24/3/13

Cát bụi thời gian (C1-3)

Chương 1

Pamplona, Tây Ban Nha

Nếu kế hoạch không thực hiện được bọn mình sẽ chết hết cả lũ. Anh ôn lại trong óc một lần cuối, thử đi thử lại cố tìm xem còn kẽ hở nào, nhưng không thấy gì. Kế hoạch thật là táo bạo, nó đời hỏi phải tính toán cẩn thận đến từng giây. Nếu trôi chảy, nó sẽ là một chiến công tuyệt vời, có thể sánh với nhân vật Elcid vĩ đại. Còn nếu bị hỏng thì...
Thế là thời gian lo lắng qua rồi, Jaime tự triết lý. Bây giờ đã đến lúc hành động.
Jaime Miro là một huyền thoại, một anh hùng đối với dân vùng Basque, nhưng anh lại là một kẻ đáng nguyền rủa đối với chính phủ Tây Ban Nha. Anh cao đến một mét chín mươi, khuôn mặt rắn rỏi và thông minh, thân hình vạm vỡ, đôi mắt đen thoáng vẻ lo nghĩ. Những người quen biết thường thích mô tả anh to lớn hơn, đen và hung dữ hơn. Anh mang trong người nhiều tính cách, một con người thực tế, biết rất rõ những gì là bất lợi cho bản thân mình, nhưng cũng lại là một con người lãng mạn, sẵn sàng hy sinh cho những gì mình tin tưởng Thị trấn Pamplona như đang lên cơn vậy. Đó là buổi sáng kết thúc đua bò tót, thường thường hàng năm tổ chức từ ngày mồng bẩy tháng Bảy đến ngày mười bốn tháng Bảy. Có đến ba chục ngàn khách thập phương đổ về thị trấn.
Nhiều người đến cốt để xem cảnh bò chen nhau chạy, rất đáng sợ, và nếu muốn tỏ ra can đảm, họ lao vào chạy trước đàn bò. Tứ nhiều hôm trước, họ đã thuê hết các phòng khách sạn. Đám sinh viên từ Navare đến chỉ còn biết nằm vạ vật trước cửa nhà này, hiên nhà khác, hành lang nào đó hoặc trong ô tô, ngoài quảng trường và ngay trên các hè phố của thị trấn.
Khách du lịch chen chúc trong các tiệm cà phê, quán rượu hay trong khách sạn... mải mê ngắm những đoàn diễu hành khổng lồ với những màu sắc sặc sỡ trong tiếng nhạc rộn rã. Phần lớn người diễu hành khoác lên mình những chiếc áo choàng tím với mũ liền màu xanh kim tuyến hoặc đỏ, vàng... Tràn qua các phố, đoàn diễu hành như những dòng sông cầu vồng. Tiếng pháo nổ dọc theo các tuyến xe điện càng làm cho không khí thêm ồn ào, sôi động.
Họ kéo nhau tới đây để xem các trận đấu bò vào buổi tối. Nhưng sự kiện kỳ thú nhất lát nữa mới diễn ra. Đó là Encierro hội bò đuổi.
Từ nửa đêm trước, tại những đường phố cuối thị trấn đã được tắt điện, đàn bò bị lùa khỏi chuồng để vượt sông và tập trung qua đêm tại cuối đường Cake Santo Domingo. Sáng nay, chúng sẽ được chạy dọc theo phố hẹp Cake Santo Domingo đã được che chắn, kỹ bởi các thanh cản bằng gỗ tại các góc phố. Khi chúng chạy hết phố thì sẽ được nhét vào các khu chuồng tại quảng trường Hemingway để chuẩn bị cho những trận đấu buổi chiều.
Suốt từ nửa đêm tới sáu giờ sáng, các vị khách nhậu nhẹt, hát hò, háo hức không tài nào ngủ được. Những người sẽ tham gia chạy trước đàn bò tót khoác nơi cổ những chiếc khăn choàng màu đỏ San Permin truyền thống.
Sáu giờ kém mười lăm, các ban nhạc bắt đầu kéo nhau ra phố và chơi các điệu nhạc sôi động của xứ Navare. Đúng bảy giờ, một pháo hiệu bay vút lên báo hiệu chuồng bò đã mở, đám đông lại càng háo hức. Vài giây sau quả pháo hiệu thứ hai bay lên báo cho toàn thị trấn biết bò đã xuất phát.
Tiếp đó là một cảnh tượng không thể quên được. Bắt đầu, nó rầm rì theo gió từ xa vọng lại, hầu như không nhận thấy được. Tiếng ồn cứ lớn dần, lớn dần cho tới khi biến thành những tiếng nổ phát ra từ những cặp móng vuốt nện xuống mặt đường. Rồi đột nhiên vọt tới hàng chục con bò mộng, con nào con nấy ngót nghét cả tấn, lao sầm sập vào phố Santo Donlgo như đoàn tầu hỏa phóng hết tốc độ. Phía trong những thanh chắn bằng gỗ được đặt tại mỗi góc phố giao nhau là hàng ngàn chàng trai vừa ham muốn lại vừa hoảng sợ, sắp được tỏ rõ lòng quả cảm bằng việc chạy trước mũi những con bò điên.
Đàn bò xuất phát từ cuối đường, qua phố Esthafeta và phố Favier, băng qua những cửa hiệu dược phẩm và trang phục, quầy hoa quả, lao về phía quảng trường Hemingway trong những tiếng hò la “ôlê” từ các đám đông như đã hóa rồ. Khi đàn bò tới gần, người ta giẫm đạp lên nhau để chạy trốn những cặp sừng nhọn hoắt và những chiếc móng giết người. Cái chết kề sát lưng khiến cho một số người tham gia vội vàng tìm đường chạy trốn. Số này bị đám đông hò hét “Cobardon! ”- đồ hèn. Một số người vấp ngã trên đường lập tức được lôi ra ngoài.
Đứng sau những thanh gỗ chắn có một ông già nắm tay một cậu bé, cả hai ông cháu đều nín thở theo dõi quang cảnh kỳ thú diễn ra cách mình có vài bước chân.
– Cháu nhìn các chàng trai kìa! - Ông cụ kêu lên. - Họ thật là cừ!
– Ông ơi, cháu sợ lắm. - Chú bé run rẩy.
– Ông già vòng tay ôm lấy cậu bé.
– Ôi, Manolo, sợ thật.
Nhưng cũng thật tuyệt. Một lần ông cũng chạy trước đàn bò thế này. Không gì có thể ví được với nó. Mình đem mình ra chết thử, và điều đó khiến người ta cảm thấy mình đích thực là đàn ông.
Theo lệ, đàn thú sẽ mất hai phút để chạy hết chín trăm thước chiều dài đường Santo Domingo dẫn tới khu đường đấu và khi đàn bò đã được nhốt an toàn trong chuồng thì phát pháo hiệu thứ ba sẽ được bắn lên. Nhưng hôm ấy, phát đạn thứ ba đã không được bắn bởi một thảm hoạ bắna từng có trong lịch sử bốn trăm năm hội bò tót của Pamplona.
Khi đàn bò tót lao vào đoạn đường hẹp, có sáu bảy người mặc áo choàng sặc sỡ đã tháo bỏ những thanh chắn gỗ, thế là chúng như được thoát ra khỏi sự tù túng, chật chội đổ ào vào trung tâm thành phố. Cái cảnh tượng mà khoảnh khắc trước đó còn là ngày hội hạnh phúc đột nhiên trở thành cơn ác mộng. Bầy thú điên dại lao vào đám người đứng xem còn đang ngơ ngác. Cậu bé và ông cụ nằm trong số người bị nạn đầu tiên. Cả hai bị đàn bò húc ngã rồi bị giẫm bét.
Những cặp sừng hung ác sọc vào chiếc xe nôi giết chết luôn đứa bé và húc ngã bà mẹ rồi giày xéo nát bấy cái thân thể mỏng manh ấy. Khắp nơi tràn ngập không khí chết chóc. Đàn bò xô ngã đám đàn bà trẻ con, chọc những cặp sừng gớm ghiếc vào những người đi đường, vào các giá bày thực phẩm, kể cả các bức tường, hất tung mọi thứ không may xuất hiện trên đường đi của chúng. Người ta gào thét trong nỗi kinh hoàng, xô đẩy nhau trong tuyệt vọng hòng thoát ra khỏi đường chạy của đàn thần chết có sừng ấy.
Một chiếc xe tải màu đỏ bỗng xuất hiện trên đường và lập tức trở thành mục tiêu tấn công của bò. Chúng lao theo chiếc xe đang từ từ chạy xuôi phố Estrella – đường dẫn tới nhà tù Pamplona.
Nhà tù này cao hai tầng, xây bằng đá, cửa sổ có chấn song sắt lớn, trông rất gớm ghiếc. Bốn góc có bốn bót gác, phía trên cổng vào tung bay lá cờ Tây Ban Nha hai màu đỏ - vàng. Chiếc cổng đá dẫn tới một sân nhỏ.
Tầng hai của tòa nhà là dãy xà lim chuyên giam giữ tử tù.
Phía bên trong, một lính gác bận đồ cảnh sát Armanda đang dẫn vị cha cố mặc áo choàng đen đi dọc hành lang tầng hai. Người lính khoác khẩu tiểu liên.
Thấy ánh mắt cha cố nhìn khẩu súng vẻ dò xét, người lính nói:
– Chẳng phải là quá cẩn thận đâu, thưa cha. Tầng này toàn bọn cặn bã xã hội cả.
Vị cha cố được dẫn qua một phòng đặt máy dò kim loại, giống như chiếc máy đặt ở sân bay.
Xin cha thứ lỗi, nguyên tắc ở đây...
– Hẳn rồi, cha biết.
Khi vị cha cố bước qua chiếc máy, một tiếng rít vang lên dọc hành lang.
Người lính gác theo bản năng đặt tay lên cò súng chĩa vào ông. Vị cha cố quay lại cười với người lính gác.
– Ồ, xin lỗi, - vừa nói cha vừa tháo bỏ cây thánh giá kim loại nặng nề đeo trước ngực bằng một sợi dây bạc và trao cho người lính gác.
Lần này khi cha cố bước qua, chiếc máy im lặng.
Người lính gác trả lại cây thánh giá, rồi cả hai đi sâu vào khu tận cùng của nhà tù. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc sộc hành lang. Cha biết đấy, - người lính gác thong thả nói, - cha chỉ phí thời gian vô ích. Đám súc vật này làm gì có linh hồn mà cứu rỗi.
– Biết thế, nhưng phải cố, con ạ.
– Xin thưa với cha, - người lính gác lắc đầu, - cổng địa ngục đang chờ đón cả hai chúng nó.
– Hai? Sao họ bảo cha phải rửa tội cho ba đứa? - Vị cha cố ngạc nhiên.
– Chúng tôi đã tiết kiệm thời gian cho cha. Thằng Zamazo ngoẻo sáng nay trong nhà thương rồi. Bệnh đau tim! - Người lính gác nhún vai.
Hai người bước tới hai gian xà lim trong cùng.
– Đây thưa cha.
Người lính gác mở khóa một gian xà lim, thận trọng lùi lại khi cha cố lách mình vào phía trong, rồi khóa lại như cũ và đứng ngoài hành lang, cảnh giác với bất cứ hiện tượng lạ nào.
Cha cố bước tới chỗ có bóng người nằm trên chiếc giường đơn tanh tưởi.
– Tên con là gì?
– Ricardo Mellado.
Cha cố nhìn hắn chằm chằm. Thật khó nói trông hắn ra sao. Mặt sưng húp bê bết máu. Mắt gần như nhắm tịt lại.
Người tù mấp máy cặp môi dày:
– Kính chào cha. Con rất mừng là cha đã đến.
– Cứu vớt linh hồn con là bổn phận của nhà thờ. - Cha cố đáp lại.
– Họ sẽ treo cổ con sáng nay phải không cha?
Cha cố vỗ nhẹ vào vai người tù:
– Con phải chịu hình phạt thắt cổ.
Ricardo Mellado nhìn xói vào cha cố.
– Không!
– Cha rất tiếc. Nhưng quyết định này là của chính ngài thủ tướng.
Cha cố đặt tay lên đầu người tù và lầm rầm đọc kinh.
– Con đã phạm tội lớn trong suy nghĩ, trong lời nói, và con thành tâm ăn năn xin được tha tội. - Ricardo nói.
Cha cố vẫn tiếp tục đọc kinh. Bên ngoài người lính gác đứng nghe, nghĩ thầm trong bụng. Thật là cái trò tốn thời gian ngu xuẩn. Chúa sẽ phỉ nhổ vào mặt thằng chết tiệt đó.
Cha cố đọc xong bài Kinh rửa tội.
– Con của ta, cầu Chúa nhận linh hồn của con lên Thiên đường.
Vị cha cố bước ra phía cửa xà lim. Người lính gác mở khóa, rồi bước lùi lại, hướng nòng súng nhằm vào người tù. Khóa xong, anh ta bước sang xà lim bên cạnh, mở cửa.
– Thằng này nữa là hết, thưa cha.
– cha cố bước vào xà lim. Người tù bên này cũng bị đánh đến thảm hại. Cha cố lặng lẽ nhìn hắn, rồi hỏi:
Tên con là gì?
– Felix Carpio.
Hắn ta người râu ria, vạm vỡ, nổi lên một bên má là vết sẹo xám ngoét, mà bộ râu rậm không thể che được.
– Tôi không sợ chết, thưa cha.
Thế là tốt, con ạ. Cuối cùng thì chẳng ai trong chúng ta sống mãi được.
Khi cha cố đang nghe Carpio xưng tội thì có tiếng ồn từ xa vọng đến, lúc đầu nghe lao xao, sau lớn dần và bắt đầu dội vào nhà tù. Tiếng chân bầy thú nện rầm rầm như tiếng sấm lẫn tiếng gào thét của đám người hoảng loạn. Viên lính gác giật mình nghe ngóng. Tiếng ồn ào mỗi lúc một gần.
– Thưa cha, phải nhanh lên, ngoài kia hình như đang có chuyện.
– Ta xong rồi đây.
Người lính nhanh chóng mở khóa để cha cố bước ra ngoài hành lang, rồi khóa lại cẩn thận. Chợt có tiếng động lớn ở phía trước nhà tù. Người lính quay ra nhìn qua ô cửa sổ hẹp, có chấn song sắt.
– Cái quỷ gì thế nhỉ?
– Nghe như ai đó muốn gặp chúng ta đấy. Cha mượn cái kia nhé? - Cha cố nói.
– Cha mượn cái gì?
– Vũ khí của con.
Cha cố vừa nói vừa lặng lẽ tháo bỏ phần chóp của cây thánh giá lớn đeo trước ngực, để lộ ra một con dao găm nhọn, dài. Nhanh như chớp, con dao đã thọc vào ngực người lính.
– Thế đấy, con ạ. - Vừa nói ông vừa lôi khẩu tiểu liên khỏi tay anh ta. - Chúa và Cha đã thống nhất là con không cần thứ đồ chơi này nữa. - Jaime Miro vừa nói vừa làm dấu thánh. Người lính đổ xuống sàn xi măng. Jaime Miro lấy chùm chìa khóa trong người hắn rồi nhanh chóng mở khóa hai ô xà lim. Những tiếng ồn ào bên ngoài vọng vào còn dữ dội hơn.
– Đi thôi - Jaime ra hiệu.
Ricardo Mellado nhặt lấy khẩu súng.
Cậu đóng thầy tu giống thật, chút nữa thì cả tớ cũng bị lừa. - Anh ta gượng cười với cái miệng sưng vều.
– Bọn nó quần các cậu quá lắm phải không? Được. Rồi chúng sẽ phải trả giá! - Jaime vòng tay ôm hai người tù, đỡ họ đi xuống hành lang.
– Thế Zamozo làm sao?
– Bị đánh đến chết. Bọn tớ nghe thấy cậu ấy gào thét. Chúng đưa vào bệnh xá, rồi bảo cậu ấy chết vì đau tim.
Phía trước họ là cánh cửa sắt đóng chặt.
– Chờ tớ ở đây. - Jaime nói.
Anh tiến tới phía cánh cửa sắt nói vọng sang với người lính gác bên ngoài:
– Ta xong việc rồi, anh gác.
Anh ta mở cửa, giục.
– cha phải nhanh lên. Bên ngoài đang...
Anh ta không bao giờ nói được hết câu bởi đã bị lưỡi dao của Jaime ngăn lại.
– Đi thôi, Jaime ra hiệu cho hai người.
Felix Carpio nhặt khẩu súng của người lính gác, cả ba đi xuống tầng dưới.
Cảnh tượng bên ngoài hết sức lộn xộn.
Đám cảnh sát chạy lăng xăng cố tìm hiểu điều gì đã xảy ra và đối phó với những người đang gào thét trong buồng giam hòng thoát khỏi những con thú điên.
Một con bò tấn công từ phía cổng trước, xô đổ chiếc cổng đá. Một con khác thì đang vầy vò cái xác lính gác đã nát bấy.
Chiếc xe đỏ đang đậu trong sân, máy vẫn nổ. Trong khung cảnh hỗn độn đó, hầu như chẳng ai chú ý đến ba kẻ đang bỏ trốn, còn những người nhìn thấy thì lại đang lo giữ thân, hỏi làm được gì?
Jaime và những người bạn của anh nhảy lên phía sau chiếc xe tải. Nó lặng lẽ lặng lẽ vượt qua những đám đông đang tán loạn khắp đường phố.
Các lực lượng cảnh sát bán quân sự mặc đồng phục màu xanh mũ dạ đen cố gắng trong tuyệt vọng ngăn cản sự hỗn loạn. Cảnh sát Armanda đóng tại thủ phủ các địa phương cũng đối phó vô vọng trước tai ương bất ngờ này. Người ta giẫm đạp lên nhau hòng thoát khỏi bầy thú đang sôi máu. Sự đe dọạ từ những con bò tót không tai hại bằng hiểm họa do chính họ gây ra trong khi xô đẩy nhau trốn chạy. Tội nhất là các ông già bà lão bị xô ngã rồi bị đám đông giẫm đạp lên.
Jaime đưa mắt nhìn cảnh tượng hãi hùng, vò đầu bứt tai. Điều này không phải là dự tính trong kế hoạch. Anh nhìn cảnh chết chóc đang bao trùm, không biết phải làm gì để có thể ngăn nó lại. Tuyệt vọng, anh nhắm nghiền mắt, cố xua khỏi đầu những hình ảnh khủng khiếp lọt vào mắt.
Chiếc xe chạy tới vùng ngoại ô Pamplona, rồi tiếp tục lao về phía nam, bỏ lại đằng sau đám âm thanh ồn ào, hỗn độn.
– Chúng ta đi đâu thế, Jaime? - Ricardo Mellado hỏi.
– Torne có một chỗ an toàn. Chúng ta sẽ ở đó đến tối rồi đi tiếp.
Fexlix Carpio co rúm người lại vì đau đớn. Jaime Miro, vẻ mặt đầy thương xót, khẽ nói:
– Chúng ta sớm đến đó thôi, bạn của tôi.
Trong đầu Jaime, những cảnh tượng hãi hùng ở Pamplona cứ hiện lên, không thể xua đi được.
Chừng nửa tiếng sau họ đến một cái làng nhỏ thuộc Torne. Chiếc xe chạy vòng theo rìa làng, đến một ngôi nhà đứng đơn lẻ giữa những ngọn núi. Jaime đỡ mấy người bạn ra khỏi thùng xe.
– Nửa đêm sẽ có xe đến đón các bạn, - người lái xe nói. - Bảo họ hãy đưa đến một bác sĩ và nhớ quẳng cái xe đi nhé. - Jaime nhắc.
Ba người bước vào trong. Đó là một ngôi nhà kiểu thôn quê, đơn sơ, ấm cúng, trần nhà có cột đỡ, phòng ở có lò sưởi. Một mảnh giấy nhỏ đặt trên bàn.
Jaime Miro đọc và mỉm cười với dòng chữ, “Nhà của tôi cũng là nhà của các bạn”. Trên giá bày đủ loại rượu, Jaime rót rượu ra cốc.
– Không một lời nào đủ để cảm tạ cậu, bạn thân yêu. Ly này là dành cho cậu.
– Ricardo Mel1ado nói.
Chúc cho sự tự do. - Jaime nâng cốc.
Chợt vang lên tiếng lích rích của con chim bạch yến bị nhốt trong lồng, Jaime bước tới, lặng lẽ nhìn con chim nhỏ vùng vẫy. Anh mở lồng, nhẹ nâng nó ra và mang đến bên cửa sổ.
– Chú chim nhỏ hãy bay đi, - anh thì. thầm. - Mọi loài vật đều phải được tự do.


Chương 2 

Madrid

Thủ tướng Leopoldo Martinez đang trong cơn tức giận. Ông ta nhỏ người, đeo kính, toàn thân rung lên mỗi khi nói.
– Phải chặn thằng Jaime Miro lại. - Ông ta thét, giọng cao và rung lên. - Các ông có hiểu tôi không? - Ông ta quát tháo một nhóm ngót chục người trong phòng. - Chỉ một tên khủng bố thôi mà cả quân đội lẫn cảnh sát đều bất lực.
– Cuộc họp diễn ra tại cung Moncloa, nơi ngài thủ tướng sống và làm việc, cách trung tâm thủ đô Madrid khoảng năm kilômét, nằm trên đại lộ Gallcia. Tòa nhà xây bằng gạch đỏ với những ban công sắt uốn lượn cầu kỳ, những tấm màn cửa sổ xanh dịu và các tháp canh trấn giữ các góc.
– Đó là một ngày nắng, khô. Nhìn qua cửa sổ, hơi nóng từ mặt đất bốc lên lay động như những hồn ma. Hôm qua Miro đã biến Pamplona thành nghĩa địa.
– Martinez dằn mạnh nắm đấm xuống mặt bàn. - Hắn đã sát hại người lính gác và cuỗm mất hai tên khủng bố. Đàn bò chúng thả ra đã làm náo loạn cả thành phố.
Một lúc lâu không ai lên tiếng.
Khi nhậm chức thủ tướng, ông ta lớn tiếng tuyên bố. “Hành động đầu tiên của tôi sẽ là giải tán những nhóm phân liệt. Madrid phải là một mái nhà hòa hợp vĩ đại. Nó sẽ biến những người Andalusia, người Basque, người Catalan, người Gallcy... thành người Tây Ban Nha. ”.
Ông ta quá lạc quan. Những người Basque kiên quyết độc lập lại nghĩ khá, và làn sóng những vụ nổ bom, cướp nhà băng, những cuộc biểu tình do những kẻ khủng bố thuộc ETA tiếp tục nổ ra không thể ngăn chặn được.
Một người ngồi phía bên phải Martinez khẽ nói:
– Tôi sẽ tìm được hắn.
Đó là giọng của đại tá Ramon Acoca, người đứng đầu GOE, nhóm hành động đặc biệt, được thành lập để săn lùng những kẻ khủng bố người Basque.
Acoca ở tuổi lục tuần, vóc dáng khổng lồ, cặp mắt đục lạnh lùng trên khuôn mặt đầy sẹo. Y đã từng là một sĩ quan trẻ dưới quyền Francisco Franco trong thời nội chiến, và giờ đây vẫn cuồng tín theo đuổi triết lý của Franco, “Chúng ta có nghĩa vụ trước Chúa và Lịch sử. ”.
Acoca là một sĩ quan tài ba và đã từng là một trong số những trợ thủ tin cậy nhất của Franco. Viên đại tá này khắc sâu một nguyên tắc cứng rắn:
xử phạt ngay lập tức những kẻ nghi ngờ hoặc những kẻ không tuân thủ luật chơi. Y đã từng trải qua những thời kỳ lộn xộn trong nội chiến, một bên là Liên minh dân tộc của những người theo chủ nghĩa quân chủ, các tướng lĩnh phiến loạn, các chủ đất, nhà thờ, cũng như các tên phát xít phái Falang. Còn bên kia là lực lượng chính phủ cộng hòa bao gồm những người theo chủ nghĩa xã hội, cộng sản, tự do, và những phái phân liệt người Basque và Catalan. Một thời kỳ khủng khiếp đầy chết chóc tàn phá, một sự điên rồ đã lôi cuốn người và phương tiện chiến tranh từ hàng chục vùng đất, gây ra cái chết cho biết bao sinh mạng. Giờ đây người Basque lại tiếp tục chiến đấu và giết chóc.
Đại tá Acoca cầm đầu đám nhân viên chống khủng bố hữu hiệu và tàn bạo.
Những nhân viên này hoạt động bí mật, ăn mặc cải trang và không bao giờ xuất hiện công khai hoặc chụp ảnh, vì sợ bị trả thù.
Nếu kẻ nào đó có thể ngăn chặn được Jaime Miro ắt phải là đại tá Acoca, - thủ tướng nghĩ, - nhưng có một trở ngại:
Ai sẽ là người ngăn chặn đại tá Acoca?
Giao cho viên đại tá phụ trách vụ này không phải là chủ ý của thủ tướng.
Vào lúc nửa đêm, ông ta nhận được một cú điện thoại từ đường dây riêng và nhận ra ngay cái giọng ấy.
– Chúng tôi rất phiền lòng với những hoạt động của Jaime và bọn khủng bố, và thấy ông cần giao nhiệm vụ tiêu diệt chúng cho đại tá Ramon Acoca phụ trách GOE. Như vậy đã rõ chưa?
– Rõ, thưa ngài. Ý của ngài sẽ được quan tâm lập tức.
Rồi đường dây chết lặng.
Giọng nói đó là của thành viên thuộc OPUS MUNDO. Tổ chức này là một hệ thống bí mật bao gồm các chủ nhà băng, luật sư, chủ các công ty có thế lực, và các bộ trưởng chính phủ. Người ta xì xào rằng tổ chức này nắm trong tay những nguồn tài chính khổng lồ, nhưng tiền từ đâu ra, sử dụng và sinh sôi thế nào thì đó là một điều bí ẩn. Tìm hiểu nhiều về nó được coi là không lành mạnh.
Thủ tướng đã giao quyền cho đại tá Acoca như được chỉ thị nhưng tên khổng lồ này đã trở nên cuồng tín đến không thể kiểm soát được. Tổ chức GOE của y đã tạo ra một làn sóng khiếp sợ. Thủ tướng nghĩ đến những người phiến loạn Basque mà Acoca đã tóm được ở gần Pamplona, Những người này đã bị kết tội và đều chịu án treo cổ. Nhưng chính viên đại tá đã đòi phải hành quyết họ bằng hình phạt độc địa hơn:
một sợi thép gai từ từ siết chặt lại, rồi bẻ gãy cổ nạn nhân, trơ cả tủy sống ra.
Jaime Miro trở thành nỗi ám ảnh thường trực của Acoca.
– Tôi muốn lấy cái đầu hắn. - Acoca nói. - Cứ cắt bỏ cái đầu ấy, phong trào người Basque sẽ chết theo.
Không đơn giản thế. Thủ tướng nghĩ, mặc dù cũng phải thừa nhận một phần sự thực trong câu nói của Acoca. Jaime Miro là một thủ lĩnh đầy uy lực, lại cuồng, tín theo đuổi sự nghiệp, vì thế mà đầy nguy hiểm.
Song Acoca cũng nguy hiểm không kém. Thủ tướng nghĩ tiếp. Giám đốc an ninh Primo Casado nói:
– Thưa ngài, không ai có thể lường trước những điều xảy ra ở Pamplona.
Jaime Miro là một kẻ...
– Tôi bíết hắn là gì. - Thủ tướng dằn giọng. - Điều tôi muốn biết là bây giờ hắn ở đâu? - Ông ta quay sang viên đại tá.
– Tôi đang theo dõi hắn. - Acoca đáp, giọng nói làm cả căn phòng rung lên. - Xin được phép lưu ý ngài thủ tướng rằng chúng ta không chỉ chống lại một kẻ duy nhất mà là đang đối phó với tất cả lũ người Basque. Chúng che giấu, nuôi dưỡng, cung cấp vũ khí cho Jaime và bọn khủng bố. Hắn là người hùng đối với chúng. Nhưng đừng lo, hắn sẽ chẳng mấy mà thành người anh hùng trên giá treo cổ. Tất nhiên là sau khi tôi tóm được hắn.
Không phải Chúng Ta mà là Tôi. Thủ tướng để ý xem có ai chú ý đến điều đó không. Phải, ông lo lắng nghĩ, sẽ phải làm một cái gì đó với thằng cha này.
– Thưa các vị, tất cả chỉ có vậy. - Ông ta đứng dậy.
Mọi người lục tục đứng lên theo, trừ Acoca.
Leopoldo Martinez đi đi lại lại trong phòng:
Mả mẹ cái dân Basque. Tại sao chúng lại không muốn làm người Tây Ban Nha? Chúng còn muốn gì nữa?
Chúng thèm khát quyền lực. - Acoca nói. - Chúng muốn tự chủ, muốn có tiếng nói riêng, cờ quạt riêng.
– Không được, chừng nào tôi còn giữ chiếc ghế này. Tôi nhất quyết không cho ai xé nhỏ Tây Ban Nha. Chính phủ sẽ bảo cho biết chúng nó được phép làm cái gì và không được phép làm cái gì. Chúng nó chẳng là gì, cái đám tiện dân ấy...
– Thưa ngài, - một trợ lý bước vào, vẻ như muốn xin lỗi, giám mục Ibanez đã đến.
– Đưa lão ta vào.
Ngài có thể tin rằng giáo hội đứng đằng sau chuyện này. Đã đến lúc ta phải dạy cho chúng nó một bài học. - Viên đại tá nheo nheo mắt.
Giáo hội luôn là sự mỉa mai lớn nhất của lịch sử. Acoca cay đắng nhủ thầm.
Khi nội chiến bắt đầu nổ ra, nhà thờ Thiên Chúa giáo đứng về phía các lực lượng dân tộc. Giáo trưởng đứng đằng sau tổng tư lệnh Franco và như thế, cho phép ông ta lớn tiếng nói rằng mình đang chiến đấu vì Đức Chúa trời. Cho tới khi nhà thờ của dân Basque, các tu viện và tu sĩ bị tấn công, thì giáo hội mới chấm dứt sự ủng hộ này.
– Các ngài phải cho người Basque và người Catalan được tự do hơn. - Giáo hội đòi hỏi. - Và các ngài không được sát hại các vị tu sĩ người Basque nữa.
– Tổng tư lệnh Franco bực tức điên cuồng. Giáo hội dám láo xược ra lệnh cho Chính phủ?
Bắt đầu một cuộc chiến tranh tiêu hao. Lại thêm nhà thờ và tu viện bị các lực lượng Franco hủy hoại. Các nữ tu và tu sĩ bị sát hại. Các giám mục bị giam lỏng. Cha cố khắp cả nước bị trừng phạt vì đã truyền bá, rao giảng những điều mà chính phủ cho là kích động nổi loạn. Tới khi giáo hội dọa rút phép thông công thì Franco mới chấm dứt những cuộc tấn công của mình.
Giáo hội chết tiệt! Acoca nghĩ.
Sau khi Franco chết, giáo hội lại ngóc dậy. Y quay lại phía thủ tướng:
– Đã đến lúc lão giám mục này phải biết ai đang nắm Tây Ban Nha.
Giám mục Calvo Ibanez nhỏ nhắn, mảnh khảnh, đám tóc bạc trắng chạy quanh đầu, nhướng mắt nhìn hai người qua cặp kính không gọng.
– Một buổi chiều tốt lành!
Acoca cảm thấy nghèn nghẹn ở cổ. Chính sự xuất hiện của vị giáo sĩ này làm cho y phát ốm. Họ là bầy dê của Juda dẫn những con cừu non ngốc nghếch tới lò sát sinh.
Vị giám mục đứng đó đợi một lời mời ngồi. Nhưng điều đó không xảy ra.
Ông cũng chẳng được giới thiệu với tên đại tá. Đó là một sự khinh miệt có tính toán.
Thủ tướng đưa mắt thăm dò ý tứ viên đại tá.
Acoca nói nhát gừng:
– Một số tin tức đáng lo ngại đã làm chúng tôi chú ý, rằng quân phiến loạn Basque đang tổ chức các cuộc họp tại các tu viện Thiên Chúa giáo. Chúng tôi cũng biết rằng giáo hội dung túng cho các tu viện và nhà dòng cất giấu các vũ khí của bọn phiến loạn. - Giọng y lanh lảnh như có thép. - Khi các vị giúp đỡ kẻ thù Tây Ban Nha thì chính các vị đã trở thành kẻ thù của Tây Ban Nha.
Giám mục Ibanez quắc mắt nhìn y, rồi quay sang ông thủ tướng:
– Thưa ngài, với lòng kính trọng sâu sắc, tất cả chúng ta đều là những con người của đất nước Tây Ban Nha. Người Basque không phải là kẻ thù của các ngài. Tất cả những gì họ đòi hỏi là tự do để...
– Chúng không đòi hỏi mà là yêu sách. - Acoca gầm lên. - Ở đâu bọn chúng cũng cướp nhà băng, giết hại cảnh sát, vậy mà ông dám nói rằng họ không phải là kẻ thù của chúng ta?
Tôi thừa nhận là đã có những sự thái quá không thể bào chữa được. Song, đôi khi tranh đấu cho những gì mình tin...
Chúng không tin vào bất cứ cái gì ngoài bản thân. Chúng không hề quan tâm đến Tây Ban Nha, như một nhà văn lớn của ta đã nói:
ở đất nước Tây Ban Nha này không có bất cứ ai quan tâm đến lợi ích chung. Nhóm nào cũng chỉ quan tâm đến lợi ích của nhóm ấy. Giáo hội, dân Basque, dân Catalan. Nhóm nọ chửi mẹ nhóm kia...
Ông giám mục biết tên đại tá trích lời Ortega y Gasset. Nguyên văn câu này còn gồm cả quân đội và chính phủ, nhưng ông ta khôn khéo im lặng, quay sang phía thủ tướng, hy vọng có một cuộc đối thoại mềm mỏng hơn.
Thưa ngài, giáo hội Thiên Chúa...
Thủ tướng thấy Acoca đưa đẩy vấn đề như thế là đủ.
– Xin Đức giám mục đừng hiểu sai chúng tôi. Về nguyên tắc, tất nhiên, chính phủ này đứng sau giáo hội một trăm phần trăm.
– Nhưng chúng tôi cũng không thể cho phép nhà thờ, nhà dòng và các tu viện chống lại mình mãi được. Nếu các ông tiếp tục dung túng cho bọn người Basque cất giấu vũ khí và tụ họp ở đó, các ông sẽ phải gánh chịu hậu quả. - Acoca lại lên tiếng.
– Tôi khẳng định rằng báo cáo mà các vị nhận được là sai lệch. - Đức giám mục nhỏ nhẹ. - Dẫu sao tôi cũng sẽ điều tra ngay.
Cám ơn Đức giám mục, tất cả chỉ có thế thôi. Thủ tướng Martinez và đại tá Acoca cùng nhìn theo Đức giám mục bước ra.
– Anh nghĩ sao? - Martinez hỏi. - Lão ta biết chuyện gì sẽ xảy ra. Vị thủ tướng thở dài. Không cần phải bới thêm chuyện với giáo hội thì mình cũng đã đủ chuyện rồi.
– Nếu giáo hội ủng hộ bọn Basque, thì tức là họ chống lại chúng ta. - Giọng Acaco vang lên hằn học. - Tôi muốn ngài thủ tướng cho phép dạy bọn này một bài học.
Martinez rùng mình khi bắt gặp ánh mắt cuồng tín của Acaco, trở nên thận trọng.
– Đúng là anh có báo cáo rằng nhà thờ đang giúp đỡ quân phiến loạn?
– Tất nhiên, thưa ngài.
Không thể có quyết định khác nếu như người này nói đúng sự thật. Thủ tướng biết Acoca căm thù giáo hội đến thế nào. Nhưng để giáo hội nếm chút mùi trừng phạt có khi cũng hay, miễn là Acoca đừng đi quá đà Thủ tướng Martinez suy nghĩ lung tung. Chính Acoca phá vỡ sự im lặng.
– Nếu nhà thờ che giấu bọn khủng bố thì họ phải bị trừng phạt.
– Anh sẽ bắt đầu từ đâu? - Thủ tướng gật đầu miễn cưỡng.
– Jaime Miro và đồng bọn của hắn hôm qua xuất hiện ở Avila. Chắc chắn chúng đang lẩn trốn trong tu viện đó.
– Khám xét tu viện. - Thủ tướng đi tới một quyết định.
Quyết định đó là khởi đầu của một chuỗi sự kiện làm lung lay đất nước Tây Ban Nha và chấn động thế giới.

Chương 3

Avila êm ả nhẹ nhàng tựa tuyết rơi; mềm mại, dịu dàng như làn gió hạ thì thầm; lặng lẽ như sao sa.
Tu viện dòng Cistercian nằm bên ngoài thị trấn Avila có thành lũy bao quanh.
Thị trấn nằm ở vị trí cao nhất của Tây Ban Nha, cách Madrid về phía Tây Bắc một trăm mười hai cây số. Tu viện được xây dựng dành cho sự tĩnh lặng.
Luật lệ ở đây được áp đặt từ năm 1601 và không hề thay đổi qua hàng thế kỷ:
nghi thức tế lễ, sự khắc khổ về tinh thần, sự kín đáo khắc nghiệt, sự tự hành tội và sự im lặng. Luôn luôn là im lặng.
Tu viện gồm một khu nhà đá sù sì bốn bề khép kín. Nhà thờ là khu kín nhất nằm ở giữa, xung quanh tòa trung tâm này, qua các ô lỗ cửa sổ, ánh sáng đổ lên những phiến đá lớn lát sàn. Tu viện có bốn chục nữ tu sĩ cầu nguyện trong nhà thờ và sống luôn ở nhà tu.
Tu viện tại Avlia là một trong số bảy tu viện còn sót lại ở Tây Ban Nha trong khi hàng trăm tu viện khác đã bị hủy hoại trong phong trào chống giáo hội xảy ra theo chu kỳ trên đất nước Tây Ban Nha kéo dài hàng thế kỷ.
Tu viện dòng Cistercian dành cho những người trọn đời vào đây cầu nguyện.
Nơi đây không có khái niệm mùa và thời gian. Những người đã bước chân vào đây thì mãi mãi tách biệt với thế giới bên ngoài. Cuộc sống ở Cistercian là tu hành và sám hối. Kinh Thánh được đọc thuộc lòng hàng ngày, sự giam mình là tuyệt đối và vĩnh hằng.
Tất cả các sơ đều ăn mặc giống nhau. Quần áo của họ cũng như mọi thứ khác tròng tu viện đều mang dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng qua nhiều thế kỷ.
Chiếc áo choàng ngoài không tay có mũ liền - tượng trưng cho sự ngây thơ và trong trắng. Chiếc áo thêu bằng lanh biểu trưng cho sự từ bỏ mọi hấp dẫn của thế gian và sự hành xác. Cái áo khoác vai được ghép bằng những mảnh vải len rộng xõa xuống người nói lên sự tự nguyện lao động. Chiếc khăn choàng bằng lanh trùm đầu vòng qua cằm che kín hai bên má và cổ là sự hoàn thiện của bộ đồng phục.
Bên trong những bức tường của tu viện là hệ thống đường đi lại và cầu thang nối liền phòng ăn với phòng chung, các phòng nhỏ và phòng làm lễ, và chỗ nào cũng bao trùm một cảm giác rộng rãi, sạch sẽ mà lạnh lẽo. Những cửa sổ mắt cáo hướng ra một khu vườn có tường cao bao quanh. Các cửa sổ đều có chấn song sắt và đều vượt quá tầm nhìn để tránh những sự hấp dẫn từ bên ngoài.
Phòng ăn dài và sơ sài, màn che ô các cửa sổ đều rủ và cửa chớp đóng lại.
Những giàn nến đặt trên các chân nến cổ in bóng trên trần nhà và các bức tường. Suốt bốn trăm năm không một thứ gì bên trong những bức tường thay đổi, trừ những khuôn mặt. Các sơ đều không có tài sản riêng, vì họ khao khát được nghèo thi thố với sự nghèo khổ của Đấng cứu thế. Ngay trong nhà thờ cũng trống trơn, trừ một cây thánh giá bằng vàng là món quà của một người giàu có vào giáo hội tặng từ xa xưa. Bởi nó quá xa lạ với trật tự khắc khổ ở đây, nên nó được giấu kín trong một chiếc hộp để ở nhà ăn. Một cây thánh giá bằng gỗ mộc mạc thay cho nó được treo ở bệ thờ.
Đám đàn bà chia sẻ cuộc đời với Chúa này sống chung, làm chung, ăn chung và cầu nguyện chung, mặc dù họ không bao giờ tiếp xúc, trò chuyện với nhau.
Ngoại lệ duy nhất được phép là khi họ cùng nghe, hoặc khi bà Nhất Bentina giáo huấn họ tại phòng của bà. Thậm chí ngay cả khi đó, một loại ngôn ngữ cổ bằng dấu hiệu cũng được sử dụng đến triệt để.
Bà Nhất Bentina là một phụ nữ sùng đạo ở tuổi bảy mươi với khuôn mặt rạng rỡ, luôn vui vẻ song đẩy nghị lực, một con người luôn tự hào về sự bình an cùng niềm vui của cuộc sống trong tu viện, và kiêu hãnh với cuộc đời hiến dâng cho Chúa. Hết mực thương yêu những nữ tu của mình, bà cảm thấy còn đau đớn hơn bản thân người bị trừng phạt mỗi khi phải thực hiện một hình phạt nào đó theo nguyên tắc.
Các nữ tu đi lại trong tu viện, mắt nhìn xuống đất, hai tay vòng lại sau lần áo trước ngực. Họ lướt qua nhau, không một lời hay một cử chỉ nhận biết. Tiếng nói duy nhất ở đây là tiếng chuông mà văn hào Pháp Victor Hugo gọi là “nghệ thuật opera của những tháp chuông”.
Các bà sơ tới đây do nhiều nguyên cớ và từ nhiều miền đất khác nhau. Họ xuất thân từ những gia đình quý tộc, nông dân, binh lính... khi họ về đây là những người giàu, kẻ nghèo, có giáo dục hay dốt nát, tứ cố vô thân hay đầy tôi tớ, kẻ bần hàn hay được coi là quyền cao chức trọng, nhưng giờ đây tất cả đều là một trong con mắt của Chúa, cùng có chung một khát vọng được thành thân vĩnh viễn với Chúa Giêsu.
Điều kiện sống trong tu viện cực kỳ kham khổ. Mùa đông, cái lạnh như dao cắt và ánh sáng mờ ảo, lạnh lẽo thấm qua những khung cửa sổ xám xịt. Các nữ tu mặc nguyên quần áo ngủ trên nệm rơm, đắp tấm len thô ráp.
Mỗi tu sĩ ở riêng một phòng nhỏ, mà đồ đạc gồm chiếc nệm rơm, chiếc ghế lưng thẳng, cái hũ đất nhỏ và cái chậu lăn lóc ở một góc dưới đất. Không một tu sĩ nào được phép đặt chân vào phòng của người khác, trừ bà Nhất Bentina.
Không có bất cứ một hình thức giải trí nào. Chỉ làm việc và các lễ cầu nguyện, Có những phòng dành cho việc đan lát, đóng sách, dệt vải và làm bánh mì. Mỗi ngày có tám giờ cầu kinh:
Mantins, Lauds, Prime, Terce, Sext, None, Vespers, và Campline.
Ngoài những lễ này, còn các lễ cầu nguyện khác:
Kinh đọc trước bữa ăn, các bài Thánh ca và những bài Kinh khác.
Lễ Mantins được đọc vào lúc nửa thế giới còn ngủ say còn nửa kia chìm trong tội lỗi.
Lễ Lauds tiếp theo lễ Matins vào lúc mặt trời mọc, được coi là nghiệm diệu của thắng lợi vinh quang của Chúa.
Lễ Prime là lễ buổi sáng của nhà thờ, xin Chúa chúc phước cho mọi công việc trong ngày.
Lễ Terce được tiến hành vào chín giờ ba mươi, đọc lên để nén dục vọng của con người.
Lễ None được cầu nguyện hồi ba giờ chiều, vào lúc chúa Giêsu bị hành hình.
Lễ Vespers tiến hành vào buổi chiều của Hội thánh như lễ Lauds.
Lễ Compline là sự hoàn chỉnh những thời gian ngắn ngủi trong ngày, cũng có những hình thức của lễ cầu nguyện ban đêm. Một sự sửa soạn cho sự chết cũng như sự ngủ vào lúc tận cùng của ngày.
Ở một số dòng tu khác, hình phạt bằng roi đã được bãi bỏ, nhưng nó vẫn còn tồn tại ở các tu viện dòng Cistercian. Ít nhất mỗi tuần một lần, có khi hàng ngày, các nữ tu tự hành hạ thể xác mình bằng cái roi có sáu sợi dây xích điểm gai nhọn. Mỗi khi quất vào lưng, chân hay mông, nó gây ra những đau đớn đến tột độ. “Thân thể của Chúa bị hành hạ, nên thân thể của chúng ta phải được làm cho giống với thân thể bị tổn thương của Người. ”.
Cuộc sống ở đây còn hà khắc hơn bất cứ nhà tù nào, ấy thế mà “tù nhân” lại cảm thấy hạnh phúc như họ chưa từng biết đến thế giới bên ngoài. Họ từ bỏ tình yêu xác thịt, của cải và sự tự do lựa chọn. Nhưng khi đoạn tuyệt với những cái đó, họ cũng đoạn tuyệt luôn cả những tham vọng và ganh đua, hằn thù và ghen ty, và tất cả những ham muốn, sự cám dỗ đầy rẫy ở thế giới bên ngoài. Bên trong tu viện luôn ngự trị một không khí bình yên và niềm vui khôn tả được hầu hạ bên Chúa. Sự bằng an mơ hồ ngự trị trong bốn bức tường của tu viện và trong trái tim của những người ở đây.
Nếu tu viện này là nhà. tù thì đó phải là nhà tù trên thiên đường của Chúa, với sự nhận biết về cõi vĩnh hằng, một hạnh phúc dành cho những người đã tự nguyện tới đó và ở lại đó.
Sơ Lucia thức giấc khi hồi chuông vang lên trong thư viện. Cô giật mình mở mắt, có cảm giác mất phương hướng trong giây lát. Gian phòng nhỏ của cô chìm trong bóng tối ảm đạm, tiếng chuông báo hiệu cho cô biết lúc đó là ba giờ sáng, là giờ lễ cầu Kinh đêm trong lúc thế giới bên ngoài còn chìm trong bóng tối.
“Khỉ gió! Cái trò nhàm chán này sẽ giết mình mất”. Sơ Lucia nghĩ.
Lucia nằm co ro trong chiếc giường nhỏ, thêm đến tuyệt vọng một điếu thuốc lá. Cô uể oải lết khỏi giường. Bộ đồ nặng nề phải mặc vào người cả lúc đi ngủ như tấm giấy ráp cọ sát vào làn da nhạy cảm của cô. Lucia nhớ đến những bộ cánh kiểu cách treo trong phòng của mình ở Roma hay trong biệt thự ở Gstaad.
Sơ Lucia có thể nghe thấy những tiếng loạt xoạt bên ngoài phòng, khi các nữ tu tập trung lại. Cô uể oải dọn giường rồi bước ra hành lang, nơi các tu đã sắp xếp thành hàng, im lặng, mắt cắm xuống, bắt đầu chầm chậm đi về phía nhà thờ.
Trông cứ như một bầy chim cánh cụt ngốc nghếch. Sơ Lucla nghĩ. Vì sao những người đàn bà này dám từ bỏ cuộc sống của mình, từ bỏ tình ái, từ bỏ ăn ngon mặc đẹp? Thiếu những thử đó, còn có lý do gì để mà sống? Những luật lệ chết tiệt!
Khi sơ Lucia nhập tu viện, bà Nhất Bentina nói với cô:
– Con nhớ khi đi phải cúi đầu xuống. Tay phải gấp lại dưới áo. Bước ngắn, đi chậm. Con không bao giờ được nhìn bất cứ sơ nào, thậm chí cả liếc nữa. Con không được nói. Tai con chỉ được phép nghe những lời của Chúa.
– Vâng, thưa Mẹ.
Tháng ấy, Lucia làm đúng như vậy.
– Mọi người tới đây không phải để cùng sống với những người khác, mà chỉ để chung sống với Đức Chúa. Sự cô đơn tinh thần là điều quan trọng nhất cho sự hòa nhập với Chúa. Nó được các quy tắc giữ im lặng bảo vệ.
– Vâng, thưa Mẹ.
– Con phải luôn giữ cho mắt im lặng. Nhìn vào mắt người khác sẽ làm con phân tán bởi những sự tưởng tượng vô ích.
– Vâng, thưa Mẹ.
Bài học đầu tiên của con là tẩy trừ những thói quen cũ và những sở thích trần tục, xóa bỏ mọi hình ảnh của quá khứ. Con sẽ phải làm lễ tẩy uế và hành xác để gột bỏ tính ích kỷ và sự bướng bỉnh. Như thế vẫn chưa đủ cho chúng ta ăn năn về những tội lỗi của mình trong quá khứ. Một khi thấy được cái đẹp và lòng thánh thiện vô bờ bến của Chúa, chúng ta sẽ không chỉ muốn ăn năn cho những tội lỗi của mình, mà còn cho bất cứ tội lỗi nào của người khác. " – Vâng, thưa Mẹ, cơn xin hứa.
– Con phải đấu tranh với lòng tà dâm, điều mà John of the Cross gọi là đêm đen của những cảm giác.
– Vâng, thưa Mẹ khả kính.
Mỗi tu sĩ phải sống trong sự im lặng và cô đơn như mình đã ở trên Thiên đường. Trong sự im lặng của thiêng liêng, thanh khiết mà mình hằng khao khát, người tu sĩ có thể đến được với sự yên tĩnh vĩnh hằng, và đến được với Chúa.
Đến cuối tháng thứ nhất Lucia có cơ hội thực hiện lời hứa ban đầu của mình.
Tròn một tháng bước chân vào tu viện, mái tóc cơ bị xén như lông cừu. Bà nhất trưởng tu viện đích thân hành sự. Bà gọi Lucia lên phòng của mình và ra hiệu cô ngồi xuống ghế. Bà bước ra phía sau và trước khi Lucia kịp nhận biết chuyện gì xảy ra thì cô đã thấy những lọn tóc óng ả của mình rơi lả tả. Cô định phản kháng, nhưng bỗng cảm nhận được rằng sự việc đang diễn ra chỉ hoàn thiện thêm cái vỏ bọc của mình. Tốt thôi! Sau này mình muốn để nó mọc lại lúc nào chả được. Lucia nghĩ. Còn bây giờ mình sắp như con gà bị vặt trụi lông đây.
Trở về với gian phòng chật chội được phân, cô nghĩ:
chỗ này là cái hang rắn chứ phòng gì. Sàn gồm những tấm gỗ trống trơn. Cái nệm rơm và chiếc ghế dựa khô cứng chiếm hầu hết diện tích. Cô thèm khát được có một tờ báo. Ở đây họ chẳng bao giờ được biết đến báo chí, họ quên đi cả rađio lẫn tivi. Không có bất cứ một mối liên hệ nào với thế giới bên ngoài. Cô nghĩ.
Nhưng cái làm cho Lucia khó chịu nhất là cái yên lặng không bình thường.
Sự giao tiếp duy nhất là bằng dấu hiệu của bàn tay. Riêng học thuộc những ký hiệu này đã suýt làm Lucia phát điên. Khi cần cái chổi, cô được dạy là bàn tay phải xòe ra, và đưa từ phải sang trái như đang quét.
Khi không hài lòng về việc gì, bà Nhất thường làm động tác chụm đầu hai ngón tay lại với nhau ba lần ở phía trước ngực, còn các ngón kia gập lại. Lúc nào Lucia tỏ ra làm việc lề mề, bà đặt lòng tay phải lên tay trái của mình. Còn để quở mắng Lucia, bà dùng cả năm ngón tay vuốt từ trên xuống dưới má mình, ở chỗ gần tai phải.
Ôi, lạy Chúa, trông cứ như bà ấy gãi nốt bọ chét đốt.
Họ đã đi tới nhà thờ. Các tu sĩ cầu kinh trong im lặng, nhưng sơ Lucia thì đang nghĩ về những điều còn quan trọng hơn cả Chúa.
Một hai tháng sau bọn cảnh sát chán không lùng sục nữa, ta sẽ biến khỏi cái nhà thương điên này.
Sau những bài Kinh buổi sáng, sơ Lucia cùng những bà sơ khác vào phòng ăn. Cô lén lút phá bỏ luật lệ hàng ngày bằng việc nhìn trộm các khuôn mặt xung quanh. Đó là trò tiêu khiển duy nhất. Cô không thể hình dung làm sao sống cùng nhau mà lại có thể không biết được mặt nhau.
Cô ngắm nhìn các khuôn mặt một cách hết sức thích thú.
Một số nom có tuổi, một vài người còn trẻ, một số đẹp, lại có một số xấu tệ.
Có ba khuôn mặt đặc biệt gây cho Lucia thích thú. Thứ nhất là Theresa, người đàn bà tuổi trạc sáu mươi, không thể gọi là đẹp được nhưng lại toát lên sức mạnh tinh thần, tạo cho bà một sự hấp dẫn tự nhiên. Lúc nào trông cũng như người đang cười thầm, tưởng chừng bà cất giấu trong mình những bí mật tuyệt vời.
Một nữ tu khác Lucia cảm thấy hấp dẫn là sơ Graciela. Cô ta có khuôn mặt đẹp đến choáng ngợp ở độ tuổi ba mươi. Nước da màu ô liu, những đường nét thiên thần và cặp mắt thì như hai biển nước màu tro long lanh.
Cô này nhẽ ra phải là một minh tinh màn bạc mới đúng Lucia nghĩ. Cô ta gặp chuyện gì nhỉ Sao cô ta lại chôn vùi cuộc đời mình ở nơi lạnh lẽo này?
Nữ tu sĩ thứ ba khiến Lucia quan tâm là sơ Megan. Cặp mắt xanh, lông mi lông mày hoe vàng. Cô này ở cuối độ tuổi hai mươi, có dáng vẻ tươi tắn chân thật.
Cô ta làm gì ở đây nhỉ? Mà tất cả những người này có việc gì ở đây? Họ giam mình trong bốn bức tường, được thí cho một gian phòng chật hẹp để ở, một ít thức ăn đã lên mùi với tám giờ cầu kinh, và lao động thì nặng nhọc. Còn giấc ngủ lại quá ngắn. Chắc họ mất trí, cả lũ điên mất rồi.
Cô may mắn hơn họ nhiều, bởi họ sẽ bị kẹt ở đây cho đến hết đời, trong khi cô thì biến khỏi đây chỉ trong một hay hai tháng nữa. Ba tháng cũng nên, Lucia nghĩ, đây là chỗ ẩn nấp tuyệt vời. Có họa là rồ thì mới đi tìm chỗ khác. Vài tháng sau, khi cảnh sát chán không lùng nữa, lúc đó mình sẽ rời khỏi nơi này và sẽ lấy được tiền ở Thụy Sĩ có khi mình sẽ viết một cuốn sách về cái nơi điên rồ này.
Vài hôm trước, sơ Lucia được bà Nhất sai vào văn phòng để tìm một thứ.
Và cô đã lợi dụng cơ hội để xem trộm mấy tập hồ sơ. Thật vô phúc, cô bị bắt quả tang.
Cô phải chịu hình phạt hành tội. Mẹ trưởng tu viện Bentina ra hiệu cho cô.
Sơ Lucia cúi đầu ngoan ngoãn làm hiệu. “Con xin vâng thưa Mẹ khả kính”.
Lucia quay về phòng mình và vài phút sau các nữ tu đi lại ngoài hành lang đều nghe thấy những tiếng động rợn người của chiếc roi vun vút liên hồi trong không khí. Họ không thể biết được sơ Lucia đang quất roi xuống giường.
Họ ngồi trong phòng ăn. Bốn mươi bà sơ ngồi bên hai dãy bàn dài. Các tu sĩ dòng Cistercian ăn chay hoàn toàn. Có thể có bữa thêm chút thịt cùng chất tươi lót dạ, một chén trà hoặc cà phê và vài lát bánh mì khô. Bữa chính là vào lúc mười một giờ, gồm một ít súp loãng, một ít rau, và thỉnh thoảng có một lát hoa quả.
Bà Nhất đã dạy Lucia. “Chúng ta đến đây không phải để sướng thân ta, mà để hài lòng Chúa”.
Đồ ăn thế này không đáng cho con mèo của ta ăn. Lucia nghĩ bụng. Mình ở đây đến hai tháng rồi và đám chắc mình đã sụt mất dăm ký là ít.
Dùng xong bữa sáng, hai nữ tu đem hai chiếc chậu rửa tớ hai đầu bàn và đặt ở đó. Các tù sĩ ngồi quanh bàn lần lượt chuyển những chiếc đã ăn của mình tới chỗ người tu sĩ có chiếc chậu rửa. Nữ tu sĩ này rửa từng chiếc, rồi lau khô, rồi trả nó về chủ. Nước trong chậu có vẻ sẫm màu hơn và nhờn hơn.
Thế mà họ sẽ sống thế này cả đời, sơ Lucia thấy gai cả người. Nhưng mình thắc mắc làm gì? Chui vào đây chẳng khác đi tù chung thân.
Và cô hướng tâm hồn bất tận của mình về một điếu thuốc lá. Cách đó năm trăm mét theo một con đường nhỏ, đại tá Ramon Acoca và hai chục người được chọn lựa kỹ càng của GOE - nhóm hành động đặc biệt - đang chuẩn bị tấn công tu viện.
o O o
Đại tá Roman Acoca có những thiên bẩm của người đi săn. Y say mê săn bắn, nhưng cái gây cho y cảm giác thỏa mãn tột độ là sự giết chóc.
Một lần y thổ lộ với người bạn. “Khi giết, tôi cảm thấy sung sướng đến cực điểm. Không cần biết đó là con hươu con thỏ hay con người. Cái cảm giác lấy đi cuộc sống của kẻ khác làm cho tôi cảm thấy mình có quyền lực vô hình như Đấng Chúa Trời”.
Acoca đã từng ở ngành tình báo quân sự và y nhanh chóng nổi tiếng là tài giỏi. Y can dảm, tàn nhẫn, thông minh và sự hòa trộn những đặc tính đó làm cho một trong số trợ lý của đại tướng Franco chú ý đến.
Lúc đầu, khi tham gia đội quân của Franco, Acoca chỉ giữ chức trung úy, thế mà chưa đầy ba năm y đã leo lên tới chức đại tá, một kỳ tích chưa từng thấy. Y được tin cẩn giao cho phụ trách những người thuộc phái Falang và nhóm đặc biệt của y được sử dụng để khủng bố những người chống lại Franco.
Trong thời nội chiến một người thuộc tổ chức OPUS MUNDO đã được giao nhiệm vụ tìm gặp Acoca – Tôi muốn ông hiểu rằng, được phép của đại tướng Franco, chúng tôi tiếp xúc với ông.
– Rõ, thưa ngài Chúng tôi thường xuyên để mắt tới ông, thưa ông đại tá Chúng tôi hài lòng với những gì chúng tôi thấy.
– Cảm ơn ngài.
Đôi khi chúng ta có những việc, nói sao nhỉ, rất nguy hiểm, nên cần hết sức kín đáo.
– Tôi hiểu, thưa ngài.
– Chúng ta nhiều kẻ thù, những người không hiểu được tầm quan trọng của công việc chúng ta đang làm.
– Rõ, thưa ngài.
– Đôi khi họ gây trở ngại cho chúng ta. Nhưng chúng ta không cho phép điều đó xảy ra.
– Không đời nào, thưa ngài.
– Tôi tin rằng chúng tôi có thể dùng một người như ông, thưa đại tá. Tôi nghĩ chúng ta hiểu nhau.
– Vâng, thưa ngài. Tôi lấy làm hân hạnh được phục vụ.
– Chúng tôi muốn ông cứ tiếp tục ở trong quân đội. Điều đó sẽ có giá trị lâu dài đối với chúng ta cả ông và chúng tôi. Tuy nhiên, thỉnh thoảng ông sẽ được nhận vài công việc đặc biệt.
– Cảm ơn ngài.
Ông không bao giờ được tiết lộ cuộc gặp gỡ này.
– Không đời nào.
Người đàn ông bên kia chiếc bàn đã làm cho Acoca lúng túng. Có một cái gì đó khiến ông ta nom đáng sợ vô cùng.
Thời gian đó, đại tá Acoca được OPUS MUNDO giao cho hàng chục phi vụ.
Đúng như đã được báo trước, đây toàn những việc hết sức nguy hiểm và hết sức kín đáo.
Tại một trong những phi vụ đó Acoca đã gặp được cô gái trẻ rất dễ thương trong một gia đình gia gỉáo. Trước đó, tất cả những phụ nữ Àcoca đã từng gặp đều là bọn gái điếm hay gái bao. Hắn tỏ ra hết sức khinh bỉ đám này. Bọn gái điếm thực sự mê cái sức mạnh của y, còn y thì luôn dành cho họ sự đối xử tồi tệ nhất.
Nhưng Susana Cerredilla thì lại thuộc một thế giới hoàn toàn khác biệt. Cha nàng là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Madrid, còn mẹ là một luật gia. Khi Susana mười bảy, nàng có cơ thể của một phụ nữ hoàn thiện và khuôn mặt tuyệt tác của một Madonna:
Acoca chưa từng gặp phụ nữ nào như cô bé phát triển sớm này. Sự trong trắng mỏng manh của nàng khơi dậy trong y một cảm giác mềm yếu mà y chưa từng biết đến.
Y yêu cô bé một cách điên dại, và vì những lý do mà cha mẹ nàng lẫn Acoca không hiểu nổi, nàng cũng phải lòng y.
Vào tuần trăng mật, Acoca tưởng như mình chưa từng biết một người đàn bà nào khác. Nhục dục y đã trải, nhưng sự hòa quyện giữa tình yêu và nỗi đam mê lại là cái gì đồ y chưa từng được biết đến.
Ba tháng sau hôn lễ, Susana báo với y nàng đã mang thai. Acoca sưởng phát điên. Như tăng thêm niềm vui cho họ, y bỗng được điều về làng Castioblanco xinh đẹp thuộc vùng Basque. Khi đó là mùa thu năm 1963, cuộc chiến giữa người cộng hòa và người dân tộc đang độ quyết liệt nhất.
Vào một sáng chủ nhật yên ả khi Acoca cùng Susana đang nhấm nháp cà phê tại một quán trong làng, bỗng dưng quảng trường đầy ắp những người Basque biểu tình.
– Anh muốn em về nhà, - Acoca nói, - ở đây sắp lộn xộn rồi.
– Thế còn anh...?
– Nghe anh đi, anh sẽ không sao đâu.
Những người biểu tình đã tỏ ra không kìm chế được nữa.
Ramon Acoca thấy nhẹ nhõm khi nhìn theo Susana của mình đi thoát khỏi đám đông, về phía tu viện ở cuối quảng trường. Nhưng khi nàng vừa tới đó, cánh cửa tu viện bất thần bật tung và những người Basque có vũ trang trốn trong đó rầm rộ kéo ra, súng trên tay bắn như vãi đạn. Acoca bất lực đứng nhìn vợ mình gục chết. Chính hôm đó y đã thể trả thù dân Basque và giáo hội.
Và lúc này đây y đang ở Avil1a, bên ngoài một tu viện khác. Lần này chúng phải chết.
Trong bóng tối bao trùm tu viện, sơ Theresa nắm chặt chiếc roi trong tay, vụt tới tấp vào người. Sự đau đớn cắt da xé thịt do những chiếc gai sắc nhọn gây ra khiến bà muốn hét lên, nhưng điều đó là không được phép và bà phải dồn nén những tiếng gào thét vào lòng.
Hãy tha thứ cho những lỗi lầm của con, Giêsu. Hãy chứng giám rằng con đang hành hạ mình như Người đã bị hành hạ, đang chịu đựng những vết thương như Người đã phải chịu đựng. Hãy cho con được chịu đựng như người đã chịu đựng.
Bà suýt ngất đi vì đau đớn, rồi gắng tiếp tục hình phạt ba lần nữa, rồi tuyệt vọng ngã xuống chiếc giường con. Bà không lau máu đi vì điều đó bị cấm, gắng gượng chịu những đau đớn cực độ do mỗi cử động mang lại. Sơ Theresa cất roi vào chiếc hộp màu đen, đặt trở lại góc cũ Nó luôn được đặt ở đó, để thường xuyên nhắc nhở rằng mỗi lỗi lầm dù là nhỏ nhất cũng phải trả bằng sự đau đớn tột độ..
Sơ Thresa đã phạm lỗi vào buổi sáng hôm đó, lúc bà đi tới hành lang, mắt nhìn xuống, và va vào sơ Graciela. Giật mình, sơ Thresa ngẩng lên và bất chợt ánh mắt đụng luôn phải gương mặt của sơ Graciela. Bà liền thuật lại tội lỗi của mình. Mẹ Bentina nheo mày tỏ vẻ không hài lòng và làm dấu sự hành tội. Bà đưa tay phải từ vai nọ sang vai kia ba lần, bàn tay nắm chặt như đang giữ lấy cây rơi, đầu ngón tay cái tì chặt vào lòng ngón tay trỏ.
Nằm trên giường, sơ Theresa không thể quên đi được khuôn mặt đẹp đến khác thường của cô gái trẻ. Bà biết mình sẽ không bao giờ được nói chuyện hay chỉ nhìn thấy khuôn mặt đó nữa vì một lỗi lầm nhỏ nhất biểu lộ quan hệ gần gũi giữa các nữ tu sĩ cũng sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Trong một môi trường khổ hạnh về tinh thần và thể xác, không một mối quan hệ, dù dưới hình thức nào, được phép tồn tại. Nếu hai tu sĩ làm việc bên nhau và cùng tỏ ra thích thú người bạn im lặng của mình, Mẹ bề trên sẽ lập tức tách họ ra. Cũng không có sơ nào được phép ngồi cạnh cùng một người hai lần trong ngày. Giáo hội tế nhị gọi sự chú ý của một tu sĩ đến một người khác là “một quan hệ đặc biệt”, và hình phạt sẽ đến rất nhanh, nghiêm khắc. Sơ Therasa phải chịu hình phạt vì đã vi phạm nguyên tắc đó.
Giờ đây tiếng chuông vọng tới sơ Theresa như từ cõi xa xôi. Đó là tiếng chuông của Chúa đang khiển trách bà.
Ở phòng bên tiếng chuông vọng vào chuỗi những giấc mơ của sơ Graciela, tiếng ngân lẫn vào những tiếng cọt kẹt dâm đãng bởi những chiếc lò xo của giường.
Thằng Marôc da đen tiến về phía cô, trần truồng, hai tay hắn vươn ra chộp lấy cô. Graciela mở mắt choàng tỉnh, tim đập liên hồi. Cô nhìn quanh thảng thất, nhưng kịp nhận ra là đang ở một mình trong căn phòng nhỏ hẹp và tiếng động duy nhất là tiếng chuông gõ đều đều thanh thản.
Sơ Graciela quỳ xuống bên giường. Giêsu, cảm tạ Người đã đưa con thoát khỏi quá khứ. Cảm tạ Người đã ban cho con niềm sung sướng được ở đây trong ánh sáng của Người. Hãy cho con được sung sướng chỉ trong hạnh phúc bên Người, xin Người hãy giúp con được làm giảm nhẹ nỗi buồn trong trái tim đau khổ của Người.
Cô trở dậy, thu dọn giường cẩn thận, rồi nhập vào đoàn tu sĩ đang lướt nhẹ về phía nhà thờ để làm lễ Kinh Matins. Cô cảm nhận được mùi nến cháy khen khét quen thuộc và nhận biết được những viên đá đã mòn, vẹt dưới chân.
Ban đầu, khi mới vào tu viện, Graclela không hiểu được khi Mẹ Trưởng tu viện dạy rằng nữ tu là một phụ nữ dám từ bỏ tất cả để có được mọi thứ. Lúc đó Graciela mười bốn tuổi. Giờ đây, mười bảy năm đã trôi qua, cô đã hiểu rõ được lời dạy đó. Trong mơ ước, cô có tất cả, vì ước mơ là tư duy đáp lại linh hồn.
Thời gian của cô đầy ắp một sự yên tĩnh tuyệt vời.
Ơn Người cho con được quên, thưa Cha. Cảm tạ Người đã ở bên con. Thiếu Người con không thể đối mặt với quá khứ kinh khủng... ơn Người... ơn Người...
Khi lễ Mathins kết thúc, các tu sĩ trở về phòng mình nghỉ chờ đến lễ Lauds lúc mặt trời mọc.
Bên ngoài, đại tá Ramon Acoca và quân lính yên lặng chuyển động trong bóng đêm. Khi tới sát tu viện, Acoca nói. “Jaime Miro và quân của hắn được trang bị nhiều vũ khí. Đừng chần chừ. ”.
Y nhìn tu viện từ phía trước. Trong khoảnh khắc, y thấy những người Basque chạy ào ra và Susana ngã xuống trong cơn mưa đạn.
Đừng bận tâm đến việc phải bắt sống Miro làm gì, Acoca ra lệnh.
Sơ Megan tỉnh giấc bởi sự yên lặng. Một sự yên lặng khác thường. Một sự yên lặng đang chuyển động, tiếng lao xao của không khí, tiếng thì thầm của con người. Có những tiếng động mà suốt mười lăm năm ở tu viện cô chưa từng nghe thấy. Linh cảm về một câu chuyện gì rất khủng khiếp ập đến bao phủ lấy cô.
Trong bóng đêm, cô nhẹ nhàng trở dậy mở cửa phòng mình. Không thể tin được, hành lang đầy ắp người. Một người khổng lồ có gương mặt sẹo từ trong phòng của Mẹ Bentina bước ra, lôi bà theo. Megan sửng sốt nhìn. Mình đang mơ một cơn ác mộng cô nghĩ, không thể có những người này ở đây được.
– Các người giấu nó ở đâu? - Đại tá Acoca gắt lên.
Vẻ khiếp sợ hiện lên trên mặt mẹ Bentina.
– Ôi! Đây là Thánh địa của Chúa. Các người đừng làm ô uế nó, - giọng bà run rẩy. - Các người hãy đi khỏi đây ngay.
Bàn tay như gọng kìm của viên đại tá siết chặt cánh tay bà, y lắc mạnh người bà:
– Tôi chỉ muốn có Miro, thưa sơ..
Cơn ác mộng là có thực.
– Những cánh cửa phòng khác bắt đầu mở, các tu sĩ xuất hiện với vẻ mặt ngơ ngác. Họ chưa bao giờ được chuẩn bị cho một sự kiện không bình thường như vậy xảy đến.
– Acoca đẩy dúi mẹ nhất rồi quay sang. Patricio Arrieta, một trong số trợ thủ chủ chốt của y:
– Lục soát toàn bộ từ trên xuống dưới.
Quân lính của Acoca bắt đầu tản ra chiếm giữ toàn bộ nhà thờ, nhà ăn, các buồng ở, lôi dậy những tu sĩ vẫn còn đang ngủ và dồn họ qua hành lang nhà thờ.
Các tu sĩ tuân theo không, nói năng gì, trung thành với lời thề giữ im lặng, ngay cả trong hoàn cảnh này. Hình ảnh giống như trong cuốn phim bị tắt âm thanh, tiếng động.
Những người lính Acoca hừng hực khát vọng trả thù.
Họ đều là người Falang, và đều hằn sâu trong trí nhớ là giáo hội đã quay lưng lại họ như thế nào. Trong cuộc Nội chiến, giáo hội đã ủng hộ những người thuộc, phái trung thành chống lại lãnh tụ vĩ đại của họ - Tổng tư lệnh Franco.
Đây là cơ hội để họ trả thù cho người thân của mình. Sức mạnh và sự câm lặng của các nữ tu khiến cho họ giận dữ hơn bao giờ hết:
Khi Acoca đi qua một gian phòng, y nghe thấy có tiếng kêu vọng ra từ đó:
Nhìn vào, y thấy lính mình đang lột váy áo của một nữ tu. Y bỏ đi.
Sơ Lucia bị đánh thức bởi tiếng hò hét của đám lính bên ngoài. Cô hoảng sợ ngồi phắt dậy. Bọn cảnh sát đã phát hiện ra ta, ý nghĩ đầu tiên vụt đến trong đầu cô. Phải tìm cách biến khỏi đây. Không có đường nào khác đi ra khỏi tu viện ngoài cách đi qua cửa chính.
Cô vụt dậy, ghé mắt nhìn ra hành lang. Cái cảnh cô nhìn thấy thật đáng kinh ngạc. Hành lang đầy kín không chỉ cảnh sát mà còn cả những người mặc quần áo dân sự mang vũ khí. Mẹ Bentina đang đứng ở giữa đám lộn xộn, lặng lẽ cầu kinh, nhìn bọn lính làm ô uế tu viện thân yêu của bà. Sơ Megan bước đến bên bà. Lucia nhập vào đám tu sĩ.
– Có chuyện gì thế? Họ là ai? - Lucia hỏi. Đó là những lời đầu tiên cô nói ra mồm kể từ khi nhập tu viện.
Mẹ Bentina đặt bàn tay phải dưới nách trái ba lần, ý nói “trốn”.
Lucia tròn mắt ngạc nhiên, nghĩ. Bây giờ Mẹ cho phép rồi. Ta phải tìm cách ra khỏi đây thôi, vì đức Kitô. Con muốn nói là vì Đức Kitô, thưa Mẹ Nhất.
– Chúng tôi đã lục soát mọi nơi, thưa đại tá. Không có một dấu vết nào của Jalme Miro hay bọn tay chân của hắn. - Patricio Arrieta chạy đến nói với Acoca.
– Soát lại? Acoca cương quyết.
Bà Nhất Bentina sực nhớ đến báu vật duy nhất trong tu viện. Bà vội vàng đến bên sơ Theresa, thì thầm:
– Ta có việc cho con. Hãy vào nhà ăn lấy cây thánh giá vàng và mang nó đến tu viện ở Mendavla. Con phải đưa nó ra khỏi đây ngay. Nhanh lên.
Sơ Theresa run bắn người tới mức chiếc khăn quàng cổ rung lên từng đợt. Bà ngước mắt nhìn Mẹ, hoang mang. Sơ đã sống trong tu viện này suốt ba chục năm.
Cái ý nghĩ rời khỏi nơi đây với bà là quá sức tưởng tượng. Bà đưa tay, làm dấu. “Con không thể”.
Mẹ Nhất giận dữ:
– Không thể để cây thánh giá lọt vào tay bọn quỷ satăng này. Hãy làm điều ta bảo, vì Chúa Giêsu.
– Một tia sáng lóe lên trong mắt sơ Theresa. Bà đứng thẳng người ra dấu. “Vì Chúa Giêsu, ” rồi vội vàng đi về phía nhà ăn.
Sơ Theresa tiến đến chỗ các bà sơ đang tụ tập, hoang mang nhìn cảnh lộn xộn quanh mình. Bọn lính mỗi lúc một tàn bạo, chúng đập phá bất kể thứ gì trong tầm mắt. Acoca nhìn chúng tỏ vẻ hài lòng. Lucia quay sang Megan và Graciela:
– Tôi không biết rõ hai sơ, nhưng tôi đang tìm cách trốn khỏi đây. Các sơ cùng đi chứ?
Hai người cùng sửng sốt nhìn cô, không ai dám lên tiếng. Sơ Theresa vội vã tiến về phía ba người, mang theo một vật được bọc trong mảnh vải. Mấy người lính vẫn tiếp tục dồn các nữ tu vào phòng ăn.
– Đi thôi. - Lucia nói.
Sơ Theresa, Megan và Gralilela tỏ ý ngập ngừng giây lát, rồi theo Lucia đi về phía cửa lớn. Họ không còn nhận ra hành lang quen thuộc đã bị phá tan.
Một người lính bất ngờ xuất hiện trước mặt.
– Đi đâu vậy các quý bà. Quay lại! Các bạn tôi có ý dành cho các quý bà vài điều bất ngờ.
– Chúng tôi có một món quà cho ngài. - Lucia nói. Cô cúi xuống nhấc lên một cây đèn nến to bằng thép trong đống đổ nát, mỉm cười.
– Cô làm gì với cái này? - Tên lính bối rối nhìn cây đèn.
– Cái này. - Lucia giáng mạnh cây đèn vào đầu hắn.
Hắn đổ nhào xuống đất, bất tỉnh.
Ba nữ tu sĩ đờ người kinh hãi.
– Biến thôi. - Lucia nói.
Một lát sau Lucia, Megan, Graciela và Thẹresa đã tới sân trước của tu viện, nhanh chóng vượt qua cổng, rồi lẩn vào trời đêm sáng sao. - Tôi phải chia tay các bà thôi. Họ sẽ lùng bắt đấy, các bà nên trốn khỏi đây ngay. - Lucia ngừng bước. Cô quay lại nhìn nhận những ngọn núi hiện lên cao cao phía trên tu viện.
Ta sẽ trốn ở đó đến khi cuộc lục soát địu đi, rồi sẽ thẳng hướng Thụy sĩ mà tiến.
May ra thì có được may mắn đó. Cái bọn chó đẻ làm mất cả chỗ trốn tuyệt vời.
Khi Lucia trèo lên được một quãng, cô nhìn xuống. Từ vị trí thuận lợi, có thể thấy được ba nữ tu sĩ. Không tin được. Cả ba vẫn đứng chôn chân ở trước cổng tu viện như ba pho tượng mặc đồ đen.
Trời ơi! Cô nghĩ. Biến đi chứ, đứng đấy để chúng tóm à. Nhúc nhích đi. Họ không thể cất chân lên được. Cứ như là tất cả những cảm giác trong họ đã tê liệt từ lâu, nên họ không thể cảm nhận được điều đang hoặc sắp xảy đến. Ba bà sơ cắm mắt nhìn xuống chân mình. Họ quá kinh hãi nên không nghĩ ra được gì. Họ đã giam mình quá lâu đằng sau cửa Chúa, tách biệt với thế giới. Lúc này đây, bên ngoài những bức tường che chở, nỗi hoang mang sợ hãi bao trùm lên họ. Họ không hề có ý nghĩ đi đâu hoặc làm gì. Bên trong những bức tường kia cuộc sống của họ đã được sắp sẵn. Họ đã sống bằng nguyên tắc. Đột nhiên giờ chẳng có nguyên tắc nào cả. Chúa muốn gì ở họ? Ý định của Người là gì vậy?
Họ đứng nép vào nhau, không dám nói, cả không dám nhìn nhau. Sơ Theresa ngập ngừng chỉ về hướng quầng sáng của thị trấn Avila xa xa:
– Về phía đó.
Rồi ba người loạng choạng tiến tới. Quan sát họ từ trên cao, Lucia nghĩ, Ôi, cái bọn ngu ngốc! Đấy là chỗ đầu tiên bọn chúng sẽ tìm. Thôi kệ, dù sao cũng là việc của các người. Ta có việc của ta. Cô đứng đó, tần ngần nhìn theo họ tiến gần đến cái chết đang rình rập. Một lũ ngốc.
Lucia đi ngược xuống chân đồi, làm những hòn đá lổng chổng lăn xuống, rồi bắt đầu chạy theo họ. Chiếc áo nhà tu nặng nề như níu chân cô lại.
– Đợi một tý. - Cô gọi to. - Đứng lại đã. Ba bà sơ dừng chân và quay lại.
Lucia vội chạy đến bên họ, vừa nói vừa thở:
– Các bà đi sai đường rồi. Nơi đầu tiên bọn chúng tìm các bà là trong thị trấn.
Phải trốn chỗ khác.
Cả ba bà ngơ ngác nhìn Lucia.
– Lên núi. Trên kia kìa. Mấy bà ngố. Thôi, đi theo tôi- Lucia nóng nảy nói.
Cô quay người và hướng thẳng lên núi, mấy bà tu nhìn theo do dự rồi lần lượt, từng người một, bước thấp bước cao đi theo. Vừa đi, Lucia chốc chốc lại ngoái về phía sau nhìn họ. Sao mình lại không thể để mặc họ được nhỉ. Cô nghĩ. Mình có trách nhiệm gì với họ đâu. Đi cả lũ thế này hết sức nguy hiểm. Cô cắm cúi trèo, bụng nghĩ họ vẫn bám theo sau.
Ba bà sơ đi theo hết sức khó nhọc. Mỗi khi họ tụt lại, Lucia đều dừng bước đợi họ theo kịp cô.
Đến sáng, mình sẽ bỏ họ lại.
– Nhanh lên nào, - Lucia gọi.
Tại tu viện, cuộc tấn công đã kết thúc. Những nữ tu bàng hoàng trong những bộ đồ tu sĩ rách mướp và dính máu đang được dồn vào những thùng xe tải đóng kín, không biển số.
– Đưa chúng về sở chỉ huy của tôi ở Madrid. - Acoca ra lệnh. - Tách riêng từng đứa ra.
– Thưa, ghi tội danh là...
– Che giấu bọn khủng bố.
Rõ, thưa đại tá. - Patricio Arrita nói. Gã ta ấp úng. Thưa đại tá, có bốn đứa hiện không rõ trốn đâu.
Tìm ngay. - Cặp mắt Acoca lạnh lùng.
Đại tá Acoca đáp máy bay về Madrid trình diện thủ tướng.
– Jaime Miro đã tẩu thoát trước khi chúng tôi đến tu viện.
– Tôi cũng đã nghe. Thủ tướng Martinez gật đầu. Ông tự hỏi, liệu Jaime Miro đã bao giờ xuất hiện ở tu viện chưa mà lại bắt đầu từ đó. Chẳng gì nghi ngờ nữa.
Đại tá Acoca ngày càng trở nên nguy hiểm, khó mà kiểm soát được hắn nữa. Đã có những phản ứng gay gắt về cuộc tấn công táo tợn vào tu viện. Thủ tướng thận trọng chọn từ:
– Báo chí đang săn lùng tôi về chuyện xảy ra ở tu viện – Báo chí đang biến tên khủng bố này thành một anh hùng. - Acoca nói, mặt lạnh như đá. - Ta không thể để họ gây áp lực.
– Thằng cha ấy gây cho chính phủ bao điều khó xử, ông đại tá, chưa kể bốn nữ tu sĩ. Nếu họ nói...
Khỏi phải lo. Chúng chưa thể đi xa được. Tôi sẽ tóm được chúng và tôi sẽ tóm được Miro.
Thủ tướng quyết định không thể chờ đợi lâu hơn:
– Ông đại tá, tôi muốn ông đảm bảo rằng ba mươi sáu nữ tu ông đang giữ phải được đối xử tất, và tôi sẽ ra lệnh cho quân đội cùng tham gia tìm kiếm Miro và đồng bọn. Ông sẽ hợp tác với đại tá Sostelo.
Một thoáng yên lặng rợn người xuất hiện trong một lúc Cặp mắt Acoca lạnh băng.
– Ai trong chúng tôi sẽ chỉ huy hoạt động này?
Thủ tướng Martinez nuốt giận:
– Tất nhiên là ông rồi.
Lucia và ba bà sơ đi suốt đêm cho tới bình minh, cứ theo hướng Đông Bắc mà leo núi, mỗi lúc một xa Avila và tu viện. Các bà sơ, do thường xuyên đi lại trong im lặng nên gây rất ít tiếng động. Âm thanh duy nhất lúc này là tiếng loạt xoạt của những chiếc áo nặng nề, tiếng lách cách phát ra từ những tràng hạt, và tiếng thở gấp gáp khi họ cố sức trèo mỗi lúc một cao hơn.
Tới vùng cao nguyên Guadarrama, họ đi dọc theo một con đường gồ ghề rồi băng qua những cánh đồng đầy cừu và dê. Tảng. sáng, họ đã vượt qua vài dặm đường để tới khu rừng bên làng nhỏ Villacastin.
Phải bỏ họ ở đây thôi. Lucia quyết định. Chúa của họ sẽ che chở cho họ.
Chúa chắc hẳn cũng đủ che chở cho ta. Cô cay đắng nghĩ. Thụy Sĩ xa vời vợi. Ta không có tiền, không có hộ chiếu, lại ăn mặc như người nhà mồ. Bây giờ thì chắc chúng đã phát hiện ra có người trốn. Chúng sẽ lùng cho bằng ra. Ta phải thoát khỏi đám này càng sớm càng tốt.
Vào đúng lúc ấy, một điều đã khiến cô thay đổi ý định...
Sơ Theresa đang đi trong rừng, bà vấp vào một rễ cây chồi lên. Cái hộp mà bà cẩn thận che chở suốt đoạn đường bị rơi xuống. Một vật bên trong văng ra khỏi cái khăn bọc ngoài. Lucia dán mắt nhìn cây thánh giá bằng vàng được chạm trổ cầu kỳ đang ánh lên rực rỡ dưới những tia sáng ban mai.
Vàng ròng à? Lucia nghĩ. Có kẻ nào trên kia đang giữ hộ cho ta. Cây thánh giá đó là của trời cho. Đó là chiếc vé đưa ta đến Thụy Sĩ.
Lucia theo dõi sơ Theresa nhặt cây thánh giá lên và nâng niu, gói nó vào mảnh vải bọc. Cô mỉm cười với mình. Lấy cây thánh giá đó dễ thôi, mấy bà sơ này sẽ răm rắp làm mọi thứ mình yêu cầu.
Thị trấn Avila trở nên náo động. Tin tức về cuộc tấn công vào tu Viện lan đi rất nhanh, và cha Berrendo đã được cử ra để chọi với đại tá Acoca.
Ông linh mục này đã vào tuổi bảy mươi, dáng vẻ nhu mì bên ngoài ẩn giấu một sự mạnh mẽ bên trong. Ông là một người cha hiền từ và hiểu biết để chăm sóc đàn con chiên của mình. Nhưng vào lúc này, trong lòng ông tràn đầy cơn giận dữ lạnh lùng. Đại tá Acoca để ông phải chờ đợi đến một tiếng đồng hồ rồi mới cho phép được ra mắt trong phòng y. Cha Berrendo nói ngay, không cần rào đón.
– Chính ông và lính của ông đã tấn công một tu viện mà chẳng cớ lý do gì cả.
Đó là một hành động điên rồ. Chúng tôi chỉ đơn giản làm bổn phận của mình. - Acoca dằn giọng. - Tu viện đó đã che giấu cho Jaime Miro và đồng bọn giết người của hắn. Tự các bà sơ chuốc họa vào thân đó thôi. Chúng tôi đang giữ họ để điều tra.
– Thế ông đã tìm được Jaime Miro ở trong tu viện chứ? - Ông linh mục giận dữ hỏi lại.
Đại tá Acoca nói trơn tuột:
– Không, thật tiếc hắn và đồng bọn đã tẩu thoát trước khi chúng tôi kịp đến...
Nhưng tôi sẽ tìm ra lũ chúng nó và công lý sẽ được sáng tỏ Tất nhiên là công lý của ta. - Acoca nở nụ cười nham hiểm.


Nguồn: http://motsach.info/