25/3/13

Ba người lính ngự lâm (C21-23)

Chương 21

Nữ bá tước De Winter


Suốt dọc đường, Công tước hỏi D' Artagnan để biết rõ tình hình, không phải tất cả những gì đã diễn ra, mà chỉ những gì D' Artagnan biết. Khớp nối những gì đã được nghe từ miệng chàng trai trẻ với những kỷ niệm của riêng ông, ông có thể có được một ý niệm khá chính xác về tình thế nghiêm trọng, hơn nữa, bức thư của Hoàng hậu dù rất ngắn, và không mấy dứt khoát, cũng cho ông thấy mức độ nghiêm trong đó. Nhưng điều khiến ông lấy làm lạ hơn cả là Giáo chủ vốn quan tâm làm sao để chàng trai trẻ này không đặt chân được trên đất Anh lại không sao bắt giữ nổi chàng ở dọc đường. Thấy ông tỏ vẻ ngạc nhiên như thế, D' Artagnan liền kể hết đã phòng bị thế nào, rồi nhờ sự tận tâm của ba người bạn chàng tuy đang đẫm máu mà chàng vẫn phải bỏ mặc ở dọc đường, rồi việc chàng suýt đã lìa đời vì, mũi gươm đâm xuyên qua bì thư của Hoàng hậu, và chàng đã trả miếng Bá tước De Wardes khủng khiếp thế nào.
Chăm chú nghe câu chuyện được kể vô cùng đơn giản, thỉnh thoảng Công tước lại ngạc nhiên nhìn chàng trai trẻ như thể không tài nào hiểu nổi bấy nhiêu thận trọng, dũng cảm, tận tâm lại có thể sóng đôi với bộ mặt chưa đến hai mươi này.
Ngựa phi như gió, vài phút sau đã tới cửa ô London.
D' Artagnan vẫn tưởng là vào trong thành phố, Quận công sẽ cho ngựa chạy chậm dần, nhưng không phải thế, ông tiếp tục cho ngựa phi hết cỡ, chẳng quan tâm mấy đến chuyện có thể xô ngã những người đi đường. Quả nhiên, khi đi xuyên qua khu đô thị, hai ba tai nạn như thế đã xảy ra, mà Buckingham chẳng hề ngoái đầu lại xem những người bị ông xô ngã ra sao, D' Artagnan đi theo sau ông giữa những tiếng la ó nghe rất giống tiếng chửi rủa.
Vào đến sân dinh thự, ông xuống ngựa, ném dây cương lên cổ nó, để mặc nó rồi lao tới bậc thềm. D' Artagnan cũng làm theo như thế tuy nhiên có đôi chút ngại ngùng hơn đối với những con vật quý mà chàng đã biết nó đáng giá thế nào, nhưng rồi lại thấy không sao vì ba bốn người hầu đã từ trong bếp và chuồng ngựa lao ra túm ngay lấy mấy con ngựa.
Công tước đi khá nhanh khiến D' Artagnan khó theo kịp. Ông đi xuyên qua nhiều phòng khách kế tiếp nhau, rất sang trọng mà những đại lãnh chúa bên Pháp cũng không dám nghĩ tới cuối cùng đến một phòng ngủ, một kỳ tích cả về thẩm mỹ lẫn sự giàu sang. Sâu trong phòng có một cái cửa, phủ thảm, mà Công tước mở bằng một chìa khóa nhỏ bằng vàng ông vẫn đeo ở cổ bằng một sợi dây chuyền cũng bằng vàng. D' Artagnan cẩn thận dừng lại ở phía sau, nhưng lúc Buckingham bước qua ngưỡng cửa đó, ông quay lại thấy chàng trao trẻ vẫn do dự, ông bảo chàng:
- Lại đây nào, và nếu ông có vinh dự được bệ kiến Hoàng hậu, hãy nói lại cho bà nghe những gì ông thấy.
- Được lời mời khích lệ chàng đi theo Quận công. Ông đóng cửa lại.
Thế là hai người đã ở trong một tiểu giáo đường, phủ toàn lụa Ba Tư thêu sợi vàng, rực rỡ ánh sáng của vô số ngọn nến. Bên trên một thứ giống như bàn thờ, và phía dưới một chiếc tán bằng nhung xanh lam cắm lông chim trắng và đỏ, là một bức chân dung to bằng người thật vẽ Anne d' Autriche giống như đúc khiến D' Artagnan phải thốt lên kinh ngạc, tưởng như Hoàng hậu sắp nói thành lời.
Trên bàn thờ, và phía dưới bức chân dung là cái tráp chứa những nút kim cương.
Công tước lại gần bàn thờ, quỳ xuống như một linh mục quỳ trước chúa Kitô, rồi mở tráp.
- Ông lấy ra một nút tết to bằng dải băng xanh lóng lánh kim cương rồi bảo chàng:
- Cầm lấy, đây là những nút kim cương quý báu mà ta đã nguyền được chôn theo ta. Hoàng hậu đã tặng ta. Hoàng hậu lại lấy lại của ta. Nguyện vọng của Hoàng hậu là ý của Chúa, phải được thực hiện trong mọi việc.
Kồi ông hôn từng hạt, từng hạt một cả chuỗi nút kim cương sắp phải xa lìa. Bỗng nhiên ông kêu lên một tiếng khủng khiếp.
- Có chuyện gì vậy? - D' Artagnan hỏi vẻ lo lắng - Thưa Huân tước, có điều gì xảy ra với ngài ư?
Buckingham nhợt nhạt hẳn người đi như người đã khuất kêu lên:
- Hại to rồi - Thiếu hai hạt kim cương. Chỉ còn có mười hạt.
- Huân tước đánh mất hay bị lấy cắp?
- Họ lấy cắp của ta - Công tước nói tiếp - chính Giáo chủ đã chơi ta quả này. Đây, ông xem, dải băng giữ những nút kim cương có vết cắt bằng kéo.
- Nếu Huân tước nghi ngờ kẻ nào đó đánh cắp… có thể kẻ đó vẫn còn đang giữ nó.
- Khoan đã, khoan đã? - Công tước nói - Chỉ có mỗi một lần ta đeo chuỗi kim cương đó, đó là buổi vũ hội của nhà Vua, cách đây tám ngày ở điện Uyn-xo. Lúc khiêu vũ, nữ Bá tước De Winter, vốn có xích mích với ta đã lại gần ta, lối làm lành đó là sự trả thù của đàn bà ghen tuông. Từ hôm đó, ta không xem lại chuỗi hạt. Mụ đàn bà đó là một điệp viên của Giáo chủ.
- Nhưng ông ta có tay chân ở khắp thế giới ư! - D' Artagnan kêu lên.
- Ồ, đúng đấy! - Buckingham vừa nói vừa nghiến răng giận dữ - Phải, đó một đấu thủ ghê gớm. Nhưng khi nào thì có vũ hội đó?
- Thứ hai tuần sau.
- Thứ hai tuần sau ư! Còn năm ngày nữa. Thế là thừa thì giờ chúng ta phải có rồi. Patrítxơ! - Quận công vừa mở cửa tiểu giáo đường vừa gọi to - Patrítxơ!
Người hầu thân tín của ông xuất hiện.
- Gọi ngay người thợ kim hoàn và viên thư ký của ta!
- Người hầu phòng đi ra, tức khắc và lặng lẽ chứng tỏ thói quen co mình lại vâng lệnh một cách mù quáng và không cãi lại.
Mặc dầu người thợ kim hoàn được gọi trước, nhưng viên thư ký lại hiện ra trước tiên. Ông ta thấy Buckingham ngồi trước chiếc bàn trong phòng ngủ, tự tay viết lấy mấy cái lệnh.
- Ông Jécxơn này, Công tước nói - Ông hãy đến ngay chỗ Huân tước tổng trưởng pháp lý và bảo ông ta rằng ta ủy nhiệm thi hành mấy lệnh này. Ta muốn những lệnh đó được ban bố ngay tức khắc.
- Nhưng thưa Đức ông, nếu Huân tước tổng trưởng hỏi tôi về những động cơ khiến Đức ngài đi đến một biện pháp đặc biệt đến thế, tôi sẽ trả lời thế nào?
- Rằng ta thích như thế và ta chẳng cần báo cáo với ai ý muốn của ta.
Viên thư ký vừa đáp vừa mỉm cười:
- Liệu đấy có sẽ là câu trả lời của ngài tổng trưởng phải tâu lên Hoàng thượng không, nếu tình cờ Hoàng thượng tò mò muốn biết tại sao không một chiếc tàu nào có thể ra khỏi các cảng biển của Đại Anh quốc?
- Ông có lý - Buckingham trả lời - Trong trường hợp phải tâu với nhà Vua, ông ấy cứ nói là ta quyết định chiến tranh và biện pháp đó là hành động thù địch đầu tiên của ta chống lại nước Pháp.
Viên thư ký cúi chào và đi ra.
Buckingham quay lại phía D' Artagnan nói:
- Thế là chúng ta yên tâm được một bề rồi. Nếu mấy nút kim cương đó chưa hề đến Paris, nó sẽ chỉ đến đó sau ông.
- Làm sao lại thế được?
- Ta vừa ra lệnh cấm các tàu thuyền lúc này đang đậu ở các hải cảng của Hoàng thượng không được rời bến và trừ phi có giấy phép đặc biệt, không một chiếc nào dám nhổ neo.
D' Artagnan vô cùng kinh ngạc nhìn con người đã đem cái quyền lực vô hạn mà nhà Vua đã tin cậy trao cho, phục vụ cho những việc tình ái của mình. Buckingham nhìn nét mặt của chàng trai trẻ, biết được điều gì đang diễn ra trong đầu, liền mỉm cười:
- Phải, chính Anne d' Autriche mới là Hoàng hậu đích thực của ta. Một lời nàng nói ra, ta sẽ có thể phản bội lại đất nước ta, phản bội nhà Vua, phản bội lại Chúa trời của ta. Nàng đã yêu cầu ta đừng gửi cứu viện cho giáo phái Tin lành ở La Rochelle và ta đã làm như thế. Ta đã không giữ lời hứa, nhưng cần gì, ta vâng theo ước muốn của nàng. Ta đã chẳng được trả công lớn về sự vâng theo ấy sao, nói xem nào, bởi vì chính nhờ có sự vâng theo đó mà ta có được bức chân dung của nàng?
D' Artagnan lấy làm lạ thay cho vận mệnh một dân tộc và sinh mạng những con người đôi khi lại được treo trên những sợi dây mong manh và không thấy được như thế.
Chàng đang đắm nhìn trong suy nghĩ, thì người thợ kim hoàn đi vào. Đó là một người Ireland loại có kỹ xảo nhất trong nghề, bản thân cũng thú nhận kiếm được hàng trăm nghìn đồng vàng Anh quốc mỗi năm với Quận công De Buckingham.
- Ông Ôrâyly này, - Quận công vừa nói vừa dẫn ông ta vào tiểu giáo đường - Hãy xem những nút kim cương này và nói cho ta biết mỗi nút giá bao nhiêu?
- Người thợ kim hoàn đưa mắt nhìn vẻ mỹ lệ mà chúng được gọt tỉa, lấy viên nọ bù viên kia, tính toán giá trị rồi không do dự trả lời:
- Mười lăm nghìn đồng vàng một nút, thưa Huân tước.
- Cần phải bao nhiêu ngày để làm hai nút như thế? Ông thấy đấy, nó thiếu mất hai.
- Thưa Huân tước, tám ngày.
- Ngày kia ta cần có rồi, ta sẽ trả ba nghìn đồng mỗi nút.
- Huân tước sẽ có.
- Ôi ông Ôrâyly, ông thật là quý giá. Nhưng chưa hết đâu. Những nút kim cương đó không được lộ ra với bất kỳ ai, và phải được làm trong lâu đài này.
- Thưa Huân tước, không thể được. Chỉ có tôi mới có thể làm nổi, để không ai phân biệt nổi cái mới với cái cũ.
- Vì thế, ông Ôrâyly thân mến ạ, ông mới là tù nhân của ta; Giờ đây, ông có muốn ra khỏi lâu đài của ta cũng không thề được nữa rồi. Hãy quyết định đi. Cho ta biết danh sách thợ phụ mà ông cần và ghi rõ những đồ nghề gì bọn chúng phải mang theo.
Người thợ kim hoàn đã biết rõ Quận công. Ông ta hiểu rằng mọi thăm dò ý kiến đều vô ích, nên quyết định ngay phần việc của mình. Ông ta hỏi:
- Tôi được phép báo với vợ tôi chứ?
- Ồ, ông còn được phép gặp nữa ấy chữ, ông Ôrâyly thân mến ạ Việc cầm giữ ông sẽ nhẹ nhàng thôi, ông yên tâm, và vì mọi sự đảo lộn đều đáng được đền bù, vậy ngoài giá tiền hai nút kim cương, đây là món quà một nghìn đồng vàng để ông quên đi sự phiền muộn do ta gây ra cho ông.
D' Artagnan không tránh khỏi ngạc nhiên về viên Thủ tướng với đôi tay đã khuấy đảo bao nhiêu sinh mạng con người, và tiền triệu đi tong.
Còn người thợ kim hoàn gửi món quà một nghìn đồng vàng và viết thư cho vợ bảo gửi ngay cho người thợ phụ khéo nhất và một bộ hạt kim cương thích hợp mà ông đã cho biết trọng lượng, phẩm chất, rồi còn danh sách những dụng cụ cần thiết nữa.
Buckingham dẫn người thợ kim hoàn vào căn phong dành riêng cho ông ta và chỉ trong vòng nửa giờ đã biến thành một xưởng thợ. Rồi Công tước cắt lính canh ở mỗi cửa, cấm không cho bất cứ ai vào trừ người hầu phòng Patrítxơ của ông. Không cần phải nói thêm cũng tuyệt đối cấm ông thợ kim hoàn Ôrâyly và người thợ phụ không được ra khỏi phòng dưới bất cứ lý do nào.
Thu xếp xong việc đó, Công tước trở lại với D' Artagnan.
- Bây giờ, anh bạn trẻ, - Ông nói - nước Anh là của hai chúng ta, ông muốn gì, ông ao ước điều gì nào?
- Một cái giường - D' Artagnan trả lời - tôi thú thực, lúc này đó là thứ tôi cần nhất.
Buckingham đưa D' Artagnan đến một căn phòng liền kề với phòng của ông. Ông muốn giữ chàng trai trẻ trong tay ông, không phải ông nghi ngờ gì chàng mà để ông được không ngừng nói chuyện với chàng về Hoàng hậu.
Một giờ sau lệnh không cho tàu thuyền nào đi Pháp được ra khỏi cảng ngay cả thuyền đưa thư cũng vậy được ban bố. Trước mắt mọi người thì đây là lời tuyên chiến giữa hai vương quốc.
Ngày hôm sau nữa, khoảng mười một giờ hai nút kim cương đã được làm xong, bắt chước quá đúng, hoàn toàn giống hệt khiến Buckingham không nhận ra cái nào là mới, cái nào là cũ và kể cả những người lão luyện nhất trong nghề cũng sẽ bị nhầm như ông.
Ngay lập tức ông cho gọi D' Artagnan, rồi bảo chàng:
- Cầm lấy, đây là những nút kim cương mà ông đến tìm, và ông hãy là nhân chứng cho tôi rằng tất cả những gì sức con người có thể làm được tôi đã làm.
- Ngài yên tâm, thưa Huân tước, tôi sẽ nói điều gì tôi thấy nhưng Đức ngài trao cho tôi những nút kim cương mà không có tráp đựng.
- Cái tráp sẽ làm cho ông vướng víu. Vả lại đối với tôi, cái tráp còn quý hơn. Tôi chỉ còn lại mỗi thứ đó. Ông sẽ nói là tôi giữ lại.
- Thưa Huân tước, tôi sẽ nói lại đúng từng lời việc ngài giao cho tôi.
- Và bây giờ - Buckingham vừa nói tiếp vừa nhìn thẳng vào mặt chàng trai trẻ - Bao giờ tôi mới trả ơn được ông đây?
D' Artagnan đỏ bừng mặt lên. Chàng thấy ông Quận công đang tìm cách để chàng nhận một thứ gi đó và cái ý nghĩ máu các đồng đội của chàng và máu chàng sắp được trả cho chàng bằng vàng của nước Anh khiến chàng ghê tởm lạ lùng. Chàng đáp:
- Thưa Huân tước, chúng ta hãy thông hiểu lẫn nhau, và cân nhắc kỹ mọi việc trước đã sao cho không có một sự hiểu lầm nào xảy ra. Tôi phục vụ đức Vua và Hoàng hậu nước Pháp, và tham gia đội cận vệ của ông des Essarts, ông này cũng như anh rể ông là ông De Treville hoàn toàn đặc biệt gắn bó với Hoàng thượng. Còn thêm nữa, có thể tôi đã chẳng làm nổi điều gì của tất cả cái đó nếu việc đó không được làm để vừa lòng một người cũng là bà chúa của tôi, giống như Hoàng hậu là của ngài vậy.
- Phải - Quận công vừa nói vừa mỉm cười - và tôi tin tôi cũng biết cái bà chúa khác ấy, có phải…
- Thưa Huân tước, tôi có nêu tên người ấy ra đâu - chàng trai trẻ vội vã ngắt lời.
- Thế là đúng - Công tước nói - vậy chính là tôi phải biết ơn người ấy về sự tận tụy của ông.
- Thưa Huân tước, ngài đã nói rồi, bởi vì đúng vào cái giờ này đã là chuyện chiến tranh rồi, tôi xin thú thực tôi chỉ thấy ở Đức ngài một tên người Anh, do đó là một kẻ thù mà tôi sẽ còn vui sướng được gặp ở chiến trường hơn là trong công viên điện Uynxo hoặc trong những hành cung của điện Louvre. Tuy nhiên điều đó không ngăn cản tôi thực hiện từng chi tiết, nhiệm vụ của tôi, nếu cần thiết, sẵn sàng chết để hoàn thành nhiệm vụ đó Nhưng tôi xin nhắc lại với Đức ngài rằng ngài sẽ không có gì phải cảm ơn tôi những việc tôi sẽ làm cho tôi trong cuộc gặp gỡ lần thứ hai hơn là những gì tôi đã làm cho ngài trong cuộc gặp gỡ lần thứ nhất đâu.
Buckingham lẩm nhẩm:
- Bên chúng tôi, chúng tôi thường nói: "Kiêu hãnh như một người Xcốt".
- Còn chúng tôi, chúng tôi nói: "Kiêu hãnh như một người Gátxcông" - D' Artagnan đáp - Dân Gátxcông là dân Xcốt của nước Pháp.
D' Artagnan chào Công tước và sẵn sàng ra đi.
- Khoan đã! Ông đi như thế ư? Đi lối nào? Đi thế nào?
- Vâng, quả có thế.
- Chúa ơi! Người Pháp không nghi ngại gì hết.
- Tôi quên mất nước Anh là một hòn đảo và Ngài là vua hòn đảo ấy ông hãy đi đến cảng, hỏi chiếc thuyền hai buồm tên là "Săn", đưa cho thuyền trưởng thư này. Ông ta sẽ dẫn ông đến một cảng nhỏ, chắc người ta không đợi ông đâu, và ở đó thường chỉ có thuyền đánh cá cặp bến.
- Cảng đó tên là gì?
- Saint-Valery, nhưng khoan đã, tới đó, ông sẽ vào một cái quán tồi tàn không tên, không biển hiệu, một tửu quán đích thực của thủy thủ, và không lo nhầm đâu, vì chỉ có một thôi.
- Sau đó?
- Ông hỏi chủ quán và bảo hắn ta: Forward
- Nghĩa là thế nào?
- Là "Tiến lên". Đó là khẩu lệnh. Hắn sẽ cho ông một con ngựa, yên cương sẵn sàng và sẽ chỉ dẫn đường đi cho ông. Ông cũng sẽ thấy bốn trạm tiếp sức như thế trên đường đi. Nếu ông muốn, ở mỗi trạm, hãy cho địa chỉ của ông ở Paris, bốn con ngựa sẽ đi theo ông đến đó. Ông đã biết hai trong số đó, và tôi thấy hình như ông có vẻ quý nó như một tay chơi ngựa, hai con mà chúng ta đã cưỡi ấy. Và ông hãy tin tôi, hai con kia cũng không hề kém chút nào đâu. Bốn con ngựa ấy đều là ngựa chiến đấy. Dù ông có kiêu hãnh đến đâu, ông cũng đừng từ chối nhận một con, và bảo các bạn ông nhận ba con kia. Vả lại còn để ta dùng trong chiến tranh mà. Mục đích bỏ qua cho các phương tiện như người Pháp các ông vẫn nói có phải không?
- Phải, thưa Huân tước, tôi xin nhận - D' Artagnan nói - Và nếu hợp lòng trời, chúng tôi sẽ sử dụng tất những món quà của ngài.
- Bây giờ, bắt tay người bạn trẻ, có thể chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau trên chiến trường, nay trong khi chờ đợi, chúng ta hãy chia tay nhau như những người bạn tốt, tôi hy vọng thế.
- Vâng, thưa Huân tước, nhưng với hy vọng sớm thành kẻ thù của nhau.
- Ông yên tâm, tôi hứa với ông như vậy.
- Huân tước, tôi tin lời hứa của ngài.
D' Artagnan chào công tước và vội vã tiến về phía cảng.
Trước mặt tháp London, chàng thấy chiếc thuyền đã chỉ định. Chàng trao bức thư cho viên thuyền trưởng. Ông ta đưa cho trấn thủ cảng xác nhận, rồi chuẩn bị giương buồm.
Năm mươi thuyền bè muốn rời bến mà phải nằm chờ.
Khi đi qua mạn một con thuyền trong số đó, D' Artagnan tin là mình đã nhận ra người đàn bà ở Măng, vẫn người đàn bà mà con người xa lạ từng gọi là Milady và chính bản thân D' Artagnan cũng thấy nàng quá đẹp. Nhưng nhờ xuôi dòng, thuận gió con thuyền của chàng đi nhanh đến nỗi chỉ một lát sau đã không thấy tăm hơi của người đàn bà đó.
Hôm sau, khoảng chín giờ sáng, thuyền cập bến Saint-Valery.
D' Artagnan đi ngay tới cái quán đã chỉ dẫn và nhận ra qua những tiếng ầm ĩ từ bên trong thoát ra. Người ta đang nói về chiến tranh giữa nước Anh và nước Pháp sắp xảy ra đến nơi và không phải bàn cãi nữa, và bọn thủy thủ vui vẻ thì lu bù chè chén.
D' Artagnan rẽ đám đông tiến lại chủ quán và đọc Forward.
Ngay tức khắc chủ quán ra hiệu cho chàng đi theo mình qua một chiếc cửa ra sân rồi dẫn chàng đến chuồng ngựa đã có sẵn một con ngựa yên cương đầy đủ đợi chàng rồi chủ quán hỏi xem liệu chàng có cần gì nữa không.
- Tôi cần biết mình phải đi theo đường nào - D' Artagnan - Từ đây đi đến Blănggy, rồi từ Blănggy đến Nớpsaten đến Nớpsaten vào quán Chiếc bừa vàng, nói khẩu lệnh với chủ quán và ông sẽ thấy ở đó một con ngựa đầy đủ yên cương.
- Tôi có phải gì không? - D' Artagnan hỏi.
- Đã trả cả rồi - chủ quán nói - và trả hậu nữa. Ông cứ việc đi đi Cầu trời phù hộ cho ông!
- Amen!
Nói rồi chàng cho ngựa phi nước đại.
Bốn giờ sau chàng tới Nớpsaten. Tuân theo chặt chẽ những chỉ dẫn đã nhận được, ở Nớpsaten giống như ở Saint-Valery, chàng lại thấy một con ngựa yên cương sẵn sàng đang đợi mình.
Chàng định chuyển những khẩu súng ngắn từ yên con ngựa chàng thôi không cưỡi sang yên con ngựa mới chàng sắp cưỡi, nhưng những bao súng ở yên con ngựa này đã gài sẵn những khẩu súng ngắn tương tự.
- Địa chỉ của ông ở Paris?
- Dinh trại quân cận vệ, đại đội ông des Essarts.
- Tốt lắm - chủ quán trả lời.
- Bây giờ phải đi đường nào? - Đến lượt D' Artagnan hỏi lại.
- Đường đi Ruăng, nhưng đừng có đi qua thành phố ở phía bên phải. Đến cái làng nhỏ Ecu-i, ông dừng lại, ở đó chỉ có một cái quán tên là: Đồng vàng nước Pháp. Đừng có nhìn bề ngoài mà xét đoán nó. Trong chuồng ngựa của quán, cũng sẽ có một con ngựa giá trị tương đương con ngựa này.
- Vẫn khẩu lệnh ấy.
- Đúng vậy.
- Xin chào ông chủ?
- Chúc nhà quý tộc lên đường bình an! À mà ông còn cần gì nữa không.
D' Artagnan lắc đầu và lại phóng như bay. Đến Ecu-i, vẫn diễn lại cảnh ấy. Chàng lại gặp một chủ quán đã được báo trước.
Một con ngựa sung sức và được nghỉ ngơi. Chàng để lại địa chỉ như đã làm rồi lại phi nhanh đến Pôngtoa. Ở Pôngtoa chàng đổi ngựa lần cuối và vào lúc chín giờ chàng phi nước đại vào thẳng sân dinh quán ông De Treville, vậy là chàng đã đi gần sáu mươi dặm trong mười hai tiếng đồng hồ.
Ông De Treville đón chàng như thể vừa gặp chàng ban sáng.
- Có điều vừa siết tay chàng hơi mạnh hơn thường lệ, ông vừa báo cho chàng biết đại đội cận vệ của ông des Essarts đang tuần canh điện Louvre và chàng có thể trở về nhiệm sở của mình.


Chương 22

Vũ khúc Merlaison(1).


Hôm sau, người ta xôn xao bàn tán khắp Paris về vũ hội mà các vị thẩm phán thành phố tổ chức để tôn vinh nhà Vua và Hoàng hậu, trong đó chắc Louis sẽ nhảy vũ điệu nổi tiếng Méeledông, là vũ điệu ưa thích của nhà Vua.
- Người ta đã chuẩn bị từ tám hôm nay mọi công việc ở tòa thị chính cho buổi dạ hội long trọng đó. Thợ mộc của thành phố đã dựng những kỳ đài làm chỗ ngồi cho các phu nhân được mời.
Chủ tạp hóa thành phố đã gắn trong các phòng hai trăm cây nến trắng, một sự xa hoa hiếm thấy thời bấy giờ. Cuối cùng là hai mươi cây vĩ cầm được báo trước và giá công được ấn định gấp đôi giá ngày thường vì họ sẽ phải chơi suốt đêm.
Khoảng mười giờ sáng, ông De la Côtx kỳ úy đội cận vệ của nhà Vua, theo sau có hai sĩ quan và nhiều xạ thủ của đội, đến yêu cầu ông lục sự thành phố tên là Clêmăng đưa tất cả chìa khóa các cửa, các phòng, và các phòng làm việc của thị sảnh.
Chìa khóa được trao ngay cho ông ta, mỗi chiếc đều mang theo một thẻ nhỏ để khỏi nhầm và từ lúc đó ông De la Côtx chịu trách nhiệm canh phòng tất cả các cửa và tất cả các lối đi trong thị sảnh.
Mười một giờ, đến lượt ông Đuyhaliê, đại úy cận vệ đến, đem theo năm mươi xạ thủ, bọn họ tản ngay đến các cửa đã được chỉ định trong tòa thị chính.
Ba giờ chiều, hai đại đội cận vệ, một người Pháp, một Thụy Sĩ đến tiếp. Đại đội cận vệ Pháp được hợp thành, một nửa từ những quân của ông Đuyhaliê, một nửa là của ông des Essarts.
Sáu giờ chiều, khách mời bắt đầu kéo đến. Vào đến đâu, khách được mời ngồi đến đấy trên kỳ đài đã được dựng trong đại sảnh đường.
Chín giờ, bà đệ nhất chủ tọa đến. Vì sau Hoàng hậu, đó là nhân vật quan trọng nhất của vũ hội, bà ta được các quan chức của thành phố đón tiếp và được mời ngồi trong khoang đối diện với khoang của Hoàng hậu.
Mười giờ, người ta bầy một tiệc mứt để đón tiếp đức Vua trong một phòng nhỏ phía nhà thờ Thánh Jăng, trước một tủ đựng các bộ đồ ăn bằng bạc, và được bốn xạ thủ bảo vệ.
- Đúng nửa đêm, người ta nghe thấy những tiếng reo lớn, và những tiếng tung hô, đó là lúc nhà Vua đang tiến qua các phố rực rỡ những đèn màu suốt từ điện Louvre đến tòa thị chính.
Ngay tức khắc, các viên thẩm phán trong những chiếc áo dài bằng da, đi trước là sáu viên đội, mỗi người một đèn lồng trong tay ra đón Nhà Vua, mà họ gặp ngay trên những bậc thềm, ở đó viên thị trưởng thành phố đang đọc diễn văn chúc mừng nhà Vua, còn nhà Vua đáp lại bằng việc cáo lỗi đã đến quá muộn nhưng lại gán cho Giáo chủ đã giữ nhà Vua lại tận mười một giờ để bàn luận công việc quốc gia.
Nhà vua mặc lễ phục, tháp tùng có Đức ông hoàng đế, Bá tước de Xoát xông, đại giáo trường, Quận công Lôngdơvin, Quận công Đenbớp, Bá tước de Hácua, Bá tước de la Rấtsơ Guyông, ông De Lăngcua, ông De Barađát, Bá tước de Cramay, và hiệp sĩ Đờxúvơray.
Mọi người đều nhận thấy nhà Vua có vẻ rầu rĩ và băn khoăn.
Một căn phòng đã được chuẩn bị riêng cho nhà Vua, và một phòng khác cho Hoàng đế. Trong mỗi phòng đó, đều để sẵn y phục giả trang. Cũng như thế cho Hoàng hậu và phu nhân chủ tọa. Các vị đại thần và các phu nhân hộ giá Hoàng thượng thì cứ hai người một thay đồ giả trang các phòng chuẩn bị cho việc đó.
Trước khi vào phòng, nhà Vua dặn khi nào Giáo chủ xuất hiện phải báo ngay cho nhà Vua biết.
Nửa giờ sau khi nhà Vua đi vào, những tiếng tung hô mới lại vang lên báo tin Hoàng hậu đến. Các thẩm phán lại ra đón như đã làm, đi trước cũng là những viên đội, họ tiến đến trước vị nữ khách lừng danh của họ.
Hoàng hậu bước vào đại sảnh. Người ta nhận thấy, giống như nhà Vua, bà có vẻ rầu rĩ và rất là mệt mỏi.
Đúng lúc bà bước vào, tấm rèm của một khán đài nhỏ cho đến lúc đó vẫn buông kín được mở ra và người ta thấy hiện ra bộ mặt xanh xao của Giáo chủ mặc theo lối kỵ sĩ Tây Ban Nha. Đôi mắt của ông ta xoáy vào đôi mắt của Hoàng hậu, và một nụ cười mừng vui khủng khiếp lướt trên đôi môi ông ta: Hoàng hậu không đeo chuỗi kim cương.
Hoàng hậu lưu lại ít phút để nhận những lời chúc tụng của quan chức thành phố và đáp lại sự chào đón của các phu nhân.
Bất thình lình nhà Vua cùng với Giáo chủ hiện ra ở một chiếc cửa của đại sảnh đường. Giáo chủ nói rất khẽ với nhà Vua, và nhà Vua tái nhợt đi.
Nhà Vua rẽ đám đông và, chưa đeo mặt nạ, những dải băng ở áo chẽn còn chưa buộc chặt, tiến lại gần Hoàng hậu, lạc hẳn giọng đi:
- Thưa bà, xin bà vui lòng, vậy chớ tại sao bà lại không đeo chuỗi hạt kim cương, khi bà biết nó sẽ làm ta vui lòng khi nhìn thấy nó?
- Tâu hoàng thượng - Hoàng hậu trả lời giọng cũng lạc đi - bởi giữa đám rất đông người này, tôi sợ có chuyện không may xảy ra với nó.
- Thế thì bà nhầm rồi, thưa bà! Nếu như tôi tặng bà món quà đó, chính là để bà đem ra trang điểm. Tôi nói cho bà biết, bà nhầm rồi.
Và giọng của nhà Vua run lên tức giận, ai nấy đều nhìn và nghe rất đỗi ngạc nhiên không hiểu đã xảy ra chuyện gì.
- Tâu Hoàng thượng - Hoàng hậu nói - Tôi có thể sai người về tìm ở điện Louvre, nó vẫn ở đấy, và như vậy những ước muốn của Hoàng thượng sẽ được hoàn tất.
- Vậy bà làm đi, thưa bà, làm đi, và nhanh nhanh lên, vì nửa giờ nữa là vũ hội bắt đầu rồi.
Hoàng hậu cúi chào tỏ vẻ phục tùng và đi theo các phu nhân có nhiệm vụ dẫn bà về phòng riêng.
Về phía mình, nhà Vua cũng trở về phòng mình.
Đại sảnh rối loạn, xôn xao mất một lúc.
Mọi người đều có thể nhận thấy có chuyện gì xảy ra giữa nhà Vua và Hoàng hậu. Nhưng cả hai đều nói rất khẽ mà mọi người do tôn kính đều đứng xa ra mấy bước, nên không ai nghe thấy gì. Vĩ cầm vang lên hết cỡ nhưng cũng chẳng ai nghe.
Nhà Vua ra khỏi phòng mình trước tiên, trong trang phục đi săn loại hào hoa nhất, Hoàng đế và các vị đại thần khác đều mặc như nhà Vua. Đó là bộ trang phục nhà Vua mặc đẹp nhất và mặc như vậy, ông hình như mới đích thực là nhà quý tộc đệ nhất của vương quốc.
Giáo chủ lại gần và chuyển cho nhà Vua một cái hộp. Nhà Vua mở ra và thấy trong đó hai nút kim cương liền hỏi Giáo chủ:
- Thế nghĩa là thế nào?
- Không thế nào cả - Giáo chủ trả lời - có điều nếu Hoàng hậu có những nút kim cương, điều thần đang ngờ đấy, tâu Hoàng thượng, Hoàng thượng hãy đếm xem, và nếu Ngài chỉ thấy có mười viên, xin hãy hỏi Hoàng hậu xem kẻ nào có thể lấy cắp mất hai nút như thế này.
Nhà Vua nhìn Giáo chủ như để hỏi. Nhưng ông còn chưa kịp hỏi một câu nào, thì tiếng kêu ngưỡng mộ đã thốt ra từ miệng tất cả mọi người. Nếu như nhà Vua là bậc quý tộc đệ nhất vương quốc, chắc chắn Hoàng hậu phải là người đàn bà đẹp nhất nước Pháp.
Đúng là bộ y phục nữ đi săn rất hợp với nàng. Nàng đội một chiếc mũ dạ với những lông chim xanh lam, một áo khoác ngoài nhung màu xám có cài những móc kim cương và một chiếc váy bằng xa tanh xanh lam toàn thêu sợi bạc, trên vai trái nàng lấp lánh những nút kim cương được đính vào một cái nơ cùng màu với lông chim và chiếc váy.
Nhà Vua sướng run người, còn Giáo chủ run lên vì giận dữ, tuy nhiên vì cả hai người cùng đứng cách xa Hoàng hậu nên không thể đếm được số nút kim cương. Hoàng hậu đã có những nút kim cương ấy, có điều là có mười hay mười hai nút.
Cũng lúc ấy, vĩ cầm vang lên tín hiệu bắt đầu vũ khúc. Nhà Vua tiến về phía phu nhân chủ tọa và phải nhảy với bà và Hoàng đế với Hoàng hậu. Mọi người đều vào chỗ và vũ khúc bắt đầu Nhà Vua nhảy đối diện với Hoàng hậu, và mỗi lần ông lướt qua gần nàng, Ngài lại hau háu nhìn những nút kim cương mà không đếm nổi. Một lớp mồ hôi lạnh toát ra tên trán Giáo chủ.
Vũ điệu kéo dài một giờ, gồm mười sáu chuyển đoạn động tác múa.
Vũ điệu kết thúc giữa những tiếng vỗ tay hoan hô của khắp mọi người trong đại sảnh, mỗi người đều đưa quý bà nhảy với mình về chỗ, nhưng nhà Vua ỷ vào đặc quyền của mình, bỏ bà chủ tọa ngay tại chỗ để tiến nhanh lại phía Hoàng hậu, và nói với nàng:
- Thưa bà, tôi xin cảm ơn bà, về sự tôn trọng mà bà đã biểu lộ trước những ý muốn của tôi, nhưng tôi tin bà thiếu mất hai nút kim cương, mà tôi đã mang đến đây.
Vừa nói, nhà Vua vừa chìa ra cho Hoàng hậu hai nút kim cương mà Giáo chủ đã đưa cho mình.
- Tâu Bệ hạ, lại thế nữa sao! - Hoàng hậu giả vờ ngạc nhiên kêu lên - Bệ hạ lại cho thêm hai hạt nữa, thế là bây giờ tôi sẽ có những mười bốn viên ư?
Nhà Vua đếm, quả nhiên mười hai nút kim cương vẫn trên vai Hoàng hậu.
Nhà Vua gọi Giáo chủ và hỏi bâng một giọng nghiêm khắc:
- Thế nào? Thế này, nghĩa là thế nào, ông Giáo chủ?
- Tâu Bệ hạ, - Giáo chủ đáp - thế nghĩa là thần muốn Hoàng hậu nhận hai viên kim cương đó, nhưng tự mình lại không dám dâng lên, thần phải dùng cách ấy.
- Thế thì tôi lại càng phải chịu ơn Đức ông hơn – Anne d' Autriche trả lời bằng một nụ cười chứng tỏ cái lối nịnh đầm tiểu xảo ấy không lừa được nàng - và tôi tin chắc rằng hai nút kim cương này ông phải trả đắt bằng cả mười hai nút kim cương kia mà Hoàng thượng phải trả đấy.
Rồi chào nhà Vua và Giáo chủ, Hoàng hậu trở về căn phòng mà nàng đã mặc giả trang và là nơi nàng phải cởi bỏ.
Chúng tôi buộc phải lưu tâm tới những nhân vật danh tiếng chúng tôi đưa vào ngay từ đầu chương này nên phải tạm xa nhân vật đã giúp Anne d' Autriche vừa giành được thắng lợi không ngờ đối với Giáo chủ, người này hiện đang lẫn vào, không ai biết tới và lạc lõng trong đám đông ùn lại ở một cối cửa, đang nhìn màn kịch chỉ có bốn người hiểu nổi là nhà Vua, Hoàng hậu, Giáo chủ và chính nhân vật đó.
Hoàng hậu vừa trở về phòng, và D' Artagnan chuẩn bị rút lui thì chàng cảm thấy có ai đó đụng nhẹ vào vai chàng. Chàng quay lại thấy một thiếu phụ ra hiệu đi theo nàng. Thiếu phụ đeo mặt nạ chó sói bằng nhung đen, nhưng mặc dầu đã cẩn thận như vậy, vả chăng cũng là để che mắt người khác đâu phải với chàng, chàng nhận ra ngay người dẫn đường mọi khi của chàng, bà Bonacieux khôn ngoan và yêu kiều.
Đêm trước, họ mới chỉ được thoáng gặp nhau một lát tại nhà một người Thụy Sĩ tên là Germain, mà D' Artagnan đã yêu cầu nàng đến gặp ở đó. Thiếu phụ quýnh lên vội mang về cho Hoàng hậu cái tin tuyệt diệu là sứ giả của bà đã trở về may mắn, khiến cho đôi tình nhân chỉ kịp trao đổi được vài lời. D' Artagnan đi theo bà Bonacieux bởi hai thứ tình cảm gộp lại thúc đẩy tình yêu và sự hiếu kỳ. Suốt dọc đường, mỗi lúc những hành lang càng trở nên vắng vẻ, D' Artagnan định ngăn nàng lại để ôm chặt nàng, ngắm nghía nàng dù chỉ trong giây phút, nhưng thoăn thoắt như một cánh chim, nàng luôn trườn khỏi hai tay chàng, và khi chàng định nói, nàng lại đưa ngón tay lên miệng, một điệu bộ nhẹ nhàng đầy duyên dáng ra lệnh cấm chàng không được nói, và nhắc cho chàng biết đclng dưới một uy quyền phải nhắm mắt tuân theo, và cấm chàng không được thốt ra bất cứ một lời phàn nàn nhỏ nào. Cuối cùng, sau vài phút vòng đi vòng lại, bà Bonacieux mở một chiếc cửa dẫn chàng vào một căn phòng tối om, ở đây nàng lại ra hiệu phải ngậm miệng và mở chiếc cửa thứ hai lấp sau một tấm thảm, bất ngờ một vầng sáng chói tỏa ra và nàng biến mất.
D' Artagnan đứng ngây ra một lúc và tự hỏi mình đang ở đâu thế này, nhưng rồi một tia sáng từ phòng bên lọt sang, hơi ấm và thơm phức tỏa đến tận chỗ chàng, tiếng mấy người đàn bà đang trò chuyện, lời lẽ vừa trang nhã, vừa tôn kính, tiếng Đức bà được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, chỉ rõ cho chàng thấy mình đang trong căn phòng liền kề với phòng Hoàng hậu.
Chàng trai đứng yên trong bóng tối và chờ đợi.
Hoàng hậu tỏ ra vui vẻ và sung sướng, hình như khiến mọi người xung quanh nàng rất đỗi ngạc nhiên, vì trái lại mọi khi thường thấy nàng hầu như luôn luôn lo lắng. Hoàng hậu trả lại hết cái tình cảm vui mừng đó cho vẻ mỹ lệ của đêm hội, cho niềm vui mà vũ điệu đem lại cho nàng, và do không được phép trái ý một bà hoàng, dù bà ta cười hay khóc, mọi người đều cường điệu thêm sự phong nhã của các viên thẩm phán thành Paris.
Dù D' Artagnan còn chưa quen biết gì Hoàng hậu, chàng phân biệt được ngay giọng nói Hoàng hậu với giọng những người khác, trước hết đó là hơi pha giọng nước ngoài, thêm nữa là cái vẻ bề trên tự nhiên in đậm trong mọi lời lẽ của bậc tối thượng.
Chàng nghe thấy tiếng lại gần rồi lại xa ra khỏi chiếc cửa mở, hai ba lần chàng trông thấy vẫn chiếc bóng của thân hình ấy che khuất ánh sáng.
Cuối cùng, bất ngờ một bàn tay và một cánh tay trắng muốt và tuyệt đẹp vén tấm thảm lên, D' Artagnan hiểu đây chính là phần thưởng cho chàng. Chàng quỳ xuống, nắm lấy bàn tay ấy và kính cẩn áp môi lên, rồi bàn tay rút lại, để lại trong hai bàn tay chàng một vật chàng nhận ra là một chiếc nhẫn, lập tức cửa đóng lại và D' Artagnan lại thấy mình hoàn toàn trong bóng tối.
D' Artagnan đeo chiếc nhẫn vào ngón tay chàng và lại đợi.
Rõ ràng mọi chuyện chưa phải đã xong. Sau phần thưởng về lòng tận tụy của chàng phải là phần thưởng của tình yêu. Vả lại vũ điệu đã nhảy rồi, nhưng dạ hội mới chỉ bắt đầu. Người ta ăn đêm vào lúc ba giờ, mà đồng hồ nhà thờ Thánh Jăng chỉ vừa mới điểm hai giờ bốn nhăm phút.
Quả nhiên, tiếng người thưa dần trong phòng bên, và xa dần, rồi cửa phòng D' Artagnan đang đứng lại mở ra và bà Bonacieux lao vào. D' Artagnan kêu lên:
- Cuối cùng, nàng đây rồi!
- Im nào! - Thiếu phụ áp bàn tay lên môi chàng - Im nào! Và bây giờ chàng hãy đi đi, đi theo lối chàng đến ấy.
- Nhưng ở đâu và khi nào chúng ta lại gặp nhau?
- Một thư ngắn mà chàng sẽ thấy khi trở về nhà sẽ cho chàng biết điều đó. Đi đi! Chàng đi đi?
Nói xong, nàng mở chiếc cửa thông ra hành lang và đẩy D' Artagnan ra khỏi phòng.
D' Artagnan vâng lời như một đứa trẻ, không kháng cự, không cãi lại câu nào, điều đó chứng tỏ chàng thực sự đang yêu say đắm.
Chú thích:
(1) Merlaison - từ chữ Merle (con chim sáo đen) - Vũ khúc với chủ đề săn chim sáo đen do vua Louis XIII soạn năm 1635.

Chương 23

Cuộc hẹn hò.


D' Artagnan tức tốc chạy về nhà, và cho dù hơn ba giờ sáng lại phải đi xuyên qua những khu phố dữ tợn nhất của Paris, chàng cũng không gặp phải chuyện rủi ro nào. Người ta nói có một vị thần cho những kẻ yêu đương.
Chàng thấy cửa lối đi để ngỏ, liền leo thẳng lên cầu thang và gõ nhẹ và đúng lối theo quy ước giữa chàng và người hầu của mình. Planchet, hai giờ trước ở tòa thị chính, chàng đã cho về trước và dặn đợi mình, ra mở cửa. Chàng vội hỏi:
- Có ai mang thư đến cho ta không?
- Chả có ai mang thư đến cả - Planchet trả lời - nhưng có một thư tự nó đến một mình thôi.
- Mi muốn nói gì, đồ ngốc?
- Tôi muốn nói, lúc trở về, mặc dù chìa khóa phòng ông vẫn trong túi tôi, và không rời khỏi tôi lúc nào, tôi vẫn thấy một bức thư trên tấm thảm xanh trên bàn trong phòng ngủ của ông.
- Bức thư ấy đâu rồi?
- Thưa ông đâu vẫn đó. Những bức thư vào nhà người ta như thế không phải chuyện bình thường đâu. Nếu cửa sổ vẫn mở hoặc chỉ khép, tôi không nói làm gì. Nhưng không, tất cả đều đóng im ỉm cơ mà thưa ông, hãy đề phòng thôi, bởi chắc có phù chú gì đó.
Trong khi đó, chàng trai lao vội vào buồng ngủ và bóc thư xem. Đó là thư của bà Bonacieux vắn tắt như sau:
"Xin gửi tới những lời cảm ơn nồng nhiệt
"Muốn được thể hiện và chuyển cho chàng những lời cám ơn nồng nhiệt. Tối nay khoảng mười giờ chàng hãy đến Saint-Clu, đối diện với Nhà hứng gió nhô lên ở góc nhà ông De Etxtrê".
CB"
Đọc bức thư, D' Artagnan cảm thấy tim mình hồi hộp một sự đê mê dịu dàng vừa hành hạ vừa mơn man trái tim của những cặp tình nhân.
Đó là bức thư vắn đầu tiên chàng nhận được, đó cũng là cuộc hò hẹn đầu tiên dành cho chàng. Trái tim chàng, nở tung ra vì say sưa vui sướng, tự cảm thấy sắp lịm đi ở ngưỡng cửa cái thiên đàng hạ giới mà người ta gọi là tình yêu này.
- Ơ kìa! Thưa ông - Planchet nói khi thấy chủ mình mặt cứ đỏ lên rồi lại tái đi liên tiếp - Ơ kìa! Chẳng phải tôi đã đoán đúng có chuyện dữ hay sao?
- Planchet ơi, mi nhầm rồi - D' Artagnan trả lời - Và bằng chứng đây, đây là một đồng vàng để mi uống chúc mừng ta.
- Tôi xin cảm ơn ông chủ về đồng vàng ông thưởng tôi, và tôi xin hứa làm theo đúng những lời chỉ bảo của ông. Nhưng chẳng lẽ lại không đúng, rằng những bức thư lại vào được như thế trong những ngôi nhà đóng kín…
- Rơi từ trên trời xuống, anh bạn của ta ạ, rơi từ trên trời xuống đấy.
- Nhưng ông bằng lòng chứ? - Planchet hỏi.
- Planchet thân mến của ta ơi, ta là người sung sướng nhất trong mọi người.
- Và tôi có thể nhân việc ông được sung sướng mà đi ngủ chứ?
- Được, đi ngủ đi.
- Cầu cho mọi phúc lành trên đời đều rơi xuống ông chủ, nhưng chẳng lẽ lại không đúng là bức thư ấy… và Planchet vừa rút lui vừa lắc đầu với vẻ hoài nghi mà sự hào phòng của D' Artagnan không thể hoàn toàn xóa đi nổi.
Còn lại một mình, D' Artagnan đọc đi đọc lại bức thư vắn rồi hôn đi hôn lại đến hai chục lần những dòng chữ do tay người tình của mình viết. Cuối cùng chàng đi nằm, ngủ thiếp đi và mơ những giấc mơ vàng.
Bẩy giờ sáng, chàng dậy và gọi Planchet, ngay sau tiếng gọi lần thứ hai, đã mở cửa, mặt còn chưa gột hết những nỗi lo đêm trước.
- Planchet! - D' Artagnan nói - có thể ta đi cả ngày hôm nay vậy mi được tự do đến bẩy giờ tối. Nhưng đúng bẩy giờ mi phải chuẩn bị sẵn hai con ngựa.
- Nghĩa là - Planchet nói - hình như chúng ta sắp làm cho mình được thủng da ở nhiều chỗ nữa thì phải!
- Mi sẽ mang theo súng trường và mấy khẩu súng ngắn của mày.
- Thấy chưa? Tôi đã nói gì nào? - Planchet kêu lên. - Đến đây, thì tôi chắc chắn, bức thư gở rồi?
- Nhưng mày cứ yên trí, đồ ngu ạ - Đây chỉ hoàn toàn đơn giản là một trò đùa vui thôi.
- Ồ, cũng như cuộc du hành thỏa thích ngày nào mà đạn bắn như mưa, và cạm bẫy mọc như nấm chứ gì.
- Thôi được, thưa ngài Planchet, nếu ngài sợ - D' Artagnan nói tiếp - tôi sẽ đi một mình. Tôi thích du hành một mình hơn là có một bạn đồng hành run sợ.
- Ông chủ lại chửi tôi rồi - Planchet nói - tuy nhiên, hình như ông cũng đã thấy tôi lúc tâm sự.
- Phải, nhưng tao lại tưởng mi đã sử dụng hết lòng can đảm của mi trong một lần rồi.
- Ông chủ sẽ thấy khi có cơ hội, nó còn lại thế nào, có điều tôi xin ông chủ đừng hoang phí nó, nếu ông muốn nó còn được lâu bền.
- Mày có tin là vẫn còn một số nào đấy để chi tối nay không?
- Tôi hy vọng là còn.
- Thôi được! Ta tin ở mi?
- Đúng giờ, tôi sẽ sẵn sàng. Có điều, tôi tưởng ông chủ chỉ có một con ngựa ở chuồng ngựa cận vệ.
- Có lẽ ngay lúc này đã có một con nữa ở đấy rồi. Nhưng tối nay, sẽ có bốn con.
- Hình như chuyến du hành vừa qua của chúng ta là một cuộc du hành để thay ngựa?
- Đúng thế. - D' Artagnan nói.
Rồi bằng cử chỉ cuối cùng để căn dặn Planchet, chàng ra ngoài.
Ông Bonacieux đang đứng trước cửa nhà mình. D' Artagnan định lờ đi không thèm nói gì với lão hàng xén làm bộ làm tịch.
Nhưng lão ta lại chào chàng đến là dịu dàng và nhã nhặn khiến người thuê nhà khó xử, không những phải chào lại mà còn phải bắt chuyện với lão.
Vả lại làm sao lại không có được một chút vị nể một ông chồng mà người vợ lại hẹn mình ngay tối nay ở Saint-Clu, trước mặt Nhà hứng gió của ông De Etxtrê! D' Artagnan lại gần với vẻ dễ mến nhất mà chàng có thể tạo được.
Câu chuyện rơi vào chuyện con người tội nghiệp này bị bắt giam hoàn toàn tự nhiên. Ông Bonacieux không biết D' Artagnan từng được nghe cuộc chuyện trò của ông ta với con người lạ mặt ở Măng, lại đi kể cho chàng thuê nhà trẻ tuổi những sự ngược đãi của con quỷ De Lafêmát mà ông ta gán cái danh hiệu ấy cho tên đao phủ của Giáo chủ suốt cả câu chuyện, và dài dòng sang cả chuyện ngục Bastille, những chốt cửa, những ô trổ những lỗ thông hơi, những song sắt, những dụng cụ tra tấn.
D' Artagnan lắng nghe với một thái độ vui vẻ mẫu mực rồi khi lão kết thúc, liền hỏi:
- Còn bà Bonacieux, ông có biết ai bắt cóc bà ấy không? Bởi vì tôi không quên chính trong cái hoàn cảnh bức bối đó mà tôi có được cái diễm phúc làm quen với ông.
- À! Ông Bonacieux nói - họ giữ không nói ra với tôi, còn vợ tôi cũng thề độc với tôi là không biết. Nhưng còn ông - Bonacieux tiếp tục với một giọng hoàn toàn bộc tuệch - mấy ngày qua, ông ra sao? Tôi chẳng thấy ông, cũng chẳng thấy các bạn ông, và tôi nghĩ không phải trên vỉa hè của Paris mà ông đã gom tất cả lớp bụi mà Planchet đã phủi hôm qua trên đôi ủng của ông đấy chứ?
- Ông nói đúng đấy ông Bonacieux thân mến của tôi ạ, tôi và các bạn tôi vừa tổ chức một cuộc du hành nho nhỏ.
- Xa đây không?
- Ồ không, lạy Chúa, chỉ độ bốn mươi dặn thôi. Chúng tôi đưa ông Athos đến vùng suối nóng Foócgiơ, các bạn tôi đều ở lại đó.
- Và ông trở về, có phải không ông? - Bonacieux nói tiếp, nét mặt lộ ra một tên trùm láu cá - Một chàng đẹp trai như ông không thể vắng mặt lâu đối với tình nhân của mình được và chúng ta lại được sốt ruột mong đợi ở Paris, có phải không?
- Thật tình - chàng trai trẻ vừa cười vừa nói - tôi xin thú nhận với ông, còn hơn thế ấy, ông Bonacieux thân mến ạ, tôi thấy không thể giấu nổi ông điều gì. Vâng, tôi đã được mong đợi, và khá sốt ruột, tôi xin đảm bảo với ông như vậy.
Một lớp mây mỏng lướt trên trán ông Bonacieux, nhưng quá mỏng khiến D' Artagnan không nhận thấy.
- Và chúng ta sẽ được thưởng về sự chu đáo của chúng ta chứ? - Lão hàng xén tiếp tục, hơi biến giọng, một sự biến giọng mà D' Artagnan không nhận thấy, chẳng hơn gì lớp mây mỏng trước đấy một lát chốc chốc lại làm sầm tối bộ mặt con người.
D' Artagnan vừa cười, vừa nói:
- Kìa, ông cứ tiếp việc giả bộ ngây ngô đi mà.
- Đâu có, tôi nói vậy là chỉ để biết liệu ông có về muộn không thôi.
- Tại sao ông lại hỏi thế, ông chủ nhà thân mến của tôi, - D' Artagnan hỏi - Thế ông định đợi tôi thật à?
- Không, kể từ ngày tôi bị bắt và xảy ra vụ trộm ở nhà tôi, mỗi lần tôi nghe thấy tiếng cửa mở nhất là ban đêm là tôi lại sợ run lên. Mẹ kiếp! Biết làm thế nào! Tôi đâu phải người biết múa gươm!
- Ồ nếu vậy ông chớ có sợ nếu tôi về vào lúc một giờ, hai giờ hay ba giờ sáng. Mà đến sáng tôi vẫn không về, thì ông đừng lo gì nữa.
Lần này thì mặt Bonacieux tái quá khiến D' Artagnan có không muốn cũng không thể không nhận ra, liền hỏi ông ta có chuyện gì vậy.
- Có chuyện gì đâu - Bonacieux trả lời - không có chuyện gì đâu. Chỉ có từ khi gặp vận hạn, bất thình lình tôi lại cứ bị hơi choáng váng như thế, tôi vừa cảm thấy bị rùng người. Ông là người chỉ bận sao cho được sung sướng thì để tâm đến chuyện đó làm gì.
- Thế thì tôi đang bận, vì tôi là người như thế.
- Khoan đã, đã tới lúc đâu, ông bảo tối nay cơ mà.
- Yên trí, rồi sẽ tối! Ơn Chúa? Và có thể ông sốt ruột đợi tối chẳng kém gì tôi đâu. Có thể tối nay bà Bonacieux sẽ về thăm gia đình cũng nên đấy!
- Bà Bonacieux không được tự do tối nay đâu - Bonacieux đáp với vẻ nghiêm trọng - bà ấy bị giữ lại ở điện Louvre vì công việc.
- Thôi kệ ông vậy, ông chủ thân mến của tôi ạ, kệ ông. Khi mà tôi hạnh phúc, tôi những muốn tất cả mọi người được hạnh phúc theo nhưng hình như không thể được.
Và chàng trai trẻ vừa đi vừa phá lên cười khoái trí, mà chàng nghĩ chỉ mình chàng mới có thể hiểu được.
- Cứ việc vui thích đi! - Bonacieux đáp với một giọng như từ dưới đáy mộ vọng lên.
Nhưng D' Artagnan đã đi quá xa không nghe được, mà dù có nghe được, trong tâm trí hiện thời, chắc chắn chàng cũng chẳng để ý.
Chàng đi về phía dinh quán ông De Treville. Cuộc viếng thăm ông đêm trước quá ngắn ngủi, và chưa giải thích được điều gì mấy.
Chàng thấy ông De Treville đang vui. Nhà Vua và Hoàng hậu đã tỏ ra niềm nở với ông trong vũ hội. Còn Giáo chủ thì đúng là mặt khó đăm đăm.
Một giờ sáng Giáo chủ đã rút lui, mượn cớ thấy trong người khó ở. Còn Đức Vua và Hoàng hậu mãi sáu giờ sáng mới trở về điện Louvre.
Ông De Treville đưa mắt nhìn khắp quanh nhà để xem có ai khác không rồi hạ giọng hỏi chàng.
- Bây giờ anh bạn trẻ, ta nói về anh nào, bởi rõ ràng cuộc trở về may mắn của anh đã phần nào là niềm vui của nhà Vua, sự đắc thắng của Hoàng hậu và sự hổ nhục của Đức ông Giáo chủ.
- Anh phải cẩn thận đấy.
D' Artagnan trả lời:
- Chừng nào, tôi còn có diễm phúc được hưởng ân sủng của Đức Vua và Hoàng hậu thì tôi phải sợ cái gì nào?
- Phải sợ tất, tin ta đi. Giáo chủ không phải là người quên chuyện mắc lừa chừng nào còn chưa tính sổ với kẻ đánh lừa đâu, và kẻ đi lừa có vẻ là một gã Gátxcông nào đó ta từng quen biết.
- Ông tin rằng Giáo chủ cũng phòng xa như ông và biết chính tôi đã có mặt ở London ư?
- Quỷ thật! Anh đã ở London! Có phải anh đã mang từ London về cái viên kim cương xinh đẹp đang lấp lánh ở ngón tay anh không? Coi chừng đấy, anh D' Artagnan thân mến của ta, món quà của kẻ thù không phải là một điều tốt đẹp đâu. Chẳng phải đã có một câu thơ Latinh về điều đó… khoan đã…
- Vâng hẳn vậy - D' Artagnan trả lời, mặc dầu chàng chưa bao giờ có thể nhồi nổi vào đầu cái nguyên tắc đầu tiên của cuốn sách vỡ lòng, và vì do tối dạ, đã làm vị gia sư của mình thất vọng - Vâng hẳn vậy, chắc phải có một câu.
- Chắc thì chắc rồi - Ông De Treville có vẻ văn chương nói - Ông De Băngxơrát mới đọc cho ta hôm nào… Khoan đã… À, đây rồi! "Timeo Danaos et dona ferente(1), có nghĩa là: "Hãy coi chừng kẻ thù tặng quà cho anh".
- Nhưng chiếc nhẫn kim cương này đâu phải của kẻ thù, thưa ông - D' Artagnan đáp - là của Hoàng hậu đấy chứ.
- Của Hoàng hậu? Ồ, ồ? - Ông De Treville nói - Quả vậy, đích thực là đồ nữ trang của hoàng gia đáng giá nghìn vàng. Thế Hoàng hậu sai ai chuyển món quà này cho anh?
- Đích thân Hoàng hậu trao cho tôi.
- Ở đâu?
- Trong căn phòng liền kề với căn phòng Hoàng hậu thay trang phục.
- Trao thế nào?
- Đưa tay cho tôi hôn.
- Anh được hôn tay Hoàng hậu? - Ông De Treville vừa nhìn D' Artagnan vừa kêu lên.
- Hoàng hậu đã ban cho tôi đặc ân đó.
- Và trước mặt những người khác? Bất cẩn! Ba lần bất cẩn! Ba lần bất cẩn!
- Không, thưa ông, xin ông yên tâm, chắng ai trông thấy đâu.
Và D' Artagnan kể cho ông Treville mọi việc diễn ra như thế nao.
- Ôi! Đàn bà! Đàn bà! - Người lính già kêu lên - Ta nhận ra ngay cái trí tưởng tượng lãng mạn của họ mà. Tất cả những gì cảm thấy bí ẩn là họ mê say ngay. Như thế là anh đã nhìn thấy cánh tay, chỉ có thế, anh được gặp Hoàng hậu, nhưng không thấy mặt Hoàng hậu, bà gặp anh nhưng không biết anh là ai.
- Không, nhưng nhờ chiếc nhẫn kim cương này…- Chàng trai trẻ tiếp tục.
- Nghe đây - Ông De Treville nói - anh có muốn tôi cho anh một lời khuyên, một lời khuyên tốt, một lời khuyên chí tình không?
- Rất hân hạnh, thưa ông. - D' Artagnan nói.
- Được! Anh hãy đến ngay một chủ hiệu kim hoàn đầu tiên nào cũng được, bán cho hắn chiếc nhẫn kim cương này đi với giá hắn trả cho anh thế nào cũng bán, dù hắn có Do Thái đến đâu anh cũng sẽ được tám trăm đồng vàng. Tiền nó không có tên, anh bạn trẻ ạ, còn chiếc nhẫn này có một cái tên khủng khiếp và có thể phản bội lại kẻ đeo nó.
- Bán chiếc nhẫn ư! Chiếc nhẫn do bà chúa của tôi cho!
- Không bao giờ!- D' Artagnan nói.
- Thì xoay mặt nó vào trong vậy, kẻ điên rồ tội nghiệp ạ, bởi người ta thừa biết một gã thiếu sinh quân Gátxcông không thể moi đâu ra thứ trang sức như thế trong bộ đồ tư trang của mẹ mình.
- Vâng, ông tin là tôi có điều gì cần e ngại ư? - D' Artagnan hỏi.
- Nghĩa là, chàng trai trẻ ạ, kẻ nào đang ngủ thiếp đi trên một quả mìn đã bén ngòi, phải tự coi là an toàn so với anh đấy.
Giọng nói hoàn toàn đáng tin cậy của ông De Treville bắt đầu làm cho chàng lo lắng:
- Quỷ thật! Tôi phải làm gì nào?
- Luôn cảnh giác, và coi đó là trên tất cả. Giáo chủ có trí nhớ rất dai và bàn tay rất dài. Tin ta đi, thế nào ông ta cũng chơi lại anh một vố.
- Vố gì nào?
- Ồ, ta biết được vố gì! Chẳng phải dưới trướng ông ta không có đủ mọi mưu ma chước quỷ ư? Bét nhất cũng có thể là cho bắt anh?
- Thế nào? Dám bắt một người dưới trướng của Hoàng thượng?
- Mẹ kiếp! Dễ thường họ chùn tay với Athos đấy! Dẫu sao đi nữa, chàng trai ạ, hãy tin một người đã ba mươi năm nay ở triều đình, đừng có tự ru ngủ là mình an toàn, mà toi đấy. Hoàn toàn ngược lại, ta nói để anh hay, phải thấy đâu đâu cũng có kẻ thù cả. Nếu người ta kiếm cớ gây sự với anh, hãy tránh đi dù kẻ gây sự là đứa trẻ mười tuổi. Nếu người ta tấn công anh bất kể ngày hay đêm, hãy vừa đánh vừa lùi và đừng xấu hổ. Nếu anh đi qua một chiếc cầu, hãy thăm dò ván cầu, xem có tấm nào bị sụt dưới chân anh không. Nếu anh đi qua một ngôi nhà đang xây, hãy ngước nhìn lên tránh để một hòn đá nào choang đúng đầu anh. Nếu anh về nhà muộn, hãy cho người hầu đi theo và người hầu phải mang theo vũ khí, tuy nhiên anh phải hoàn toàn tin tưởng người hầu. Coi chừng tất cả mọi người, cả bạn bè, anh em, tình thân, nhất là tình nhân của anh.
D' Artagnan đỏ mặt, lắp lại một cách máy móc.
- Cả tình nhân của tôi, nhưng tại sao đối với cô ta hơn người khác?
- Là vì tình nhân là một trong những biện pháp ưa thích của Giáo chủ, không có gì nhanh gọn hơn; một mụ đàn bà có thể bán anh lấy mười đồng vàng, bằng chứng là Đalila(2) đó. Anh biết Kinh thánh chứ?
D' Artagnan bỗng nghĩ đến cuộc hẹn hò mà bà Bonacieux đã hẹn chàng tối nay. Nhưng chúng ta phải khen chàng là cái quan niệm lỗi thời về đàn bà nói chung của ông De Treville không làm chàng mảy may nghi ngờ bà chủ nhà xinh đẹp của mình.
- Nhưng tiện thể - Ông De Treville nói tiếp - Ba người đồng đội của anh ra sao rồi?
- Tôi cũng đang định hỏi ông xem ông có biết chút tin tức gì về họ không?
- Không một tin tức nào.
- Thế ạ! Còn tôi, tôi đã bỏ họ lại ở dọc đường. Porthos ở Săngtily đang sắp quyết đấu. Aramis ở Vỡ Rim với một viên đạn vào vai, và Athos ở Amiêng, bị buộc tội có tiền giả trong người.
- Anh thấy chưa? - Ông De Treville nói - Và anh làm thế nào thoát được?
- Tôi phải nói như có phép mầu ấy, thưa ông, bị đâm một mũi gươm vào ngực, tôi đóng đinh trả lại tay Bá tước De Wardes xuống con đường đi Cale như ghim một con bướm trên một tấm thảm.
- Thấy nữa chưa! De Wardes là một người của Giáo chủ, em họ của Rochefort. Này, anh bạn, ta nảy ra một ý.
- Xin cứ nói, thưa ông.
- Ở địa vị anh, ta sẽ làm một điều.
- Điều gì ạ?
- Trong khi Đức ông cho người đi lùng anh ở Paris, anh, phải chính anh, sẽ không kèn, không trống đi Picađy, tìm hiểu tin tức ba người bạn đồng đội của mình. Mẹ kiếp, họ đáng để anh quan tâm như thế lắm chứ.
- Lời khuyên quý giá, thưa ông, ngày mai tôi sẽ đi.
- Ngày mai? Tại sao không tối nay?
- Thưa tối nay tôi mắc ở Paris một công việc rất cần thiết.
- A, chàng trai? Chàng trai! Một mối tình nho nhỏ chứ gì? Cẩn thận đấy, ta xin nhắc lại với anh; chính đàn bà đã làm hại chúng ta, tất cả, chừng nào chúng ta còn tồn tại, và sẽ còn làm hại chúng ta, tất cả, chừng nào chúng ta còn sống sót. Tin ta đi. Đi ngay tối nay đi.
- Không thể được, thưa ông.
- Anh trót hứa rồi ư?
- Vâng, thưa ông.
- Ồ, thế thì lại là chuyện khác. Nhưng hứa với ta đi, nếu tối nay anh không bị giết, ngày mai anh sẽ đi.
- Tôi xin hứa.
- Có cần tiền không?
- Tôi còn năm mươi đồng vàng. Tôi nghĩ thế là tạm đủ.
- Nhưng còn các đồng đội của mình?
- Tôi nghĩ họ chắc cũng không thiếu. Chúng tôi ra khỏi Paris, mỗi người có bảy nhăm đồng vàng trong túi.
- Ta không cần gặp anh trước khi anh khởi hành chứ?
- Không, tôi nghĩ thế, thưa ông, trừ phi có tin gì mới.
- Thôi được, chúc lên đường may mắn.
- Xin cảm ơn ông.
Và D' Artagnan xin phép cáo lui, cảm động hơn bao giờ hết về sự quan tâm đầy tình cha con với các ngự lâm quân của ông.
Chàng lần lượt qua nhà Athos, Porthos và Aramis chưa có ai trở về. Bọn người hầu của họ cũng vắng mặt, và chả có tin tức gì về người này hay người khác.
- Chắc sẽ biết tin tức của họ qua tình nhân của họ, nhưng chàng lại không biết của Porthos là ai, cũng chẳng biết của Aramis(3) còn Athos thì không có rồi.
Khi đi qua trước mặt dinh trại cận vệ, chàng liếc mắt nhìn vào chuồng ngựa: ba trong số bốn con ngựa đã trở về đấy rồi.
Planchet đang trải lông ngựa, và đã xong hai con, vô cùng sừng sốt khi thấy D' Artagnan.
- A, ông đây rồi, tôi đang mong gặp ông!
- Tại sao vậy, Planchet?
- Ông có tin cái lão Bonacieux chủ nhà của chúng ta không?
- Tao hả? Không chút nào.
- Ồ! Thế là đúng, thưa ông.
- Nhưng tại sao mày lại hỏi thế?
- Là tại vì, trong khi ông chuyện trò với lão, tôi quan sát ông mà không nghe ông nói đâu, mặt lão biến sắc đến hai ba lần.
- Thế à!
- Ông chủ không nhận thấy vì ông còn bận nghĩ đến bức thư vừa nhận được, nhưng tôi, trái lại, vì cái cung cách lạ lùng bức thư đã vào tới nhà mình khiến tôi luôn cảnh giác, tôi không để sót một nét cử động nào trên mặt lão.
- Vì mi thấy mặt lão thế nào?
- Bộ mặt tráo trở, thưa ông.
- Đúng thế.
- Thêm nữa, ngay khi ông chủ vừa đi và khuất ở góc phố, lão Bonacieux cũng cầm mũ, đóng cửa và chạy về phía phố đối diện.
- Mi nói đúng, Planchet ạ, quả thật, ta thấy mọi cái đó hình như đều ám muội lắm. Nhưng yên tâm, chúng ta sẽ chỉ trả tiền thuê nhà cho lão khi nào chuyện này được giải thích rành mạch cho chúng ta.
- Ông chủ đùa rồi, nhưng rồi ông chủ sẽ thấy.
- Mi còn muốn gì, Planchet, cái gì phải đến sẽ đến.
- Ông chủ không bỏ cuộc dạo mát tối nay chứ?
- Hoàn toàn trái lại Planchet ạ, càng giận lão Bonacieux bao nhiêu, ta lại càng sẽ đến nơi bức thư khiến mi khá lo lắng ấy hẹn ta.
- Ờ, nếu đó đã là quyết định của ông chủ…
- Thì không gì lay chuyển được, anh bạn ạ. Cứ như thế nhé, đúng chín giờ mi sẵn sàng ở dinh trại, tao sẽ đến đón mày.
Planchet thấy không còn chút hy vọng nào làm cho ông chủ của mình từ bỏ dự định, liền thở dài và lại tiếp tục trải lông con ngựa thứ ba.
Còn D' Artagnan về cơ bản vốn là một chàng Gátxcông rất cẩn trọng, đáng lẽ trở về nhà, chàng đến ăn trưa tại nhà ông linh mục người Gátxcông đã từng thết bữa điểm tâm cho cả bốn người bạn lúc họ đang trong lúc túng quẫn.
Chú thích:
(1) Trích dẫn từ vở kịch của Virgile, nghĩa là ta sợ bọn Hy Lạp đến mang theo quà biếu. Điển tích con ngựa thành Tơron.
(2) Cô gái điếm bán Xămxơn cho bọn Philistin trong Kinh thánh đã chú thích.
(3) Đây có sự nhầm quên của tác giả, Ở phần trên D' Artagnan đã bắt bọn Aramis và cuối cùng Aramis cũng đã thú nhận là De Chevreuse là người tình của mình. Nhưng bà De Chevreuse đã trở về nhà Tours - ND.


Nguồn: http://vnthuquan.net/