25/3/13

Ba người lính ngự lâm (C30-32)

Chương 30

Milady


D' Artagnan vẫn bám theo Milady mà không để cho nàng biết được. Chàng thấy nàng lên xe và nghe thấy tiếng ra lệnh cho tên đánh xe đi về cửa ô Saint-Germain.
Nhưng thật là vô ích khi cố chạy bộ bám theo một chiếc xe chạy nước kiệu do hai con ngựa lực lưỡng kéo, D' Artagnan đành trở về phố Fréjus.
- Ở phố Sông Sein chàng gặp Planchet đang dừng chân trước cửa hàng bánh ngọt và có vẻ còn đang đê mê với một ổ bánh mì sữa hình dáng rất ngon lành.
Chàng ra lệnh cho gã đóng yên hai con ngựa trong chuồng ngựa của ông De Treville, một con cho chàng, một con cho gã rồi đến gặp chàng ở nhà Athos. Ông De Treville đã cho phép chàng muốn dùng ngựa của ông lúc nào cũng được.
Planchet đi về phía phố Chuồng chim câu, và D' Artagnan về phố Fréjus. Athos vẫn ở nhà, đang ngồi buồn uống cạn những chai rượu nho Tây Ban Nha nổi tiếng chàng mang về trong chuyến đi tới Picađi. Chàng ra hiệu cho Grimaud mang một cốc cho D' Artagnan và Grimaud vâng lời theo thường lệ.
D' Artagnan kể lại cho Athos nghe tất cả những gì đã diễn ra ở nhà thờ giữa Porthos và bà biện lý, và có thể, lúc này, người bạn của họ đang đi sắm quân trang như thế nào.
Nghe hết chuyện, Athos trả lời:
- Còn tôi, tôi hoàn toàn yên trí sẽ không phải là đàn bà bỏ ra trả tiền yên cương cho tôi đâu.
- Nhưng tuy nhiên, đẹp trai, lịch thiệp, đại lãnh chúa như anh, thì sẽ chẳng công chúa, hoàng hậu nào thoát khỏi những mũi tên tình ái của anh đâu.
- Ôi cái cậu D' Artagnan trẻ người non dạ này! - Athos vừa nói vừa nhún vai.
Và chàng ra hiệu cho Grimaud mang chai rượu thứ hai đến.
Cùng lúc đó, Planchet thập thò qua chiếc cửa hé mở báo cho chủ mình biết hai con ngựa đã tới đây.
- Ngựa nào vậy? - Athos hỏi.
- Hai con ông De Treville cho tôi mượn để đi dạo và với lũ ngựa này tôi sẽ làm một chuyến đến Saint-Germain.
- Và cậu định làm gì ở chỗ Saint-Germain? - Athos lại hỏi thêm.
- Thế là D' Artagnan liền kể cuộc gặp gỡ trong nhà thờ, và chàng đã gặp lại cái người đàn bà đi cùng vị lãnh chúa mặc áo choàng đen và có sẹo ở thái dương như thế nào, người đàn bà đó là mối bận tâm vĩnh viễn của chàng.
- Có nghĩa là cậu đã phải lòng người đàn bà này cũng như đối với bà Bonacieux chứ gì - Athos vừa nói vừa nhún vai khinh thị như thể chàng lấy làm thương hại cho sự yếu đuối của con người.
- Tôi hả, không đời nào! - D' Artagnan hét lên - Tôi chỉ tò mò muốn làm sáng tỏ cái bí mật mà bà ta gắn kết với nó. Tôi không biết tại sao tôi cứ hình dung ra người đàn bà tôi hoàn toàn không quen biết đó và con người mặc áo choàng đen cũng hoàn toàn không quen biết tôi lại có ảnh hưởng đến đời tôi.
- Thật ra, cậu có lý đấy - Athos nói - tôi không biết một người đàn bà nào đang để bõ công đi tìm khi nàng đã mất tăm mất tích. Bà Bonacieux đã mất tăm, thì mặc kệ bà ta, rồi bà ta sẽ tìm được đường về.
- Không, Athos, anh nhầm rồi! - D' Artagnan nói - Tôi yêu nàng Constance đáng thương của tôi hơn bao giờ hết và nếu tôi biết nàng ở nơi đâu, dù ở tận cùng thế giới tôi cũng sẽ đi ngay để cứu thoát nàng khỏi bàn tay kẻ thù của nàng. Nhưng tôi không biết ở đâu, mọi sự tìm kiếm của tôi đều vô ích. Anh còn muốn gì nào? Thì cũng phải giải khuây đã chứ.
- Vậy thì đi mà giải khuây với Milady, D' Artagnan thân mến ạ, nếu việc đó làm cậu thích thú, thì tôi xin hết lòng mong cho cậu đấy.
- Nghe đây, anh Athos - D' Artagnan nói - vì anh cứ tự nhốt kín mình ở đây như là bị cầm tù ấy, hãy lên ngựa cùng đi dạo với tôi đến Saint-Germain có hơn không.
- Bạn thân mến - Athos đáp - Tôi lên ngựa khi nào tôi có ngựa, nếu không tôi cuốc bộ.
- Thôi đi! - D' Artagnan vừa trả lời vừa mỉm cười về cái giọng chán đời của Athos, mà nếu là của một người khác chắc hẳn đã làm chàng bị tổn thương - Tôi không kiêu hãnh như anh đâu, tôi cưới bất cứ con ngựa nào tôi gặp. Thôi thế, đành tạm biệt vậy, anh Athos thân mến.
- Tạm biệt, - chàng ngự lâm quân vừa nói vừa ra hiệu cho Grimaud mở nút chai rượu gã vừa mang tới.
D' Artagnan và Planchet cùng nhảy lên yên vừa thẳng đường tới Saint-Germain.
Suốt dọc đường, những gì mà Athos nói về bà Bonacieux lại trở lại trong tâm trí chàng. Cho dù D' Artagnan tính tình không đa cảm mấy, cô hàng xén xinh đẹp vẫn để lại một ấn tượng thật sự trong trái tim chàng. Và như chàng đã nói, chàng sẵn sàng đi đến tận cùng thế giới để tìm nàng. Nhưng thế giới lại có nhiều chỗ tận cùng, sở dĩ như vậy vì nó tròn, thành thử chàng không biết quay về phương nào mà tìm.
Trong khi chờ đợi, chàng đang muốn cố hiểu xem Milady kia là người thế nào. Milady đã nói với người mặc áo choàng đen.
Vậy là nàng quen biết hắn. Thế mà trong tâm trí D' Artagnan, chính tên mặc áo choàng đen đã bắt cóc bà Bonacieux lần thứ hai, cũng như hắn đã từng bắt cóc nàng lần thứ nhất. Như vậy là D' Artagnan chỉ nói dối một nửa, tức chẳng nói dối bao nhiêu khi chàng nói đi tìm kiếm Milady cũng là đồng thời tìm kiếm nàng Constance.
Vừa đi vừa nghĩ như thế, vừa thỉnh thoảng thúc ngựa, D' Artagnan đi hết đoạn đường và đã đến Saint-Germain.
Chàng đi men theo tòa nhà mà mười năm sau Louis XIV ra đời ở đó Rồi chàng đi xuyên qua một phố vắng, nhìn trái, nhìn phải xem có nhận ra dấu vết gì của mỹ nhân người Anh không, thì ở tầng trệt một ngôi nhà xinh đẹp, theo thói quen thời buổi đó không có cửa sổ trông ra đường phố, chàng thấy xuất hiện một gương mặt quen quen. Gương mặt quen đó đang đi dạo trên một loại thềm cây đang nở hoa. Planchet nhận ra hắn trước liền nói với D' Artagnan:
- Này ông chủ, ông không nhớ ra bộ mặt đang ngơ ngơ ngác ngác kia ư?
- Không - D' Artagnan nói - Tuy nhiên ta tin chắc đây không phải là lần đầu ta nhìn thấy gương mặt ấy.
- Mẹ kiếp, tôi thì tôi tin chắc - Planchet nói - đấy chính là tên Luybanh tội nghiệp, người hầu của Bá tước De Wardes mà cách đây một tháng, ông đã sắp xếp cho ông ta rất là chu đáo ở Cale, trên đường tới dã thự của ông trấn thủ ấy.
- À, phải rồi - D' Artagnan nói - giờ thì ta nhận ra hắn rồi.
- Anh có tin hắn cũng nhận ra anh không?
- Ông chủ ạ, lúc đó nó đang rối tinh, rối mù, tôi ngờ nó khó có thể nhớ được một điều gì rõ ràng về tôi.
- Này, thế thì đến gạ chuyện với hắn đi - D' Artagnan nói - và thăm dò xem liệu chủ hắn có ngoẻo không.
Planchet xuống ngựa, đi thẳng đến chỗ Luybanh. Quả nhiên hắn không nhận ra gã, và hai chàng hầu trò chuyện với nhau với tình hữu hảo nhất trên đời. Trong khi đó, D' Artagnan xua hai con ngựa vào trong một ngõ hẻm rồi đi vòng theo một ngôi nhà để trở lại đứng sau hàng rào cây phỉ tham dự cuộc chuyện trò của hai người kia.
Quan sát sau hàng rào được một lúc, chàng nghe thấy tiếng xe ngựa và thấy chiếc xe của Milady đỗ lại ngay trước mặt chàng. Không còn nhầm vào đâu được, Milady đang ngồi trong xe, D' Artagnan cúi người xuống nấp sau cổ ngựa để trông thấy hết mà không bị lộ diện.
Milady thò đầu tóc vàng hoe ra khỏi cửa xe ra lệnh cho cô gái hầu phòng của mình.
Cô gái xinh đẹp khoảng hai mươi đến hăm hai tuổi, hoạt bát, lanh lợi, xứng đáng là người hầu gái của bậc mệnh phụ, đang ngồi ở chỗ bậc lên xe theo tục lệ thời đó, liền nhảy xuống đi về phía cái thềm cây hoa nơi D' Artagnan bắt gặp Luybanh.
D' Artagnan đưa mắt nhìn theo cô người hầu và thấy cô đi về phía cái thềm. Nhưng vô tình trong nhà có lệnh gọi Luybanh, thành thử còn trơ lại Planchet đang nhìn quanh bốn phía xem chủ mình biến đi đằng nào.
Cô gái hầu phòng đến gần Planchet mà cô tưởng nhầm là Luybanh và đưa cho gã một thư ngắn:
- Gửi cho chủ anh đấy - Cô nói.
- Cho chủ tôi? - Planchet ngạc nhiên hỏi lại.
- Vâng và rất vội đấy. Vậy cầm lấy mau lên.
- Thế rồi, nàng như chạy trốn về phía cỗ xe lúc này đã quay đầu lại về phía đã đến. Cô gái nhảy lên bậc xe và cái xe đi mất.
Planchet lật đi lật lại mẩu giấy, rồi theo thói quen vâng lời một cách thụ động, gã nhảy từ bậc thềm xuống luồn vào ngõ hẻm, và được độ hai mươi bước chân thì gặp D' Artagnan đã chứng kiến hết và đang đến trước mặt gã.
- Ông chủ, gửi cho ông đây - Planchet nói và giơ bức thư ra.
- Cho ta? - D' Artagnan nói. - Anh có chắc không?
- Mẹ kiếp! Tôi chắc quá đi chứ, con hầu gái nó bảo: "Gửi cho chủ anh đấy!". Tôi có chủ nào khác ngoài ông nào? Thế đấy… Cái con gái hầu ấy, quả tình, nó xinh và thanh mảnh quá đi mất.
D' Artagnan mở thư ra đọc những hàng chữ sau:
"Một người quan tâm đên ông hơn cả những gì người ấy có thể nói ra, muốn biêt ngày nào ông sẽ thích dạo chơi trong rừng. Ngày mai, ở khách sạn Cánh đồng tấm thảm vàng, một tên hầu mặc áo đỏ quần đen sẽ đợi thư trả lời của ông".
- Ồ, ồ! - D' Artagnan tự nhủ - thế là hơi rõ rồi đây. Hình như Milady và ta đều nhọc lòng vì sức khỏe của cùng một con người thì phải.
- Này Planchet, cái ông De Wardes quý hóa ấy ra sao rồi? Ông ta không ngoẻo đấy chứ?
- Không, thưa ông, ông ta khỏe như một người có thể chịu nổi bốn nhát gươm đâm vào người, bởi ông đã xỉa bốn nhát miễn chê cho vị quý tộc thân mến ấy và ông ấy vẫn còn yếu vì mất nhiều máu quá. Như tôi đã nói với ông chủ đấy. Luybanh không nhận ra tôi, nên đã kể cho tôi nghe từ đầu đến cuối cuộc mạo hiểm của chúng ta.
- Tốt lắm, Planchet, anh đúng là vua của những người hầu đó, bây giờ lên ngựa thôi và đuổi kịp cỗ xe.
Cũng không lấy gì làm lâu lắm, chỉ độ dăm phút họ đã bắt gặp chiếc xe dừng lại bên trái vệ đường. Một kỵ sĩ ăn mặc sang trọng đứng ở cửa xe.
Câu chuyện giữa Milady và người kỵ sĩ đó rất sôi nổi đến nỗi D' Artagnan dừng ngựa phía bên kia cỗ xe mà không ai ngoài cô hầu gái xinh đẹp biết chàng có mặt.
Cuộc nói chuyện được diễn ra bằng tiếng Anh, thứ tiếng D' Artagnan chẳng hiểu gì, nhưng cứ theo giọng điệu, chàng tin là mình đoán được mỹ nhân người Anh đang rất tức giận. Nàng dứt chuyện bằng một điệu bộ khiến chàng chẳng còn nghi ngờ gì nữa về bản chất của cuộc chuyện trò: đó chính là cú đập quạt mạnh đến nỗi cái đồ mỹ nghệ nhỏ bé của phụ nữ ấy bay lên thành nghìn mảnh.
Người kỵ sĩ phá lên cười chừng như càng làm Milady thêm tức tối D' Artagnan nghĩ đây là lúc nên can thiệp. Chàng lại gần cửa xe bên kia, lễ phép ngả mũ chào:
- Thưa bà, bà cho phép tôi được phục vụ bà chứ? Tôi thấy hình như ông kỵ sĩ đây làm bà tức giận. Thưa bà, bà chỉ cần nói một tiếng, tôi xin đảm nhiệm trừng phạt ông ta về tội thiếu lịch sự với bà.
Mới nghe, Milady đã quay lại ngạc nhiên nhìn chàng trai trẻ và khi chàng vừa nói dứt thì nàng nói bằng một thứ tiếng Pháp rất sõi:
- Thưa ông, tôi sẽ rất cảm động được đặt mình dưới sự che chở của ông nếu người cãi nhau với tôi không phải là em tôi.
- À, vậy xin thứ lỗi cho tôi - D' Artagnan nói - thưa bà, bà cũng hiểu là tôi không rõ chuyện đó.
- Người kỵ sỹ mà Milady đã chỉ ra là họ hàng đó cúi xuống ngang tầm cửa xe hét lên:
- Cái tên bố nhắng ấy làm sao lại xen chuyện vào; tại sao nó không xéo đi theo đường của nó.
D' Artagnan về phía mình, cũng cúi xuống cổ ngựa trả lời chõ vào cửa xe.
- Có ông mới là đồ bố nhắng ấy. Ta không đi đường của ta vì ta thích dừng lại ở đây.
Người kỵ sỹ nói một câu tiếng Anh với chị gái.
- Ta nói với ông bằng tiếng Pháp - D' Artagnan nói - Ta yêu cầu ông vui lòng trả lời ta bằng thứ tiếng ấy. Ông là em của bà ấy thì mặc ông, nhưng may thay ông lại không phải là em của ta.
Người ta đã tưởng rằng Milady cũng sợ sệt như phụ nữ thường tình, sẽ xen vào ngay từ lúc bắt đầu có chuyện khích bác để ngăn không cho nàng nhảy tọt vào mãi tít trong cuối xe và lạnh lùng bảo tên đánh xe:
- Về ngay khách sạn.
Cô hầu gái xinh đẹp liếc mắt nhìn lo lắng về phía D' Artagnan mà dáng vẻ khôi ngô của chàng hình như đã ảnh hưởng đến cô.
Cỗ xe phóng đi để lại hai người đàn ông đối mặt nhau không còn trở ngại vật chất nào ngăn cách họ nữa.
- Người kỵ sĩ định quay người đi theo chiếc xe, nhưng D' Artagnan, cơn giận đã sôi lên và càng tăng thêm nữa khi nhận ra ở hắn là tên người Anh ở Amiêng đã thắng chàng con ngựa và suýt nữa đã thắng Athos cả chiếc nhẫn kim cương của chàng liền nhảy tới nắm lấy cương ngựa ngăn hắn lại.
- Này, ông ơi - chàng nói - Ông hình như còn bố nhắng hơn ta bởi ông làm ra vẻ đã quên giữa chúng ta đã có một cuộc cãi nhau nho nhỏ.
- À, à! - Tên người Anh nói - Chính là ông, thầy cờ bạc. Vậy là ông cứ luôn luôn phải chơi hoặc trò này hoặc trò khác hay sao?
- Phải, và việc đó khiến ta nhớ ra là ta phải gỡ lại. Rồi chúng ta sẽ thấy mà, ông bạn thân mến, ông chơi gươm cũng khéo như chơi hộp xúc xắc đấy chứ?
- Ông thấy rõ là tôi không mang theo gươm - Tên người Anh nói - Ông định tỏ ra can trường để chống lại một người không vũ khí chăng?
- Ta hy vọng ông để nó ở nhà - D' Artagnan đáp lại - Dẫu sao ta cũng có hai thanh và nếu ông muốn, ta sẽ chơi với ông bằng một trong hai thanh.
- Vô ích thôi. Tôi cũng mang theo đủ mọi dụng cụ đó.
- Vậy thì? Ông quý tộc danh giá của ta ơi - D' Artagnan nói tiếp ông hãy chọn thanh dài nhất ấy và tối nay hãy mang đến cho ta xem…
- Ông thích ở đâu?
- Đằng sau vườn Luýchxămbua, đó là một khu rất đẹp cho những cuộc dạo chơi thuộc loại mà ta đề nghị với ông.
- Được, sẽ có mặt!
- Ông thích mấy giờ?
- Sáu giờ.
- Nhân thể, ông cũng có thể có một vài người bạn chứ?
- Ồ, tôi có những ba đều sẽ rất vinh dự được chơi cùng bên với tôi.
- Ba à? Càng tốt! Thế là tương ngộ rồi! - D' Artagnan nói - Cũng đúng số bên này.
- Bây giờ ông là ai? - Tên người Anh hỏi.
- Ta là D' Artagnan, quý tộc Gascogne, phục vụ trong cận vệ đội, đại đội ông des Essarts. Còn ông?
- Ta là Huân tước De Winter, nam tước vùng Sépfin(1).
- Vậy thì thưa ông Nam tước, ta sẽ xin hầu ông - D' Artagnan nói - cho dù ông có những cái tên rất khó nhớ.
Rồi chàng thúc ngựa phi nước đại, theo con đường phóng về Paris.
D' Artagnan xuống ngựa ngay tại nhà Athos như chàng vẫn thường làm trong những trường hợp tương tự.
Chàng thấy Athos đang nằm trên một chiếc ghế dài để đợi quân trang tự nó phải tìtn đến mình như anh đã nói.
Chàng liền kể hết cho anh chuyện vừa xảy ra chỉ trừ có bức thư của ông De Wardes.
Athos rất vui thích khi biết mình sắp được đánh nhau với một tên người Anh. Có thể nói đó là giấc mơ của anh.
Họ cho người hầu đi tìm ngay Porthos và Aramis và cho mấy người này biết rõ tình hình.
Porthos rút gươm ra khỏi vỏ và đâm chém bức tường, thỉnh thoảng lại lùi lại, nhún nhảy như một vũ công, Aramis vẫn luôn làm thơ, chui vào thư phòng của Athos và yêu cầu đừng quấy rầy mình nữa cho đến lúc phải tuốt gươm khỏi vỏ.
Athos ra hiệu cho Grimaud bê một chai rượu ra. Còn D' Artagnan thì đang tự mình vạch một kế hoạch nhỏ sau đây sẽ thực hiện, một kế hoạch hứa hẹn một chuyến phiêu lưu thú vị biểu hiện bằng những nụ cười chốc chốc lại hiện lên làm rạng rỡ bộ mặt mơ màng.
Chú thích:
(1) Trong hàng ngũ quý tộc Vương quốc Anh chỉ có thể có Bá tước, Công tước vùng nào đó, còn Nam tước là tước hiệu gắn với tên người, tên chức vụ, không có Nam tước vùng.


Chương 31

Người Anh và người Pháp


Đến giờ hẹn, bọn họ cùng với bốn người hầu đi đến một mảnh đất rào kín thả dê, phía sau vườn Luychxămbua, Athos cho người chăn dê một đồng tiền để y lánh ra nơi khác. Bọn người hầu được giao việc canh phòng.
Một lúc sau, một toán cũng lặng lẽ đến gần, vào đó, gặp mấy người lính ngự lâm, rồi theo những thủ tục nước ngoài, hai bên giới thiệu nhau.
Bọn Anh đều là những người thuộc phẩm trật cao, nên những cái tên kỳ quái của địch thủ không những làm họ ngạc thiên, mà còn lo ngại nữa.
Nghe ba người xưng tên, Huân tước De Winter nói:
- Những tên như thế thì chúng tôi biết các ông là ai, và chúng tôi sẽ không giao chiến với những cái tên như thế đâu. Đó là tên của lũ chăn cừu.
- Huân tước, ông đoán đúng đấy, đấy là những tên giả cả thôi - Athos nói.
- Như thế chỉ càng khiến chúng tôi muốn biết những tên thật? - Gã người Anh nói.
- Các ông đã đánh bạc với chúng tôi mà có biết tên chúng tôi tâu Athos nói - với danh hiệu gì các ông thắng của chúng tôi hai con ngựa nào?
- Đúng vậy, nhưng lúc ấy chúng tôi chỉ liều những đồng vàng thôi. Lần này chúng tôi đem máu ra liều. Người ta chơi bạc với cả thiên hạ, nhưng người ta chỉ giao chiến với những người cùng đẳng cấp.
- Đúng lắm! - Athos nói. - Và chàng túm lấy một kẻ trong bốn người Anh sẽ phải đấu với chàng rồi nói nhỏ tên mình cho gã.
Porthos và Aramis cùng làm như thế.
- Như thế đã thỏa mãn ông chưa? - Athos nói với đấu thủ - Và ông thấy ta đã là một đại lãnh chúa để cho phép ta được so gươm với ông chứ?
- Phải, thưa ông - Tên người Anh vừa nói vừa nghiêng mình đáp lễ
- Vậy thì, bây giờ, ông có muốn ta nói cho ông một điều không? - Athos lạnh lùng nói tiếp.
- Điều gì? - Gã người Anh hỏi.
- Là điều nhẽ ra ông đừng đòi ta cho biết tên thì tốt hơn.
- Tại sao vậy.
- Bởi người ta tưởng ta đã chết, vì ta có những lý do để mong muốn người ta không biết ta còn đang sống và ta sẽ buộc lòng phải giết ông để bí mật của ta khỏi tung tóe ra.
Gã người Anh nhìn Athos tưởng chàng đùa, nhưng Athos không đùa một chút nào.
- Các vị! - Athos vừa nói với đồng đội vừa tới phía các địch thủ - Chúng ta sẵn sàng cả rồi chứ?
- Rồi - Cả người Anh và người Pháp đồng thanh trả lời.
- Vậy, hãy phòng thủ - Athos nói, và lập tức tám thanh gươm lóe sáng trong ánh trời tà và cuộc giao chiến bắt đầu với một sự ác liệt hoàn toàn đương nhiên giữa những kẻ từng hai lần thù địch.
Athos xỉa gươm đúng phép và bình tĩnh như trong phòng luyện.
Porthos chắc chắn đã sửa chữa được cái bệnh quá chủ quan trong cuộc phiêu lưu ở Săngtily, chơi những đường kiếm rất hiểm và rất thận trọng.
Aramis còn phải làm cho xong đoạn ba thi khúc của mình nên tỏ ra rất vội, muốn xong chóng vánh.
Athos là người đầu tiên giết chết địch thủ: chàng chỉ đâm hắn có một mũi, nhưng như chàng đã báo trước, đó là một mũi tử thương, mũi gươm xuyên qua tim.
Porthos là người thứ hai hạ đối thủ của mình lăn xuống cỏ.
Chàng đã đâm thủng đùi hắn. Vì gã người Anh này không tiếp tục kháng cự nữa, gã đã trao gươm cho chàng nên Porthos hai tay dìu gã và đưa gã lên xe.
Aramis dồn ép đối thủ mãnh liệt, và sau khi đã bị vỡ thế trận năm chục bước, cuối cùng hắn co cẳng chạy và biến mất trước những tiếng hò reo chế giễu của bọn người hầu. Còn D' Artagnan, chàng chỉ hoàn toàn đánh phòng thủ, rồi khi thấy đối thủ đã quá mệt, bằng một cú đánh tạt cực mạnh chàng làm bay gươm đối thủ. Gã nam tước, thấy bị mất gươm nhảy lùi hai ba bước về phía sau, nhưng trượt chân, ngã lộn ngửa.
D' Artagnan nhảy phọt tới tì mũi gươm vào họng gã.
- Ta có thể giết ông - Chàng nói với người Anh - và ông đã hoàn toàn trong tay ta, nhưng vì tình yêu với chị gái ông, ta tha chết cho ông.
D' Artagnan vui sướng đến cực độ. Chàng vừa thực hiện xong kế hoạch đã vạch trước, và sự tiến triển của kế hoạch làm rạng rỡ những nụ cười trên khuôn mặt chàng.
Người Anh, vui mừng được xử lý việc này với một con người rất chi cao thượng, liền ôm siết D' Artagnan trong vòng tay và không ngớt mồm tâng bốc mấy chàng ngự lâm quân. Rồi vì đối thủ của Porthos đã ở trong xe, còn tên của Aramis đã biến vô tăm tích, mọi người chỉ còn nghĩ đến kẻ đã chết.
Vì Porthos và Aramis lột quần áo hắn ra hy vọng vết thương không gây tử vong, một túi tiền lớn rơi ra khỏi đai lưng.
D' Artagnan nhặt và đưa cho Huân tước De Winter. Gã người Anh nói:
- Ông muốn tôi làm cái chết tiệt gì với túi tiền này?
- Ông trả cho gia đình ông ta - D' Artagnan nói.
- Gia đình ông ta quan tâm lắm đến món vặt ấy ư? Họ được thừa hưởng mười lăm nghìn louis vàng lợi tức. Ông cứ giữ lấy cho các người hầu của các ông.
D' Artagnan đút túi tiền vào túi mình.
- Và bây giờ, ông bạn trẻ của tôi, bởi tôi hy vọng ông cho phép tôi được gọi ông như vậy - Huân tước De Winter nói - ngay tối nay, nếu ông muốn, tôi sẽ giới thiệu ông với chị gái tôi, phu nhân Clericss, bởi vì tôi muốn đứng về phía chị ấy, chị ấy cũng hết lòng ưu ái với ông, và vì chị ấy không phải là kém cỏi lắm ở trong triều, có thể trong tương lai chị ấy chỉ nói một tiếng, không phải là không có ích với ông đâu.
D' Artagnan khoái trí đến đỏ mặt, nghiêng mình tỏ ý hoan nghênh. Trong khi đó, Athos lại gần nói nhỏ vào tai D' Artagnan:
- Cậu định làm gì với cái túi tiền đó?
- Ồ, tôi định trả lại anh thôi mà, anh Athos thân mến.
- Trả tôi hả? Tại sao vậy?
- Khỉ, anh giết hắn, đó là chiến lợi phẩm của anh.
- Tôi, thừa kế của kẻ thù ư! - Athos nói - Cậu coi tôi là hạng người nào?
- Đó là lệ của chiến tranh - D' Artagnan nói - Tại sao không coi đó là lệ của quyết đấu?
- Ngay cả ở trên chiến trường - Athos nói - Tôi cũng không bao giờ làm như thế.
Porthos nhô vai lên. Aramis mấp máy môi, tán thành Athos.
- Thế thì - D' Artagnan nói - ta cho bọn người hầu số tiền này như Huân tước De Winter bảo nên làm thế.
- Đúng, - Athos nói - nhưng cho lũ người hầu của bọn Anh chứ không phải người hầu của chúng ta.
Cách xử sự cao cả ấy của một con người không còn một xu dính túi khiến bản thân Porthos cũng phải xúc động và lòng hào hiệp Pháp, đã được Huân tước De Winter và bạn mình kể lại, đâu đâu cũng trầm trồ khen ngợi chỉ trừ có các chú chàng Grimaud, Mousqueton, Planchet và Bazin.
Huân tước De Winter khi chia tay D' Artagnan đã cho chàng địa chỉ chị dâu mình. Nàng cư trú ở quảng trường Hoàng gia bấy giờ là khu phố rất thời thượng và ở nhà số 6. Hơn nữa ông ta còn ngỏ ý đến đón chàng đi để giới thiệu. D' Artagnan hẹn với ông ta lúc tám giờ ở nhà Athos.
Việc ra mắt Milady chiếm hết tâm trí chàng Gascogne.
Chàng nhớ lại người đàn bà ấy cho đến nay đã xen vào số phận mình một cách kỳ lạ như thế nào. Chàng tin chắc, đó là người của Giáo chủ, nhưng chàng vẫn cảm thấy không thể cưỡng nổi bị nàng lôi cuốn bởi một thứ tình cảm không phân định rõ ràng được Điều e sợ duy nhất của chàng là Milady nhận ra chàng là người ở Măng và ở Đuvrơ. Lúc đó, nàng sẽ biết chàng là bạn của ông De Treville và do đó linh hồn và thể xác chàng thuộc về nhà vua, dẫn đến việc làm mất một phần lợi thế của chàng, vì một khi, hai bên đều hiểu nhau như thế, cuộc chơi sẽ ở tư thế ngang nhau. Về sự khởi đầu dan díu giữa nàng với Bá tước De Wardes, anh chàng tự phụ này lại không lo lắng mấy mặc dầu vì Hầu tước(1) này vừa trẻ, đẹp, giàu và có ưu thế mạnh trong sự sủng ái của Giáo chủ. Nhưng khi người ta mới hai mươi tuổi, nhất lại là dân Tácbơ thì không phải những cái đó chẳng là gì hết.
D' Artagnan bắt đầu bằng việc về nhà, ăn mặc thật choáng lộn rồi trở lại nhà Athos và theo thói quen kể lại hết cho Athos, Athos lo lắng nghe những dự định của chàng rồi lắc đầu và khuyên chàng phải cẩn thận, bằng một vẻ chua chát.
- Sao? Cậu vừa bị mất một người đàn bà cậu bảo tất, duyên dáng, hoàn hảo và bây giờ cậu đã vội chạy theo một người đàn bà khác ư?
D' Artagnan cảm thấy sự trách móc ấy thật xứng đáng.
- Tôi yêu bà Bonacieux bằng trái tim, còn Milady, tôi yêu bằng lý trí. Để người ta dẫn tôi đến nhà nàng, trên hết là tôi tìm cách làm sáng tỏ vai trò của nàng ở triều đình.
- Vai trò của nàng ư? Mẹ kiếp! Sau tất cả những gì cậu nói với mình có khó khăn gì mà không đoán ra. Chỉ là thứ con mồi nào đó của Giáo chủ, một mụ đàn bà dụ cậu chui vào trong một cái bẫy, và cậu sẽ mất đầu ở đấy như chơi.
- Quỷ ạ? Anh Athos thân mến, tôi thấy hình như anh nhìn cái gì cũng thành màu đen cả.
- Cậu em thân mến, mình không tin đàn bà, biết làm thế nào! Mình đã 'phải trả giá về chuyện đó, và nhất là loại đàn bà tóc hung vàng. Milady tóc hung vàng, cậu chẳng bảo mình thế ư?
Nàng có bộ tóc hung vàng đẹp chưa từng thấy.
- Ôi, cậu D' Artagnan đáng thương của tôi - Athos nói.
- Anh nghe đây. Tôi muốn làm sáng tỏ. Rồi khi tôi biết rõ điều tôi muốn biết, tôi sẽ lánh xa. cậu cứ việc làm sáng tỏ - Athos nói một cách lạnh lùng.
Huân tước De Winter đến đúng giờ. Athos được báo trước đã chuyển sang phòng bên. Winter thấy có một mình D' Artagnan, và vì đã gần tám giờ, Huân tước dẫn chàng đi.
Một cỗ xe sang trọng đang chờ ở phía dưới và vì xe được thắng hai con ngựa ưu tú, nên chỉ một lát sau mọi người đã ở quảng trường Hoàng gia.
Milady Clericss trịnh trọng đón tiếp D' Artagnan. Cư xá của nàng tráng lệ xa hoa đặc biệt, và cho dù phần lớn người Anh bị chiến tranh xua đuổi, đã rời khỏi hoặc đang rời nước Pháp, Milady lại vừa chi những khoản mới tại ngay cư xá của mình. Điều đó chứng tỏ phương sách nói chung dùng để xua đuổi người Anh về nước không làm cho nàng quan tâm.
Huân tước De Winter giới thiệu D' Artagnan với chị mình.
- Chị xem, đây là nhà quý tộc trẻ đã nắm tính mạng tôi trong tay, và không hề muốn lạm dụng lợi thế của mình, cho dù chúng tôi đã từng hai lần là kẻ thù của nhau, vì chính tôi đã xúc phạm ông ấy, và vì tôi là người Anh. Chị hãy cảm ơn ông ấy đi nếu chị còn có chút tình với tôi.
Milady hơi cau mày. Một lớp mây thoáng hiện qua trên trán nàng, và một nụ cười rất lạ lùng hiện lên trên môi nàng khiến chàng trai trẻ cùng một lúc nhìn thấy ba sắc dạng ấy không khỏi rùng mình.
Người em nàng không nhìn thấy gì cả. Ông ta quay đi để đùa với con khỉ yêu quý của Milady, đang kéo áo chẽn của ông ta.
Milady bằng một giọng nói đặc biệt dịu dàng trái hẳn với những biểu hiện khó chịu mà D' Artagnan vừa nhận thấy, bảo chàng:
- Thưa ông, rất hân hạnh được đón ông. Hôm nay ông đã có được những quyền bắt tôi phải mãi mãi biết ơn ông.
Người Anh kia bấy giờ mới quay lại và kể hết trận chiến không bỏ một chi tiết. Milady lắng nghe hết sức chăm chú, tuy nhiên dù nàng đã hết sức che giấu những cảm xúc của mình, người ta vẫn thấy được dễ dàng câu chuyên không hề làm cho nàng thích thú chút nào. Máu dồn lên mặt nàng và bàn chân nhỏ nhắn của nàng cứ bứt rứt không yên dưới làn váy áo.
Huân tước De Winter không nhận thấy gì hết. Rồi khi đã kể xong, ông ta lại gần cái bàn, trên có một cái khay để một chai rượu nho Tây Ban Nha và mấy cái cốc. Ông ta rót đầy hai cốc, ra hiệu mời D' Artagnan uống.
D' Artagnan hiểu rằng từ chối một người Anh không chạm cốc với họ là làm họ phật ý ghê gớm. Vì vậy chàng lại gần bàn và cầm lấy cốc thứ hai. Song chàng không hề rời mắt khỏi Milady, và trong gương chàng bắt gặp sự biến đổi vừa xảy ra trên khuôn mặt nàng. Giờ đây nàng tưởng không bị ai nhìn nữa, một nét hung tợn lồ lộ trên khuôn mặt nàng. Nàng nghiến chặt răng cắn chiếc khăn tay.
Cô gái hầu xinh tươi nhỏ nhắn mà D' Artagnan đã để ý tới lúc này bước vào, cô nói bằng tiếng Anh mấy câu với Huân tước De Winter. Ông ta lập tức xin phép D' Artagnan, và nhờ người chị xin lỗi.
D' Artagnan bắt tay Huân tước Winter và quay lại bên Milady. Mặt nàng với một sự linh hoạt kỳ lạ, đã lấy lại được nét duyên dáng, duy chỉ có mấy vết máu nhỏ thấm rải rác trên chiếc khăn tay là chỉ rõ nàng đã cắn môi mình đến bật máu.
Đôi môi nàng tuyệt đẹp, người ta bảo như màu san hô.
Cuộc trò truyện có vẻ vui nhộn hẳn lên. Milady hình như đã hoàn toàn trở lại bình thường. Nàng kể Huân tước De Winter chỉ là em chồng nàng chứ không phải em nàng. Nàng đã lấy người con út(2) trong gia đình, người đó đã qua đời để lại nàng góa bụa với một đứa con. Đứa bé ấy là người thừa kế duy nhất của Huân tước De Winter, nếu Huân tước không lấy ai. Tất cả những cái đó khiến cho D' Artagnan thấy như có một tấm màn phủ lên một đicu gì đó, nhưng chàng lại chưa nhìn rõ cái gì dưới tấm màn.
Hơn nữa, sau nửa giờ chuyện trò, D' Artagnan chắc Milady là đồng bào của mình, nàng nói tiếng Pháp rất tinh tế và bay bướm khiến không thể còn chút nghi ngờ gì về việc nàng là người Pháp. D' Artagnan không ngớt tán tỉnh và cam đoan chung thủy.
Trước tất cả những câu ngớ ngẩn tuôn ra từ chàng trai Gascogne, nàng chỉ mỉm cười đầy thiện chí. Giờ rút lui đã tới.
D' Artagnan cáo biệt Milady và ra khỏi phòng khách như một người sung sướng nhất trên đời.
Trên cầu thang chàng gặp cô hầu gái xinh đẹp, cô gái khi đi qua khẽ cọ vào người chàng và đỏ bừng mặt lên xin lỗi vì đã đụng phải chàng, bằng một giọng rất hiền dịu khiến lời xin lỗi lập tức được chấp nhận ngay.
Hôm sau D' Artagnan trở lại và còn được đón tiếp nhiệt tình hơn đêm trước. Huân tước De Winter không có đó, và lần này chính là Milady đã hết sức hân hạnh tiếp chàng suốt cả buổi tối.
Nàng tỏ ra vẻ rất thích chàng, hỏi chàng hiện ở đâu, ai là những bạn bè của chàng và liệu đôi khi chàng có nghĩ đến chuyện phụng sự Đức Giáo chủ không.
D' Artagnan như đã biết, là người quá thận trọng so với tuổi hai mươi, liền nhớ lại những ngờ vực của mình về Milady.
Chàng hết sức ca ngợi Đức ông và bảo nàng thay vì xung vào đội cận vệ của nhà vua, chàng đã không hề để lỡ chút nào xung vào đội cận vệ của Giáo chủ, nếu ví dụ chàng quen biết ông De Cavoa thay vì quen biết ông De Treville.
Milady chuyển ngay sang chuyện khác chẳng một chút gượng gạo và hỏi D' Artagnan một cách hững hờ nhất trần đời là chàng đã bao giờ ở nước Anh chưa.
D' Artagnan trả lời rằng chàng đã được ông De Treville phái sang đấy để xử lý vấn đề nâng cấp ngựa, và chàng cũng đã mang về bốn con để làm mẫu.
Milady, trong khi nói chuyện, hai ba lần mím môi. Nàng vấp phải một gã Gascogne chơi rất kín kẽ.
Cũng bằng giờ đêm trước, D' Artagnan rút lui. Trong hành lang chàng lại gặp cô hầu Ketty xinh đẹp. Cô gái nhìn chàng bằng thái độ đầy thiện cảm mà chàng không thể nhầm chút nào.
Nhưng D' Artagnan lại quá quan tâm tới nữ chủ nhân, nên chàng tuyệt đối chẳng nhận thấy gì ngoài những điều đến từ nữ chủ nhân.
Hôm sau D' Artagnan lại đến nhà Milady rồi hôm sau nửa và mỗi tối Milady lại đón tiếp chàng thịnh tình hơn.
Mỗi tối, lần trong tiền sảnh, lần ở hành lang, lần trên cầu thang, chàng đều gặp cô hầu gái xinh đẹp.
Nhưng như đã nói, D' Artagnan không hề chú ý đến sự kiên tâm của nàng Ketty tội nghiệp.
Chú thích:
(1) Lại một sự nhầm lẫn của tác giả, vì vừa dòng trên ông còn gọi là bá tước De Wardes, nay đã thành Hầu tước rồi.
(2) Chỗ này tác giả dùng từ Cadet (út, thứ), nhưng về sau gẩn cuối lại gọi là frère ainé (anh cả). Chúng tôi coỉ chồng thứ hai của Milady là anh cả của Huân tước De Winter

Chương 32

Bữa ăn trưa nhà ông biện lý.


Tuy nhiên cuộc quyết đấu, trong đó Porthos đóng một vai trò chói lọi không làm chàng quên bữa ăn trưa của bà biện lý của chàng. Hôm sau khoảng một giờ, sau khi để Mousqueton chải chuốt bộ cánh áo của mình lần nữa, chàng đi về phố Lũ gấu bằng bước chân của một kẻ hai lần gặp may.
Trái tim chàng đập mạnh, nhưng không giống như D' Artagnan với một mối tình trẻ trung và nôn nóng. Không, một lợi ích vật chất hơn đang giục giã máu chàng, cuối cùng chàng cũng sắp vượt qua cái ngưỡng cửa bí ẩn ấy, để bước lên bậc thang xa lạ mà những đồng vàng cũ kỹ của thày cãi Coquenard đã từng một đồng một leo lên.
Chàng sắp được nhìn tận mắt cái hòm sắt mà có đến hai chục lần chàng thấy hình ảnh nó trong mơ, cái hòm dài và sâu, khóa móc, chốt then, niêm phong dưới đất, cái hòm chàng thường được nghe nói, mà đôi bàn tay hơi khô quắt, đúng vậy, của bà biện lý sắp mở ra trước đôi mắt ngưỡng mộ của chàng.
Và rồi chàng nữa, kẻ lang thang phiêu bạt khắp đó đây, kẻ không tài sản, không gia đình, một quân nhân nhẵn mặt nơi quán trọ, tửu quán và lữ điếm, một kẻ sành ăn mà phần lớn thời gian phải gặp đâu ăn đấy, nay sắp được nếm bữa cơm gia đình, được hưởng bầu không khí gia đình ấm cúng, phó mặc cho những sự cưng chiều nho nhỏ mà người ta càng khô khan chừng nào, càng thích thú chừng ấy như mấy bác lính già đã nói. với tư cách người anh họ, ngày ngày đến ngồi vào chiếc bàn, ăn ngon lành, làm bớt nhăn vầng trán bủng beo nhăn nhúm của ông biện lý già, vặt lông đôi chút mấy chú thư ký trẻ bằng cách dạy họ những trò đê tiện, trò ba xúc xắc, bài Đức, trong những ngón thực hành ma mãnh, để thu về mỗi giờ dạy bằng cả khoản dành dụm trong cả tháng của họ, tất cả những điều đó đang mỉm cười thoải mái với Porthos.
Chàng ngự lâm ta liền nhớ lại, chỗ này, chỗ kia, mỗi chỗ một tí những tiếng đồn đại về các ông biện lý, từ thời nảo thời nào, dù chết rồi nhưng tiếng vẫn còn, về thói keo bẩn, thói xà xẻo, những ngày ăn chay, trừ việc tiết kiệm thái quá mà Porthos luôn thấy là rất không đúng lúc, rốt cuộc, đối với một bà biện lý, thì bà biện lý này vẫn cứ là khá hào phóng và chàng hy vọng sẽ gặp một ngôi nhà ở mức làm cho người ta hài lòng.
Thế nhưng, ngay tại cửa, chàng đã thấy ngờ ngợ. Càng tới gần càng thấy chẳng có gì đáng để thu hút mọi người, lối đi hôi hám và tối om, cầu thang nhờ nhờ chiếu sáng qua những song sắt từ ánh sáng sân nhà láng giềng. Ở tầng một, một chiếc cửa thấp đóng những đinh sắt khổng lồ như cổng chính Tòa pháo đài lớn Satơlê.
Porthos giơ ngón tay gõ khẽ. Một chú học nghề ký lục cao lớn, xanh xao, tóc rậm rạp như một rừng nguyên sinh ra mở cửa và chào với vẻ miễn cưỡng phải kính nể một người cũng có vóc dáng to lớn lộ rõ sức mạnh, lại mặc binh phục biểu lộ địa vị hiện thời, và nước da hồng hào chứng tỏ mức sống phong lưu.
Một chú học nghề khác nhỏ hơn đằng sau gã này, và một gã khác cao hơn đằng sau gã thứ hai, và một chú loong toong mười hai tuổi sau gã thứ ba.
Tất cả là ba chàng học nghề rưỡi, điều đó chỉ ra đây là một môn học đắt hàng nhất thời bấy giờ.
Cho dù chàng ngự lâm một giờ mới phải đến nhưng từ giữa trưa bà biện lý đã trông ngóng và mong ở tấm lòng, cũng có thể cả ở dạ dày tình lang của bà để chàng đến sớm hơn.
Bà Coquenard từ cửa buồng đi ra hầu như cùng một lúc với vị thực khách của bà từ cửa cầu thang đi lên và sự xuất hiện của vị phu nhân danh giá đó khiến chàng hết sức bối rối. Bọn học nghề nhìn chàng bằng con mắt tò mò, còn chàng không biết nói sao về cái trò leo lên leo xuống này, đành đứng lặng câm.
- Anh họ tôi đấy? - Bà biện lý reo lên - Anh vào đi, vào đi, anh Porthos.
Cái tên Porthos có ảnh hưởng ngay đến bọn học nghề khiến họ bật cười, nhưng Porthos quay lại, mọi bộ mặt lại trở lại nghiêm trang.
Vào phòng ông biện lý là phải qua tiền sảnh nơi bọn học nghề có lẽ học ở đó. Cái phòng này là một loại phòng tối om và ngổn ngang giấy lộn. Ra khỏi phòng học, đi qua nhà bếp ở bên phải là đi vào phòng tiếp khách.
Tất cả các phòng đều thông sang nhau, và không gây được một ý nghĩ tốt đẹp nào cho Porthos. Cửa phòng mở thì từ xa đã nghe thấy tiếng nói. Rồi khi đi qua, chàng liếc nhanh mắt xem bếp núc ra sao, chàng đành phải tự thú nhận lấy làm xấu hổ cho bà biện lý và trót dại cho bản thân mình, vì không thấy lửa bếp, và vẻ tấp nập, nhộn nhịp thường có trong một bữa ăn ngon, đúng hơn là thường ngự trị trong thánh đường của những món ăn ngon miệng.
Ông biện lý chắc hẳn đã được báo trước cuộc viếng thăm này vì ông chẳng tỏ ra ngạc nhiên chút nào khi nhìn thấy Porthos tiến về phía ông, với vẻ khá thoải mái và nho nhã chào ông.
- Chúng ta là họ hàng, hình như thế phải không, ông Porthos? - Ông biện lý chống tay lên chiếc ghế bành bằng trúc, nhổm dậy hỏi.
Một ông lão, bọc kín trong một chiếc áo chẽn đen rộng thùng thình và tấm thân lòng khòng, xanh xao, khô đét lọt thỏm trong đó. Đôi mắt nhỏ màu xám sáng như hai viên lựu ngọc với cái miệng nhăn nhó hình như là phần sinh sắc duy nhất còn lại trên khuôn mặt ông ta. Khốn nạn thay, đôi chân ông lại bắt đầu từ chối việc phục vụ của cái cỗ máy xương xẩu đó từ năm sáu tháng nay rồi, và từ khi ngửi thấy mùi suy sụp ấy, ông biện lý đáng kính đã gần như trở thành nô lệ của vợ mình.
Người anh họ chẳng qua được tiếp nhận một cách bất đắc dĩ thôi. Thầy kiện Coquenard nếu còn quắc thước thì đã xin lỗi mọi thứ họ hàng với ông Porthos rồi.
- Vâng, thưa ông, chúng ta là họ hàng - Porthos đáp chẳng hề lúng túng, hơn nữa chàng đâu có tính chuyện được người chồng tiếp đón nồng nhiệt.
- Về phía các bà à?
Ông biện lý hỏi một cách tinh quái. Porthos đã chẳng hề cảm thấy là sự mỉa mai, lại còn coi đó như một sự hồn nhiên khiến chàng phát buồn cười sau hàng ria rậm. Bà Coquenard thì biết thừa làm gì có chuyện ông biện lý hồn nhiên trong trường hợp đó, cũng hơi cười tủm nhưng lại đỏ mặt nhiều hơn.
Từ lúc Porthos đến, thầy kiện Coquenard vẫn lo lắng đưa mắt nhìn về phía chiếc tủ lớn kê trước chiếc bàn giấy bằng gỗ sồi của ông ta. Porthos hiểu rằng chiếc tủ ấy cho dù không giống với hình dạng chiếc hòm chàng thấy trong mơ vẫn cứ là chiếc hòm may mắn, và còn mừng thầm vì cái tủ thực này còn cao hơn cái trong mơ gần hai mét.
Thầy kiện Coquenard không đẩy xa việc điều tra gia hệ thêm nữa mà đưa mắt lo lắng từ cái tủ sang Porthos, và đành bảo:
- Ông anh họ chúng ta, trước khi ông ra trận chắc sẽ chiếu cố dùng cơm trưa một lần với chúng ta, phải không, bà Coquenard?
Lần này, Porthos cảm thấy như vừa nhận một đòn đánh trúng dạ dày, và hình như về phía bà Coquenard cũng không phải không cảm thấy điều đó vì bà nói thêm:
- Ông anh họ tôi sẽ không trở lại nữa nếu chúng ta xử sự tồi với anh ấy. Nhưng trong trường hợp trái lại, cho tới khi ra trận anh ấy cũng có quá ít thời giờ để qua được Paris, do đó không phải bất cứ lúc nào cũng có thể thu xếp để đến thăm chúng ta được đâu ôi! Đôi chân tôi! Đôi chân khốn khổ của tôi! Mày ở đâu rồi? - Ông Coquenard lẩm bẩm.
Và ông cố nở một nụ cười.
Porthos cảm thấy vô cùng biết ơn bà biện lý đã kịp thời cứu chàng đúng lúc chàng bị tấn công trong những niềm hy vọng tiêu hóa thức ăn của mình.
Chỉ lát sau, giờ ăn trưa đã tới. Mọi người đi sang phòng ăn, một phòng lớn tối tăm đối diện với bếp.
Bọn học nghề ký lục hình như cũng cảm thấy trong nhà những mùi thơm khác thường, tăm tắp như nhà binh, tay cầm ghế đẩu sẵn sàng ngồi. Người ta thấy trước được những quai hàm này nhai rau ráu với những dự tính đáng sợ.
Của nợ! - Porthos vừa nghĩ vừa liếc nhìn ba kẻ đói khát bởi chú loong toong không được phép vinh dự ngồi cùng bàn thầy kiện. Của nợ? Ở địa vị ông anh họ mình, mình sẽ không để cho lũ của nợ hau háu kia ngồi cùng - cứ như lũ đắm tàu sáu tuần không được ăn rồi ấy!
Thầy kiện Coquenard đi vào trên chiếc ghế bành có bánh lăn do bà Coquenard đẩy, Porthos thấy thế cũng giúp một tay đẩy xe đến bàn ăn.
Mới thoạt vào, ông ta cũng hít hít mũi và trệu trạo hàm bắt chước bọn học nghề ký lục, rồi nói:
- Ồ! Ồ cái món canh này chắc ngon đây.
"Mẹ kiếp món canh này có cái cóc khô gì đặc biệt khiến họ cảm thấy vậy?" Porthos nghĩ thầm trước món canh lõng bõng, chẳng có mùi gì ngoài lềnh bềnh mấy viên bột bao thịt băm như những đảo nổi trên một quần đảo.
Bà Coquenard mỉm cười và ra hiệu mời mọi người ngồi xuống, mọi người vội làm theo.
Thầy Coquenard được phục vụ đầu tiên, rồi đến Porthos. Tiếp đó bà Coquenard múc đầy đĩa mình và phân đều viên thịt bao bột cho lũ học nghề đang sốt ruột.
Cùng lúc đó, cửa phòng ăn cọt kẹt tự mở ra, và Porthos qua cánh cửa hé mở thấy chú nhỏ loong toong không được phép dự tiệc cùng, đang nhai bánh trước mùi bếp và mùi phòng ăn.
Sau món canh, người hầu gái mang ra một gà mái luộc. Món ăn xa xỉ này làm rãn căng mi mắt các thực khách đến nỗi hình như sẵn sàng nứt toác ra.
- Bà có vẻ yêu quý họ hàng nhà mình gớm nhỉ, bà Coquenard - ông biện lý nói với một cụ cười hầu như thê thảm - Rõ ràng đây hẳn phải là sự ân cần chiều chuộng của bà với ông anh họ của bà.
Con gà mái khốn khổ gầy giơ xương nhưng vẫn không chọc thủng nổi lớp da quá dầy, chắc người ta phải tìm mãi mới thấy nó đậu ở cái xó nó đã lui về đấy để đợi chết già.
"Mẹ kiếp! - Porthos nghĩ - Như thế mới thật quá buồn, ta kính trọng tuổi già, nhưng mình ít ra không thích thấy nó được đem luộc hoặc quay".
Và chàng nhìn khắp lượt xem có ai cùng ý kiến với mình không, nhưng trái hẳn với chàng, chàng chỉ thấy những cặp mắt rực lửa như đang ngốn ngấu trước con gà mái tuyệt vời, nhưng lại là đối tượng của sự khinh thị của chàng.
- Bà Coquenard kéo đĩa gà lại gần mình, khéo léo gỡ hai chiếc chân đen to đặt vào đĩa chồng, cắt cổ và đầu vào phần mình, nhấc chiếc cánh gà cho Porthos và trao nó lại cho cô hầu gái vừa mới mang nó lên, con vật lúc này trở về hầu như vẫn còn nguyên rồi biến mất trước khi chàng lính ngự lâm kịp quan sát những biến đổi do tuyệt vọng trên các khuôn mặt tùy theo đặc điểm và tính khí của mỗi người.
Thay cho con gà ranh, một đĩa đậu hạt được bưng ra, một đĩa khổng lồ trong đó có lẫn mấy cái xương cừu, lúc đầu tưởng còn dính thịt, nhưng chỉ làm ra như vậy thôi.
Nhưng bọn học nghề ký lục không bị bịp bởi cái trò tráo trở đó, và bộ dạng thảm hại của họ trở thành những bộ mặt cam chịu.
Bà Coquenard phân phát món ăn đó cho các chàng trai trẻ với mức vừa phải của một bà nội trợ đảm đang.
Rồi đến lượt rượu vang. Thầy kiện Coquenard rót từ một chiếc chai sành bé tí một phần ba ly cho mỗi chàng học việc, rót cho bản thân xấp xỉ như thế, rồi cái chai chuyển sang chỗ Porthos và bà Coquenard.
Bọn con trai pha đầy nước vào chỗ một phần ba rượu vang ấy, rồi khi đã uống xong nửa ly họ lại pha tiếp đầy ly và cứ làm mãi như thế cho đến cuối bữa và nuốt một thứ nước uống màu hồng ngọc chuyển thành màu hoàng ngọc cháy.
Porthos ăn rụt rè chiếc cánh gà và rùng mình khi cảm thấy dưới gậm bàn, đầu gối bà biện lý đang tìm kiếm đầu gối mình.
Chàng cũng uống nửa ly của thứ vang quá chặt chẽ ấy, và nhận ra đó là thứ rượu thổ sản vùng Môngtrơi tởm lợm, nỗi kinh hoàng của thói sành rượu.
Thầy kiện Coquenard nhìn chàng nuốt rượu không pha thở dài.
- Anh ăn cái món đậu đi chứ, người anh họ Porthos của em?
Bà Coquenard nói bằng một giọng như muốn bảo: tin em đi, đừng có mà ăn cái món đó.
- Có mà cho quỷ nó nếm! - Porthos lẩm bẩm rất khẽ.
Rồi chàng cao giọng:
- Cám ơn cô em họ của tôi, tôi no mất rồi.
Im lặng mất một lúc. Porthos không biết làm thế nào. Ông biện lý nhắc đi nhắc lại:
- Ôi bà Coquenard! Tôi xin có lời khen ngợi bà, bữa trưa hôm nay đúng là một bữa tiệc. Chúa ơi! Tôi ăn mới khiếp chứ?
Thầy kiện Coquenard đã ăn canh, đôi chân đen của con gà mái, và mỗi một chiếc xương cừu còn dính một tí thịt.
Porthos tin mình bị người ta chơi trò lừa, và bắt đầu vểnh ria lên, cau mày lại, nhưng đầu gối bà Coquenard tìm kiếm khẽ chạm vào chàng khuyên chàng nên kiên nhẫn.
Sự im lặng và việc ngừng phục vụ ấy vẫn còn là khó hiểu đối với Porthos thì ngược lại, lại có một ý nghĩa khủng khiếp đối với bọn học việc. Thấy ông biện lý đưa mắt kèm theo nụ cười của bà Coquenard, họ từ tốn đứng lên khỏi bàn, còn từ tốn gấp lại khăn ăn rồi chào và đi ra.
Ông biện lý nghiêm trang nói:
- Đi đi, các chàng trai trẻ, đi làm việc đi cho nó dễ tiêu.
Bọn học nghề đi rồi, bà Coquenard đứng lên và lấy ở tủ đồ ăn ra một mẩu pho mát, một ít mứt quả mộc qua và một chiếc bánh ngọt bà tự làm bằng hạnh nhân và mật ong.
Thầy kiện Coquenard cau mày vì nhìn thấy quá nhiều món.
Porthos bậm môi bởi chàng không thấy có gì để ăn trưa nữa.
Chàng nhìn xem đĩa hạt đậu có còn đó không nhưng nó cũng đã biến mất.
- Dứt khoát là tiệc rồi - thầy kiện Coquenard vừa kêu lên vừa cựa quậy trên chiếc ghế của mình - yến tiệc thực sự epulae epularum (1), Luculútx ăn ở nhà Luculútx mất rồi(2).
Porthos nhìn cái chai để cạnh mình và chàng hy vọng với rượu vang, với bánh với phó mát, chàng sẽ lại tiếp tục ăn trưa, nhưng rượu đã cạn, chai rỗng không, cả ông bà Coquenard có vẻ như chả hề biết đến chuyện đó.
Porthos tự nhủ: "Tốt lắm, đấy là mình đã được báo trước đấy".
Chàng đưa lưỡi thử nếm một thìa nhỏ mứt và bị dính răng vào thứ bột quánh của bà Coquenard.
"Giờ đây, lễ hiến tế đã xong - chàng tự nhủ. Ôi, giá như ta không có hy vọng được cùng bà Coquenard nhìn vào cái tủ của ông chồng!"
Thầy kiện Coquenard, sau khi được khoái miệng vì bữa ăn như thế mà ông gọi là thái quá, cảm thấy nhu cầu được ngủ trưa.
Porthos hy vọng việc đó có nhẽ được thực hiện tức khắc và tại chỗ, nhưng cái lão biện lý phải gió kia lại không chịu nghe ai nhất định đòi đưa về phòng mình và chừng nào lão chưa ở trước cái tủ của lão, và để cẩn thận hơn, phải ghếch chân lên thành tủ, thì lão còn kêu.
Bà biện lý dẫn Porthos sang phòng bên cạnh và người ta bắt đầu đề ra những điểm cơ bản cho việc hòa giải.
- Ông có thể đến ăn trưa ba lần một tuần - Bà biện lý nói.
- Cám ơn, tôi không thích lợi dụng. Vả lại tôi cần phải nghĩ đến việc trang bị kia.
- Đúng vậy - bà biện lý vừa nói vừa rên rỉ - cái thứ trang bị khốn kiếp đó.
- Than ôi? Vâng - Porthos nói - Chính là nó đấy.
- Nhưng món trang bị ấy bao gồm những thứ gì, ông Porthos?
- Ồ! Nhiều thứ lắm - Porthos nói - Những ngự lâm quân, bà biết đấy, là những quân nhân ưu tú, và họ cần có rất nhiều vật dụng mà đối với quân cận vệ hoặc quân Thụy Sĩ lại là vô tích sự.
- Thì hãy kể từng thứ ra nào.
- Nhưng như thế có thể tới… Porthos thích nói tới tổng số hơn bảng liệt kê từng món.
Bà biện lý run lên chờ đợi và hỏi:
- Tới bao nhiêu? Em hy vọng nó không vượt quá… Bà dừng lại không nói nổi nữa.
- Ồ, không - Porthos nói - không vượt quá hai nghìn năm trăm quan đâu. Tôi tin nếu tiết kiệm, với hai nghìn quan cũng ổn.
- Chúa ơi, hai nghìn quan! - Bà hét lên - nhưng đó là cả một gia sản.
Porthos nhăn mặt đầy ý nghĩa khiến bà Coquenard hiểu ngay:
- Em yêu cầu chi tiết cơ mà - bởi vì em có rất nhiều bà con và những người quen biết trong thương trường, em hầu như tin chắc trăm phần trăm sẽ mua được những thứ ông anh tự mua với giá thấp hơn.
- À, à, - Porthos nói - thì ra cô em muốn nói như vậy.
- Vâng, ông anh Porthos thân yêu! Như thế là trước tiên anh cần một con ngựa.
- Phải rồi, một con ngựa.
- Được thôi! Đúng là em đã nghĩ đến việc ấy rồi.
- A! - Porthos nói, mặt mày rạng rỡ hẳn lên - thế là xong cái khoản ngựa đã. Tiếp đến cần phải có yên cương đầy đủ gồm những thứ mà chỉ lính ngự lâm mới có thể mua, hơn nữa, nó cũng không vượt quá ba trăm đâu.
- Ba trăm quan. Thôi được, cứ cho là ba trăm đi - Bà biện lý vừa nói vừa thở dài.
Porthos mỉm cười, chàng nhớ mình đã có bộ yên từ ông Buckingham đem tới, thế là chàng đã ngấm ngầm đút túi được ba trăm quan.
- Rồi - Chàng tiếp tục - còn phải ngựa cho người hầu của tôi và chiếc vali cho tôi nữa. Còn về vũ khí không cần bà phải lo, tôi đã có rồi.
- Một con ngựa cho người hầu của anh ư? - Bà biện lý ngập ngừng nhắc lại - nhưng như thế là đại lãnh chúa mất rồi, bạn tôi ạ!
- Ề, thưa bà! - Porthos kiêu hãnh nói - Võ tình, tôi thành kẻ lạc loài ư?
- Không, em chỉ định nói với ông anh là một con la con xinh xắn đôi khi trông lại hay hơn một con ngựa thôi mà, và em thấy hình như kiếm một con la xinh xắn cho Mútxtông…
- Cho là con la xinh xắn đi! - Porthos nói - Cô em có lý đấy. Tôi cũng đã thấy những bậc đại lãnh chúa Tây Ban Nha mà cả đoàn tùy tòng đều cưỡi la con cả. Nhưng mà này, bà Coquenard ạ, bà phải hiểu một con la con với đầy đủ trang sức và nhạc cổ đấy nhé.
- Ông yên tâm - Bà biện lý nói.
- Còn chiếc vali - Porthos nhắc lại.
- Ồ, cái đó thì ông anh khỏi phải lo - Bà Coquenard reo lên - chồng em có đến dăm sáu chiếc. Ông cứ việc chọn chiếc nào tốt nhất. Có một chiếc ông ta rất thích mang đi du lịch, rất to, tha hồ chứa.
Porthos thật thà hỏi:
- Nó rỗng à, cái vali ấy?
Bà Coquenard cũng thật thà đáp:
- Chắc chắn là rỗng rồi.
- Ồ, nhưng mà chiếc vali mà tôi cần là chiếc vali đầy ắp cơ, bà em thân yêu ạ.
Bà Coquenard lại thở dài. Môlie còn chưa viết xong vở: "Kẻ keo bẩn" thế mà bà Coquenard đã dẫm lên chân Hácpagông rồi.
Cuối cùng phần còn lại của đồ trang bị đều được kế tiếp nhau bàn cãi theo kiểu đó và kết quả của cuộc hội đàm là bà cho chàng tám trăm quan bằng tiền, và cấp một con ngựa và một chú la non có vinh dự đem lại vinh quang cho Porthos và Mousqueton.
Các điều kiện đã ấn định xong, Porthos cáo biệt bà Coquenard.
- Bà ta muốn giữ chàng lại bằng đôi mắt hiền dịu đưa tình, nhưng Porthos mượn cớ những đòi hỏi của việc quân, bà biện lý nên nhường bước cho nhà vua.
Chàng ngự lâm quân trở về nhà với cái đói phát điên, phát cuồng.
Chú thích:
(1) Tiếng Latinh có nghĩa: "Một bữa tiệc giữa các bữa tiệc "hoặc" một bữa tiệc chấm dứt mọi bữa tiệc, ý nói xa hoa quá.
(2) Tướng La Mã điều khiển cuộc chiến chống Mithiridate ở Pompeé. một hôm ngườì quản lý dọn cho một mình ông ta ăn không được ưng ý. Ông ta kiêu hãnh nói: "Thế người không biết Luculútx tối nay ăn tối ở nhà Luculútx hay sao?"


Nguồn: http://vnthuquan.net/