Trở về
Arthos và Aramis đi theo hành trình mà d'Artagnan đã vạch ra và cố sức đi thật nhanh. Họ thấy dường như nếu bị bắt giữ ở gần Paris thì vẫn lợi hơn ở xa.
Trong nỗi thấp thỏm lo bị bắt , nên vào ban đêm tối nào họ cũng vạch lên tường hoặc lên kính ám hiệu đã thỏa thuận. Nhưng sáng ra tỉnh giấc họ rất đỗi ngạc nhiên thấy mình vẫn tự do.
Lần lần họ tìm về Paris, những biến cố lớn mà họ đã chứng kiển và đã làm đảo lộn nước Anh dần dần tan biến như những giấc mơ.
Trong khi đó trái lại những biến cố trong thời gian vắng mặt họ đã khuấy động Paris và các tỉnh xuất hiện trước mặt họ.
Trong sáu tuần vắng mặt họ, ở Pháp đã xảy ra rất nhiều sự việc nhỏ, chúng hợp lại cũng thành như một biến cố lớn. Nhân dân Paris buổi sáng tỉnh dậy không thấy hoàng hậu, không thấy vua, xôn xao náo động cả lên về sự ra đi này; và sự vắng mặt của Mazarin mà họ rất mong muốn cũng không bù lại nổi sự vắng mặt của hai hoàng thượng bỏ trốn.
Khi Paris biết tin cuộc chạy trốn đến Saint-Germain, cuộc chạy trốn mà chúng tôi đã để bạn đọc chứng kiến, thì tình cảm trước tiên khuấy động đô thành là một kiểu hốt hoảng mà trẻ con thường cảm thấy khi chúng thức giấc giữa ban đêm hoặc trong cảnh vắng lặng.
Nghị viên hốt hoảng và quyết định cử một phái đoàn đến tìm hoàng hậu và yêu cầu bà trở về Paris sớm.
Nhưng hoàng hậu còn đang say sưa với chiến thắng Lens và với niềm kiêu hãnh về cuộc bỏ trốn thực hiện thật là đẹp đẽ. Những đại biểu Nghị viện không những không có vinh dự được bà tiếp đón, mà còn phải đứng đợi ở ngoài đường cái. Tại đây quan chưởng ấn - vẫn viên chưởng ấn Séguier mà trong cuốn "Ba Người lính ngự lâm" chúng ta đã thấy hắn ngoan cố truy lùng một bức thư giấu tận trong yếm bà hoàng hậu - Séguier trao cho họ một bức tối hậu thư của triều đình nêu rõ là Nghị viện phải tự hạ mình nhận lỗi trước Hoàng thượng về những vấn đề đã dẫn tới cuộc xích mích chia rẽ họ nếu không thì ngày hôm sau Paris sẽ bị bao vây.
Ngay lúc này, theo dự kiến của cuộc bao vây đó, quận công d'Orléans đã chiếm cầu Saint-Clou và ngài Hoàng thân đang còn chói lọi về chiến thắng Lens của ngài đã giữ Charenton và Saint-Denis.
Một sự trả lời ôn hoà của triều đình có lẽ sẽ được nhiều người đồng tình. Tiếc thay lời đe doạ kia đã gây tác dụng ngược lại với điều mong đợi. Nó đã chạm lòng tự ái của Nghị viện, Nghị viện đang cảm thấy được sự ủng hộ mạnh mẽ của giai cấp tư sản mà việc thả Broussel vừa rồi càng tỏ rõ sức mạnh. Nghị viện bèn trả lời bức công hàm đó bằng cách tuyên bố rằng giáo chủ Mazarin rành rành là thủ phạm của tất cả những sự lộn xộn và bị coi là kẻ thù của nhà vua và quốc gia.
Nghị viện ra lệnh cho Mazarin rút lui khỏi triều đình ngay hôm đó và rời khỏi nước Pháp trong vòng tám ngày; quá hạn đó mà hẳn không chấp hành thì sẽ ra lệnh cho tất cả quần thần của nhà vua đuổi đánh hắn.
Câu trả lời kiên quyết ấy mà triều đình còn lâu mới ngờ tới, đồng thời đặt cả Paris và Mazarin ra ngoài vòng pháp luật. Bây giờ chỉ còn chờ xem Nghị viện hay triều đình sẽ thắng.
Triều đình bèn chuẩn bị tấn công và Paris chuẩn bị phòng thủ.
Thể là những nhà tư sản, thị dân lại bận vào cái việc thông thường của họ trong thời tao loạn, nghĩa là chăng các dây xích và đào phá nền đường phổ.
. Họ bỗng thấy ngài chủ giáo dẫn đến viện trợ cho họ hoàng thân de Conti, em của hoàng thân de Condé, và quận công de Longueville, em rể ông. Từ lúc đó họ vững dạ vì có hai vị thân vương về phe mình và hơn nữa lại có lợi thế về số đông. Sự viện trợ không hy vọng thà cô ấy đến với dân chúng Paris ngày mồng mười tháng Giêng.
Sau một cuộc bàn cãi sôi nổi, hoàng thân de Conti được phong làm tổng tư lệnh các quân đội của vua ở ngoài Paris, cùng với quận công d' Elubeuf, quận công de Bouillon và thống chế La Mothe làm trung tướng. Quận công de Longueville không chức trách và tước vị đành bằng lòng với việc phụ tá cho anh vợ mình.
Còn quận công de Beaufort từ Vendôme tới, sử chép rằng ông mang theo cái dáng bộ kiêu kỳ, mớ tóc dài và đẹp và cái tính được lòng dân nó khiến ông xứng đáng với vương quyền của các khu chợ.
Thế là quân đội Paris được tổ chức một cách vội vã; những người tư sản, thị dân do một tình cảm nào đó thôi thúc hối hả cải trang thành binh sĩ, đội quân lâm thời đã thử làm một cuộc xuất quân chủ yếu nhằm tự trấn an mình và trấn an những người khác bằng sự tồn tại của mình hơn là nhằm một điều gì nghiêm túc.
Nó mang một lá cờ phấp phơi trên đầu và ghi một tiêu ngữ thật lạ lùng: "Chúng ta đi tìm đức vua của chúng ta!"
Những ngày tiếp sau, họ làm một vài cuộc hành quân bộ phận chẳng có kết quả nào khác ngoài việc cướp đi mấy đàn gia súc và đốt cháy vài ba ngôi nhà.
Lúc ấy vào những ngày đầu tháng Hai. Đúng ngày mồng một, bốn người bạn của chúng ta cập bến Boulogne-sur-Mer và chia làm hai ngả đi về Paris.
Đến ngày thứ tư, họ tránh Nanterre một cách thận trọng để khỏi rơi vào tay một nhóm nào đó theo hoàng hậu.
Arthos làm những việc phòng bị ấy một cách cẩn thận, nhưng Aramis đã nhắc nhủ anh rất chí lý rằng: họ không có quyền bất cần, họ được vua Charles ủy nhiệm một việc tối thượng và thiêng liêng và nhiệm vụ ấy được định hướng trao từ dưới chân đoạn đầu đài chỉ kết thúc ở dưới chân bà hoàng Henriete.
Arthos dành nhượng bộ.
Đến ngoại ô hai lữ khách thấy việc canh phòng cẩn mật, toàn Paris được vũ trang. Lính canh không cho hai nhà quý tộc đi qua và gọi viên đội.
Viên đội ra ngay lập tức và lấy bộ dạng quan trọng như những người tư sản thường làm khi có vinh dự được mang một chức vị nhà binh.
- Các ông là ai? - Hắn hỏi.
- Hai nhà quý tộc, - Arthos đáp.
- Các ông từ đâu đến - Từ London.
- Các ông đến Paris làm gì?
- Thực hiện một sứ mệnh nơi hoàng hậu Anh quốc.
- Ái chà! Hôm nay tất cả mọi người đều đến nhà hoàng hậu Anh quốc cả! viên đội đối đáp. - Ở đồn này đã có ba nhà quý tộc đang đưa kiểm tra giấy tờ và sắp đi đến chỗ hoàng hậu. Giấy thông hành của các ông đâu?
- Chúng tôi không có.
- Sao, các ông không có à?
- Không, chúng tôi đã nói là chúng tôi từ bên nước Anh về. Rời Paris từ trước khi nhà vua ra đi, chúng tôi hoàn toàn không biết tình hình chính trị diễn ra đến đâu rồi.
- A! - Viên đội nói với vẻ ranh mãnh - Các ông là những người thuộc phái Mazarin định vào đây để dọ thám chúng tôi.
Từ nãy Arthos vẫn để Aramis trả lời, bây giờ mới nói:
- Ông bạn thân mến ơi, nếu chúng tôi là người phải Mazarin thì trái lại, chúng tôi đã có đủ mọi thứ giấy tờ. Trong hoàn cảnh của các ông lúc này tôi thiết tưởng trước hết các ông hãy đề phòng những người có đầy đủ các giấy tờ hợp lệ.
- Các ông hãy vào trong đơn vị canh phòng, - viên đội nói, - và trình bày lý lẽ với ông chỉ huy đồn.
Hắn ra hiệu cho lính gác đứng ra một bên, rồi đi trước dẫn hai nhà quý tộc vào.
Đơn vị canh phòng gồm toàn những nhà tư sản và lớp bình dân người này đánh bạc, người kia uống rượu, người khác tán chuyện gẫu.
Trong một góc được canh chừng, ba người quý tộc đến trước đang đợi kiểm tra giấy tờ thông hành. Viên sĩ quan xem xét giấy tờ ngồi ở phòng bên cạnh, cấp bậc của anh ta khá quan trọng nên được dành một phòng riêng.
Cử chỉ trước tiên của những người đến trước và những người đến sau là từ hai đầu của đơn vị canh phòng, họ đưa mắt nhìn nhau rất nhanh và dò xét.
Những người đến trước khoác những tấm áo choàng dài phủ lên những bộ y phục chỉnh tề. Một người nhỏ nhắn hơn đồng bọn đứng ở phía sau khuất trong bóng. Nghe viên đội báo rằng, rất có khả năng hắn dẫn vào hai kẻ thuộc phái Mazarin, ba người quý tộc lắng tai lên và chú ý. Người nhỏ nhất trong bọn họ đã bước lên hai bước lại lùi lại một bước và lẩn vào bóng tối. Nghe nói hai người mới đến không có thông hành cả đơn vị canh phòng hầu như nhất trí là không để cho họ vào.
- Có chứ? - Arthos nói, - Trái lại, rất có khả năng là chúng tôi sẽ vào bởi vì dường như chúng tôi đang tiếp xúc với những người biết chuyện. Vả lại có thể làm một điều rất đơn giản là thỉnh tên họ của chúng tôi đến Lệnh bà hoàng hậu Anh quốc. Nếu như Lệnh bà bảo đảm cho chúng tôi, thì chắc các ông sẽ thấy rằng để chúng tôi đi vào chẳng có điều gì tai hại cả.
Nghe câu nói ấy, sự chú ý của người quý tộc nấp trong bóng tối càng tăng gấp bội, thậm chí kèm theo một cử chỉ kinh ngạc, đến nỗi tấm áo choàng mà ông ta quấn chặt lại đẩy rơi chiếc mũ xuống đất:
Ông ta cúi xuống và vội vã nhặt lên.
Ồ! Lạy Chúa! - Aramis thúc khuỷu tay vào Arthos mà nói - Anh có trông thấy không?
- Cái gì cơ? - Arthos hỏi.
- Khuôn mặt của người nhỏ nhất trong số ba nhà quý tộc kia.
- Không.
- Hình như tôi đã…, nhưng điều ấy không thể có được.
Vừa lúc ấy viên đội vào phòng riêng của viên sĩ quan chỉ huy để nhận lệnh đi ra, hắn trao một tờ giấy cho ba người quý tộc và nói:
- Giấy thông hành hợp lệ cả, hãy để cho ba ông này đi qua.
Ba người quý tộc cúi đầu chào và vội vã đi ra lối cửa đã mở theo lệnh viên đội.
Aramis đưa mắt dõi theo và lúc người khách nhỏ nhất đi qua trước mặt, anh siết mạnh tay Arthos.
- Có chuyện gì đấy hả bạn? - Arthos hỏi.
- Tôi thấy… chắc là một tưởng tượng của tôi.
Rồi quay lại phía viên đội, anh hỏi:
- Xin ông cho biết ông có quen ba nhà quý tộc vừa ra khỏi dây không.
- Tôi biết họ qua giấy thông hành: đó là các ông de Flamarenx, de Châtillon và de Bruy, ba nhà quý tộc phái Fronde đang đi tới chỗ quận công de Longueville.
Aramis như trả lời cho ý nghĩ của chính mình hơn là nói với viên đội:
- Quái lạ, mình tưởng như nhận ra chính lão Mazarin.
Viên đội bật cười, nói:
- Lão ấy à! Liều mạng đến chỗ chúng tôi để được treo cổ à? Đâu lại ngu ngốc đến thế!
- A! - Aramis lẩm bẩm, - Có thể mình bị lầm lắm chứ; mình chẳng còn con mắt sắc sảo như d'Artagnan.
- Ai nói đến d'Artagnan đó? - Viên sĩ quan vừa lúc ấy ra đến ngưỡng cửa hỏi.
- Ôi! - Grimaud trợn tròn mắt kêu lên.
- Cái gì thế? - Aramis và Arthos cùng hỏi.
- Planchet! - Grimaud nói - Planchet với giáp che cổ.
- À! Các ông de La Fère và D'Herblay, - viên sĩ quan reo lên. - Các ông trở về Paris! Ôi, tôi mừng quá! Chắc hẳn các ông đến với các vị hoàng thân?
Trong khi Arthos mỉm cười nhìn người bạn cũ của Mousqueton, Bazin và Grimaud giữ một cấp bậc quan trọng trong đội tự vệ tư sản thì Aramis nói:
- Như cậu thấy đấy, Planchet thân mến ạ.
- Thưa ông D'Herblay, liệu ông có thể cho tôi biết tin tức về ông d'Artagnan mà ông vừa nhắc đến.
- Bạn thân mến ơi, chúng tôi chia tay ông ấy cách đây bốn ngày, và chắc hẳn ông ấy đã tới Paris trước chúng tôi.
- Không đâu, tôi chắc chắn là ông ấy chưa trở về đô thành, có lẽ ông ấy ở lại Saint-Germain.
- Tôi vừa mới qua đấy hôm nay mà.
Aramis mỉm cười hỏi:
- Thế mỹ nhân Madeleine có tin tức gì về ông ấy không?
- Không, tôi cũng chẳng giấu ông rằng bà ta tỏ vẻ rất lo lẳng.
- Kể ra thì giờ cũng gấp lắm rồi - Aramis nói - mà chúng tôi cũng rất vội vã. Vậy nên Arthos thân mến ơi, tôi chẳng hỏi tin thêm về anh bạn của chúng ta, và hãy cho phép tôi chúc mừng ông Planchet.
- A! Ông hiệp sĩ! - Planchet nghiêng mình nói.
- Ông trung uý! - Aramis đáp.
- Trung uý và được hứa hẹn lên đại uý.
- Tuyệt lắm! - Aramis nói. - Thế nhưng vinh dự ấy đến với anh như thế nào?
- Trước hết, các ông có biết rằng chính tôi đã cứu ông de Rochefort không.
- Biết quá đi! Ông ta đã kể cho chúng tôi nghe.
- Việc ấy khiến tôi suýt bị lão Mazarin treo cổ và tất nhiên cũng khiến tôi được lòng dân hơn nữa.
- Và cũng nhờ được lòng dân…
- Không, nhờ có một cái gì hơn thế kia. Hẳn các ông biết rằng trước kia tôi đã phục vụ ở trung đoàn Piémont và được vinh dự làm đội trưởng.
- Phải rồi.
- Ấy thế! Một hôm có một đám tư sản và thị dân vũ trang đi diễu hành mà người thì bước chân trái, người thì bước chân phải, chẳng ai có thể xếp họ thành hàng lối cả. Tôi mới hướng dẫn họ và khiến họ đi đều bước hẳn hoi, và thế là người ta bèn phong cho tôi làm trung uý ở ngay bãi… tập.
- À, ra thế đấy! - Aramis nói.
- Thành thử ra, - Arthos tiếp lời, - Các anh có một đám quý tộc đi với mình phải không?
- Đúng vậy! Chắc các ông cũng biết lúc đầu chúng tôi có hoàng thân de Conti, quận công de Longueville, quận công de Beaufort, quận công de d'Elbeuf, quận công de Bouillon, quận công de Chevreuse, ông Brissac, thống chế de La Mothe, ông de Luyne, hầu tước de Vitry, hoàng thân de Marcillac, hầu tước de Marcillacs, bá tước Noirmoutiers, hầu tước de Fiesque, hầu tước Laigues, công tước de Montrésor, hầu tước de Sévigné, rồi còn ai mà biết không nữa nhỉ…
- Thế còn ông Raoul de Bragelonne đâu? - Arthos hỏi với giọng xúc động. - D'Artagnan có nói với tôi là khi ra đi đã gửi gắm ở nơi anh Planchet tốt bụng của tôi mà.
- Vâng, thưa bá ông d'Artagnan đã coi cậu Raoul như chính con đẻ của mình, và tôi phải thưa rằng tôi không lúc nào rời mắt khỏi cậu ấy.
Giọng lạc đi vì mừng rỡ, Arthos lại hỏi tiếp:
- Thế cậu ta có mạnh khỏe không. Có gặp tai nạn gì không?
- Không sao cả, ông ạ.
- Cậu ta hiện ở đâu?
- Vẫn ở phố Grand-Roi-Charlemagne..
- Hằng ngày cậu ta làm gì?
- Khi thì đến hoàng hậu Anh quốc, lúc tới bà de Chevreuse. Cậu ấy và bà de Guise chẳng rời nhau mấy khi.
- Cảm ơn Planchet, cám ơn nhé! - Arthos vừa nói vừa chìa tay ra.
Planchet khẽ chạm đầu ngón tay mình vào bàn tay Arthos và đáp:
- Ôi! Thưa ông bá tước.
- Ơ kìa! Bá tước làm cái gì vậy! Với một tên đầy tớ cũ! - Aramis nói.
- Bạn ơi, - Arthos đáp, - Anh ta cho tôi biết tin tức về Raoul.
Planchet không nghe thấy lời nhận xét ấy nói:
- Thế bây giờ các ông định làm gì?
- Planchet thân mến ơi, nếu anh cho phép thì chúng tôi trở về Paris, - Arthos nói.
- Sao! Tôi mà cho phép các ông? Ông bá tước nhạo tôi đấy ư? - Tôi chẳng là gì khác ngoài kẻ hầu hạ ông. - Planchet đáp và cúi đầu.
Rồi quay về phía quân mình, anh bảo:
- Hãy để các ngài đây đi qua. Tôi biết các ngài, các ngài là bạn của ông de Beaufort đấy.
- Ông de Beaufort muôn năm! - Cả đồn đồng thanh hô và mở đường cho Arthos và Aramis. Riêng viên đội đến gần Planchet và lẩm bẩm.
- Sao! Không có giấy thông hành à?
- Không giấy thông hành - Planchet đáp…
- Thưa đại uý, - Viên đội nói và thăng tước cho Planchet cấp bậc mà người ta đã hứa, - Hãy chú ý là một trong số ba người đi ra lúc nãy có nói nhỏ với tôi là phải đề phòng các ông này.
Planchet trịnh trọng nói:
- Còn tôi, tôi quen các ông này và tôi xin bảo đảm.
Nói rồi anh bắt tay Grimaud, bác ta có vẻ lấy làm vinh dự về sự đối xử đặc biệt ấy.
- Tạm biệt đại uý nhé! - Aramis nói với giọng giễu cợt, - Nếu có chuyện gì xảy ra, chúng tôi sẽ kêu nài lên ông đấy.
- Thưa ông, về điều này cũng như về mọi việc khác, tôi vẫn là kẻ hầu hạ của ông.
Aramis lên ngựa nói:
- Cái thằng ranh này xem ra sáng trí lắm.
- Sao lại không? - Arthos cũng nhảy lên yên và nói: sau bao nhiêu năm chải mũ cho chủ nó mà!
Chương 80
Những sứ giả
Hai người bạn lên đường ngay và xuôi xuống cái dốc cao ngoại ô. Nhưng tới chân dốc họ rất đỗi ngạc nhiên thấy các phố xá Paris biến thành sông ngòi và các quảng trường biến thành hồ ao. Sau những trận mưa lớn đầu tháng Giêng, sông Seine dâng cao và cuối cùng tràn ngập nửa kinh thành.
Arthos và Aramis cho ngựa xông bừa xuống chỗ lụt nhưng chẳng mấy chốc nước ngập đến ngực ngựa, và hai nhà quý tộc phải rời ngựa để đi thuyền. Họ dặn mấy người đầy tớ đợi họ ở Khu Chợ.
Thế là họ đi thuyền cập vào cung Louvre. Trời tối mịt. Những ngọn đèn lồng vàng vọt run rẩy trên các ao hồ, những chiếc thuyền chở lính tuần tra lấp lánh gươm súng, những tiếng gọi canh đêm trao đổi giữa các đồn bốt, cảnh tượng ấy của thành phố Paris làm loá mắt Aramis, con người nhạy bén nhất với những tình cảm hiếu chiến mà người ta có thể gặp.
Họ tới chỗ hoàng hậu Henriette, nhưng buộc phải chờ đợi. Bà hoàng đang tiếp những người quý tộc mang đến những tin tức về nước Anh.
Nghe người hầu nói vậy, Arthos bảo hắn:
- Chúng tôi cũng vậy, chúng tôi không những mang những tin tức của nước Anh mà chúng tôi còn đích thân từ nước Anh tới đây.
- Vậy xin các ngài cho biết quý danh, - tên hầu nói.
Aramis đáp.
- Bá tước de La Fère và hiệp sĩ D'Herblay.
Đã được nghe bà hoàng bao lần thốt lên những tên này trong niềm hy vọng, gã hầu nói:
- A! Trường hợp này lại khác, và tôi chắc Lệnh bà sẽ chẳng tha thứ cho tôi nếu tôi để các ngài phải chờ đợi dù chỉ chốc lát. Xin các ngài hãy theo tôi.
Và hắn đi trước, Arthos và Aramis theo sau.
Đến phòng bà hoàng, hắn ra hiệu cho họ chờ, rồi mở cửa và nói:
- Thưa Hoàng thượng, mong Lệnh bà xá lỗi cho tôi đã trái lệnh Người, nếu Người biết rằng những vị khách mà tôi đưa vào là các ngài bá tước de La Fère và hiệp sĩ D'Herblay.
Nghe nói đến hai cái tên ấy, hoàng hậu mừng rú lên khiến hai nhà quý tộc cũng nghe thấy.
- Tội nghiệp hoàng hậu? - Arthos lẩm bẩm.
- Ô! Mới các ông vào! Mời các ông vào! - Cô công chúa trẻ reo lên và lao ra cửa.
Cô gái đáng thương không rời mẹ và cố gần gủi chắm sóc bà để bà khuây khoả nỗi nhớ hai anh và em gái cô.
Cô tự ra mở cửa và bảo:
- Xin mời các ông vào.
Arthos và Aramis cúi chào. Bà hoàng ngồi trong một chiếc ghế bành. Đứng trước mặt bà là hai nhà quý tộc mà các anh đã gặp ở bốt canh.
Đó là các ông Flamarens và Gaspard de Coligny, công tước de Châtillon em của người bảy tám năm về trước đã bị giết ở quảng trường Hoàng gia trong một cuộc đấu kiếm dính dáng đến chuyện bà Longueville.
Nghe báo hai người mới vào, họ lùi lại một bước và thì thầm với nhau vài lời vẻ lo ngại.
Trông thấy Arthos và Aramis, hoàng hậu Anh quốc reo lên:
- A! Các ông đấy à! Cuối cùng các ông, những người bạn trung thành đã trở về. Nhưng các, chuyến thư tín của Nhà nước còn đi nhanh hơn các ông. Triều đình đã hay tin các sự việc ở London khi các ông tới các cửa ô Paris. Đây là các ông de Flamarenx và de Châtillon do hoàng hậu Anne d'Autriche phải mang đến cho tới những tin tức mới nhất.
Aramis và Arthos liếc nhìn nhau. Sự bình thản và cả nỗi vui mừng nửa lấp lánh trong đôi mắt của bà hoàng khiến các anh hết sức kinh ngạc.
Bà hoàng quay lại phía các ông Flamarens và Châtillon và bảo:
- Xin mời ông tiếp tục đi. Các ông nói rằng Hoàng thượng Charles I, vị cha tôn nghiêm của tôi đã bị kết án từ hình trái với nguyện vọng của đa số quần thần Anh phải không?
- Vâng, thưa Lệnh bà, - Hai ông lắp bắp.
Arthos và Aramis nhìn nhau mỗi lúc một kinh ngạc hơn.
- Và rồi, - bà hoàng nói tiếp, - Khi bị đưa ra đoạn đầu đài! Ôi lạy Chúa, ôi quân vương của tôi! Và khi bị đưa ra đoạn đầu đài, Người được đám dân chúng bất bình cứu thoát!
- Vâng, thưa Lệnh bà, - Châtillon đáp lại rất khẽ chỉ có hai nhà quý tộc hết sức chăm chú mới nghe được lời khẳng định ấy.
Bà hoàng chắp hai bàn tay lại với vẻ biết ơn sâu sắc, trong khi cô gái quàng tay lên cổ mẹ và hôn bà, mắt đầm đìa những giọt lệ mừng vui.
Châtillon thấy vai kịch mình sắm quá nặng nề và đỏ mặt lên trước cái nhìn trân trân và sắc sảo của Arthos, nói:
- Bây giờ, chúng tôi chỉ còn dâng lên Hoàng thượng những kính lễ của chúng tôi.
- Khoan đã nào, các ông, - hoàng hậu vừa nói vừa ra hiệu giữ họ lại. - Hãy nán lại một lát bởi vì các ông de La Fère và ông d'Herblay đây mà chắc các ông có nghe nói, đã tới London và là nhân chứng mắt thấy tai nghe, có lẽ sẽ kể những chi tiết mà các ông không biết. Các ông sẽ kể lại những chi tiết này cho hoàng hậu, cô em dâu tốt bụng của tôi nghe, đừng giấu giếm tôi điều gì, đừng nương nhẹ tôi. Hoàng thượng vẫn còn sống và danh dự vương tông được bảo toàn thì mọi chuyện khác đối vôi tôi chẳng có nghĩa lý gì.
Arthos tái mặt và đưa tay lên ngực.
Hoàng hậu trông thấy vẻ mặt tái và cử chỉ ấy vội nói.
- Thế nào, hãy nói đi, tôi van ông.
- Xin Lệnh bà xá lỗi, - Arthos nói - Nhưng tôi chẳng muốn thêm thắt gì vào câu chuyện kể của các ông đây trước khi các ông thừa nhận là có thể các ông đã lầm.
- Lầm à! - Hoàng hậu gần như tức tối kêu lên - Lầm à?… Vậy thì chuyện gì đã xảy ra? Ôi, lạy Chúa.
- Thưa ông, - Flamarenx nói với Arthos.
- Nếu chúng tôi lầm thì đó là do hoàng hậu nói sai, và chúng tôi thiết nghĩ rằng các ông không có ý định sửa lại vì như vậy là đính chính điều mà Hoàng thượng nói.
- Điều sai lầm ấy là do hoàng hậu ư, thưa ông? - Arthos hỏi hằng giọng bình tĩnh và âm vang.
- Vâng - Flamarenx cúi mặt xuống lẩm bẩm.
Arthos thở dài buồn bã.
- Phải chăng điều sai lầm ấy là do cái người đi cùng với các ông mà chúng tôi đã gặp ở đơn vị canh phòng cửa ô Roule - Aramis nói với vẻ lịch sự khiêu khích. - Bởi vì nếu bá tước de La Fère và tôi không lầm, thì các ông có ba người khi đi vào Paris.
Châtillon và Flamarenx rùng mình.
Nỗi lo âu mỗi lúc một tăng, hoàng hậu kêu lên:
- Nhưng bá tước hãy giải thích đi. Tôi đọc thấy nỗi tuyệt vọng trên trán ông, miệng ông ngập ngừng phải báo cho tôi một tin tức khủng khiếp, bàn tay ông run lên kia… Ôi! Lạy Chúa? Lạy Chúa! Có chuyện gì xảy ra vậy?
Nàng công chúa trẻ quỳ xuống bên cạnh mẹ nói:
- Cầu Chúa hãy rủ lòng thương chúng tôi.
- Này, ông ơi, - Châtillon nói, - Nếu các ông mang một tin bất hạnh mà lại báo cho hoàng hậu biết thì các ông hành động như một người tàn nhẫn.
Aramis sấn đến gần như chạm vào người Châtillon. Mím môi lại và mắt nảy lửa, anh nói:
- Này ông, tôi thiết tưởng rằng ông không có ý định dạy bá tước de La Fère và tôi điều gì cần phải nói ở đây chứ?
Trong lúc diễn ra cuộc đấu khẩu ngắn ngủi ấy, Arthos vẫn đặt lên ngực và đầu cúi xuống, tiến đến gần hoàng hậu và nói bằng giọng xúc động:
- Thưa Lệnh bà, do bản chất ở cao hơn những kẻ khác, những ông hoàng bà chúa được trời phú cho một trái tim để chịu đựng những nỗi bất hạnh to lớn hơn rất nhiều những bất hạnh của kẻ tầm thường; bởi vì trái tim của họ có liên quan đến tính ưu việt của họ. Cho nên tôi thiết nghĩ là một hoàng hậu lớn như Hoàng thượng không thể nào hành động giống như một người đàn bà thân phận như chúng tôi. Thưa hoàng hậu, người được phó cho tất cả những sự tuẫn nạn trên cõi trần này, đây là kết quả cái sứ mạng vinh dự mà Người đã trao cho chúng tôi.
Và quỳ xuống trước mặt bà hoàng hồi hộp và lạnh ngắt, Arthos rút từ trong ngực ra một cái hộp trong đựng tấm huân chương bằng kim cương mà hoàng hậu đưa cho Lord de Winter trước khi ra đi, và chiếc nhẫn cưới mà vua Charles trước khi chết giao cho Aramis. Từ khi nhận hai kỷ vật ấy, Arthos không lúc nào rời chúng cả.
Anh mở hộp và giơ những kỷ vật đó ra cho bà hoàng hậu với một nỗi đau đớn âm thầm và sâu sắc.
Hoàng hậu đưa tay ra cầm lấy chiếc nhẫn, run rẩy đưa lên môi hôn, rồi không buông nổi một tiếng thở dài, không thốt ra được một tiếng nức nở, bà dang tay ra, tái nhợt đi và ngã ngất trong vòng tay các cung nữ và con gái.
Arthos hôn lên gấu áo người quả phụ đáng thương và đứng lên với một vẻ uy nghiêm nó gây ấn tượng sâu sắc đến những người chứng kiến, anh nói:
- Tôi, bá tước de La Fère, người quý tộc không bao giờ nói dối, tôi thề trước Chúa trước tiên, rồi trước bà hoàng hậu tội nghiệp, rằng tất cả những gì có thể làm được để cứu đức vua, chúng tôi đã làm trên đất nước Anh.
Rồi quay lại phía Aramis, anh nói tiếp:
- Hiệp sĩ, bây giờ chúng ta hãy ra đi, nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành.
- Chýa hết, - Aramis bảo, - Chúng ta còn phải nói một lời với các vị này.
Rồi quay lại phía Châtillon, ông nói:
- Thưa ông, liệu ông có vui lòng đi ra ngoài, dù chỉ một lát thôi, đề nghe những lời mà chúng tôi không thể nói trước mặt bà hoàng?
Châtillon không đáp, chỉ cúi đầu ra hiệu đồng ý.
Arthos và Aramis đi trước, Châtillon và Flamarens theo sau.
Chẳng nói một lời, họ đi qua tiền sảnh, nhưng khi tới một nền đất ngang bằng với một cửa sổ, Aramis đi theo lối nền đất hoàn toàn vắng vẻ. Đến cửa sổ anh dừng chân và quay về phía công tước de Châtillon, anh nói:
- Thưa ông, ban nãy hình như ông tự cho phép mình cư xử với chúng tôi thật lỗ mãng. Như vậy dù ở trường hợp nào cũng đều bất nhã, tệ hơn nữa nó lại do những người mang đến cho hoàng hậu tin tức của một kẻ nói dối.
- Ơ, cái ông này! - Châtillon kêu lên.
Aramis hỏi với giọng giễu cợt:
- Các ông đã làm gì ông de Bruy? Phải chăng do tình cờ mà ông ta thay đổi bộ mặt khiến nó giống hệt ông Mazarin? Ai cũng biết rằng ở Hoàng cung có vô số mặt nạ của ngýòi Ý để thay đổi từ mặt nạ thằng hề đến mặt nạ rối Pantalon.
- Nhưng ông khiêu khích chúng tôi đấy à? Tôi ngỡ như vậy.- Flamarens nói.
- A! Các ông chỉ ngỡ thôi à?
- Hiệp sĩ ơi, hiệp sĩ! - Arthos kêu.
- Kìa, cứ để mặc tôi làm, - Aramis bực bội nói, - Anh biết rằng tôi không thích những chuyện tồn tại ở dọc đường.
- Thế thì kết thúc đi, ông ơi, - Châtillon nói với vẻ ngạo mạn chẳng thua gì Aramis.
Aramis nghiêng mình nói:
- Thưa các ông, một người khác ngoài tôi hoặc bá tước de La Fère có lẽ sẽ bắt giữ các ông đây, vì rằng chúng tôi có vài người bạn thân ở Paris. Nhưng chúng tôi hiến các ông một cách để ra đi mà chẳng lo ngại gì. Hãy đến cái bãi hoang kia, kiếm cầm tay và nói chuyện với chúng tôi năm phút.
- Sẵn lòng, - Châtillon nói.
- Khoan đã, các ông, - Flamarens kêu lên. - Tôi biết rõ lời đề nghị thật cám dỗ, nhưng vào giờ này thì không thể chấp nhận được.
Aramis nói giọng giễu cợt:
- Tại sao vậy? Phải chăng sự gần gũi Mazarin đã khiến các ông thận trọng đến thế?
- Ồ! Flamarens, ông nghe đấy, - Châtillon nói - Không đáp lại sẽ là một vết nhơ cho tên tuổi của tôi và danh dự của tôi.
- Ý kiến tôi cũng vậy, - Aramis nói.
- Ông đừng trả lời nữa, - Flamarens nói, - Song tôi chắc rằng lát nữa các ông cũng sẽ đồng ý với tôi.
Aramis bắt đầu với một cử chỉ xấc xược không tưởng tượng nổi. Châtillon thấy vậy liền đặt tay vào đốc kiếm.
- Công tước ơi, - Flamarens nói, - Ông quên rằng ngày mai ông phải chỉ huy một cuộc tiến quân thật là quan trọng, và do ngài Hoàng thân chỉ định và Hoàng hậu chấp thuận, từ giờ cho tới mai ông không còn thuộc về ông nữa.
- Được! Vậy thì đến sáng ngày kia, - Aramis nói.
- Đến sáng ngày kia, - Châtillon nói, - Thì lâu quá, các ông ạ.
- Không phải tôi ấn định và yêu cầu thời hạn đó. - Aramis nói. - Nhất là hình như người ta có thể gặp lại nhau ở cuộc ra quân đó.
- Vâng thưa ông, - Châtillon nói, - Ông có lý, và rất vui lòng nếu ông quá bộ đến tận cửa ô Charenton.
- Sao vậy? Để có danh dự gặp ông, tôi có thể đi cùng trời cuối đất, huống hồ chỉ phải đi có một vài dặm thôi.
- Vậy thì đến ngày mai.
- Tôi mong như vậy. Bây giờ ông hãy đi đến với giáo chủ của ông. Nhưng trước hết, hãy lấy danh dự mà thề rằng ông sẽ không báo cho ông giáo chủ biết là chúng tôi đã trở về.
- Lại còn ra điều kiện ư?
- Sao lại không.
- Bởi vì chỉ có người chiến thắng mới ra điều kiện, còn các ông thì lại không phải như vậy.
- Thế thì, chúng ta tuốt gươm ra ngay bây giờ. Đối với chúng tôi chẳng sao cả, vì rằng chúng tôi không chỉ huy cái cuộc ra quân ngày mai.
Châtillon và Flamarens nhìn nhau. Lời nói và cử chỉ của Aramis đầy vẻ châm biếm khiến họ nhất là Châtillon, khó mà kềm chế nổi tức giận. Nhưng rồi gã nhịn được trước lời nói của Flamarens. Gã nói:
- Thôi được! Người bạn của chúng ta dù là gì chăng nữa, cũng không biết gì về những điều đã xảy ra. Nhưng này ông, ông hứa rằng ngày mai có mặt ở Charenton phải không?
- A! Các ông cứ yên trí, - Aramis đáp.
Bốn nhà quý tộc chào nhau, nhưng lần này Châtillon và Flamarens đi ra khỏi cung Louvre trước, còn Arthos và Aramis theo sau.
- Này, Aramis, - Arthos hỏi, - Ai làm cho cậu nổi cơn điên giận lên thế?
- Họ đã… thế anh không trông thấy à?
- Không.
- Họ đã cười khẩy khi chúng ta thề rằng chúng ta đã làm nhiệm vụ của mình ở trên nước Anh. Có thể họ tin hoặc không tin. Nếu tin thì họ cười khẩy là để lăng mạ chúng ta; nếu không tin thì họ càng lăng nhục chúng ta hơn, và phải làm chứng tỏ cho họ biết chúng ta là thế nào chứ? Với lại tôi cũng chẳng bực mình thấy họ hoãn việc này đến ngày mai đâu; tôi cho rằng tối nay chúng ta có việc gì đó làm hay hơn là đấu kiếm.
- Việc gì thế?
- À, chúaôi! Chúng ta cho bắt lão Mazarin.
Arthos bĩu môi khinh thị và nói:
- Những cuộc chiến ấy không hợp với tôi, cậu biết chứ, Aramis?
- Tại sao vậy?
- Tại vì nó giống những cuộc đánh úp.
- Arthos ạ, kể ra anh có thể là một vị tướng kỳ cục đấy. Anh chỉ đánh nhau ban ngày thôi, anh sẽ cho đối phương biết trước giờ mà anh tấn công, và anh sẽ chẳng nhằm đánh họ ban đêm bao giờ, vì sợ họ buộc tội là anh đã lợi dụng bóng tối.
Arthos mỉm cười nói:
- Cậu biết rằng người ta chẳng thể thay đổi được bản tính mình. Và chăng cậu có biết chúng ta đang ở đâu không, và biết đâu bắt lão Mazarin lại chẳng phải việc xấu hơn là việc tốt, một sự lôi thôi hơn là một chiến công?
- Arthos, hãy nói rằng anh không tán thành kiến nghị của tôi.
- Không đâu, trái lại tôi cho rằng đó là thẳng thắn; tuy nhiên…
- Tuy nhiên làm sao?
- Tôi cho rằng đáng lẽ cậu không nên bắt những gã kia thề là không nói gì cho Mazarin biết; vì rằng bắt họ thề như vậy thì hầu như cậu cũng đã cam kết rằng sẽ chẳng làm gì cả?
- Tôi thề rằng tôi chẳng cam kết gì hết, tôi tự coi như mình hoàn toàn tự do. Nào, nào, Arthos, ta đi thôi?
- Đi đâu?
- Đến ông de Beaufort hoặc ông de Bouillon; chúng ta sẽ cho họ biết tình hình ra sao.
- Được, nhưng với một điều kiện là ta sẽ bắt đầu bằng ông chủ giáo. Đó là một tu sĩ, ông ta thông thạo về những điều nan giải và chúng ta sẽ kể với ông ta điều băn khoăn của ta.
- A! - Aramis kêu lên, - Ông ta sẽ làm hỏng cả, sẽ chiếm lấy hết cả. Ta sẽ không bắt đầu từ ông ấy mà kết thúc ở ông ấy.
Arthos mỉm cười. Ta thấy anh có một suy nghĩ từ trong đáy lòng mà không nói ra.
- Thế thì, - anh nói, - Ta bắt đầu bằng người nào?
- Bằng ông de Bouillon nếu như anh vui lòng, nhà ông ấy là nhà đầu tiên trên đường ta đi.
- Bây giờ cậu cho phép mình một việc nhé!
- Việc gì?
- Mình đến khách sạn "Grand-Roi-Charlemagne." để ôm hôn Raoul.
- Ơ kìa! Thế thì tôi cũng đi với anh và chúng ta sẽ cùng ôm hôn nó.
Hai người lại xuống chiếc thuyền đã đưa họ đến đây và đi ra khu chợ. Họ gặp Grimaud và Blaisois đang giữ ngựa của họ, và cả bốn thầy trò đi về phố Guénégaud.
Nhưng Raoul không có ở khách sạn "Grand-Roi-Charlemagne.", trong ngày anh nhận được một bức thư của ngài hoàng thân và lập tức cùng Olivain ra đi ngay.
Chương 81
Ba phụ tá của Tổng tư lệnh
Theo như đã thoả thuận với nhau, sau khi ra khỏi khách sạn "Đại đế Grand-Roi-Charlemagneơ", Arthos và Aramis đi về phía dinh công tước de Bouillon.
Đêm tối mù mịt và mặc dầu đi vào những giờ yên tĩnh và vắng vẻ vẫn tiếp tục vang lên hàng nghìn tiếng động nó khiến một thành phố bị bao vây giật mình tỉnh dậy.
Đi mỗi bước là gặp các lũy chướng ngại, ở mỗi ngách phổ xá là những sợi dây chăng, ở mỗi ngã tư là những toán quân đóng ngoài trời. Những đội tuần tra nhan nhản gặp nhau và trao đổi mật khẩu; những người đưa tin do các chỉ huy khác nhau phải đi như mắc cửi.
Cuối cùng những cuộc đối thoại sôi nổi chỉ rõ sự xao xuyến nhân tâm được trao đổi giữa những dân cư hoà bình đứng ở cửa sổ với những người hiếu chiến hơn họ mang thương tích trên vai hoặc súng cầm tay chạy khắp phố phường.
Đi chưa được trăm bước, Arthos và Aramis bị lính canh ở lũy chướng ngại ngăn giữ lại và hỏi mật khẩu. Các anh nói là đi đến nhà ông de Bouillon để báo cho ông biết một tin tức quan trọng, và người ta đành cho một người gọi là để đưa các anh đi vào dễ dàng, nhưng thực ra là để canh phòng các anh. Người dẫn đường đi trước và hát:
"Cái ông Bouillon hiền lành
Bị bệnh phong thấp nó hành"
Đó là một trong những bài ca mới mẻ nhất, không biết có bao nhiêu đoạn, và mỗi người đều có phần trong đó.
Đi đến gần dinh ông dờ Bouillon họ gặp một tốp ba kỵ sĩ có đủ mọi khẩu lệnh trên đời, vì họ đi chẳng có người dẫn đường và hộ tống, và khi tới các lũy chướng ngại họ chỉ cần trao đổi vài lời với những người canh gác là người ta để cho họ đi qua với tất cả sự tôn kính dành cho chức vị của họ. Trông thấy dáng vẻ họ. Arthos và Aramis dừng lại.
- Ô kìa! - Aramis, nói - Bá tước có nhìn thấy không?
- Có, - Arthos đáp.
- Anh thấy ba kỵ sĩ đó giống ai nhỉ?
- Thế cậu thấy thế nào, Aramis?
- Hình như địch thủ của chúng ta.
- Cậu không lầm đâu. Tôi hoàn toàn nhận ra ông Flamarens.
- Còn tôi nhận ra ông de Châtillon.
- Còn kỵ sĩ mặc áo choàng nâu…
- Đó là giáo chủ.
- Đích thân.
- Quái quỉ nhỉ! - Aramis nói, - sao họ lại dám đi liều ở gần dinh Bouillon này.
Arthos mỉm cười, nhưng không đáp. Năm phút sau họ gõ cửa nhà ông Bouillon.
Cổng có một lính gác giống như nhà những nhân vật cao cấp; trong sân có cả một cái bốt nhỏ sẵn sàng tuân theo lệnh viên trung uý của hoàng thân de Conti.
Đúng như bài hát nói, công tước de Bouillon bị bệnh phong thấp và nằm liệt giường. Mặc dầu bệnh tình như vậy không cho phép ông cưỡi ngựa từ một tháng nay, nghĩa là từ khi Paris bị bao vây, ông vẫn bảo rằng ông sẵn sàng tiếp đón bá tước de La Fère và hiệp sĩ d' Herblay.
Hai người bạn được dẫn đến giường ông Bouillon. Bệnh nhân nằm ở trong phòng, nhưng quanh mình đầy những trang bị nhà binh nhất. Khắp chỗ chỉ toàn bày và treo gươm kiếm súng ống, áo giáp, và ta dễ dàng thấy rằng khi nào dứt bệnh phong thấp là ông de Bouillon lập tức gây rắc rối ngay cho các kẻ thù của Nghị viện.
Trong khi chờ đợi, ông nói rằng ông rất tiếc mình buộc phải nằm liệt giường.
Trông thấy hai người khách, ông cố nhắc mình dậy và nhăn nhó vì đau, nhưng vẫn reo lên:
- A! Xin chào các ông! Các ông sung sướng thật các ông có thể nhảy ngựa, đi lại, chiến đấu vì lợi ích của nhân dân. Còn tôi, các ông thấy đấy, tôi bị đóng đinh chặt vào giường, ái chà. Cái bệnh phong thấp quỉ quái này? - Ông lại nhăn nhó. - Cái bệnh phong thấp tệ hại này.
- Thưa Đức ông, - Arthos cất tiếng, - Chúng tôi từ nước Anh về và việc quan tâm đầu tiên của chúng tôi khi tới Paris là đến hỏi thăm sức khoẻ của ngài.
- Xin đa tạ các ông, xin đa tạ. - Ông quận công đáp - Sức khỏe tôi kém lắm, như các ông thấy đấy… Cái bệnh phong thấp tội nợ này! A! Các ông từ Anh trở về ư? Tôi vừa nghe tin rằng vua Charles vẫn bình an, phải không?
- Thưa Đức ông, - Aramis đáp, - vua chết rồi.
- Ô hay? - quận công tỏ vẻ kinh ngạc.
- Bị Nghị viện kết án và chết trên đoạn đầu đài.
- Không thể thế được.
- Và bị hành quyết trước mắt chúng tôi.
- Vậy mà ông Flamarens nói với tôi thế nào?
- Ông Flamarens ư? - Aramis hỏi.
- Phải, ông ta mới ở đây ra.
Arthos mỉm cười và hỏi:
- Cùng với hai người bạn à?
- Phải cùng với hai người bạn, - Quận công đáp và nói thêm với vẻ lo ngại - Họ có gặp các ông không?
- Có chứ, - Arthos đáp, - Ở ngoài phố thì phải.
Và anh mỉm cười nhìn Aramis, Aramis cũng nhìn lại anh với vẻ hơi ngạc nhiên.
- Thưa Đức ông - Arthos nói, - Thật ra đang đau ốm như ngài, phải hết lòng hết dạ lắm với lợi ích của Paris, ngài mới vẫn đứng đầu quân đội và sự kiên trì ấy khiến chúng tôi rất cảm phục.
- Các ông ơi phải thế, chứ biết làm thế nào. Các ông cũng là một tấm gương, các ông thật là dũng cảm và tận tụy và chính nhờ các ông mà ông bạn đồng liêu thân mến của tôi, quận công de Beaufort được tự do và có thể là được cứu sống nữa. Phải biết hy sinh cho lợi ích chung chứ! Cho nên các ông thấy đấy, tôi cũng hy sinh; nhưng cũng xin thú nhận rằng tôi kiệt sức rồi; lực bất tòng tâm mà! Cái bệnh phong thấp chết tiệt này nó giết tôi! Và tôi cũng thú thật rằng nếu như triều đình chấp nhận những yêu cầu của tôi, yêu cầu thật chính đáng, bởi vì tôi chỉ yêu cầu một sự bồi thường mà ngài giáo chủ cũ đã hứa khi người ta tước mất thái ấp Sedan của tôi… Phải, tôi thú thật rằng nếu như người ta đền cho tôi những lãnh địa giá trị cũng ngang như thế, nếu như người ta bồi thưởng cái việc tôi không được hưởng thụ cái dinh địa ấy từ khi bị tước doạt, tức là từ tám năm nay, nếu như tước vị hoàng thân được ban cho người nhà tôi, và nếu ông Tuyren, em tôi, được phục chức chỉ huy, thì tôi sẽ rút lui ngay về đất đai của tôi và để mặc triều đình và nghị viện dàn xếp với nhau tuỳ họ.
- Thưa Đức ông - Arthos nói, - ngài nói rất chí lý.
- Ông đồng ý như vậy có phải không, bá tước de La Fère?
- Hoàn toàn.
- Thế còn ông hiệp sĩ D'Herblay?
- Nhất trí.
- Thế thì, - quận công nói, - Tôi xin bảo đảm với các ông rằng đó là điều tôi sẽ chấp nhận. Lúc này triều đình đang đưa ra những kiến nghị với tôi, và chỉ còn mong tôi chấp nhận. Cho đến giờ phút này tôi vẫn từ chối. Nhưng vì rằng những người như các ông cho rằng như thế thì tôi sai lầm, và nhất là vì cái bệnh phong thấp chết tiệt này nó khiến tôi không thể làm được một chút việc gì cho lợi ích của Paris, cho nên thực tình, tôi muốn nghe lời khuyên của các ông và chấp rthận đề nghị mà ông de Châtillon vừa mới đưa ra với tôi.
- Hoàng thân hãy chấp nhận đi, - Aramis nói, - Hãy chấp nhận.
- Vâng, thực tình tôi cũng tiếc là chiều nay hầu như tôi đã gạt phăng lời đề nghị đó… nhưng ngày mai có hội nghị và ta sẽ xem.
Hai người chào quận công. Ông nói:
- Các ông về đi. Cuộc viễn du hẳn khiến các ông mệt nhọc lắm. Tội nghiệp vua Charles. Nhưng dù sao cũng có đôi phần sai sót của ông ta trong tất cả những chuyện đó. Điều an ủi chúng ta là nước Pháp không có gì phải tự trách mình trong trường hợp này, nó đã làm tất cả những gì có thể làm để cứu ông ta.
- Ồ! Về điều này, - Aramis nói, - Chúng tôi đã được chứng kiến, nhất là ông Mazarin…
- Thấy chưa? Tôi rất hài lòng là các ông đã làm chứng cho ông ấy; thực ra ông giáo chủ có mặt tốt, và nếu ông ấy không phải là người ngoại quốc thì có lẽ người ta cũng sẽ thừa nhận ông ấy. Ờ! Cái bệnh phong thấp quỉ quái này!
Arthos và Aramis đi ra, và tới tiền sảnh rồi mà vẫn nghe thấy những tiếng kêu la của ông de Bouillon; rõ ràng là ông hoàng tội nghiệp ấy đau ghê gớm lắm.
Ra khỏi cổng; Aramis hỏi Arthos:
- Thế nào, anh nghĩ sao?
- Về ai cơ?
- Thì về ông de Bouillon!
- Bạn ơi, tôi nghĩ về ông ta như bài hát của người dẫn đường cho chúng ta ấy, - Arthos đáp và lặp lại:
"Cái ông Bouillon đê hèn,
Bị bệnh phong thấp nó hành"
- Thế cho nên, - Aramis nói, - Anh thấy đấy, tôi có hé răng chút nào về mục đích chúng ta đến đâu.
- Và cậu hành động khôn ngoan đến nỗi có thể lại cho hắn bị một cơn đau nữa rồi. Thôi, ta đi đến ông de Beaufort.
Và hai người bạn đi về phía dinh Vendôme. Khi họ đến nơi, chuông điểm mười giờ tối.
Dinh Vendôme được canh phòng không kém và cũng phô ra vẻ mặt hiếu chiến không kém dinh Bouillon. Cũng có lính gác, có quân đứng gát ngoài sân, có súng dựng chụm, có ngựa thắng yên cương sẵn sàng.
Arthos và Aramis đi vào thì hai kỵ sĩ đi ra, họ phải cho ngựa lùi lại một bước để nhường chỗ cho các anh vào.
- A, a! - Aramis nói, - Các ông ơi, rành rành đêm nay là cái đêm gặp gỡ. Thú thật là chúng ta sẽ không may, vì sau khi gặp nhau quắ nhiều trong buổi tối nay, đến mai chúng ta sẽ chẳng thể gặp nhau nữa.
Châtillon, vì chính là gã cùng với Flamarens vừa ở nhà quận công de Beaufort ra, đáp lại:
- Ồ, về điều ấy các ông có thể yên tâm vì nếu ban đêm chúng ta không tìm nhau mà vẫn gặp nhau thì ban ngày chúng ta tìm nhau ắt là sẽ gặp nhau.
- Tôi mong như vậy, ông ạ, - Aramis nói.
- Còn tôi thì tôi chắc chắn, - Công tước đáp.
Flamarens và Châtillon tiếp tục đi ra, còn Arthos và Aramis xuống ngựa.
Hai anh vừa mới trao dây cương cho mấy tên hầu và cởi bỏ áo choàng ra, thì một người tiến lại gần dưới ánh sáng mập mờ của một ngọn đèn treo ở giữa sân, nhìn ngó các anh một lát, rồi kêu lên một tiếng kinh ngạc và vừa nhảy xổ vào vòng tay các anh vừa reo:
- Bá tước de La Fère! Hiệp sĩ D'Herblay! Làm thế nào mà các ông lại có mặt ở Paris đây?
- Rochefort! - Hai anh cùng reo lên.
- Vâng, đúng rồi. Như các ông đã biết, chúng tôi từ Vendôme tới đây được bốn năm hôm rồi và đang sửa soạn cho lão Mazarin bận rộn đây. Tôi đoán chắc rằng các ông vẫn là người của bên ta chứ?
- Hơn bao giờ hết!
- Thế còn quận công?
- Ông ấy căm giận chủ giáo lắm. Các ông biết thắng lợi của lão đối với ông quận công thân mến của chúng ta chứ? Lão ta là ông vua thực sự của Paris, lão không thể đi ra ngoài mà không có nguy cơ bị người ta bóp cổ chết.
- A, càng tốt! - Aramis nói. - Nhưng này, hãy cho tôi biết có phải Flamarens và Châtillon vừa ở đây ra không?
- Phải, họ vừa mới yết kiến ông quận công. Chắc hẳn do Mazarin phái đến, nhưng họ đã thấy phải đối mặt với ai rồi, tôi dám chắc như vậy.
- Vừa hay! - Arthos nói. - Nhưng liệu chúng tôi có được vinh dự vào chào điện hạ không?
- Ô kìa! Vào ngay bây giờ ấy chứ! Các ông biết rằng đối với các ông lúc nào Điện hạ cũng có thể gặp được. Hãy đi theo tôi, tôi mong có vinh dự được giới thiệu các ông đấy.
Rochefort đi trước. Tất cả các cửa mở ra trước ông và hai người bạn. Họ thấy ông de Beaufort sắp sửa ngồi vào bàn ăn. Hàng nghìn công việc bận rộn ban chiều đã làm chậm bữa ăn tối của ông đến lúc ấy. Nhưng mặc dầu sự nghiêm trọng của tình hình, vừa mới nghe Rochefort báo tên hai người khách, ông hoàng đang kéo ghế vào sát bàn, ăn vội đứng lên, bước tới hai người bạn và nói:
- A! Xin chào mừng các ông. Các ông ăn cùng với tôi nhé.
- Boisjoli, hãy bảo Noirmont là tôi có hai thực khách. Các ông biết Noimont chứ? Đó là viên đầu bếp của tôi, người kế tục cha Marteau, kẻ làm những cái bánh nước ngon tuyệt mà các ông biết đấy. Boisjoli, bảo bác ấy đưa một chiếc bánh nướng lên, nhưng không phải loại bánh đã từng làm cho La Ramée. Ơn trời, chúng ta không cần đến thang đây, dao găm hay quả lê cay đắng nữa.
- Thưa Đức ông, - Arthos nói, - xin đừng làm phiền bác đầu bếp trứ danh của ngài nữa, chúng tôi biết bác ấy có tài năng phong phú đa dạng lắm. Tối nay, được Điện hạ cho phép, chúng tôi chỉ dám xin hỏi thăm sức khỏe của ngài và nhận mệnh lệnh của ngài thôi.
- Ồ, về sức khỏe của tôi, các ông thấy đấy thật là tuyệt diệu. Một sức khỏe đã chịu đựng năm năm ngục tù kèm theo ông De Chavigny nữa thì có thể làm được mọi việc. Còn về mệnh lệnh cho các ông, thi xin thú thật là tôi rất lúng túng, nhân vì mỗi người đều tự mình ra lệnh cả, nếu tình trạng này tiếp diễn thì cuối cùng, tôi chẳng ra lệnh gì hết.
- Thật thế ư? - Arthos nói, - Tôi tưởng rằng nghị viện trông cậy vào sự đoàn kết của các ngài.
- À phải, sự đoàn kết của chúng tôi! Nghe đẹp đẽ đấy. Với quận công de Bouillon thì còn khả dĩ; ông ta bị bệnh phong thấp và chịu liệt giường, nhưng còn có cách để thông cảm với nhau được. Còn với ông d' Elbeuf và lũ con trai bị thịt của ông ta ấy à… Các ông biết bài vè về quận công d ' Elbeuf chứ!
- Thưa ngài, không ạ.
- Thật ư?
Ông quận công bèn cất tiếng hát:
d'Elbeuf và lũ con
Làm loạn cả Hoàng trường.
Bốn kẻ đi vênh váo
d'Elbeuf và lũ con
Nhưng nếu ra chiến trường
Tìm đâu vẻ mã thượng
d'Elbeuf và lũ con
Nhặng xị cả Hoàng trường.
Nhưng mà, - Arthos nói, - Đối với ngài chủ giáo, tôi hy vọng không phải như vậy.
- A, vâng? Với ông chủ giáo thì còn tệ hơn nữa. Cầu Chúa hãy tránh cho ông những viên tư giáo bát nháo, nhất là khi họ lại mặc giáp sắt bên trong áo thày tu! Đáng lẽ ở yên trong toà giám mục của mình để làm các lễ tạ ơn mừng những chiến thắng mà chúng ta bị đánh bại, thì ông có biết ông ta làm gì không?
- Không ạ.
- Ông ta lập một trung đoàn mang tên ông, trung đoàn Coadjuter. Ông ta biến các trung uý và đại uý thành thống chế và các đại tá thành ông vua.
- Vâng, - Aramis nói, - Nhưng đến lúc phải chiến đấu, tôi chắc rằng ông ta sẽ bám trụ ở toà giám mục.
- Ồ, không phải thế đâu, D'Herblay thân mến ơi, điều ấy ông lầm đấy! Khi cần chiến đấu thì ông ta chiến đấu. Thành thử do cái chết của chú ông đã cho ông cái ghế trong nghị viện, lúc nào ông ta cũng quẩn chân người ta ở nghị viện, ở hội đồng, ở trận mạc. Hoàng thân de Conti thì là tướng trong bức hoạ thôi, mà bức hoạ thế nào cơ chứ? Một ông hoàng gù lưng! Ôi, tất cả những điều đó tiến hành rất dở, các ông ạ, rất dở.
Arthos đưa mắt nhìn Aramis và nói:
- Thưa Đức ông, thành thử ra Điện hạ bất bình?
- Bất bình ư, bá tước? Phải nói rằng Điện hạ phẫn nộ. Đến mức - Tôi không nói với người khác mà nói riêng với ông thôi nhé - Nếu như hoàng hậu thừa nhận sai lầm đối với tôi mà gọi bà mẹ tôi đang bị lưu đầy trở về, và cho tôi lấy lại chức cái tước vị đô đốc vốn là của cha tôi và người ta đã hứa ban cho tôi khi ông chết, thì tôi sẵn sàng dạy những con chó cho chúng biết sủa rằng ở Pháp còn có những tên ăn cắp lớn hơn ông Mazarin nhiều.
Arthos và Aramis không chỉ đưa mắt nhìn nhau, mà còn vừa nhìn nhau vừa mỉm cười. Và dù có không gặp chăng nữa, các anh cũng đoán rằng Châtillon và Flamarens đã qua đây, cho nên các anh không nói nửa lời về sự có mặt của Mazarin ở Paris.
- Thưa Đức ông, - Arthos nói, - Thế là chúng tôi thoả mãn rồi. Đến thăm Điện hạ vào giờ này, chúng tôi không có mục đích nào khác là chứng minh lòng tận tụy của chúng tôi và để thưa với ngài rằng chúng tôi sẵn sàng hầu hạ ngài như những người tôi tớ trung thành nhất.
- Như những người bạn trung thành nhất, các ông ạ, như những người bạn trung thành nhất của tôi! Các ông đã chứng minh như vậy. Và nếu như sau này tôi có hoà giải với triều đình, thì tôi cũng sẽ chứng minh với các ông rằng tôi vẫn là người bạn của các ông, cũng như là bạn của mấy ông kia nữa, tên mấy ông kia là gì nhỉ?
- D'Artagnan và Porthos.
- À, phải rồi, như vậy ông, bá tước de La Fère, và ông hiệp sĩ D'Herblay, các ông hiểu cho rằng bao giờ tôi cũng hết lòng với các ông.
Arthos và Aramis cúi chào và đi ra.
- Arthos thân mến ơi, xin Chúa tha lỗi, tôi chắc rằng anh chỉ bằng lòng đi với tôi chẳng qua là để cho tôi một bài học phải không?
- Khoan đã, bạn thân mến, - Arthos đáp, - Hãy còn thì giờ để chiêm nghiệm khi chúng ta ra khỏi nhà ông chủ giáo.
Và cả hai người đi về khu Cité.
Đến gần cái nôi của Paris, Porthos vàAaramis thấy phố xá ngập lụt và lại phải đi thuyền.
Đã mười một giờ khuya rồi, nhưng ai cũng biết rằng đến nhà ông chủ giáo thì chẳng kể giờ giấc gì. Sự hoạt động ghê gớm của ông, tuỳ theo nhu cầu mà biến đêm thành ngày và ngày thành đêm.
Toà tổng chủ giáo nhô lên từ lòng nước, và cứ theo số thuyền đậu khắp chung quanh toà nhà, ta cớ thể ngờ rằng mình không phải ở Paris mà đang ở Venise (1). Thuyền bè đi lại đan nhau khắp mọi ngả, chui sâu vào trong những mé lộ của khu Cité, hoặc đi xa ra phía Binh công xưởng hoặc những con đường Saint-Victo, và cứ bơi như trên một cái hồ lớn. Có những thuyền im lặng và bí hiểm, có những thuyền ồn ào và sáng đèn. Đôi bạn lướt giữa cái thề giới thuyền bè ấy và cập bến.
Tất cả tầng trệt của toà giám mục bị ngập nước, nhưng có những cầu thang mọi kiểu lắp vào các tường. Tất cả sự biến đổi do ngập lụt là đáng lẽ vào nhà bằng của chính thì bây giờ vào bằng cửa sổ.
Cũng bằng cách như vậy, đôi bạn vào gian tiền sảnh của chủ giáo. Ở đây đông đặc những đầy tớ vì có đến một tá các vị công hầu tụ tập ở phòng đợi.
- Trời ơi! - Aramis nói, - Arthos hãy xem kìa! Thế này thì liệu cái lão chủ giáo hợm hĩnh ấy có vui lòng bảo chúng ta chờ đợi không?
Arthos mỉm cười, nói:
- Bạn thân mến ơi, cần phải xét người với tất cả những bất lợi trong tình cảnh của họ. Lúc này thì ngài chủ giáo đang là một trong số bảy tám ông vua Pháp đang ngự trị ở Paris, và ông ta có một triều đình.
- Phải đấy, - Aramis nói, - Nhưng chúng ta chẳng phải là cận thần.
- Cho nên chúng ta sẽ đưa tên chúng ta vào và nếu ông ta xem rồi mà không có sự trả lời thích đáng thì, được rồi chúng ta sẽ mặc ông ta với những công việc của nước Pháp và của riêng ông ấy. Bây giờ ta chì cần gọi một tên hầu ra và dúi cho nó một nửa pistol.
- A! đúng rồi, - Aramis kêu lên, - Mình có lầm không nhỉ… đúng không…, đúng đấy… này ông mãnh Bazin lại đây!
Lúc ấy Bazin oai vệ trong bộ y phục nhà thờ đang đi qua phòng đợi, chợt quay lại, cau mày nhìn xem kẻ nào hỗn xược gọi mình như vậy. Nhưng vừa mới nhận ra Aramis, thì con cọp bỗng trở thành con cừu và tiến lại hai nhà quý tộc mà nói:
- Ô kia! Ông hiệp sĩ đấy à! Ông bà tước đấy à! Chúng tôi đang lo lắng về các ông thì cả hai ông đã về đây rồi! Ôi, gặp lại hai ông, tôi mừng quá.
- Tốt lắm, tốt lắm, thày Bazin ạ, - Aramis nói, - Thôi chúc tụng thế đủ rồi. Chúng tôi muốn đến thăm ngài chủ giáo; chúng tôi vội lắm và cần gặp ngay bây giờ.
- Thế nào? - Bazin nói, - ngay bây giờ ư? Những vị công hầu như các ông không phải để người ta bắt ngồi chờ. Song le trong lúc này chủ giáo đang hội đàm bí mật với ông de Bruy nào đó.
- De Bruy? - Cả Arthos và Aramis cũng kêu lên.
- Vâng, tôi đã trình báo ông ta đến và tôi nhớ rất rõ tên ông ta.
- Ông quen biết ông ta ư? - Bazin lại nói. - Vì ông ta trùm áo choàng kín mít, đến nỗi tôi cố nhìn cũng chẳng nom thấy một góc nhỏ nào trên mặt cả. Nhưng tôi sẽ vào trình rằng các ông tới, và lần này sẽ có may mắn hơn.
- Vô ích! - Aramis nói. - Chúng ta lại không gặp ông chủ giáo tối nay nữa, phải không Arthos?
- Tuỳ anh thôi.
- Ông ta có những việc quá quan trọng cần thương lượng với cái ông de Bruy ấy.
- Thưa các ông, - Bazin nói, - Sau đấy tôi có phải trình lại rằng các ông đã tới toà giám mục không?
- Không, chẳng cần đâu, - Aramis nói, - ta đi thôi, Arthos.
Và hai người bạn rẽ đám đầy tớ, đi ra khỏi toà giám mục.
Bazin theo sau và chứng mình tầm quan trọng của các ông chủ mình bằng những cái vái chào lia lịa.
Khi xuống thuyền rồi, Arthos hỏi Aramis:
- Này cậu ơi, cậu đã bắt đầu thấy chưa, rằng chứng mình sẽ chơi xỏ tất cả các vị kia nếu chúng mình bắt giữ Mazarin?
- Arthos ơi, - Aramis nói, - Anh là hiện thân của sự khôn ngoan đấy.
Điều đập mạnh nhất vào hai người bạn là những biến cố ghê gớm xảy ra ở nước Anh và các anh tưởng như chúng bắt tất cả châu Âu phải quan tâm thì chẳng có gì là quan trọng đối với triều đình Pháp.
Thật vậy, ngoài một người vợ goá tội nghiệp và một đứa con mồ côi khóc lóc ở một xó cung Louvre thì chẳng ai tỏ ra biết rằng đã có một ông vua Charles I tồn tại và ông vua ấy vừa mới chết trên đoạn đầu đài.
Đôi bạn hẹn gặp lại nhau vào mười giờ sáng hôm sau. Khi đến cổng khách sạn thì đêm đã khuya lắm, nhưng Aramis còn có vài việc thăm viếng quan trọng phải làm và đã để Arthos về một mình.
Sáu giờ sáng hôm sau Arthos cũng đã đi ra ngoài và đến mười giờ họ lại gặp nhau.
- Thế nào, có tin tức gì không? - Arthos hỏi.
- Chẳng có gì hết. Chẳng ai trông thấy d'Artagnan ở đâu, và Porthos cũng chưa xuất hiện. Thế còn anh?
- Cũng chẳng có tin gì cả.
-Kì lạ nhỉ?
- Thật vậy, - Arthos nói, - Sự chậm trễ này là không bình thường.
- Các cậu ấy đi theo đường ngắn nhất, cho nên đáng lẽ phải về trước chúng mình chứ?
- Chưa kể, - Arthos nói, - Chúng ta đều biết rằng d'Artagnan rất khẩn trương trong mọi công việc, không bao giờ để mất thì giờ, nhất là lại biết rằng chúng ta chờ đợi… Cậu ta tính về đây ngày mồng năm.
- Mà hôm nay đã mồng chín. Tối nay là quá hạn rồi.
- Cậu định thế nào, - Arthos hỏi, - Nếu tối nay vẫn chưa có tin tức gì về các bạn?
- Chúa ơi! Chúng ta phải đi tìm.
- Được - Arthos nói.
- Nhưng còn Raoul? - Aramis hỏi.
Một bóng mây thoáng qua trán Arthos. Anh nói:
- Tôi cũng rất lo cho nó. Nó nhận một bức thư của hoàng thân de Condé và tới gặp ngài ở Saint-Clou, thế mà vẫn chưa trở về.
- Anh không gặp bà de Chevreuse à?
- Bà ta không có nhà. Còn cậu, tôi chắc thế nào cậu chẳng tạt qua bà de Longueville?
- Có đấy - Aramis đáp.
- Thế nào?
- Bà ta cũng không có nhà, nhưng ít ra cũng để lại địa chỉ mới.
- Ở đâu thế?
- Thử đoán xem, tôi cá bạc nghìn đấy.
- Tôi chắc rằng đêm qua cậu chia tay tôi và đến nhà bà ấy. Thế thì cậu bảo tôi làm sao mà đoán được cái bà xinh đẹp nhất và hoạt động nhất trong đám nữ Fronde ấy ở đâu lúc nửa đêm.
- Bạn thân mến ơi, bà ta ở Toà thị sảnh.
- Sao, ở Toà thị sảnh à? Thì ra bà ta được cử làm thị trưởng Paris ư?
- Không; bà ta làm quyền hoàng hậu Paris, và do không dám vừa thoạt đầu đã đến ngự ở Hoàng cung hoặc cung điện Tuleries, bà ta đóng ở Toà thị sảnh, tại đây bà ta sẽ cho ngài quận công thân mến ấy một đứa con thừa kế trai hoặc gái.
- Aramis, thế mà cậu đã không cho tôi biết tình hình này, - Arthos trách.
- Ơ thật à? Thế thì tôi quên đấy. Xin lỗi nhé!
- Từ giờ đến chiều tối chúng ta làm gì nào? - Arthos hỏi, - hình như ta quá rỗi rãi.
- Anh quên rồi ư, chúng ta có việc ấn định sẵn rồi mà.
- Về phía Charenton à, mẹ kiếp!
- Theo lời hẹn của hắn, tôi hy vọng gặp tại đấy một gã Châtillon nào đó mà tôi căm ghét từ lâu.
- Tại sao thế? - Arthos hỏi.
- Tại vì hắn là em ruột lão Coligny nào đó.
- À phải rồi, tôi quên mất. Cái lão đã tấp tểnh làm đối thủ của cậu. Hắn đã bị trừng phạt một cách tàn nhẫn vì cái tội mạo muội ấy.
- Bạn thân mến ơi, kể ra như thế cũng đủ lắm cho cậu rồi.
- Vâng, nhưng biết làm thế nào. Điều đó chưa đủ với tôi. Tôi là người thù dai; đó là cái điểm duy nhất khiến tôi bám vào Nhà thờ. Sau đó, Arthos ơi, mong anh hiểu rằng anh không hề bị buộc phải đi theo tôi.
- Thôi đi nào - Arthos nói - Cậu đùa đấy à?
- Bạn thân mến ơi, nếu anh quyết định đi với tôi thì không chậm trễ nữa. Trống đã đánh, tôi đã gặp các cỗ đại bác, đã trông thấy các nhà tư sản thị dân dàn trận trên quảng trường Toà thị sảnh; chắc chắn sắp có đánh nhau ở phía Charenton như hôm qua công tước de Châtillon đã nói.
- Tôi ngỡ là, - Arthos nói, - những cuộc đàm phán đêm qua có làm thay đổi chút nảo những khuynh hướng hiếu chiến.
- Phải, chắc thế, nhưng không phải vì vậy mà người ta không đánh nhau, dù là để ngụy trang cho những cuộc đàm phán.
- Tội nghiệp cho những con người kia? - Arthos nói, họ đi ra chỗ chết đề người ta trả lại đất Sedan cho ông Bouillon, để người ta ban quyền tập chức đô đốc cho ông de Beaufort, và để ngài chủ giáo được phong làm giáo chủ.
- Này, này, Arthos thân mến ơi, - Aramis nói, - Hãy thú nhận rằng anh chẳng tỏ ra hiền triết đến thế đâu, nếu như Raoul của anh không phải có mặt ở trong những vụ lộn xộn ấy?
- Có lẽ cậu nói đúng đấy, Aramis ạ.
- Vậy thì chúng ta hãy đến chỗ nào có đánh nhau, đó là một cách chắc chắn để tìm gặp d'Artagnan, Porthos và cả Raoul nữa.
- Chao ôi! - Arthos nói.
- Này anh bạn thân mến ơi, - Aramis nói, - Hãy nghe tôi, giờ đây chúng ta đang ở Pháp thì phải bỏ cái thói quen luôn luôn thở vắn than dài ấy đi. Đúng là! Thời thế thế, thế thời phải thế! Arthos, anh chẳng phải người kiếm cung nữa sao và anh làm như người tu hành ấy. Xem kìa, những nhà tư sản bảnh bao đang đi qua; trông ra dáng nhà binh đấy chứ!
- Họ đi từ phố Con Cừu ra.
- Trống trận đi trước, như những binh lính thực thụ. Này nhìn xem cái thằng cha kia, nó khệnh khạng, ưỡn ngực ra!
- Hừ! - Grimaud thốt lên.
- Cái gì? - Arthos hỏi.
- Planchet, ông ạ…
- Hôm qua trung uý, hôm nay đại úy. - Aramis nói, - Ngày mai chắc là đại tá, trong tám ngày nữa không chừng nó lên thống chế Pháp quốc.
- Ta hãy hỏi thăm tin tức nó xem sao, - Arthos nói.
Đôi bạn đến chỗ Planchet. Anh ta hãnh diện hơn bao giờ hết vì được biết đến trong khi đang thừa hành chức vụ của mình, chiếu cố giải thích cho hai nhà quý tộc rằng anh được lệnh đóng ở Hoàng trường với hai trăm người tạo thành đội hậu vệ của quân đội Paris, và khi cần sẽ tiến về phía Charenton.
Do đi cùng một hướng, Arthos và Aramis hộ tống Planchet đến tận vị trí của anh ta.
Planchet cho vận động khá nhanh nhẹn người của mình trên Hoàng trường và bố trí họ đằng sau một dãy dài những dân tư sản đứng ở phố và cửa ô Saint-Antoine, trong khi chờ đợi hiệu lệnh chiến đấu.
- Ngày hôm nay sẽ nóng bỏng đây, - Planchet nói với giọng hiếu chiến.
- Hẳn là thế, - Aramis nói, - nhưng từ đây đến chỗ quân thù còn xa.
- Người ta sẽ rút ngắn khoảng cách lại, ông ạ, - một viên khu trưởng nói.
Aramis chào, rồi quay lại bảo Arthos:
- Tôi chẳng thiết ở lại Hoàng trường với tất cả lũ người này. Hay là chúng ta tiến lên phía trước; ta sẽ thấy rõ mọi sự hơn.
- Với lại ông de Châtillon sẽ chẳng đi tìm cậu ở Hoàng trường đâu, có phải không? Nào, ta đi lên phía trước.
- Thế về phía anh chẳng có vài lời cần nói với ông Flamarens hay sao?
- Bạn ơi, tôi đã có một quyết định là chỉ rút kiếm ra khi cùng bất đắc dĩ.
- Từ bao giờ vậy?
- Từ khi tôi rút dao găm.
- A, được lắm? Lại một kỷ niệm về ông Mordaunt.
- Này, bạn thân mến ơi, anh chỉ có nước ăn năn hối hận vì đã giết chết cái thằng ấy.
Với nụ cười buồn bã chỉ anh mới có, Arthos đặt một ngón tay lên miệng mà nói:
- Suỵt! Đừng nói đến Mordaunt nữa, kẻo mang hoạ đấy.
Rồi Arthos nhằm hướng Charenton mà phóng, đi theo cửa ô, rồi thung lũng Fêcamp đen đặc những thị dân vũ trang.
Aramis đi theo sau anh nửa thân ngựa.
Chú thích:
(1) Thành phố xây dựng trên mắt nước, là một thắng cảnh ở nước Ý.
Nguồn: http://vnthuquan.net/