25/3/13

Hai mươi năm sau (C74-75)

Chương 74

Con tàu Tia chớp


Artagnan đã đoán đúng: Mordaunt không có thời giờ để mất và đã không để mất thời giờ! Biết rõ quyết định và hành động nhanh chóng của kẻ thù, nên hắn cũng quyết ra tay ngay. Lần này các chàng ngự lâm quân đã tìm được địch thủ ngang tài.
Sau khi đóng cửa cẩn thận sau lưng mình, Mordaunt tra thanh gươm vào võ, trườn xuống một đường hầm và lần sang ngôi nhà bên cạnh, Hắn dừng lại để lấy hơi và sờ nắn trong người.
- Tốt lắm! - Hắn nói, - Chẳng sao cả, chẳng có gì đáng kể: mấy vết xây xát, có thế thôi, hai vết ở cánh tay, một vết ở ngực. Nhưng vết thương do ta gây nên hay hơn nhiều! Cứ hỏi tên đao phủ xứ Béthune, cứ hỏi ông bác ta và vua Charles xem? Bây giờ không thể để mất một giây đồng hồ, vì chỉ chậm một giây thôi là chứng nó có thể trốn thoát; mà cần làm sao cho cả bốn tên kia chết cùng với nhau, chết cùng một đòn, tan xương, nát thịt, bay biến đi. Ta sẽ chạy cho đến lúc hai chân không còn mang nổi mình, trái tim rộng nở đầy lồng ngực, nhưng ta sẽ đến trước chúng nó. Mordaunt bắt đầu rảo bước nhanh hơn, nhưng đều dặn hơn đến trại kỵ binh đầu tiên cách đó gần một phần tư dặm và đi chừng mất bốn năm phút.
Đến trại, hắn xưng danh, rồi lấy con ngựa tốt nhất và phóng đi ngay. Mười lăm phút sau hắn đến Greenwich.
- Bến cảng kia rồi, - Hắn lẩm bẩm. - Chấm đen sẫm ngoài kia kia đảo Những con Chó. Hay thật! Ta vượt chừng nửa giờ… có lẽ một giờ. Ta ngốc thật! Suýt nữa thì mình chết ngạt vì sự vội vã điên cuồng ấy.
Hắn đứng lên bàn đạp để nhìn ra xa tìm giữa những đám dây dợ và cột buồm nói:
- Tia chớp, con tàu Tia chớp ở đâu?
Như để đáp lại mấy lời nói lầm bầm của hắn, một người nằm trên một cuộn dây thừng đứng dậy và tiến mấy bước về phía Mordaunt.
Mordaunt rút chiếc khăn tay ra và giơ phất phới trong gió một lát. Người kia tỏ vẻ chăm chú, nhưng vẫn đứng nguyên một chỗ, chẳng tiến mà cũng chẳng lùi một bước nào.
Mordaunt thắt nút lại ở bốn góc khăn tay, người kia đến sát gần. Đó là ám hiệu thỏa thuận. Người thủy thủ khoác một chiếc áo choàng len rộng che cả mặt, cất tiếng:
- Thưa ông, phải chăng tình cờ mà ông từ London đến đây để làm một chuyến du ngoạn trên biển.
- Rõ ràng như vậy, - Mordaunt đáp, - Tôi muốn đi ra phía đảo Những con Chó.
- Thế đấy. Chắc hẳn ông ưa thích một loại thuyền nào đó hơn phải không? Ông muốn thuyền chậm hay thuyền nhanh…
- Như tia chớp, - Mordaunt đáp.
- Hay lắm, thế thì đúng chiếc thuyền của tôi mà ông đang tìm.
- Tôi là người chủ thuyền đó.
- Tôi bắt đầu tin điều đó, - Mordaunt nói, - Nhất là nếu ông không quên ám hiệu nào đó.
- Thưa ông đây! - Người chủ thuyền rút trong túi áo choàng ra một chiếc khăn tay buộc nút ở bốn góc.
- Tốt lắm, tốt lắm? - Mordaunt reo lên và xuống ngựa. - Bây giờ gấp lắm rồi, ông hãy cho dẫn con ngựa này đến quán hàng gần đây và đưa tôi ra thuyền của ông.
- Nhưng những người đồng hành của ông đâu? - Chủ thuyền hỏi. - Tôi ngỡ rằng ông có bốn người cơ mà, không kể đầy tớ.
Mordaunt đến gần người thuỷ thuỷ và nói:
- Này ông, hãy nghe đây, tôi không phải là người mà ông chờ đợi cũng như ông không phải là người mà họ muốn tìm. Ông đã thay thế đại uý Roger phải không? Ông đến đây theo lệnh của tướng Cromwell; tôi cũng do ngài phải tới.
- QuẢả thật vậy, - Người chủ thuyền nói, tôi nhận ra ông, - Ông là đại uý Mordaunt.
Mordaunt giật mình.
- Ồ đừng sợ, - Người chủ thuyền kéo áo choàng xuống, ngả mũ ra và nói, - Tôi là một người bạn mà.
- A, đại uý Groslow! - Mordaunt reo lên.
- Chính tôi. Tướng quân nhớ rằng trước kia tôi là sĩ quan hải quân nên đã giao nhiệm vụ này. Có gì thay đổi không?
- Không có gì thay đổi cả. Trái lại mọi việc vẫn như đã định. Có lúc tôi nghĩ rằng cái chết của nhà vua…
- Cái chết của nhà vua càng thúc giục họ chạy trốn.
- Có lẽ trong mười lăm phút nữa họ sẽ tới đây.
- Thế ông đến đây làm gì?
- Để xuống thuyền với ông.
- A, a! Tướng quân hoài nghi nhiệt tình của tôi chẳng?
- Không phải thế đâu! Tôi muốn tự mình chứng kiến cuộc trả thù của tôi. Này, ông không có ai giúp mang con ngựa của tôi đi ư?
Groslow huýt sáo, một thủy thủ xuất hiện.
- Này Patric, - Groslow bảo, hãy dắt con ngựa này đến chuồng ngựa của quán hàng gần nhất. Nếu có người hỏi ngựa của ai thì nói rằng của một vị lãnh chúa Irlandais.
Người thủy thủ lẳng lặng rời bước.
- Ông không sợ họ nhận ra ông ư? - Mordaunt hỏi.
- Chẳng lo đâu! Tôi mặc như thế này, trùm cái áo choàng này trời tối như thế này. Vả lại, ông mà còn chẳng nhận ra tôi, thì họ làm sao mà nhận ra được.
- Đúng thế, - Mordaunt nói, - Với lại họ chẳng ngờ đến ông đâu.
- Mọi thứ sẵn sàng cả rồi chứ?
- Rồi.
- Thuyền chất hàng chưa?
- Rồi.
- Năm thùng đầy phải không?
- Và năm mươi thùng rỗng.
- Thế đấy.
- Chúng tôi chở rượu Portos đến Anvers.
- Tuyệt lắm. Bây giờ cho tôi xuống thuyền và ông hãy trở lại vị trí, vị họ đến ngay bây giờ đấy.
- Sẵn sàng.
- Điều quan trọng là không để cho ai trong số người của ông trông thấy tôi vào.
- Chỉ có một người ở trên thuyền và tôi tin ở hắn ta như chính mình. Vả chăng người ấy không biết ông, và cũng như đồng đội của hắn, hắn sẵn sàng phục tùng mệnh lệnh mà không hay biết gì hết.
- Tốt lắm, ta đi thôi.
Họ đi xuống phía sông Tamies. Một chiếc xuống nhỏ neo ở bến cảng bằng một xích sắt buộc vào một cái cọc. Groslow kéo cái xuồng nhỏ lại giữ cho Mordaunt xuống, rồi hắn nhảy xuống theo. Và ngay lập tức hắn cầm lấy mái chèo và chèo miết để chứng tỏ với Mordaunt điều hắn nói là thật, nghĩa là hắn không quên nghề thủy thủ của mình.
Năm phút sau, chiếc xuống thoát ra khỏi cái thế giới thuyền bè vào thời ấy luôn luôn bề bộn ở các vùng lân cận London và Mordaunt có thể trông thấy chiếc tàu buồm buông neo như một chấtm đen đang đung đưa ở cách đảo Chó chừng bốn năm tầm(1).
Đến gần tàu Tia chớp, Groslow huýt sáo ra hiệu và trông thấy một cái đầu ló ra trên thành tàu.
- Đại uý đấy à? - Người kia hỏi.
- Phải, ném thang xuống đây.
Nhanh nhẹn và nhẹ nhàng như một con én, Groslow leo lên và đứng bên gã thủy thủ. Không trả lời, Mordaunt nắm lấy sợi thừng và leo theo thành tàu một cách lanh lẹn và chắc chắn hiếm có đối với những người ở trên cạn; lòng háo hức trả thù của hắn đã thay thế cho thói quen và khiến hắn có khả năng làm được mọi việc.
Như Groslow đã dự kiến, người thuỷ thủ gác trên tàu Tia chớp không có vẻ gì nhận biết là chủ mình trở về cùng với người khác.
Mordaunt và Groslow đi đến phòng của thuyền trưởng. Đó là một ngăn đựng tạm bằng ván gỗ ở trên boong.
- Căn phòng danh dự đã được đại uý Roger nhượng cho hành khách.
- Bọn họ đâu? - Mordaunt hỏi.
- Ở cuối tàu Groslow đáp.
- Họ không có việc gì làm ở phía này ư?
- Chẳng có việc gì hết.
- Tuyệt lắm! Tôi sẽ nấp ở chỗ ông. Ông hãy trở lại Greenwich và dẫn họ đến đây. Ông có một chiếc xuồng nhỏ nào không?
- Chỉ có mỗi chiếc xuồng nhỏ đã đưa ông đấy thôi.
- Nó có vẻ nhẹ và chắc.
- Một thuyền thoi thực sự đấy.
- Hãy lấy dây chão buộc nó vào sau đuôi tàu, để mái chèo vào xuồng để nó có thể đi theo luồng tàu và khi cần thì chỉ việc cắt dây. Để sẵn rượu rhum và bánh qui trong xuồng. Nếu chẳng may biển động, người của ông sẽ chẳng bực mình thấy có sẵn các thứ để mà bồi bổ sức lực.
- Ông sẽ thấy được vừa ý. Ông có muốn thăm sợi dây mìn không?
- Không, - Mordaunt đáp. - Đợi lúc ông trở lại. Tôi muốn tự mình đặt dây mìn để chắc chắn là không cháy chậm. Chú ý che mặt để họ không nhận ra ông.
- Chuông đồng hồ Greenwich đang điểm mười giờ.
- Cứ yên trí.
Thật vậy, mười tiếng chuông ngân vang rầu rĩ quyện qua bầu trời chứa đầy những đám mây khổng lồ đang trôi đi giống như những làn sóng im lặng.
Groslow khép cửa lại và Mordaunt cài chốt bên trong. Sau khi ra lệnh cho người thuỷ thủ gác canh phòng thật cẩn mật, Groslow xuống thuyền. Chiếc thuyền nhanh chóng rời xa, đôi mái chèo khuấy nước bọt ngầu.
Khi Groslow cập bến Greenwich, gió thổi lạnh và con đường đập vắng tanh; nhiều thuyền bè vừa lên bờ thì nghe như có tiếng ngựa phi trên con đường lát đá.
- Ồ, ồ! - hắn nói, - Mordaunt giục ta gấp lên là đúng. Không thể chậm trễ được nữa, họ tới kia rồi.
Quả nhiên, đó là những người bạn của chúng ta hay nói đúng hơn là nhóm tiền trạm gồm d'Artagnan và Arthos. Đến trước nơi Groslow đứng, họ đứng lại như đã đoán ra rằng đó là người họ cần tìm. Arthos xuống ngựa và lặng lẽ giơ một chiếc khăn tay buộc nút ở bốn góc và phất lên trước gió, trong khi d'Artagnan bao giờ cũng thận trọng, hơi cúi mình trên yên ngựa, một tay thọc vào bao súng.
Ngồi xổm sau một chiếc nòng đại bác chôn xuống đất dùng để cột các dây thuyền, Groslow ngỡ rằng các kỵ sĩ kia là những người hẳn đang đợi, lại trông thấy ám hiệu đã định hẳn đứng dậy và bước thẳng đến chỗ họ. Hắn trùm áo choàng kín mít, nên trông không rõ mặt. Vả chăng tròi tối như mực nên việc phòng bị cũng bằng thừa.
Tuy nhiên, mặc dầu bóng tối, con mắt sắc sảo của Arthos vẫn đoán ra rằng không phải kẻ đứng trước mặt anh là Roger.
Arthos lùi lại một bước và hỏi:
- Ông cần gì?
Groslow bắt chước giọng Irlandais và nói:
- Thưa Milord, tôi muốn thưa với ngài rằng ngài định tìm ông chủ tàu Roger, nhưng uổng công thôi.
- Sao vậy? - Arthos hỏi.
- Bởi vì sáng nay ông ta ngã từ trên cột buồm quan trắc và bị gẫy đùi. Tôi là em họ của ông Roger, nên ông ta kể với tôi tất cả mọi việc và nhờ tôi thay ông ra đón ngài và các vị quý tộc có mang chiếc khăn tay buộc nút ở bốn góc giống như cái khăn tôi có ở trong túi đây. Tôi sế đưa các ngài đi bất cứ nơi nào các ngài muốn.
Nói rồi Groslow móc túi ra chiếc khăn mà hắn đã giơ cho Mordaunt xem.
- Có thế thôi à? - Arthos hỏi.
- Ấy thưa ngài, còn bảy mươi lăm livres đã hứa nếu tôi đưa các ngài yên ổn đến Boulogne-sur-Mer hoặc một nơi nào đó ở nước Pháp mà các ngài cho biết.
Arthos quay sang hỏi d'Artagnan bằng tiếng Pháp:
- Cậu thấy việc đó thế nào?
- Hắn nói gì đã chứ? - D'Artagnan đáp.
- Ở nhỉ, - Arthos nói, - Mình quên rằng cậu không biết tiếng Anh.
Và anh kể lại cho bạn những lời trao đổi vừa rồi với người chủ tàu.
- Điều ấy có vẻ thật đấy. - D'Artagnan đáp.
- Tôi cũng nghĩ thế, - Arthos nói.
- Với lại d'Artagnan nói, - Nếu như người này lừa dối ta, ta vẫn có thể bắn vỡ sợ nó.
- Thế ai sẽ dẫn đạo chúng ta?
- Anh đấy, Arthos ạ. Anh biết đủ thứ ở trên đời và tôi chẳng hồ nghi là anh không biết lái một con tàu.
Arthos mỉm cười bông đùa và nói:
- Bạn ơi, thực tình là cậu nói khoác thật đúng lúc. Cha tôi ngày trước hướng cho tôi làm nghề hàng hải, cho nên tôi cũng biết đôi chút về việc lái tàu.
- Anh thấy chưa. - D'Artagnan reo lên.
- Vậy cậu hãy đi tìm các bạn chúng ta và trở lại đây. Mười một giờ đêm rồi, chẳng còn nhiều thì giờ nữa đâu.
D'Artagnan tiến về phía hai kỵ sĩ cầm súng ngắn đang đứng gác ở những ngôi nhà đầu tiên của thị trấn.
Ba kỵ sĩ khác cũng đứng canh có vẻ chờ đợi, họ nép vào một nhà kho sát bờ đường.
Hai kỵ sĩ đứng giữa là Porthos và Aramis. Ba kỵ sĩ ở cạnh nhà kho là Mousqueton, Blaisois và Grimaud.
Nhưng nhìn gần thì thấy sau lưng ngựa của Grimaud còn có người em của Parry. Anh ta phải dẫn trở lại London những con ngựa của mấy ông chủ và người hầu đã bán cho chủ khách sạn để trả tiền trú ngụ. Cũng nhờ vậy mà bốn người bạn còn dư ra được một số tiền, nếu không phải là to tát thì ít ra cũng đủ chi dùng trong những khi bị chậm trễ hoặc xảy ra những chuyện bất thường.
D'Artagnan rỉ tai bảo Porthos và Aramis đi theo mình và mấy người này lại ra hiệu cho bọn đầy tớ xuống ngựa và tháo các bọc quần áo ra.
Người em của Parry lưu luyến chia tay bạn bè. Họ mời anh ta sang Pháp, nhưng anh khăng khăng từ chối.
- Cũng đơn giản thôi - Mousqueton giải thích, - Anh ta còn có ý định trả thù Groslow.
- Ta còn nhớ rằng chính Groslow đã đập vỡ sọ anh ta.
Toán người theo kịp Arthos. Nhưng d'Artagnan đã lấy lại tính đa nghi tự nhiên của mình. Anh thấy trên hè vắng vẻ quá, đêm tối đen quá, chủ tàu dễ dãi quá.
Anh kể lại những việc xảy ra cho Aramis nghe, anh chàng này không kém đa nghi càng góp phần làm tăng thêm những nỗi nghi ngại của bạn.
Một tiếng chậc nhỏ báo cho Arthos biết những nỗi băn khoăn của chàng Gascon.
- Chúng ta chẳng có thì giờ để hoài nghi đâu, - Arthos nói, - Chiếc thuyền đang đợi chúng ta, ta vào đi.
- Với lại ai cấm chúng ta cứ vào mà vẫn cứ hoài nghi, - Aramis nói. - Ta sẽ theo dõi chủ thuyền.
- Nếu hắn không đường đường chính chính, tôi sẽ đập vỡ sọ nó ra, có thế thôi…
- Porthos nói hay lắm, - D'Artagnan bảo. - Nào, ta vào đi. Đi, Mousqueton.
D'Artagnan ngăn các bạn lại, cho bọn gia nhân qua trước để thử tấm ván bắc từ con đập ra thuyền.
Ba tên hầu sang thuyền yên ổn.
Arthos theo sau họ, rồi đến Porthos và Aramis; d'Artagnan sang sau cùng, vừa đi vừa lắc đầu.
- Cậu làm cái quái gì thế? - Porthos nói. - xin thề là cậu làm cho Césars cũng phải sợ.
D'Artagnan đáp:
- Trên cái bến này, tôi thấy chẳng có người kiểm tra, chẳng có một tên lính gác chẳng có nhân viên thuế quan.
- Vậy mà cậu than vãn ư? Porthos nói. - Mọi việc trôi chảy như trên một đường dốc nở hoa.
- Mọi việc trôi chảy quá, Porthos ạ. Mặc kệ, rốt cuộc, nhờ ơn Chúa.
Tấm ván vừa rút lên, chủ thuyền ngồi vào đằng lái và ra hiệu cho một thuỷ thủ dùng một cây sào đẩy cho thuyền ra khỏi chốn mê lộ những tàu với bè.
Một thủy thủ khác đứng sẵn ở mạn trái thuyền tay cầm mái chèo.
Khi ra được chỗ thoáng, bạn hắn đến cùng chèoo và thuyền bắt đầu lướt nhanh.
- Cuối cùng chúng ta ra đi! - Porthos nói.
- Than ôi! - Bá tước de Là Fère đáp, - Chúng ta ra đi không có thêm ai!
- Phải rồi, nhưng cả bốn người chúng ta cùng đi, không một vết xước, đó là một điều an ủi.
- Chúng ta chưa đến nơi đâu, - D'Artagnan nói. - Hãy coi chừng những cuộc chạm trán.
- Ơ này, bạn thân mến ơi, - Porthos nói. - Cậu giống như những con quạ ấy, cậu toàn kêu điều gở. Ai có thể gặp gỡ chúng ta trong cái đêm tối mù mịt như thế này, cách xa hai chục bước chẳng còn nhìn thấy gì hết.
- Phải, nhưng sáng mai thì sao? - D'Artagnan nói.
- Sáng mai chúng ta sẽ ở Boulogne-sur-Mer.
- Tôi thành tâm cầu mong điều đó, - Chàng Gascon nói, -
Và tôi thú nhận nỗi yếu đuổi của tôi. Arthos này, anh sắp cười đấy, nhưng chừng nào chúng ta còn ở trong tầm súng của con đập hoặc những tàu bè ven đó, tôi vẫn thấp thỏm đợi chờ một loạt đạn khủng khiếp nào đó sẽ nghiền nát tất cả chúng ta.
- Nhưng mà, - Porthos nói về biết suy nghĩ, - Đó là điều không thể có được, bởi vì người ta sẽ giết chết luôn cả chủ thuyền lẫn thuỷ thủ.
- Ô hay, đó là một việc quan trọng đối với ông Mordaunt đó hả?
- Cậu tưởng ằng ông ấy quá câu nệ như thế ư?
- Rốt cuộc, - Porthos nói, - Tôi rất khoái thấy d'Artagnan thú nhận là cậu ta sợ.
- Không những tôi thú nhận, mà tôi còn tự phụ là khác. Tôi chẳng phải là con tê giác cứ húc bừa như cậu. Ơ này, cái gì thế kia?
- Tia chớp đó, - Chủ thuyền nói.
- Chúng ta đến rồi ư? - Arthos hỏi bằng tiếng Anh.
- Đến rồi! - Thuyền trưởng nói.
Quả thật, sau ba nhát chèo, con thuyền đã cập mạn chiếc tàu nhỏ.
Người thuỷ thủ đang đợi, cái thang đã buông sẵn, hắn đã nhận ra con thuyền.
Arthos leo lên trước tiến nhanh nhẹn như thuỷ thủ thực thụ.
Aramis từ lâu đã quen với thang dây và những phương tiện khác ít nhiều sáng tạo dùng đề vượt qua những nơi cấm đoán. D'Artagnan thì như một thợ săn hươu nai và hoẵng. Còn Porthos thì cứ lấy sức mà giẫy.
Leo thang dây đối với mấy tên đầy tớ khó khăn hơn. Không phải với Grimaud, bác như giống mèo ống máng, gầy và thon, bao giờ cũng tìm được cách leo lên mọi chỗ. Nhưng đối với Mousqueton và Blaisois, mấy người thủy thủ buộc phải đẩy họ lên đến ngang tầm tay của Porthos, rồi chàng hộ pháp cứ tóm lấy cổ áo của họ mà lôi lên boong tàu.
Thuyền trưởng dẫn hành khách vào phòng đã sửa soạn cho họ, nó gồm có mỗi một gian, cho nên họ phải ở chung. Rồi hắn đi ra, viện cớ phải sai phải làm các việc.
- Khoan đã, - D'Artagnan bảo, - Ông chủ ơi, ông có bao nhiêu người ở trên tàu?
- Tôi không hiểu, - Hắn trả lời bằng tiếng Anh.
- Arthos dịch hộ tôi với.
Arthos hỏi lại bằng tiếng Anh.
- Ba người, - Groslow đáp, - Tất nhiên không kể tôi.
D'Artagnan hiểu, vì chủ tàu vừa nói vừa giơ ba ngón tay.
- Ồ ba à? - D'Artagnan nói. - Tôi bắt đầu yên tâm hơn. Mặc lòng, trong khi các cậu sửa soạn chỗ nằm, tôi đi một vòng quanh tàu xem sao.
- Còn tôi, - Porthos nói, - Tôi đi lo bữa tối.
- Cái dự tính ấy thật đẹp đẽ và hào hiệp, Porthos ạ, hãy thực hiện ngay đi. Còn Arthos, anh hãy cho tôi mượn gã Grimaud, khi đánh bạn với Parry hắn đã học sủa được chút ít tiếng Anh; hắn sẽ làm thông ngôn cho tôi.
- Đi đi, Grimaud, - Arthos bảo.
Một tay cầm khẩu súng ngắn, một tay nhấc sẵn chiếc dèn có sẵn ở trên bong, d'Artagnan bảo chủ tàu:
- Come!
Cùng với chữ Goddam(2), đó là tất cả những gì anh nhớ được trong tiếng Anh.
D'Artagnan đi đến cửa quầy tàu và xuống sàn giữa.
Sàn giữa chia làm ba khoang; khoang d'Artagnan đang xuống nó có thể kéo dài từ cột buồm nhỏ thứ ba đến tận đuôi tàu, phía trên nó là ván sàn phòng Arthos, Porthos và Aramis đang sửa soạn nghỉ ngơi. Khoang thứ hai ở giữa tàu dùng làm nơi nghỉ cho bọn đầy tớ. Khoang thứ ba kéo dài dưới mũi tàu, nghĩa là dưới cái buồng mà thuyền trưởng dựng tạm và Mordaunt nấp trong đó.
D'Artagnan vừa bước xuống thang vừa dang tay giơ chiếc đèn ra phía trước và nói:
- Ồ, ồ, sao mà lắm thùng gỗ thế này. Hẳn là căn hầm của Ali Baba(3).
- Ông nói cái gì thế? - Gã thuyền trưởng nói bằng tiếng Anh.
D'Artagnan hiểu qua giọng nói. Anh đặt chiếc đèn lên một thùng rượu và nói:
- Tôi muốn biết có cái gì trong những thùng này.
Chủ tàu toan trèo lên thang, nhưng lại thôi.
- Porthos! - hắn đáp.
- A, rượu vang portos hả? - D'Artagnan nói. - Dù sao cũng yên tâm, chúng ta sẽ không chết khát.
Rồi quay lại phía Groslow đang lau mồ hôi hột đổ trên trán, anh hỏi:
- Các thùng có đầy không?
Grimaud dịch lại.
- Có thùng đầy, Có thùng rỗng, - Groslow trả lời bằng một giọng dù cố gắng tự nhiên vẫn lộ ra vẻ lo lắng.
D'Artagnan lấy tay gõ gõ vào các thùng thấy rằng có năm thùng đầy, còn các thùng khác đều rỗng. Rồi trước sự kinh hoàng của gã người Anh, anh soi đèn vào khe thùng và thấy rằng các khe thùng đều trống.
- Thôi, ta đi nào, - Anh nói và tiến về phía cửa thông sang khoang thứ hai.
Viên thuyền trưởng đứng ở phía sau luôn luôn hốt hoảng, nói:
- Khoan đã, tôi có chìa khoá của cửa ấy.
Và vội vàng đi trước d'Artagnan và Grimaud, hắn run run tay tra chìa khoá vào ổ. Mousqueton và Blaisois sắp sửa ăn bữa tối.
Trong khoang này rành rành chẳng có gì để tìm kiếm hoặc lấy ra cả: ánh đèn soi rõ những người bạn đồng hành xứng đáng ấy và tất cả mọi ngóc ngách.
Người ta chuyển sang thăm khoang thứ ba.
Đó là phòng các thuỷ thủ.
Ba bốn chiếc võng mắc ở trần; một cái bàn treo bằng hai sợi dây luồn qua mỗi đầu bàn, hai cái ghế một và gãy chân, đó là tất cả đồ đạc trong phòng.
D'Artagnan tới vén mấy tấm rèm treo ở vách và chẳng thấy gì khả nghi, anh trở lên trên boong.
- Thế còn căn buồng này? - Anh hỏi.
Grimaud dịch ra tiếng Anh và chủ tàu đáp:
- Đó là buồng của tôi. Ông có muốn vào không?
- Mở cửa ra, - D'Artagnan bảo.
Chủ tàu tuân theo, d'Artagnan giơ đèn và ló đầu qua cánh cửa hé mở và thấy rằng căn buồng đó là một túp lều thật sự. Anh nói:
- Tốt! Nếu có một đội quân ở trên tàu, thì chẳng phải nó được giấu ở đây. Thôi ta về xem Porthos đã kiếm được cái gì ăn chưa?
Rồi gật đầu cảm ơn chủ tàu, anh trở về căn phòng danh dự có các bạn anh ở đó.
Hình như Porthos chẳng kiếm được gì ăn cả, hoặc giả - Nếu có kiếm được cái gì đó thì do cái mệt thắng cái đói, anh nằm trong tấm áo choàng, và lúc d'Artagnan về thì anh đã ngủ say.
Được những cơn sóng biển đầu tiên ru êm, Arthos và Aramis cũng lim dim con mắt và mở choàng khi nghe tiếng bạn bước vào.
- Thế nào? - Aramis hỏi.
- Ổn cả, - D'Artagnan đáp, - Chúng ta có thể ngủ yên.
Được đảm bảo như vậy, Aramis lại ngả đầu xuống sàn, Arthos gật đầu thân ái, và d'Artagnan, cũng như Porthos, còn cần ngủ hơn là ăn, anh nằm ngủ trong chiếc áo choàng, gươm tuốt trần, mình chắn ngang lối đi để không ai có thể đi vào mà không đụng phải anh.
Chú thích:
(1) Tầm bằng 1 phần 10 hải lý, tức 185 mét.
(2) Come: lại đây!
Goddam: tiếng rủa
(3) Truyện "Nghìn lẻ một đêm" hồi ấy vừa mới được dịch ra lần đầu tiên và rất thịnh hành. Trong truyện "Nghìn lẻ một đêm" Ali Baba dùng các thùng rỗng để nhốt những tên cướp.


Chương 75

Rượu vang Porto


Mười phút sau, các ông chủ ngủ thiếp cả, nhưng bọn đầy tớ thì không ngủ được vì đói và nhất là vì khát.
Blaisois và Mousqueton sắp chuẩn bị chỗ nằm bằng một tấm ván và một chiếc va-li, trong khi ấy một chiếc bàn treo giống như cái bàn ở phòng bên cạnh, trên đặt một bình rượu bia và ba cái cốc cứ lắc la lắc lư theo sóng biển.
- Sóng lắc dữ quá! - Blaisois nói, - Tôi cảm thấy lại sắp bị say sóng như hôm đến.
Mousqueton đáp:
- Để chống say sóng, chỉ có bánh lúa mạch và rượu houblon là hay nhất.
Blaisois vừa sửa soạn chỗ nằm xong, loạng choạng bước đến ngồi cạnh cái bàn nơi Mousqueton đang ngồi và bảo:
- Mousqueton ơi, thế còn cái chai bằng mây của cậu đâu, cậu đánh mất rồi ư!
- Không, - Mousqueton đáp, - Parry giữ rồi. Cái lũ quỷ sứ Scotch ấy lúc nào cũng khát.
Rồi quay về phía Grimaud vừa mới theo d'Artagnan đi tuần tra về, hắn hỏi:
- Còn anh, Grimaud, anh có khát không?
- Cũng như một thằng Scotch, - Grimaud rầu rầu đáp.
Rồi bác ngồi xuống cạnh Blaisois và Mousqueton, lấy ở trong túi ra một cuốn sổ tay và tính toán tiền chi tiêu của cả hội mà bác làm quản lý.
- Ôi chao ơi. - Blaisois kêu lên, - Bụng tôi nó cuốn cuộn lên rồi đây này.
Lên giọng thầy thuốc Mousqueton bảo:
- Thế thì phải ăn một chút thức ăn.
Vẻ mặt thảm hại, Blaisois đưa ngón tay khinh thị chỉ cái bánh lúa mạch và bình rượu bia và nói:
- Cái kia mà cậu gọi là thức ăn ư?
- Này Blaisois, - Mousqueton nói :
- Cậu nên nhớ rằng bánh mì là thức ăn thật sự của người Pháp, mà không phải lúc nào người Pháp cũng có bánh mì ăn đâu; hỏi Grimaud mà xem.
Với một sự nhanh nhẹn nó làm vinh dự cho tài ứng đối lanh lợi của mình, Blaisois đáp:
- Phải, nhưng mà rượu bia thì có phải là thức uống của người Pháp không?
Mắc bí và lúng túng, Mousqueton ậm ừ đáp:
- Về điểm này thì đúng là không thật và người Pháp ác cảm với rượu bia cũng như người Anh ác cảm với rượu vang.
Bình thường, Blaisois vẫn phục lăn những kiến thức sâu xa của Mousqueton, nhưng lần này hắn đâm ra hoài nghi và hỏi:
- Ông Mousqueton ơi, thế những người Anh không thích rượu vang như thế nào?
- Họ ghét rượu vang.
- Ấy thế mà tôi đã trông thấy họ uống đấy.
- Chịu hình phạt thôi, - Mousqueton vênh vang nói - Chứng cớ là một ông hoàng người Anh đã chết vì người ta nhét vào một thùng rượu bồ đào. Tôi đã nghe ông tu viện trưởng D'Herblay kể như vậy.
- Cái thằng ngốc thật! - Blaisois nói, - Tôi rất mong ở vào địa vị của hắn.
- Cậu có thể làm được đấy? - Grimaud vừa ghi chép các con số vừa nói.
- Sao tôi lại có thể làm như vậy? - Blaisois hỏi.
Grimaud lẩm bẩm nhẩm nhớ bốn và chuyển con số đó sang cột bên cạnh rồi đáp:
- Được đấy!
- Tôi làm được ư, bác Grimaud? Bác giải thích xem.
Trong khi Blaisois nêu những câu hỏi, thì Mousqueton vẫn giữ im lặng, nhưng qua vẻ mặt anh ta thấy rõ chẳng phải là thản nhiên.
Grimaud vẫn lẩm nhầm tính cộng và viết xong tổng số. Bác chỉ tay về phía khoang tàu đầu tiên mà bác và d'Artagnan đã đến xem và nói:
- Porthos.
- Sao? Những thùng gỗ mà tôi đã nhìn thấy qua cánh cửa hé mở ấy à?
- Porthos, Grimaud nhắc lại và lại bắt đầu một con toán mới.
Blaisois nói với Mousqueton:
- Tôi nghe nói portos là một thứ rượu vang ngon tuyệt của Tây Ban Nha.
- Ngon tuyệt! - Mousqueton vừa đáp vừa liếm mép, - Ngon tuyệt. Trong hầm của ông nam tước đở Bracieux có thứ rượu ấy.
Gã Blaisois thật thà bảo:
- Giá chúng ta nài bọn Anh bán cho một chai nhỉ?
Mousqueton chợt trở lại với những bản tính ăn trộm cũ hắn nói:
- Bán à! Chàng nhỏ ơi, người ta thấy rõ là cậu chưa có kinh nghiệm việc đời. Tại sao lại đi mua trong khi có thể lấy được.
- Ấy à? - Blaisois đáp - Thèm muốn của người khác - hình như là điều cấm đấy!
- Ở đâu nào - Mousqueton hỏi.
Trong những điều răn của Chúa hoặc Nhà thờ gì đó tôi không nhớ rõ. Nhưng điều tôi biết là có câu:
Của người khác
Chớ có thèm,
Vợ người ta
Chớ tòm tem.
Bằng giọng kẻ cả nhất, Mousqueton nói:
- Lại một lý sự trẻ con. Phải trẻ con. Tôi xin nhắc lại, ông Blaisois ạ. Tôi xin hỏi ông, trong các kinh Thánh có chỗ nào ông thấy nói rằng bọn Anh là người đồng loại của ông không?
- Đúng là không thấy ở đâu cả, hoặc giả là tôi không nhớ.
- Lý sự của trẻ con, tôi xin nhắc lại, - Mousqueton nói - Blaisois thân mến ơi, nếu cậu đi chinh chiến mười năm như Grimaud hoặc tôi đây, cậu sẽ biết phân biệt của người khác với của kẻ thù. Tôi nghĩ rằng do người Anh là một kẻ thù, mà rượu vang porto kia lại là của người Anh; vậy thì nó là của chúng ta, vì chúng ta là người Pháp. Cậu không biết câu cách ngôn này ư: Của quân thù tha hồ mà lấy.
Tài lém miệng ấy được nhấn mạnh bằng tất cả quyền uy mà Mousqueton rút ra từ kinh nghiệm lâu đài khiến Blaisois kinh ngạc.
Hắn cúi đầu như để suy ngẫm và đột nhiên ngẩng đầu lên như một kẻ được trang bị một lý lẽ không thể cưỡng nổi. Hắn nói:
- Ông Mousqueton ơi, thế các vị chủ của chúng ta có tán thành ý kiến của ông không?
Mousqueton mỉm cười khinh khỉnh và nói:
- Có lẽ tôi phải đến quấy rầy giấc ngủ của các vị công hầu trứ danh ấy để nói rằng: "Thưa các ngài, tên Mousqueton, đầy tớ của các ngài đang khát, các ngài cho phép nó uống không ạ?" Tôi xin hỏi các bạn, tôi khát hay không thì có can hệ gì đến ông de Bracieux?
Blaisois lắc đầu nói:
- Thứ rượu ấy đắt lắm.
- Blaisois ơi, - Mousqueton nói, - Dù có là vàng nước uống được chăng nữa, thì các ông chủ của chúng ta cũng chẳng nhịn đâu. Nên biết rằng, nam tước de Bracieux khá giàu để uống một mình một thùng rượu portos, dẫu phải trả mỗi giọt rượu một pistol.
Càng lúc càng vênh vang hãnh diện, Mousqueton nói tiếp:
- Mà các ông chủ đã không nhịn rượu thì việc gì các đầy tớ lại nhịn?
Rồi Mousqueton cầm lấy bình rượu bia đem dốc hết ra ngoài cửa sổ thành tàu và oai vệ tiến đế phía cửa thông ra khoang tàu.
- A, a. - Hắn nói, - Cửa đóng rồi? Cái bọn quỷ sứ Anh cát lợi này là đa nghi quá nhỉ?
- Cửa đóng à? - Blaisois nói với giọng thất vọng không kém. - Khổ thân tôi, bụng tôi càng nôn nao dữ.
Mousqueton quay về phía Blaisois với bộ mặt thật là thảm hại, rành rành là hắn chia sẻ đến cao độ nỗi thất vọng của thằng bạn trẻ.
- Cửa đóng! - Hắn nhắc lại.
- Nhưng mà, - Blaisois nói ướm, - Anh Mousqueton ơi tôi đã nghe anh kể rằng, hồi còn trẻ có lần ở Chantilly anh đã nuôi nấng chủ anh và bản thân anh bằng cách đánh bẫy chim trĩ, câu cá chép và quăng thòng lọng các chai rượu thì phải.
- Tất nhiên, - Mousqueton đáp, - Hoàn toàn đúng như vậy, và Grimaud kia, có thể nói cho cậu nghe. Nhưng mà hầm rượu có cửa thông gió, và rượu đóng vào chai? Tôi không thể quăng thòng lọng qua vách tường này, cũng không thể dùng một sợi dây nhỏ kéo cả một thùng rượu đến hai tạ.
- Không, - Blaisois nói,
- Nhưng anh có thể nhấc vài ba tấm ván ở vách ra và lấy khoan khoan một lỗ ở một thùng rượu chứ.
Mousqueton trợn tròn mắt lên và nhìn Blaisois như một người rất đỗi ngạc nhiên tìm thấy ở một kẻ khác những đức tính không ngờ tới, hắn nói:
- Đúng đấy, có thể làm như vậy. Nhưng kiếm đâu ra một cái đục để nậy ván và một cái khoan để khoan thùng?
Vừa kết sổ thu chi, Grimaud vừa nói:
- Cái túi đồ nghề.
- A, phải rồi, cái túi đồ nghề, - Mousqueton nói, - Thế mà mình không nghĩ ra.
Thật vậy, Grimaud không chỉ là quản lý của đoàn mà còn là thợ sửa chữa binh khí nữa, ngoài quyển sổ, bác còn một túi đồ nghề. Do Grimaud là một con người cực kỳ thận trọng, cái túi đồ nghề của bác xếp cẩn thận trong va-li, đựng các thứ dụng cụ cần thiết nhất. Trong cái túi có một mũi khoan to vừa phải. Mousqueton chộp lấy ngay.
Còn cái đục, chẳng phải tìm đâu xa; con dao găm đeo ở thắt lưng dùng thay còn lợi hơn. Mousqueton tìm một chỗ có tấm ván long ra, điều ấy dễ thôi, và bắt tay ngay vào việc.
Blaisois xem làm với vẻ khâm phục xen lẫn nôn nóng; chốc chốc hắn lại góp ý về cách nậy một cái đinh hoặc thực hành những lời khuyên thật thông minh và sáng suốt.
Sau một lúc Mousqueton đã nậy ra được ba tấm ván.
- Đấy! - Blaisois nói.
Mousqueton trái ngược với con ếch trong ngụ ngôn cứ tưởng rằng mình to hơn thật. Khốn thay, nếu hắn ta đã rút gọn cái tên mình được một phần ba, thì hắn lại chẳng làm được như vậy cho cái bụng của mình.
Hắn thử chui qua cái lỗ hổng vừa mở xong, nhưng đau khổ thay, vì thấy còn phải nậy ít ra vài ba tấm ván ra thì hắn mới chui lọt.
Hắn buông một tiếng thở dài và lui ra để tiếp tục công việc.
Lúc ấy Grimaud đã tính toán xong. Rất thích thú với công việc đang tiến hành, bác đứng dậy đi tới chỗ các bạn và nom thấy nhưng cố gắng vô ích của Mousqueton để chui sang bên kia.
- Để tôi - Grimaud bảo.
Chỉ một tiếng đó với riêng bác giá trị bằng một đoản thi và như người ta biết một đoản thi với riêng bác giá trị bằng một bản trường thi. Mousqueton quay lại hỏi:
- Sao, bác à?
- Tôi, tôi sẽ qua?
Liếc nhìn thân hình dài và mảnh của bạn, Mousqueton nói:
- Đúng thế, bác sẽ qua được, và dễ dàng là khác.
- Phải đấy, - Blaisois nói, - Bác ấy biết rõ những thùng đầy vì đã vào hầm cùng với ông hiệp sĩ d'Artagnan. Mousqueton, hãy để bác Grimaud qua.
Mousqueton hơi tự ái, nói:
- Tôi cũng qua dễ dàng được như Grimaud.
- Ừ nhưng mà sẽ lâu hơn và tôi đã khát khô cổ rồi. Bụng tôi càng ngày càng nôn nao.
Mousqueton đưa cái bình đựng rượu bia và mũi khoan cho kẻ thay mình làm cuộc mạo hiểm và nói:
- Vậy thì sang đi, Grimaud.
- Chuẩn bị cốc sẵn đi, - Grimaud bảo.
Và bác tỏ một cử chỉ thân ái với Mousqueton để hắn tha thứ cho bác đang kết thúc một công việc đã được một kẻ khác khởi đầu rất xuất sắc. Rồi như một con rắn ráo bác trườn vào cái lỗ hổng và biến mất.
Blaisois say sưa đến mê hồn. Trong tất cả những chiến công thực hiện được từ khi sang nước Anh bởi những con người phi thường mà bọn họ có cái may mắn được giúp việc, thì chiến công này đối với hắn dường như dứt khoát là kỳ diệu hơn cả.
Mousqueton nhìn Blaisois với vẻ thân thiện mà nó cũng không tìm cách lẩn tránh và nói:
- Blaisois, rồi cậu xem, những lính tráng kỳ cục như chúng tớ, khi khát chúng tớ uống như thế nào.
Từ cuối hầm tàu. Grimaud bảo:
- Cái áo choàng.
- Đúng thế. - Mousqueton nói.
- Bác ấy muốn gì? - Blaisois hỏi.
- Bịt lỗ hổng bằng cái áo choàng.
- Để làm gì cơ?
- Sao mà ngốc thế? - Mousqueton nói. - Nếu có ai vào thì sao?
- À, đúng thật! - Blaisois kêu lên với niềm thán phục ngày càng rõ rệt. - Nhưng như thế thì bác ấy trông rõ sao được.
- Grimaud lúc nào cũng nhìn rõ, - Mousqueton đáp, - Ban đêm cũng như ban ngày.
- Bác ấy sướng nhỉ, - Blaisois nói, - Ban đêm không có đèn nên thì tôi cũng chẳng đi nổi hai bước mà không cụng dầu.
- Ấy là vì không phục vụ trong quân ngũ. - Mousqueton nói.
Nếu có thì cậu đã học được cách lấy một cái kim từ trong lò ra.
- Nhưng thôi, im lặng! Hình như có người đến.
Mousqueton hú một tiếng sáo báo động quen thuộc với bọn đầy tớ hồi còn trẻ, rồi ngồi vào bàn và ra hiệu cho Blaisois làm theo.
Blaisois tuân lời.
Của mở. Hai người trùm áo choàng xuất hiện. Một người lên tiếng:
- Ồ, ồ! Mười một giờ mười lăm rồi mà chưa đi ngủ à? Thế là trái điều lệnh đấy. Mười lăm phút nữa phải tắt hết đèn đóm và mọi người phải ngáy đều rồi.
Hai người bước đến cái cửa khoang nơi Grimaud đã chui vào, mở cửa, đi vào và đóng cửa lại:
Blaisois run rẩy nói:
- Thôi chết rồi, bác ấy nguy to.
- Grimaud cáo già lắm! - Mousqueton lẩm bẩm.
Và họ đợi chờ, dỏng tai nghe và nín thở.
Mười phút trôi qua, trong khi đó không có tiếng động gì đáng nghi ngại là Grimaud bị lộ.
Cánh cửa lại mở, hai người khoác áo choàng đi ra và khép cửa lại cũng thận trọng như khi họ vào, rồi đi ra ngoài sau khi ra lệnh tắt đèn đi ngủ.
Blaisois thì thào:
- Ta có tuân lệnh không? Tôi thấy họ có điều gì ám muội.
Họ bảo mười năm phút, ta còn năm phút nữa, - Mousqueton nói.
- Ta báo cho ông chủ biết chăng?
- Đợi Grimaud đã.
- Nhưng nếu họ giết bác ấy rồi thì sao?
- Thì Grimaud phải kêu chứ.
- Anh biết, bác ấy như câm ấy mà.
- Thì ta cũng phải nghe tiếng đánh nhau.
- Nhưng nếu bác ấy không ra?
- Bác ta đây rồi.
Quả thật, đúng lúc ấy, Grimaud vén tấm áo choàng lên, thò ra khỏi lỗ hổng một khuôn mặt tái nhợt, đôi mắt hoảng sợ trợn tròn lên để lộ một đồng tử nhỏ giữa một vòng trắng lớn. Bác cầm ở tay cái bình bia đựng đầy một chất gì đó đem lại gần ánh đèn bốc khói để soi và thốt ra một tiếng ối! Với vẻ khiếp đảm hết sức khiến Mousqueton hoảng sợ lùi lại một bước và Blaisois suýt ngất.
Tuy nhiên cả hai người cũng tò mò nhìn vào cái bình bia, nó đựng đầy thuốc súng.
Tin chắc rằng con tàu chở thuốc nổ, chứ không phải rượu vang, Grimaud băng mình lên cửa quầy tàu, nhảy một bước đến phòng các ông chủ ngủ. Bác đẩy khẽ cửa, cánh cửa chạm vào người d'Artagnan khiến anh choàng dậy.
Vừa trông thấy bộ mặt thất sắc của Grimaud, anh hiểu ngay là có việc gì bất trắc xảy ra và toan kêu lên. Nhưng Grimaud bằng một cử chỉ nhanh hơn lời nói đặt một ngón tay lên miệng anh và bằng một hơi thở mạnh không ngờ có trong một thân hình mảnh dẻ như vậy, bác thổi tắt ngọn đèn đêm ở cách đó ba bước.
D'Artagnan tì tay nhổm người lên, Grimaud quỳ một chân xuống sàn và vươn dài cổ, mọi giác quan kích động cực độ, bác thì thầm kể vào tai anh một câu chuyện xét cho cùng khá là nguy kịch để khỏi phải dùng đến cử chỉ và nét mặt.
Trong khi đó, Arthos, Porthos và Aramis ngủ nhưng những người đã thức trắng tám ngày qua; và ở sàn giữa Mousqueton đang thận trọng buộc các dây ngù, còn Blaisois sợ dựng cả tóc gáy cũng cố làm theo.
Việc đó đã diễn ra như thế nào?
Vừa mới chui qua lỗ hổng vào khoang tàu đầu tiên là bác tìm đến một thùng rượu. Bác gõ lên thấy thùng rỗng. Bác sang một thùng khác cũng lại thùng rỗng.
Nhưng đến thùng thứ ba gõ thì nghe tiếng đùng đục không thể sai được là thùng này đầy.
- Hay lắm, - Grimaud nói, - Thế là đỡ công đục.
Bác ghé bình bia vào, mở vòi thì thấy có chất gì chảy rất êm và chậm từ thùng ra.
Rất có ý thức là không thể mang về cho đồng đội một thứ rượu mà mình không thể bảo đảm, Grimaud trước hết cẩn thận đóng vòi lại và đưa bình lên miệng để nếm thì nghe thấy tiếng báo động của Mousqueton.
Nghi là có cuộc tuần tra đêm, bác lách mình vào kẽ hai cái thùng và nấp sau một chiếc.
Quả nhiên một lát sau, cửa mở ra rồi đóng lại, sau khi hai người khoác áo choàng vào như chúng ta đã biết lúc họ xuất hiện và ra lệnh cho Blaisois và Mousqueton tắt đèn.
Một người cầm một chiếc đèn có kính che kín và cao để ngọn lửa không bốc khói lên. Hơn nữa kính lại được che bằng tờ giấy trắng để làm dịu hoặc đúng hơn là hút bớt ánh sang và độ nóng.
Người ấy là Groslow.
Người kia tay cầm một vật gì đó dài, dẻo và lại như một sợi dây thừng ngà ngà. Khuôn mặt hắn ta che một chiếc mũ rộng vành.
Grimaud tưởng rằng một sự thèm khát giống như của bác đã cuốn hút họ vào trong hầm và đến thăm chất rượu portos. Bác càng nép mình vào sau thùng rượu và bụng bảo dạ rằng nếu mình có bị phát hiện thì tội cũng chẳng lấy gì làm ghê gớm lắm.
Đến chỗ cái thùng mà Grimaud nấp ở phía sau hai người kia dừng lại.
Người cầm đèn lồng hỏi bằng tiếng Anh:
- Ông mang dây cháy đây chứ?
- Dây cháy đây, - Người kia đáp.
Nghe giọng nói người vừa đáp, Grimaud giật mình và cảm thấy ớn lạnh đến tận tuỷ sống. Bác khẽ nhổm đầu lên khỏi nắp thùng gỗ và nhận ra dưới cái mũ rộng vành khuôn mặt xanh xao của Mordaunt. Hắn hỏi:
- Dây này cháy độ bao lâu.
- Độ gần năm phút, - Chủ tàu đáp.
Giọng nói này cũng chẳng xa lạ với Grimaud. Bác nhìn và nhận ra Groslow.
- Vậy thì, - Mordaunt nói, - Ông báo cho người của ông hãy sẵn sàng, đừng nói để làm gì cả. Cái xuồng nhỏ vẫn neo theo tàu chứ?
- Giống như một con chó sói dắt đi theo chủ bằng một sợi dây gai…
Như vậy khi đồng hồ chỉ mười hai giờ mười lăm phút, các ông lẳng lặng xuống chiếc xuống.
- Sau khi châm lửa vào dây cháy à?
- Việc đó tôi lo. Tôi muốn thật chắc chắn về cuộc trả thù của tôi.
- Cái mái chèo ở trong xuống chứ?
- Mọi thứ đều sẵn sàng.
- Như vậy là thoả thuận rồi nhé!
Mordaunt quỳ xuống buộc một đầu dây cháy vào cái vòi thùng; để chỉ còn có việc châm lửa vào đầu dây kia.
Xong việc đó, hắn rút đồng hồ ra, đứng dậy và bảo:
- Ông nhớ rồi chứ? Đến mười hai giờ mười lăm, nghĩa là…
Hắn nhìn đồng hồ.
- Còn hai mươi phút.
- Tốt lắm, - Groslow đáp, - Tuy nhiên tôi cần lưu ý ông một lần cuối cùng rằng có nguy hiểm trong việc ông tự dành lấy, và có lẽ nên sai một người của chúng ta đốt dây mìn thì tốt hơn.
- Ông Groslow ơi, - Mordaunt nói, - Ông biết câu tục ngữ Pháp: "Mình làm lấy, thấy yên tâm". Tôi sẽ đem áp dụng nó.
Grimaud đã lắng nghe tất cả. Con mắt bác đã bù vào chỗ không hiểu hết lời nói. Bác đã trông thấy và nhận ra hai kẻ tử thù của bốn chàng ngự lâm quân. Bác đã tận mắt nhìn thấy Mordaunt đặt dây mìn và chính tai nghe thấy hắn nói câu tục ngữ bằng tiếng Pháp nên càng dễ đoán ra.
Cuối cùng bác sờ đi sờ lại cái chất đựng trong bình nó chẳng phải chất lỏng như Mousqueton và Blaisois chờ đợi, mà lại là những hạt bột thô nó kêu sin sít và tan vỡ ra trong tay bác.
Mordaunt rời gót cùng với thuyền trưởng. Tới cửa hắn dừng lại nghe ngóng và nói:
- Ông nghe chúng nó ngủ có mê không?
Thực vậy, qua ván sàn vẫn nghe thấy Porthos ngáy.
- Đúng là Chúa giao chúng nó cho ta! - Groslow nói.
- Lần này thì quỷ cũng không cứu được chúng nó!
Và cả hai đi ra.


Nguồn: http://vnthuquan.net/