ hôm tôi buộc cọc dây galen lên cây cau ông nghe galen nói eo éo, cái này còn hơn galen nhiều.
- à!
Tôi lấy trong ba lô ra chiếc đài National bằng bàn tay chạy điện chạy pin đều được, mà nhà văn Nhật Ôta đã cho tôi hôm chia tay ở Đacgiơlinh. Tôi cũng dùng từ ngày ấy, cái đài vẫn tốt. Từ lúc Ôta cho đài, không hiểu liên tưởng thế nào tôi đã nghĩ có thể rồi một ngày tôi đem về biếu ông Ngải. Xuống đây, cũng có phần trong ngụ ý việc vui ấy.
Ông Ngải nghiêng đầu lên. Tôi nói thong thả lại câu vừa rồi và giơ cái đài. Ông Ngải lắc đầu.
- Tôi không... tôi quên cả rồi.
Cô Hến nói:
- Ngày trước ông cháu mê galen nghe suốt đêm. Sau có cái đài chạy pin, rồi ông cháu đem bổ đài ra bóc vỏ làm đóm.
Khế hỏi ngơ ngẩn:
- Lạ nhỉ, đài hát vui lắm.
Cô Hến rầu rầu:
- Cứ nhở nghe nói đến thương binh liệt sĩ ông cháu tắt đài ngay. Ông cháu sợ.
Có một bóng người lù lủ dật dờ vàò. Tiếng thều thào:
- Anh Tư về chơi, còn nhớ tôi không? Sự, thằng Sự đây mà...
Tôi reo lên:
- Anh Sự! Quên thế nào được. Mạnh khoẻ chứ. Định sáng mai sang anh.
- Không mạnh, cũng không khoẻ. Sang tôi nhé.
Sự ngồi ghé vào ánh đèn. Trông rõ một bộ xương run run ngồi. Chưa thấy người nào gầy vêu vao nhường này. Tôi hỏi nửa thật nửa đùa:
- Lo nghĩ sao mà rạc cả người thế? Chị ấy với các cháu thế nào?
- Tôi phải cái chứng ho, ho bệnh anh ạ. Trông anh cũng già, chúng mình già cả rồi. Chóng quá Thôi đã khuya, anh đi nghỉ chả mệt. Mời anh sáng mai, anh với cậu này sang bên tôi rượu cháo lòng. Ông Ngải nữa, mời ông. Ngoài đầu xóm có nhà mổ lợn lòng sốt ăn được.
Không đọi tôi trả lời, Sự lại lù đù về. Bước lẩy bẩy mà cái cách ăn nói “dứt điểm” vẫn nóng như lửa.
Cô Hến nói:
- Không phái bác ấy ốm, mà bác ấy nghiện đấy.
- Nghiện cái gì?
- Thuốc phiện ạ, nặng lắm. Bác gái thấy để ở ngoài Diêm không tiện vì khách khứa, buôn bán ra vào. Mà nghiện ngập thì ở làng nước còn thông cảm chứ ngoài Diêm người ta bắt đi cai rồi.
- Nhà bác Sự ra ở Diêm rồi sao?
Cô Hến kêu lên:
- ấy chết, từ nãy quên kể, nhà bác Sự bây giờ giàu nhất vùng chứ lại chả nhất làng. Bác gái với cái Soi, đảm lắm. Hai mẹ con buôn hàng tàu đỗ ở ngoài bể. Mối lái các nơi về cất hàng lúc nào cũng đầy nhà khảch. Đủ thứ, xe máy, đồng hồ, tủ lạnh, buôn cả người nữa. Nhà em mà bỏ xế lô cũng phải ra xin việc nhà ấy. Con Soi diện mốt ăn đứt gái Hà Nội kia. Sáng mai anh sang chơi, bác Sự tốt bụng mời thật đấy. Nhà trong này cũng sang hơn cả nhà chủ tịch. Điện thoại nói chuyện bắt vào tận tai, sướng chưa!
Nhưng rồi cô Hến chép miệng:
- Nứt đố nổ vách thế mà con cái hỏng ráo. Hai thằng con trai thì ngồi ăn cơm nhà đá. Còn cái Soi ra ngoài tàu ngủ với trăm thằng, cả mẹ nó...
- Già mõ ra rồi.
- Bà lão cũng chẳng tha thằng nào. Có thế mới giàu như điên.
Tôi tặc lưỡi:
- Những nhà có của ở đâu cũng thế.
Trong ổ lá chuối, ông Ngải đã nằm im từ lâu. Ông vẫn quen ngủ sớm hay là ông trằn trọc trong im lặng.
Khuya rồi, tôi quá giấc cũng không chợp mắt được. Quả nhiên, ông Ngải đã ra ngồi uống nước từ lúc gà chưa gáy. Mọi thứ chè vò, ấm bát các cháu đã sắp sẵn. Thói quen đã khoẻ hơn cả nỗi già nua. Ông Ngải vẫn một mình một bóng in trên vách. Tôi ra với ông lại bởi không ngủ được. Đã lâu mới lại được nếm cái vị chè vò chát mà đậm giọng. Ngày trước thì ông đã chuyện ran rỉ, nhưng bây giờ chỉ lặng im.
Nhà anh Sự khang trang thật, không còn lù lù đống cây rơm ở góc sân. Năm gian mái ngói âm dương, sân lát gạch hoa từ thềm ra tận bờ ao, cổng xây hai cột trụ như cổng đình. Tôi đã nhắc là hôm qua anh Sự mời ông Ngải sang ăn sáng. Ông lắc đầu “Cả đời có ăn sáng bao giờ. Anh biết đấy. Anh kiếu hộ tôi".
Trong nhà, gian giữa, bộ ghế xa lông bóng cánh gián. Trên mặt tủ chè, đặt chiếc choé đồng sáng nhoáng. Gian bên trống hốc, mọi cái sang trọng lẫn với lạnh lẽo, tựa như cái nhà không người. Lạ là trông thấy máy điện thoại kia, nhưng không thấy đài, vắng tiếng nói tiếng hát rộn rã mà các nhà hợm của hay mở cả ngày. Có lẽ bởi người nghiện sợ tiếng ồn. Trên cái sập gụ; Sự quấn chăn chùm đầu, đương hi hoáy nạo sái. Anh đẩy cái gối, mời tôi nằm bên chiếu. Đã lâu mới lại trông thấy cái bàn đèn kiểu cách cấu kỳ. Năm mới giải phóng, vào Sài Gòn, Điều rủ tôi đi tiệm hút ở chợ Cũ. Tôi đã toan đi, rồi lại thôi, bởi vì nhớ có lần Nguyễn Tuân đem ra Hà Nội cái gối đầu lấy ở một tiệm hút, vẫn cái gối sành trắng hếu, rỗng ruột, trong nhét cái giẻ lau đen xỉn, trước kia đã thấy những cái gối lạnh rợn mắt này trong tiệm hút chui rúc ở Hà Nội, ở Chợ Lớn, ngõ Sầm Công cũng như đường Cây Mai, tôi ghê ghê lợm giọng.
Rồi ông Nguyễn cũng vứt cái gối ấy ngoài hiên, chỗ chai lọ đồng nát. Dẫu ở nhà ông Hy Chả Cá, cái bàn đèn riêng gọn ghẽ, rồi lên vùng cao, chiếc dọc tẩu làm bằng đốt hóp đá, tôi cũng không để ý, nhưng bàn đèn của Sự thì chưa được thấy ở đâu. Chiếc khay gỗ đen tuyền, chụp đèn pha lê xanh nhạt, cái dọc tẩu khảm trai lấp lánh, những cái tiêm, cái nạo, cái khoe bằng kền bằng bạc nhoang nhoáng. Các thứ đồ lề của làng bẹp khác mắt này chắc phải chuốc tận các tổ hút lò hút bên Ma Cao, Hồng Kông mới có được
Tôi bảo Sự:
- Để tôi tiêm cho.
Sự cười, miệng mếu nhợt nhạt như rách ra.
- Anh cũng biết tiêm thuốc a?
Thật tôi cũng chỉ trông người ta tiêm, thấy chẳng phức tạp gì. Tôi hơ thuốc rồi vê lại, nghiêng vào ngọn đèn vun thành cục nướng xèo xèo bên lỗ nhĩ rồi đưa miệng dọc tẩu sang cho Sự.
Sự nói:
- Mời anh hút trước.
- Vui với anh thôi, tôi không hút.
Cũng không ép tôi thêm, Sự gò lưng đến rụt cổ, cong hai vai kéo điếu thuốc rồi ngồi lên, chiêu ngụm nước hãm bát nước chè vò đặc sánh.- “Anh tiêm được đấy. Biết tiêm mà không hút, ừ, tôi phải học anh, nhưng tôi đắm đuối quá rồi, anh ạ. Sáng ngày ra tôi kéo sáu điếu cả thuốc cả sái mới mở được mắt. Tôi đã bảo cả rồi, các thứ ăn uống đều làm bên kia, sắp mang sang.”
Tôi hỏi Sự về những người, những việc tôi còn nhớ. Tôi không động câu nào về nhà anh. Nguồn cơn buôn bán giàu có; tại sao vướng vào vòng nghiện ngập; anh có còn là đảng viên không. Tôi e Sự khó nói hay là tôi ngại. Có lẽ cả hai.
- Ông Dũng trong làng hồi này thế nảo?
- Ra tỉnh mở hàng cơm một dạo. Chết đã lâu rồi.
- Lại thắt cổ à?
- ốm bệnh già thôi.
- Cậu Quốc...
- Đại uý Quốc. Rồi cậu ấy đi bộ đội thiết giáp. Xe tăng vào chiếm dinh Độc Lập đấy.
Nói câu ấy, Sự nhô vai, cổ nổi gân đũa, hăng lên như khoe chiến công của mình.
- Bây giờ làm hội Cựu chiến binh, chủ tịch xã kiêm bí thư đảng uỷ...
Chỉ hỏi qua loa mà ra bao nhiêu chuyện và đời người khác nhau. Nếu ở lại đây vài hôm, vào trong làng, gặp lại những cô Dăm, cô Vĩnh thì chắc đêm nào cũng còn mất ngủ nữa.
Tôi nhận ra Sự nói vẫn sang sảng, anh Sự bẹp tai mà làm như vẻ ta đây. Tôi không hào hứng chuyện đồng ruộng và làng xóm, tôi hỏi chuyện khác.
Nghe ngoài Diêm đương xây cảng lớn, tàu nghìn tấn vào được. Anh có hay xuống Diêm chơi không?
Sự chau mặt:
- Không! Xuống làm chó gì!
Một cô bé quảy một gánh hai cái thúng con con bước vào. Một bên nồi cháo đương sôi bốc trắng kẽ vung, bắc trên cái bếp dầu vặn nhỏ lửa. Quang bên kia, cái mâm đậy lồng bàn- “Mày giái chiếu rời dọn ra". Đã gọn gàng cả, hai đĩa to đủ cả lòng, dồi gan, cổ hũ... Cái rổ con xếp mở húng chó, mùi tàu, quả chanh và mấy quả ớt chín vàng bên bát mắm tôm. Chai rượu trắng đã đặt đầu mâm với đũa bát tình tươm. Con bé không phải người nhà hàng, nó được thuê cơm nước hầu ông bẹp Sự.
Tiếng xe máy xình xịch vào đầu xóm.
Sự lẩm bẩm, không nhìn ra.
- Mẹ con nó về. Tôi đã điện thoại bảo có anh sáng nay sang chơi.
Vào trong ngõ, một cái đrim màu mận chồm thẳng qua bậc cổng. Người đàn bà cưỡi ghì như hiếp cái xe. Cứ như những chuyện cô Hến nói thì tôi đoán nó là cái Soi, chứ làm sao tôi nhận ra con bé ngày trước đứng ơ mặt nhìn nghe cái galen ở nhà ông Ngải và con bé xúc thóc trộm hợp tác, mấy mẹ con suýt đánh nhau với bố. Nó đã cứng tuồi, nhưng ăn mặc như trẻ trung đương thì. Một cô “tiếp thị” đúng mốt, áo thụng tám túi, đeo cái túi xách hai ngăn. Tóc cắt vét tém, bôi son môi, quầng mắt xanh, váy bò cỡn trên đầu gối, thừa ra nửa bắp chân trên đôi giày da nâu đế cao. Đằng sau, ngồi một bà béo ục ịch, chắc mụ Sự đây. Mụ cũng sấy tóc cũn, quần phăng đen, sơ mi hồng dài tay, mặt bự phấn, cổ đeo dây chuyền vàng to như cái xích mèo. Nước hoa đã phả vào nhà thơm sực nức.
Hai mẹ con bước vào, như không trông thấy bố Sự ngồi đấy. Tiếng cười khành khạch và một câu chào hàng:
- ối kìa anh Tư. Vẫn thế, trẻ ra đấy.
- Tôi không nhận được chị.
- Cái thời mỡ màng theo con gà ngày mùa nhặt thóc đã đút bếp rồi, anh ơi!
Mụ hỏi:
- Xe anh để đâu, ngoài đình à? Khéo nó tháo mất..
- Để bên ông Ngải. Các cháu nhà cô Hến cẩn thận, đã chằng cả cuộn chão vào hai bánh. Chú lái của tôi đây.
Tưởng cái ô tô hóa ra cái xe ôm, thế là mọi chuyện đểnh đoảng dần rồi nhạt thếch. Cái Soi ngồi bên sa lông, chốc lại vóng sang giục mẹ: “Nhanh lên! Nhanh lên! ”, chẳng giữ ý khách lạ. Mụ Sự cũng không để mắt đến mâm cháo. Có lẽ vì tôi và mụ câu chuyện chẳng còn ăn nhập gì. Mụ nói: ” Sáng nay khách tôi ngoài tàu hẹn. Có thong thả thì mời anh ra Diêm chơi". Rồi cười rung má, đá mắt nhìn Khế ôm. Mụ nói lửng, ỡm ở không vẻ mời mọc, hiểu sao thì hiểu.
ấy thế mới là đời bây giờ. Tôi nghĩ chua chát. “Thằng Sự còn mấy hơi mà chặt cổ thằng nào nữa, chuyện cổ tích lắm lắm rồi".
Cái Soi vùng vằng cứ ra nổ máy xe. Tôi không thể còn đầu mối nào chắp được chuyện những cái cô Dăm, chị Sự, cô Vĩnh năm xưa nói “chúng em như con gà, ngày mùa thì gà béo” với mụ Sự bự rự son phấn này. Đến lúc tôi trông thấy mụ ngồi, đôi dép đặt lên cái vấu sau xe, chỗ gót chân mụ còn hằn vết sẹo khía đen nẻ miếng thì tôi gật gù khoan khoái như đã được an ủi là tìm ra cái dấu nối rồi.
Sự ngồi yên, hai con mắt như lồi ra. Khi tiếng xe đã lên trên đê, Sự văng một câu dõng dạc:
- Đồ đĩ rạc!
Sức lực gân cổ Sự dồn cả vào câu chửi sau lưng ấy. Rồi rót rượu, nói:
- Mời anh nhắm tự nhiên. Nồi cháo sôi cạn cả.
Bữa chén cụt hứng, đâm loãng hẳn.
Tôi về, ông Ngải đã ra ngồi bên búi tre lép đan rỏ. Hai thằng cu nhà Hến đã đi kéo riu tép. Con trâu lên trên mặt đê gặm cỏ. Rỗi rãi, trâu được thả đi ăn từ sớm. Xóm làng bày ra những trái ngược, nhưng cũng dễ cắt nghĩa. Chỉ không biết rồi mai kia sẽ thế nào.
Tiếng gọi nghé văng vẳng trong cánh đồng.
Nghé ơi... nghé ơ...
Chân đi thon thót
Vọt chẳng bén lưng
Bé ăn chơi dưng
Lớn phải đi cày
Đi cho đến bờ đẽo lại
Đập rợ vào lưng, là vặt bước vào
Đi cho thẳng đườig cày, cho ngay đường bừa
Chân đi tai nghe, dạ nhớ lâý
Chớ đi quàng, phải đòn
Nghé ơ...
Bốn phía phẳng lặng đồng không. Chẳng trông thấy ai gọi nghé. Chỉ là tai tôi phảng phất tưởng nhớ mà thôi.


Chương XXII

Đường về tỉnh, bây giờ mới để ý xe của Khế len lỏi giữa những xe máy, xe tải xuôi ngược, che đậy bịt bùng. Chốc cái bạt lại tốc lên. Những tủ lạnh, quạt điện, máy khâu, các máy móc gì nữa, quần áo vải len sặc sỡ. Thấy nói ngoài khơi biển Diêm Điền có một cái chợ trời, tàu các nước chở hàng lậu đến đậu từng đám. Hàng trăm thuyền ra rút hàng suốt đêm.
Cái năm tôi qua thành phố Đaét Salam nước Tandania, trên vỉa hè người đứng bán từng đống xống áo cũ, hết mốt. Tôi về đã viết một bài báo chễ riễu châu âu đương mở mang công nghiệp tống phế thải sang thị trường châu á, châu Phi. Nhưng ở Việt Nam không thèm những cái bần mắt ấy. Bây giờ thì những cái bẩn mắt ấy tràn khắp chợ thì quê ta.
Viết đến đây, tôi vẫn đương ở Đà Lạt. Tháng chín, thành phố cao nguyên mưa và lạnh. Tôi không đem theo áo ấm, cháu My xuống chợ mua cho ông cái áo bludông vải xám có dọc kẻ đen như áo tù. Tôi đương mặc cái áo ấm cu người mới ta ấy và ngồi viết. ở đây nhiều người đã phất lên, cũng như mụ Sự kia béo mầm chỉ nhờ những cái ôi thối của thiên hạ. Lại những tình cờ, phải chăng. Những sa sút của Sự, ngày tàn tạ của Vêrônica, cái chết của Madari, bước đường phiêu bạt không thể định trước của Platôn Thành, ông Ngải vẫn ngồi ở búi tre lép, không biết đến bao giờ.
Đường tấp nập đông, khi trở về bao giờ cũng ngỡ như nhanh hơn. Chẳng mấy lúc đã qua phố huyện.
Khế tự dưng hỏi tôi- câu hỏi như kết luận những quan sát của Khế từ hôm qua.
Bác là nhà báo à?
- ừ
- Nhà cháu ngày trước cũng có người đăng báo, bác biết không?
- Tôi biết thế nào được!
- Bài báo Bà ký Đường ấy mà!
Tôi giật mình, nhúc nhích cả sợi dây chằng ngang lưng. Cái truyện ngắn của Nguyễn Khắc Mẫn đăng báo Ngày Nay, một chuyện có thật. Tác giả đã đi hát ả đào phố huyện Vũ Tiên đầu tỉnh. Nhà hát bà ký Đường được tiếng không phải vì sang, vì người đẹp hát hay mà vì nó không giống kiểu các nhà hát khác.
Ông ký làm sư lục lộ, kém mắt, bị mất việc. Ông ký về mở nhà hát, làm kép đàn, bà ký và cô con gái hát. Nhà hát bà ký Đường không nuôi đào rượu hầu hạ ôm ấp khách. Không có chầu mặn chè chén và khách ngủ lại đêm. Hát chầu chay xong, chi tiền rồi- khách ra về. Được tiếng mà lại vắng khách, cái nhà hát còm cõi ấy.
Ông Dương một ta giỏi võ làng tôi, chủ xe ôtô con thỏ Mỹ Mâm thuê đứng chùm du côn tranh khách đường Thái Bình- Hà Nội. Chúng tôi hay xuống chơi với ông, có khi dăm bứa nửa tháng. Tôi kể ông nghe cái truyện ngắn Bà ký Đường. “ừ, có cái nhà hát bà ký Đường. Chỉ nghe hát suông rồi cút, chán bỏ mẹ. Chúng mày muốn đi thì tao cho đi". Ông Dương bảo thế.
Rồi tôi được rõ hơn lai lịch nhà hát này cũng không phải chỉ một màn “chán bỏ mẹ", như ông chùm du côn làng tôi nói khinh thế. Hát cô đầu phố phủ, phố huyện ở đâu cũng tẻ nhạt- dẫu sao cũng chỉ là nơi chốn ăn chơi cò con của mấy ông chánh lý có việc quan, những đám kiện cáo bên nguyên bên bị có máu mặt lên công đường và những dịp sưu thuế. ở Vũ Tiên, đất này có nghề nhà trò hát cứa đình cửa đền, đến mùa đám thứ thì đi hát thờ, có khi gặp dịp vào hát trong dinh quan bố, quan thương, quan án. Đã tàn tạ rồi, nhưng còn giữ lề. ả đào Vũ Tiên vẫn có nếp, còn kiêng: hoa là huê, lễ là lỡi, liễu thì hát là lão... còn giữ hơi giữ tiếng con nhà nòi họ Tam, họ Ngàn tử xưa nghề hát.
Chúng tôi được lang võ sư Dương dẫn đến nhà hát bà ký Đường. Đúng như Nguyễn Khắc Mẫn đã tả trong cái truyện ngắn. Nhà phố huyện, vườn thưa hai bên bờ rào. Mái ngói, vách dứng chát vôi cát. Có hai gian, gian ngoài làm nhà hát. Ông ký khoảng trong ngoài năm mươi, người gầy kheo khư, cổ lộ hầu, áo the khăn xếp. Ông ngất ngư nghiêng ngả cả người vớt hai bàn tay khô đét nắn phím gảy tửng tửng cây đàn đáy ba dây. Võ sư Dương kể lão ký Đường nghiện nặng, trước làm cai phu sở đạc điền ca đát, người ta gọi tôn lên chân ký lục. Nhà hát tiêu sơ thế này đào đâu ra tiền mua thuốc ty, lão chỉ nuốt sái, càng gầy rộc, mà lại hay ghen, bởi vì bà ký Đường còn mẽ người, bà vấn khăn sa tanh bỏ tóc đuôi gà, ngồi xếp thẻ hai đầu gối quần lĩnh. Tiếng hát khi thánh thót khi dịu dàng trong khổ phách mau thưa. Chúng tôi đã cơm rượu từ chiều ngoài hàng ở bến xe, như mọi khi. Tôi không biết cầm roi chầu, nhưng cũng nghe biết ông Dương say cứ gõ tom chát loạn xạ. Cả nhà có ba người đều phục dịch vào hầu chát. Cô con gái vừa đun nước, lại mời nước. Cô mặc áo the nâu, cô còn nhỏ nên vấn khăn lượt chưa bỏ đuôi gà. Cô hát hàng hoa nhẹ nhàng đỡ mẹ những bài dễ, khi mới khai trống chầu, nào Bầu trời cảnh bụt... nào Hồng hồng Tuyết tuyết... Cô bé chừng mười ba mười lăm tuổi, người mỏng như cái đóm, lại có cái tên ngồ ngộ, cô Thẹn.
Tôi cũng chỉ đi “che tàn” theo ông du côn cho biết, nhớ đâu được cái nhà hát sài đẹn này. Tối hôm ấy ông Dương cũng chỉ đánh trống nghe hai ba bài rồi kéo chúng tôi về. Bây giờ bỗng dưng nghe nói tên “bà ký Đường”, lại đương về qua Vũ Thư rồi...
- Bà ký Đường là thế nào với Khế?
- Bà cháu, ông ạ. Bà cháu mất đã lâu, cháu cũng không biết mặt.
- Mẹ cháu tên là Thẹn, phải không?
- ối giời ôi! Sao ông biết tên cúng cơm của mẹ cháu, sao...
Mặc cho anh chàng cứ kêu giời rồi sao... sao. .., tôi không trả lời. Có gì mà trả lời, những chuyện nhà trò cô đầu đã xếp xó, như tuổi cậu này bấy giờ còn ở trên trời dưới âm phủ mô tê nào, biết đâu được.
Chao ôi, lại một tình cờ giữa đường...
Về đến thị xã, Khế ôm nhất định chưa nhận tiền công tôi trả mà nằng nặc “mời bác vào nhà cháu... mời ông... Ông ở chơi với bà cháu, với vợ chồng cháu, mai hẵng về. Mà bây giờ đã trưa rồi, ông cũng đến đi tìm nhà trọ chứ đi đâu".
Khế đoán đúng, tôi đã tính ra cầu Bo lại vào những cái hàng cơm chứa trọ trên bến. Thế là tôi theo Khế về nhà ở phố huyện cũ. Có lẽ vẫn chỗ cái nhà hát bà ký Đường năm xưa mà tôi không thể nhận ra.
Khế sắm nắm đi, lúc đèo lúc dắt, hớn hở ra mặt.
Tôi cũng chẳng có kỷ niệm gì ở đất này, chuyện “bà ký Đường” thì vì Khế nói đến mà nhớ. Có lẽ mỗi khi qua Vũ Hiên, Thư Trì lại nhớ anh bạn vong niên Vũ Đình Cự nhà vật lý chất rắn cự phách đã cùng anh em trổ tài hiện đại kết hợp với thủ công phá thuỷ lôi Mỹ thả vây cảng Hải Phòng. Chẳng biết anh chàng đã lấy vợ chưa, hay không. Và tôi nhớ bài thơ Xuân Diệu vàng ngời những vườn hoa ngâu chín làng Thuận Vi.
Biết đâu Khế chẳng nghĩ ráng mẹ Khế gặp tôi thì có thể hai cụ đã thế nào với nhau ngày trước.
Ôi, tôi lại nhớ chuyện Hoàng Trung Thông viết bài giai thoại trên báo Văn Nghệ về Hoàng Trung Thông và Nguyễn Tuân sang chơi Lỗ Khê huyện Đông Anh.
Lỗ Khê, một làng nghề ả đào. Nguyễn Tuân hỏi thăm một danh ca có tiếng ngày trước hát ở Khâm Thiên, người làng này. Bà con nói cụ nhà trò ấy mất rồi.
Đêm ấy trời sầm sập mưa, Nguyễn Tuân uống rượu gõ chiếc đũa vào lưng cái bát làm trống cầm chầu và Nguyễn Tuân hát, nước mắt ứa ra. Hoàng Trung Thông đã viết lại cảnh ấy. Bạn đọc có thể ngậm ngùi với người đãng tử một thuở đưong khóc cố nhân.
Nguyễn Tuân bảo tôi:
- Tao có nhân nghì nhân ngãi gì với bà ấy đâu.
Biết thì hỏi thăm vậy. Nghe chuyện bả bị bắt lúc cải cách ruộng đất, bả đã thắt cổ chết thì tao nghĩ thương cho một cái tài hát kiếm được ít tiền tậu mấy sào ruộng lại phải chết vì cái tài ấy. Thương là thương thế!
Tôi hỏi:
- Hoàng Trung Thông không biết như ông?
- Nó biết. Nó cùng nghe mọi chuyện với tao. Nhưng nó viết thế thôi. ấy đấy!
Hai chữ “ấy đấy” ai hiểu thế nào thì mặc lòng.
Cái nhà của một người đi kiếm tiền ở nước ngoài về như Khế có đầu óc thu vén thật chỉn chu. Nhà một tầng- giàn hoa ti gôn đỏ hây trên đầu tường phủ xuống trước cửa, phảng phất dáng một căn nhà nghỉ ngoại ô Beclin- hay là tôi tưởng tượng ra thế, nhưng dẫu sao cũng là một gian phong quang, nhẹ nhõm được mắt.
Dắt xe vào giữa sân, Khế nói to:
- Bà ơi! Có khách.
Một bà lão ngồi cái chõng trong nhà ngước mặt ra. Cái nhìn của một người kém mắt, nghe cũng là nhìn, như ông Ngải.
- Ai thế?
- Chào cô Thẹn
Bà lão đứng lên, nghẹn ngào, mếu máo:
- Ông nào...
Trong khi Khế dựng xe vào tường hoa, hỏi mẹ:
- Nhà con trưa nay có về không?
- Có, nó vừa ra chợ.
Rồi Khế nói bô bô, như mọi việc đã xếp đặt cả.
- ối giời ơi, từ hôm qua đi với ông, con sướng quá. Các cụ ngày xưa cũng lắm chuyện chứ chẳng chơi. Thế nào con cũng phải giữ ông ở lại đây xơi cơm với bà cháu, với vợ chồng cháu. Mai con lai bố về tận đầu ngõ trên Hà Nội. Con phải bảo nhà con về sớm làm con vịt đánh chén mới được.
Rồi Khế vào trong nhà, nhấc điện thoại, gọi ríu rít.
Tôi nắm tay bà lão, đốt ngón tay lạnh ngắt- cái cô bé đun nước, mời nước, hát hàng hoa tiếng e é chua như mèo rên ngày xưa đây. Hàm răng móm làm cho môi và cằm rúm trũng xuống. Nước mắt bà lão chảy ra, không biết cái nước chết lưu niên ở hai con mắt lòa lúc nào cũng ràn rụa nhợt nhạt trên mí, hay là nước mắt. Cô Thẹn ấy nhỏ thó, gày rạc, cái bóng ngày xưa ngồi sau lưng bà ký Đường đợi hát đỡ mẹ, tiếng đàn đáy lắc lư.
Cô Thẹn ngày ấy đây. Bà lão vẫn nắm tay tôi cất giọng phều phào, rè rè:
Đến bây giờ mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai
Câu Kiều này, đầu mùa đông 1959, Nguyễn Đình Thi đã ghi sổ lưu niệm bảo tàng L. Tôn Tôi trong điền trang Jasnaia Poliana ở Tu La.
Mỗi khi mơ màng lại cái chuyến về Thái Bình này, là thật hay chiêm bao. Hai câu lẩy Kiều tình nghĩa kia đã thấy ở Tu La hay đã nghe cô Thẹn, bà cụ Thẹn nghẹn ngào.
1997, Đà Lạt
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
CHIềU CHIềU
Tô HOài
NHà XUấT BảN hội NHà VăN
65 Nguyễn Du. Hà Nội- ĐT. 822235
Chịu trách nhiệm xuất bản:
NGô VăN pHú
Chịu trách nhiệm bản thảo:
BùI HòA
Biên tập.
VươNG TRí NhàN
Trình bày bìa:
- - - - - - - - - - - - - -
Sửa bản in:
NGUYễN SôNG ThAO
In 1. 000 cuốn, khổ 13x19cm tại Công ty In KHKT- Hà Nội.
Số in: 181- Giấy đăng ký kế hoạch XB số: 3l123lCXB
In xong và nộp lưu chiểu quí II năm 1999


Nguồn: http://vnthuquan.net/