Chương 1: Anh em nhà ông de Witt bị tước quyền
Ngày 20 tháng tám 1672, ở La Haye, thủ đô của bảy Tỉnh Hợp nhất, các công dân tràn xuống các ngả đường lớn thành một dòng người đen kịt.
Họ vai vác súng, tay cầm gậy vội vàng, hổn hển -bụng dạ không yên, chạy về phía nhà tù Buytenhof, nơi giam giữ Corneille de Witt, anh ruột của ông cựu thủ tướng vĩ đại Hà Lan. Từ khi bị nhà phẫu thuật Tyckelaer buộc tội giết người, ông bị bắt giam và đang sống leo lắt ở nhà tù nói trên.
Nếu lịch sử của thời kỳ đó, nhất là vào cái năm chúng tôi bắt đầu kể câu chuyện dưới đây, không gắn liền mật thiết với hai tên gọi nói trên thì một vài dòng chúng tôi giải thích sau đây chỉ có thể coi như một món "hors-d’Âuvre" mà thôi. Nhưng chúng tôi xin báo trước bạn đọc rằng cái điều cảnh báo ấy cũng cần thiết để hiểu rõ câu chuyện chúng tôi kể chẳng khác gì để hiểu biết sự kiện lịch sử to lớn xảy ra trong đó chuyện của chúng tôi đã được lồng vào.
Vào năm Corneille hoặc Cornélius de Witt 49 tuổi, nhân dân Hà Lan đã thấy chán nản nền cộng hòa theo kiểu Jean de Witt, ụi toàn quyền vĩ đại của Hà Lan. Họ rất thích chế độ xtatudera đã bị sắc lệnh của Jean de Witt buộc phải bãi bỏ vĩnh viễn trong bảy Tỉnh Hợp nhất ở Hà Lan rồi.
Vì ít có trường hợp dân chúng thấy đằng sau một nguyên lý lại không có bóng dáng một con người nên họ thấy nét mặt trang nghiêm của anh em dòng họ De Witt là thấy bóng dáng của nền cộng hòa. Hai ông là cha sinh không khoan nhượng của một nền tự do có khuôn phép và một nền thịnh vượng không thừa thãi xa hoa. Cũng vậy, đằng sau chế độ stathoudérat, họ thấy có Guillaume d’ Or-ange trai trẻ với vầng trán nghiêng nghiêng, trang trọng và suy tư được những người đương thời gọi là ông Trầm Mặc, sau này ông cũng được hậu thế gọi y như thế.
Hai anh em nhà de Witt kiêng nể Louis XIV vua nước Pháp vì cảm thấy uy tín của ông càng ngày càng lớn trên khắp châu Âu. ông vừa thắng trận trong chiến dịch kỳ diệu sông Ranh: sau ba tháng giao tranh ông đã chế ngự được sức mạnh của bảy Tỉnh Hợp nhất.
Từ lâu Louis XIV là kẻ thù của nhân dân Hà Lan. Nay họ mong có một người khác đứng lên cứu đất nước họ thoát khỏi cảnh tan nát và tủi nhục.
Người đó đã sẵn sàng xuất hiện và có đủ khả năng để chống lại Louis XIV. Đó là Guillaume d’Orange, con vua Guillaume II, cậu bé trầm mặc như trên đã nói, người ta thấy bóng dáng của cậu thấp thoáng đằng sau chế độ stathoudérat.
Năm 1672, cậu hai mươi hai tuổi. Jean de Witt đã từng là thái phó của cậu và ông muốn dạy cậu sau này trở thành một công dân tốt. Đặt quyền lợi của tổ quốc lên trên quyền lợi của trò mình, ông đã ban bố sắc lệnh bãi bỏ vĩnh viễn chế độ stathoudérat, làm tắt hy vọng khôi phục chế độ này, nhưng dân Hà Lan mong muốn lập lại chế độ cũ.
Ông thủ tướng vĩ đại chiều theo ý muốn của toàn dân; nhưng Corneille de Witt bướng bỉnh hơn.
Ông không chịu ký vào bản chứng thư tái lập chế độ cũ.
Sau cùng chiều ý do bà vợ khóc lóc van xin, ông đành ký, có điều ông ghi thêm vào dưới chữ ký của mình hai chữ: V.C. vi coactus, có nghĩa là:
chịu ký vì áp lực.
Nhưng những người theo phái orangistes không cần biết điều ấy. Chính hai anh em De Witt mới là vật cản chính của họ. Để đạt được mục đích của mình, họ dùng mưu vu khống và trong hoàn cảnh đó họ đã tìm được một tên khốn nạn sẵn sàng vào cuộc chơi với họ. Tên này, chúng tôi hình như đã có lần nói rồi, gọi là Tyckelaer, làm nghề phẫu thuật.
Hắn đến khai láo rằng vì Corneille de Witt thất vọng khi thấy sắc lệnh bãi bỏ chế độ cũ do em mình ký không còn hiệu lực nữa và vì sôi sục căm thù chống Guillaume d’ Orange nên đã ngầm sai một tên sát nhân đi giết ông này hòng cứu vãn nền cộng hòa; tên sát nhân ấy không ai khác là hắn; vậy là Tyckelaer hối hận đã đi tố cáo hơn là để mình phạm tội.
Bây giờ ta hãy thử xem những người theo phái orangistes tức giận đến chừng nào khi nghe tin ấy.
Ông kiểm soát trưởng ký lệnh bắt Corneille tại nhà.
Ngày 16 tháng tám năm 1672, Corneille de Witt, người anh cao thượng của Jean de Witt bị đánh đòn phủ đầu ngay trong buồng giam của nhà tù Buytenhof nhằm bắt ông thú nhận là chủ mưu sát hại Guillaume..Nhưng Corneille chẳng những là một con người cao thượng mà còn là một conngười đầy dũng khí.
Ông không thú nhận điều gì. Không những ông làm mệt sức các tên đao phủ mà còn làm nhụt cả tính cuồng tín của chúng.
Không khai thác được gì các quan tòa vẫn tuyên phạt: Corneille bị mất mọi chức vụ và phẩm tước, bị phạt tiền hầu tòa và bị đi đày chung thân biệt xứ.
Quyết định đó không những xử oan một người vô tội mà còn xúc phạm danh dự một người có tên tuổi ắt phải làm vừa lòng dân chúng lắm đây. Tuy nhiên không phải thế là đã đủ như chúng ta sẽ thấy sau đây.
Ngay sau khi nghe tin anh mình bị xử oan, Jean de Witt xin từ chức toàn quyền. Đến lượt ông cũng thế, ông không được người ta đối xử như người có công với Tổ quốc. ông mang về trong cuộc sống riêng tư những ưu phiền và đau thương. Đó là hai món lợi duy nhất mà những con người trung thực như ông thường nhận được sau khi đã quên mình phục vụ đất nước.
Trong thời gian đó, Guillaume d’ Orange bí mật hoạt động bằng mọi cách để đạt được mục đích. ông hy vọng quần chúng đã coi mình là thần tượng sẽ lấy thi thể hai anh em De Witt làm chiếc cầu cho ông nhảy chiếm vị trí đứng đầu chế độ stathoudérat cũ.
Ngày 20 tháng tám năm 1672, như chúng tôi đã nói ở đầu chương, tất cả thành phố đổ xô về nhà giam Buytenhof để chứng kiến cảnh Corneille de Witt rời nhà giam bắt đầu kiếp đi đày.
Chúng tôi phải nói ngay rằng những người chạy vội về Buytenhof không phải chỉ để chứng kiến một cảnh lạ mắt; trái lại nhiều người trong số họ còn muốn đóng một vai trò, hay đúng hơn muốn làm thêm một công việc mà họ cho là còn chưa làm đủ.
Chúng tôi muốn nói là công việc của đao phủ.
Quần chúng nguyền rủa các quan tòa dốt nát đã xử thế nào lại để cho tên tội phạm khốn kiếp kia còn được sống sót.
Một vài kẻ nhỏ to xúi bẩy:
- Nó sắp đi rồi! Nó sắp thoát khỏi tay chúng ta rồi.
- Có một thuyền Pháp chờ hắn ở Scheveningen rồi.
Một người khác nói:
- Không kể trong lúc Corneille chuồn, lão Jean tội chẳng kém cũng sẽ chuồn theo.
- Và hai thằng xỏ lá ấy sẽ sang sinh sống ở Pháp. Chúng sẽ lấy tiền bạc do bán tàu bè, xưởng.đóng tàu, công trường của chúng ta cho Louis XIV ăn tiêu hết mất thôi!
- Phải giữ chúng lại! - Một người khác dứt khoát nói to lên.
- Tống vào tù! Vào tù! - Mọi người đồng thanh hét lên.
Tức thì các thị dân càng chạy nhanh hơn, súng vội lên đạn, dao vội vung lên và các con mắt trở nên nảy lửa.
Tuy nhiên, bạo động không xảy ra; hàng ngũ đội kỵ binh canh gác xung quanh Buytenhof vẫn đứng im, trơ như đá lạnh như tiền, càng đáng sợ hơn đám đông la hét, giơ chân, múa tay, dọa nạt kia. Họ, đội kỵ binh của thành phố La Haye đặt dưới sự chỉ huy của bá tước quan ba De Tilly vẫn đứng yên lặng. Với lại, ngay khi dân chúng hăng máu muốn băm vằm nạn nhân thứ nhất ra thì họ không biết rằng nạn nhân thứ hai, cách xa họ khoảng trăm thước đang qua sau lưng đám đông và đội kỵ binh để đến Buytenhof.
Thật vậy, Jean de Witt vừa trên xe bước xuống cùng với một người hầu. ông lặng lẽ qua cái sân trước cổng nhà tù.
Ông xưng tên với người gác cổng, mà không biết chính người này cũng biết ông. ông nói:
- Chào Gryphus, tôi đến tìm anh trai tôi vừa bị án tù biệt xứ, chú biết rồi chứ gì?
Người gác cổng xưa nay chỉ biết mở, đóng cửa theo lệnh của chủ, liền cúi đầu chào ông, để ông vào xong lại đóng cửa ngay.
Đi được mươi bước, ông gặp một cô gái quãng mười bảy mười tám tuổi, ăn mặc kiểu quần áo tỉnh Frisonne. Thấy ông, cô nghiêng mình chào một cách duyên dáng. ông nâng cằm cô lên, nói:
- Chào cháu Rosa xinh đẹp và tốt bụng; anh tôi ra sao rồi hả cháu?
- Thưa ông Jean vĩ đại. - Cô bé trả lời. - Cháu không lo người ta đánh đập ông ấy đâu ạ.
- Vậy cháu lo điều gì nào?
- Cháu lo người ta còn làm điều tệ hơn nữa đối với ông ấy ạ.
- Đúng, - Jean de Witt nói. - cháu sợ dân chúng có phải không?
Khi Jean de Witt bước theo thang đá lên buồng giam Corneille thì các thị dân ở ngoài đang cố gắng bằng mọi cách để đội quân bảo vệ của Tilly lùi ra xa chút nữa vì các khẩu súng ngắn của đội kỵ binh lăm lăm trong tay làm họ e ngại.
Về phần mình, bá tước De Tilly thận trọng nhưng cương quyết, đang thuyết phục đám dân.chúng cho họ hiểu là ông cùng với ba đại đội có nhiệm vụ canh gác nhà tù và các điểm xung quanh.
Một thị dân hét to:
- Canh gác thế là để cho những kẻ phản bội có cách ra khỏi thành phố chứ gì?
- Có thể như thế, bởi vì họ đã bị đày biệt xứ rồi. - Bá tước trả lời.
- Nhưng ai ra lệnh?
- Chính phủ chứ ai?
- Chính phủ phản bội.
- Về điều đó, tôi không biết.
- Chính ông cũng phản bội.
- Tôi ấy ư?
- Chính ông.
- A! Điều ấy, chúng ta hãy hiểu nhau hơn các ông ơi, tôi phản bội ai nào? Chính phủ ư? Tôi không thể làm thế được, tôi là người được Nhà nước trả lương, tôi làm theo lệnh Nhà nước.
- ông hãy nhường chỗ cho chúng tôi đi; ông sẽ là một công dân tốt đấy.
- Thứ nhất, - De Tilly nói. - tôi không phải là công dân bình thường, tôi là sĩ quan, đó là hai điều khác nhau. Thứ hai, tôi không phải là người Hà Lan, tôi là người Pháp, đó là điều khác nhau nữa. Vậy tôi chỉ biết có mỗi Chính phủ đã trả lương cho tôi thôi. Các ông hãy mang lệnh của Chính phủ ra đây, tôi sẽ giải tán ngay lập tức, với lại tôi cũng chán ở đây mãi rồi.
- Được, được. - Một trăm tiếng cùng lúc kêu lên, một trăm tiếng khác họa theo. - Chúng ta hãy đến tòa Thị chính. Chúng ta sẽ tìm các ngài nghị viên. Nào, chúng ta đi, đi thôi.
Ông De Tilly nhìn những kẻ điên cuồng nhất bỏ đi, lẩm bẩm:
- Thế đấy, cứ đi mà đề nghị một điều đốn mạt như thế xem có được chấp nhận không; có giỏi thì cứ đi đi, đi đi!
Jean de Witt đã tới cửa buồng giam. Anh ông, Corneille, đang nằm bẹp dí trên chiếc nệm; viên thanh tra thuế khóa đã đánh ông một trận đòn phủ đầu như chúng tôi đã nói ở trên.
Corneille nằm trên giường, các ngón tay và cổ tay giập nát, tuy nhiên ông không khai một lời về một tội ác mà ông không làm. Sau cùng, sau ba ngày đau đớn, ông vừa được tin các quan tòa, tưởng xử ông với mức án nặng nhất hóa ra chỉ cho ông đi tù chung thân biệt xứ.
Jean dịu dàng hôn lên trán anh và nhẹ nhàng đặt đôi bàn tay đau đớn của người anh lên nệm.
- Corneille, anh đau lắm phải không?.- Được trông thấy em, anh cảm thấy không đau đớn nữa. Em đỡ anh dậy, anh đi được cho em xem.
- Anh chỉ cần đi dăm bước thôi là tới xe của em đợi ở ao cá đằng sau đội quân của ông Tilly ấy.
- Có nhiều người đến Buytenhof xem lắm phải không em?
- Nhiều anh ạ.
Nói xong, ông buồn rầu nhìn người anh:
- Thế mà, để đến được đây... - Người anh nói.
- Anh ạ, anh cũng biết chúng ta không được mến mộ lắm. - ông cay đắng nói. - Nhưng em đi bằng những con đường ngách cũng đến được.
Lúc đó, tiếng ồn ào dâng lên ở quảng trường trước nhà tù.
- ôi! ôi! - Corneille nói. - Không biết em có cứu nổi anh ra khỏi chốn này không.
- Đội ơn chúa, chúng ta cố gắng xem, may ra.
- Jean trả lời. - Nhưng hãy để em nói một câu.
- Em nói đi.
- Trong những điều vu khống chúng ta, có điều bọn orangistes bảo chúng ta đã thương lượng với Pháp.
- Đồ ngu!
- Đúng, nhưng chúng trách cứ chúng ta vì điều đó.
- Nếu những cuộc thương lượng thành công có phải đã tránh được cho ta và cho Pháp giao tranh không, và nước Hà Lan chúng ta lại có thể coi mình là vô địch với các bãi lầy, sông đào rồi không?
- Tất cả là đúng anh ạ, nhưng nếu lúc này chúng bắt được thư từ chúng ta trao đổi với ông M. de Louvois thì khốn. Thư từ nọ sẽ chứng minh với những người có lương tri là em yêu nước đến chừng nào nhưng đối với bọn orangistes thắng thế thì đó là một tai họa cho chúng ta. Chính vì thế, em mong là anh đã đốt nó đi rồi trước khi anh rời khỏi Dordrecht.
- Em ạ! - Corneille đáp. - Những thư từ nọ chứng tỏ vào thời kỳ cuối này em là một công dân vĩ đại nhất, tài giỏi nhất, khôn khéo nhất trong bảy Tỉnh Hợp nhất chúng ta. Sự vinh quang của đất nước đối với anh là vô cùng quý báu nhưng anh, anh lại thích nhất sự vinh quang của em kia nên anh không đời nào đốt nó đi.
- Anh làm thế nào nào?
- Anh giao cho Cornélius Van Baerle, con đỡ đầu của anh, em đã biết nó rồi đấy. Nó ở Dor-drecht.
Nó không biết tính chất và giá trị tài liệu anh gửi nó giữ hộ đâu.
- Thế thì nhanh lên, còn kịp, anh lệnh cho nó đốt ngay đi..- Bằng cách nào bảo nó được hả em?
- Nhờ Craeke giúp. Anh ta là người đánh xe ngựa cho chúng ta, đang đứng ở cửa kia, chờ dìu anh xuống thang.
- Em bảo anh ta vào đây.
Jean ra mở cửa. Quả nhiên, người đày tớ trung thành vẫn đứng đó.
- Craeke lại đây! Anh hãy nhớ lấy điều anh tôi dặn nhé.
- ồ không, dặn miệng không được em ạ, anh phải viết tay. Van Baerle chỉ trao lại tập thư hoặc đốt nó đi khi có một lệnh rõ ràng.
- Nhưng tay anh đau thế viết làm sao?
- Được em ạ. Có giấy có bút là anh viết được ngay, rồi em sẽ thấy. - Corneille nói.
- Có đây rồi, ít ra là cái bút chì.
- Em có giấy không. Chúng chẳng để gì ở đây cho anh cả.
- Có quyển Kinh Thánh đây. Anh xé lấy tờ đầu.
- Được rồi.
- Em sợ anh viết chữ không đọc được.
- Được em ạ, - Corneille nhìn em mình đáp. -những ngón tay này đã chịu được lửa do đao phủ đốt, cái ý chí này đã nén được đau thì chúng sẽ kết lại thành một sức mạnh mới; em hãy yên tâm, anh sẽ viết thẳng dòng không run một nét chữ nào đâu.
Nói rồi Corneille cầm biết viết.
Người ta thấy máu tươi từ những miếng thịt nứt toác ở các ngón tay bị thương bật ra, do kẹp quá chặt cây bút chì nên máu thấm hồng cuộn băng trắng.
Mồ hôi vã ra trên trán người em.
Corneille viết:
"Con thân yêu, Con hãy đốt bọc giấy cha gửi. Con đốt ngay không mở, không xem để nó luôn luôn là điều không biết đối với con. Những bí mật của nó đủ giết người cất giữ nó. Con hãy đốt đi và như vậy là con cứu cha Corneille và chú Jean của con đấy.
Vĩnh biết con.
Con hãy thương cha.
Corneille de Witt 20-8-1672." Jean giàn giụa nước mắt, lấy tay chùi một giọt máu rơi trên giấy; ông đưa thư cho người hầu rồi trỏ vào Corneille gần ngất xỉu nói:.- Bây giờ, khi Craeke nổi lên một hồi còi là báo hiệu anh ta đã qua khỏi đám đông, tới bờ bên kia ao cá... Lúc đó đến lượt chúng ta đi.
Chưa đến năm phút đã nghe thấy hồi còi dài và mạnh nổi lên át tiếng ồn ào của đám đông đang tụ tập trước nhà tù Buytenhof.
Jean đưa tay lên trời, cám ơn Chúa rồi nói:
- Thôi bây giờ, anh Corneille, đến lượt chúng ta đi.
Chương 2: Sự thù hằn giết người của các thị dân.
Trong khi những tiếng la ó của đám đông tụ tập trước nhà tù Buytenhof thúc giục hai anh em De Witt phải rất nhanh thì một đoàn đại biểu đi lên phố Hoogstraet.
Buytenhof không xa Hoogstraet là mấy, do đó người ta thấy một người lạ mặt từ nãy chăm chú theo dõi về hướng đoàn đại biểu đi.
Đó là một chàng trai trẻ, tuổi khoảng hai mươi hai, hai mươi ba, bề ngoài trông không rắn rỏi lắm.
Có lẽ anh muốn người ta không nhận ra nên anh che bộ mặt dài và xanh bằng một chiếc khăn mỏng tỉnh Frise, đồng thời anh sử dụng nó để lau mồ hôi trán hoặc đôi môi khô cháy.
Anh ăn mặc giản dị và hình như không đeo súng; cánh tay gầy và run run do bệnh thần kinh và bàn tay trắng, mịn, vẻ quý phái không khoác tay mà quàng lên vai một sĩ quan..Đến quảng trường Hoogstraet, người trai trẻ có bộ mặt xanh xao đẩy người cùng đi vào dưới một cánh cửa chớp đang mở và chăm chú nhìn lên ban công tòa thị chính.
- Ai ở ban công thế? - Chàng trẻ tuổi hỏi.
- Ngài nghị viên.
- ông là người thế nào, anh có biết không?
- Một người trung hậu, thưa quý ngài.
Người được gọi là quý ngài lại hỏi:
- ý anh nói là trung hậu hay can đảm?
- Quý ngài tha lỗi cho, tôi không thể phân biệt được, thưa Hoàng thân, vì tôi chỉ biết mặt chứ không được tiếp xúc với ngài đó bao giờ.
Hoàng thân nói tiếp:
- Nếu là một người trung hậu thì ông ta sẽ nhận lời thỉnh cầu của bọn điên rồ kia, hay đấy nhỉ!
Bàn tay của Hoàng thân đặt trên vai người sĩ quan chứng tỏ ngài giận lắm.
Ông nghị M. BÂwebt dáng chừng muốn nói nhưng người ta không nghe thấy những lời ông nói mà chỉ thấy tay ông giơ lên giơ xuống theo lời nói mà thôi.
Nhân dân đi sâu vào cổng chính của tòa thị chính. Người trai trẻ lạnh lùng nói:
- Hình như có hội bàn trong phòng họp. Chúng ta thử vào xem sao.
- Bẩm Hoàng thân, xin Hoàng thân cẩn thận!
- Cẩn thận cái gì?
- Trong số các nghị viên có nhiều người có quan hệ với Hoàng thân, nếu chỉ cần một người nhận ra Hoàng thân...
- Họ sẽ buộc tội tôi là kẻ xúi giục đám đông này chăng? Anh nói có lý. - Người trẻ tuổi nói.
- Nhưng bẩm Hoàng thân, Hoàng thân không lần nào đặt giả thiết là các ngài nghị viên lệnh cho Tilly giãn quân ra chứ ạ?
- Tại sao? - Người trẻ tuổi lạnh lùng hỏi.
- Bởi vì họ làm như vậy, đơn giản là họ kết án tử hình hai ông Corneille và Jean de Witt.
- Rồi ta sẽ thấy. - Hoàng thân lạnh lùng trả lời. - Chỉ có Trời mới biết lòng người ra sao.
Viên sĩ quan trộm nhìn vẻ mặt lạnh như tiền của người cùng đi, mặt ông ta bỗng nhiên tái mét.
Phòng nghị luận chật ních người.
Tiếng ồn ào bỗng ngưng rồi bỗng nhiên lại nổi lên mạnh hơn làm tòa nhà cũ rung chuyển đến tận nóc.
Sau cùng, dòng người xô nhau qua các hành lang, các cầu thang rồi tuôn ào ra cửa như một cái vòi rồng miệng lớn.
- Họ được lệnh rồi. - Người sĩ quan ngạc nhiên lẩm bẩm.
- Thế là tôi xác định được rồi. - Hoàng thân bình tĩnh nói. - ông đại tá ạ, ông không biết ông BÂwelt là trung hậu hay can đảm. Tôi bảo ông ta chẳng phải trung hậu cũng chẳng phải can đảm.
Rồi lặng lẽ nhìn đám đông đang chen nhau chạy trước mặt, ông nói:
- Bây giờ chúng ta đến Buytenhof; tôi tin rằng chúng ta sẽ chứng kiến một cảnh tượng kỳ lạ đây.
Quảng trường và xung quanh nhà lao người đông như kiến. Nhưng quân của Tilly vẫn cương quyết cản họ.
Lúc sau, bá tước nghe thấy tiếng xì xào mỗi lúc một to rồi ông trông thấy một tờ giấy khua khua trên những nắm tay giơ lên và những vũ khí sáng loáng.
Ông nhổm người trên lưng ngựa nói:
- Ta cho rằng đám vô lại kia đã có lệnh rồi đây.
Quả nhiên đó là tờ lệnh mà lúc nãy bọn thị dân đã kêu rú lên thích thú khi được cấp.
- Lệnh đây! Lệnh đây! - Trăm tiếng hỗn xược vang lên.
Bá tước kinh ngạc cầm lấy, lướt đọc rồi nói to:
- Ai ký lệnh này rõ ràng là đao phủ giết chết ông Corneille de Witt.
Ông gấp tờ giấy lại và để cẩn thận vào túi áo chẽn quân phục.
Rồi quay về phía hàng quân, ông hô to:
- Kỵ binh Tilly, bên phải, quay!
Một tiếng kêu tức giận tiếp sau cuộc giãn quân đó.
Như vậy là chúng ta thấy, Jean de Witt đã nói đúng về sự nguy hiểm khi ông vực ông anh dậy giục mau mau phải trốn khỏi nơi này.
Dựa vào người em, Corneille bước xuống thang.
Đến sân, ông thấy cô gái Rosa xinh đẹp đang đứng run sợ.
- ôi ngài Jean, khổ quá đi mất! - Cô nói.
- Có chuyện gì đấy? - Jean hỏi.
- Họ kéo nhau đi Hoogstraet yêu cầu lệnh cho quân bảo vệ giãn ra..- Đúng vậy cháu ạ, nếu quân bảo vệ đi khỏi chỗ này thì đó là điều tệ hại cho chúng ta. - Jean nói.
- Bẩm ngài Jean, - cô thẹn thùng nói tiếp. -nếu là cháu, cháu sẽ chui qua cổng đường ngầm.
Cổng này mở ra ở cuối phố nhỏ vắng vẻ đằng kia.
Còn ở cửa chính phố lớn bây giờ, người đứng đông nghịt cả rồi.
- Nhưng anh tôi không thể lê đến tận đấy được.
- Anh sẽ cố gắng. - Corneille trả lời.
- Chẳng hay các ngài không có xe hay sao?
- Xe chúng tôi đợi ở thềm cổng chính.
- Không phải! - Cô gái trả lời. - Cháu thấy ông đánh xe là người tận tâm nên cháu đã bảo ông ấy chờ các ngài ở đầu cửa ngầm đằng kia rồi.
- Cháu gái ạ, - Corneille nói. - bác chẳng có gì tặng để cám ơn cháu về những gì cháu đã làm cho bác ngoài quyển Kinh Thánh bác có để ở buồng bác.
Đó là vật kỷ niệm cuối cùng của một người có phẩm giá; bác mong nó mang lại hạnh phúc cho cháu.
- Cháu xin cám ơn bác, cháu sẽ không bao giờ rời vật kỷ niệm của bác. - Cô gái trả lời.
Rôsa dẫn họ đi, xuống chừng mười hai bậc thang, qua một sân nhỏ có tường đã rạn nứt bao bọc xung quanh.
Như vậy là họ đã đến bên kia nhà lao ở một phố vắng nơi có chiếc xe đứng đợi.
Người đánh xe sợ hãi cuống cuồng kêu lên:
- Xin các ngài mau lên, mau lên; các ngài có nghe thấy họ la hét đấy không?
Sau khi đã đẩy được Corneille lên xe trước tiên, ông cựu thủ tướng quay sang nói với cô gái:
- Từ biệt cháu, chúng ta sẽ cầu nguyện Chúa, kính báo với Ngài rằng cháu là người đã cứu sống hai mạng người chúng ta, Chúa hãy che chở cho cháu.
Rosa nắm tay vị thủ tướng cũ, trân trọng đưa lên môi hôn.
- Xin các ngài đi ngay cho! - Cô nói. - Hình như họ đang phá cửa đấy.
Jean de Witt vội nhảy lên xe, ngồi cạnh người anh, rồi kéo cánh cửa xe lại, nói to:
- Đến Tol-Hek!
Tol-Hek là hàng ghi chắn cửa mở ra cái bến nhỏ Scheveningen, ở đấy có con tàu nhỏ đợi sẵn hai anh em cựu thủ tướng.
Hai con tuấn mã kéo vội chiếc xe, chở đi những con người đang tìm đường tẩu thoát.
Một vài phút sau cửa chính bị phá bởi các đòn thúc, đòn bẩy; dân chúng ùa vào nhà tù, vừa chạy vừa la hét:.- Quân phản bội, phản bội! Treo cổ thằng Cor-neille lên! Nó phải chết! Phải chết!
Người trẻ tuổi nói trên, vẫn đội chiếc mũ che kín mặt, vẫn tựa người vào viên sĩ quan; anh đứng ở một góc quảng trường Buytenhof quan sát cảnh hỗn loạn do đám thị dân gây nên đã sắp đi đến đoạn kết thúc.
Thật vậy, dân chúng thấy buồng nhà lao trống không. Họ nhô mặt ra ngoài cửa sổ tức giận hét:
- Trốn rồi! Vượt ngục rồi! Bọn chúng đã đánh tráo. Đuổi theo ngay đi!
- Bẩm ngài, hình như Corneille de Witt đã biến thật sự rồi. - Viên sĩ quan nói.
- Đúng, nhưng là biến khỏi nhà tù chứ chưa biến khỏi nổi thành phố. - Người kia trả lời. - Anh Van Deken này, rồi anh sẽ thấy cánh cửa mà con người khổ sở kia hy vọng mở hóa ra lại là đóng trước mặt hắn.
- Bẩm ngài, đã có lệnh đóng các cửa thông ra biển rồi chăng?
- Không, tôi không tin; ai là người có thể ra lệnh nào?
- Vậy làm sao ngài giả thiết được như vậy?
Hoàng thân hờ hững trả lời:
- Người ta đều có số. Có trường hợp những con người vĩ đại nhất vẫn phải quàng vào mình số mệnh tai ngược.
Viên sĩ quan cảm thấy ớn lạnh suốt sống lưng vì anh hiểu rằng số phận người tù kia đã cạn bằng cách này hay cách khác.
Vào lúc đó, đám đông gào thét như cuồng vì rõ ràng là Corneille de Witt không còn trong nhà giam.
Thật vậy, sau khi qua bờ ao cá ra phố lớn đi Tol-Hek thì Jean dặn người đánh xe phải cẩn thận cho xe chạy từ từ đã để không gây bất cứ sự nghi ngờ nào. Đến giữa phố người đánh xe mới cho xe chạy nhanh nhưng bỗng nhiên anh ghì cương.
- Có chuyện gì thế? - Jean thò đầu ra ngoài cửa xe hỏi.
- Dạ, bẩm các ngài, có... có...
Sự khiếp đảm làm người đánh xe không nói thành lời.
- Thế nào, nói tiếp đi chứ! - ông cựu thủ tướng nói.
- Cửa ra biển đóng rồi ạ.
- Cứ đi đi! - Jean đáp. - Tôi đã có lệnh giao hoán rồi, người gác cổng sẽ mở cửa..Một lúc sau đã đến Tol-Hek.
- Mở cổng ra! - Người đánh xe gọi to.
- Mở cửa, mở bằng cách nào? - Người gác cổng đứng trên bậc cửa nhà mình nói.
- Thế ông không có chìa khóa hay sao? - Người đánh xe hỏi.
- Không.
- Anh bạn ạ, - ông cựu thủ tướng thò đầu ra ngoài nói, - hãy mở cửa cho tôi và cho Corneille anh trai tôi, tôi dẫn anh tôi đi biệt xứ đây mà.
Người gác cổng nói:
- ồ thưa ông De Witt, tôi rất lấy làm phiền, nhưng tôi xin thề với ông rằng sáng nay có người đã đến lấy chìa khóa của tôi mang đi rồi.
- Ai lấy?
- Một người trai trẻ chừng hai mươi tuổi, xanh xao gầy guộc.
- Thế tại sao bác lại đưa cho người ta?
- Vì anh ta có lệnh, phong bì dán kỹ và xi đóng cẩn thận mà.
Jean nói với người đánh xe:
- Thôi được, Trời sinh ra con người thì con người phải tìm mọi cách để cứu sống mình; anh đánh xe, chúng ta đi cổng khác vậy.
Trong khi người đánh xe quay xe, Jean nói với người gác cổng:
- Cám ơn thiện chí của bác nhé!
Và ra lệnh cho người đánh xe:
- Cho phi nước đại! Rẽ trái, hy vọng duy nhất của chúng ta là ở đó.
Đám thị dân hiện ra ở đầu phố mà Jean sẽ đi qua. Họ tiến lại, nhanh và ào ào như một trận cuồng phong.
- Dừng lại, anh hãy trốn đi! - Jean nói với người đánh xe. - Chạy nữa là vô ích. Chúng ta, số tận rồi.
- Chúng kia rồi, kia rồi! - Hàng trăm tiếng kêu lên.
Trong khoảnh khắc, chiếc xe ngựa bị đám đông vây quanh, ngựa đứng chững lại.
Lúc đó, một cánh cửa sổ hé ra. Người ta nhìn thấy bộ mặt tái mét và đôi mắt âm u của người trai trẻ chăm chú nhìn cảnh diễn ra.
Đứng sau hắn, viên sĩ quan cũng thò đầu ra, mặt cũng tái xanh như mặt hắn.
- ôi! Ngài nhìn thấy không, họ lôi viên cựu thủ tướng ra khỏi xe đánh đập túi bụi.
- Bọn họ phải tức giận lắm mới làm thế. -Người trai trẻ vẫn thản nhiên trả lời như mọi khi..- Và bây giờ đến lượt Corneille bị lôi ra khỏi xe. ôi ngài nhìn kìa, nhìn kìa.
Viên sĩ quan bật ra một tiếng kêu nhỏ: Cor-neille vừa bị một thanh sắt đập vào đầu làm vỡ sọ.
Sắc mặt người trẻ tuổi trở nên tím tái hơn, điều đó tưởng không thể có được, và mắt anh ta bỗng thoáng nhòe sau cặp mi khép lại.
Người sĩ quan nhận ra cử động xót thương đó.
Nhưng người trẻ tuổi đã mở mắt ra.
Guillaume d’ Orange, vì chính là ông ta, nhăn trán một cách độc địa và nói:
- Đại tá Van Deken, tôi yêu cầu đi tìm quân ta ngay để họ sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xảy ra.
- Tôi để ngài một mình trước những hung thủ ở đây hay sao?
- Đừng quá lo cho tôi. - Hoàng thân nói sẵng.
- Đi đi!
Viên sĩ quan đi ngay.
Hắn chưa kịp khép cửa buồng lại thì ở ngoài kia, trên mặt phố, Jean đã lảo đảo do những đòn đấm đá tới tấp.
- Anh tôi, anh tôi đâu? - ông kêu lên.
Một tên điên cuồng đấm ông một quả làm mũ ông rơi.
Một tên khác đâm mũi giáo vào mặt làm ông tóe máu.
- Anh ơi! - Qua khe mắt đầy máu làm mọi thứ nhòe đi, ông cố tìm xem anh mình đứng đâu. - Anh ơi!
- Này, đi mà gặp anh mày! - Một tên khác gí súng vào thái dương ông và bóp cò.
Jean de Witt ngã xuống không bao giờ đứng dậy lại nữa. Đám đông xéo lên hai thây người.
Khi hai người đã đau đớn ê chề, mình mảy rách nát, đám đông mới kéo lê thân thể trần truồng và đẫm máu của họ đến một cái giá treo cổ mới dựng rồi treo ngược họ lên.
Chúng tôi không thể nói người trẻ tuổi có xem hết cảnh chết chóc hãi hùng đó không, nhưng có thể nói vào lúc họ treo ngược hai người thì hắn len qua đám đông để đi Tol-Hek; lúc này vẫn thấy cửa đóng.
- A! Thưa ông, - người gác cổng nói. - ông mang chìa khóa lại trả tôi đấy chứ?
- Vâng, của bác đây. - Người trẻ tuổi trả lời.
- ôi, thật không may, ông không mang trả tôi trước đây nửa giờ... - Người gác cổng thở dài nói..- Tại sao thế? - Người trẻ tuổi hỏi.
- Vì như vậy tôi đã có thể mở cổng giúp hai ông De Witt rồi.
- Cửa! Cửa! - Một tiếng nói hình như của ai đó rất vội vã cất lên.
Hoàng thân quay đầu lại và nhận ra ông đại tá Van Deken.
- ông đại tá đó ư? - ông nói. - ông chưa rời khỏi La Haye sao? Thế là ông thi hành mệnh lệnh của tôi chậm rồi đấy.
- Bẩm Ngài, - viên đại tá nói. - đây là cánh cửa thứ ba tôi tới. Hai cánh trước tôi đến đều thấy đóng cả.
- Thế thì cánh này, anh bạn tử tế của chúng ta kia sẽ mở cho chúng ta thôi. Này anh bạn, mở đi! -Hoà ng thân nói với anh gác cổng đang hết sức ngỡ ngàng về cách xưng hô trịnh trọng của viên đại tá đối với người trẻ tuổi da mặt xanh xao mà lúc nãy khi tiếp xúc anh đã vô tình "cậu cậu, tớ tớ".
Bởi vậy, để chuộc lỗi, anh vội mở cửa thật nhanh làm nó rít lên trên goong sắt.
- Bẩm Ngài có cần đến ngựa của tôi không ạ?
- Viên đại tá hỏi Guillaume.
- Cám ơn đại tá, chắc phải có ngựa đợi tôi cách đây vài bước.
Đoạn ông rút trong túi ra chiếc còi bằng vàng vào thời đó người ta hay dùng để gọi người hầu, ông thổi một tiếng sắc và to, một người cưỡi ngựa chạy đến dắt theo sau một con ngựa nữa.
Ông nhảy phắt lên lưng ngựa, thúc vào bụng nó, thẳng tiến về Leyde. ông tưởng tượng nét mặt của vua Louis XIV, kình địch của ông, mệnh danh là Vua Mặt Trời sẽ ra sao khi được tin hai ông bạn vàng tức anh em nhà De Witt đã chết như thế nào.
Ông còn tưởng tượng ra hai thây ma của Jean và Corneille được dùng làm bàn đạp cho ông bước lên quy chế stathouder được khôi phục lại.
Nguồn: http://vnthuquan.org/