16/3/13

Liêu trai chí dị (C15-16)

Chuyện 15: Tiểu Thu

Quan Thái Thường họ Vương, người đất Việt, lúc còn trái đào, ban ngày nằm ngủ trên sập. Bỗng trời tối sầm, sấm sét nổi lên ầm ầm, một vật gì to hơn con mèo đến nằm phục bên cạnh mình, quanh quẩn mãi không rời. Một lúc trời quang tạnh, con vật liền bỏ đi. Nhìn xem, không phải là mèo, mới sợ, gọi anh ở buồng bên, anh nghe thấy, mừng nói:

- Em tất sẽ hiển quý to. Ðấy là giống hồ đến tránh sấm sét đó.

Sau quả nhiên tuổi trẻ đỗ tiến sĩ, rồi từ huyện lệnh vào kinh là thị ngự. Sinh được một trai là Nguyên Phong, rất mực ngây ngô, mười sáu tuổi vẫn chưa biết thế nào là đực cái, vì thế mà người quanh vùng không ai gả con cho. Vương lo lắm.

Chợt có người đàn bà đưa một cô gái đến nhà, tự xin gả cho Nguyên Phong. Trông người con gái, thấy nhoẻn cười tươi xinh thật là phẩm tiên. Vương mừng, hỏi họ tên. Tự nói là họ Ngu, con gái tên Tiểu Thu, tuổi vừa đôi tám. Bèn đến tiền sính lễ, nói:

- Trước đây, nó ở với tôi, rau cháo không đủ no, nay một sớm được gởi thân chốn nhà cao cửa rộng có kẻ hầu người hạ, thừa miếng ngon của lạ, nó được vừa mà tôi cũng thỏa nguyện, có phải bán rau đâu mà nói giá!

Phu nhân mừng lắm, tiếp đãi rất hậu. Người đàn bà liền bảo cô gái lạy Vương và phu nhân, dặn rằng:

- Ðây là bố chồng, mẹ chồng của mày, phải hầu hạ cẩn thận. Ta vội lắm, phải đi, vài ba hôm nữa sẽ trở lại.

Vương sai đầy tớ thắng ngựa đưa về. Người đàn bà nói:

- Làng tôi không xa, không dám phiền bày vẽ.

Bèn ra cửa đi.

Tiểu Thu cũng không có vẻ buồn bã quyến luyến, liền mở hòm lấy đồ trang sức ra.

Phu nhân cũng yêu thích cô gái lắm.

Mấy hôm sau, người đàn bà không đến. Hỏi quê quán, cô gái cũng ngớ ngẩn, không nói rõ được đường sá thế nào. Bèn sắp đặt cho một căn nhà riêng, cho vợ chồng làm lễ thành hôn. Họ hàng nghe thấy Vương vơ quàng con nhà bần tiện làm dâu ai cũng chê cười. Khi trông thấy cô gái thì đều kinh ngạc, những lời bàn tán từ đó mới thôi.

Cô gái lại rất thông minh, biết dò đón ý tứ mừng giận của bố mẹ chồng. Vợ chồng Vương yêu quý con dâu quá thói thường, lại lo ngay ngáy chỉ sợ vợ nó chê con trai mình ngây; thế mà cô gái vẫn một mực vui cười, không lấy thế làm điều. Chỉ có cái hay đùa; lấy vải khâu làm quả cầu, đá chơi; đi đôi hài da nhỏ, đá quả cầu xa đến vài chục bước rồi đánh lừa công tử chạy ra nhặt; công tử và thị tỳ thường toát mồ hôi chạy theo.

Một hôm, Vương tình cờ đi qua, quả cầu bỗng bay vụt đến, trúng ngay vào mặt. Cô gái và thị tỳ chạy mất, còn công tử vẫn nhảy nhót đuổi theo. Vương nổi giận, lấy đá ném, chàng mới lăn ra mà khóc.

Vương đem chuyện về kể với phu nhân, phu nhân sang mắng cô gái, cô gái cúi mặt cười tủm, lấy tay xoa mép giường. Phu nhân về rồi, lại đùa nghịch như trước, lấy phấn trát vào mặt công tử loang lổ như quỷ.

Phu nhân trông thấy, giận lắm, gọi đến mắng thậm tệ.

Cô gái dựa vào ghế, mâm mê giải lưng, không sợ, cũng không nói năng gì.

Phu nhân không làm thế nào được, nhân lấy roi đánh cậu con.

Nguyên Phong kêu ầm lên, cô gái mới biến sắc, quỳ xuống xin tha.

Phu nhân nguôi ngay cơn giận, vứt roi trở về.

Cô gái vừa cười, vừa lôi công tử vào nhà, rũ bụi ở quần áo, lau nước mắt, xoa những vết roi đòn, lấy quả táo và hạt dẻ cho ăn. Công tử bèn thôi khóc, lại vui ngay. Cô gái đóng cánh cửa thông ra sân, lấy mũ áo thắng bộ cho công tử đóng vai Bá Vương, làm người sa mạc, còn mình thì trang điểm, bó lưng lại, rồi súng sính múa điệu 'Dưới Trướng' . Hoặc có khi lấy lông đuôi chim trĩ, cài vào mái tóc, gẩy đàn tỳ bà, tiếng tình tang réo rắt mãi; cười vang cả nhà; lâu ngày coi là thường.

Vương thấy con mình ngây, không nỡ trách dâu, dù thoảng nghe thấy cũng bỏ qua.

Cùng ngõ, có một viên quan cấp gián họ Vương, ở cách nhau hơn mười nhà, nhưng vốn không ưa nhau. Bấy giờ, gặp lúc triều đình ba năm xét công các quan lại. Cấp gián ghen Vương được giữ ấn đạo Hà Nam, định bụng làm hại. Vương biết mưu hắn, lo nghĩ mà không có kế gì. Một tối đi nằm sớm. Cô gái đội mũ đeo đai đóng giả làm Tể Tướng, cắt tơ trắng làm râu rậm, lại cho hai người thị tỳ ăn mặc giả làm quan hầu, rồi ngầm lấy ngựa mà cưỡi, nói đùa rằng đến thăm Vương tiên sinh.

Ruổi ngựa đến cổng nhà Cấp gián tức thì lại lấy roi đánh người theo hầu, nói rằng:

- Ta đến thăm Thị ngự họ Vương chớ đâu có đến thăm Cấp gián họ Vương!

Quay ngựa mà về. Ðến cổng nhà, người canh cổng ngỡ là thật, chạy vào báo Vương.

Vương vội dậy ra nghênh tiếp, mới biết là con dâu đùa. Giận lắm, bảo với phu nhân:

- Người ta đương rình từng kẽ hở của mình, mà mình lại đem cái xấu xa trong phòng khuê đến tận cổng nhà người ta mà tâu thì tai họa đến nơi rồi!

Phu nhân giận, chạy sang nhà cô gái mắng thậm tệ, cô gái chỉ ngớ ngẩn cười, chẳng cãi lại câu nào. Ðánh không nỡ mà đuổi thì không cửa không nhà, hai vợ chồng buồn bực suốt đêm không ngủ.

Thời bấy giờ, quan Tể Tướng đương triều rất hách, nghi vệ, phong thái, xiêm áo, quan hầu so với những kẻ giả trang của cô gái thì không khác chút gì.

Vương cấp gián cũng nhầm, tưởng là thật; Mấy lần sai người đến tận cửa nhà Vương dò, mãi đến nửa đêm mà chưa thấy khách ra, ngờ rằng Tể Tướng với Vương mưu tính chuyện cơ mật.

Hôm sau vào chầu sớm, gặp mặt hỏi rằng:

- Ðêm qua Tướng công đến nhà ngài đấy ư?

Vương ngỡ là hắn diễu mình, chỉ đỏ mặt dạ, không nói thêm nữa. Cấp gián càng nghi, không dám mưu hại nữa, mà từ đó càng cố kết giao lấy lòng với Vương, Vương dò biết sự tình, mừng thầm, nhưng vẫn dặn ngầm phu nhân khuyên cô gái sửa đổi những việc làm trước. Cô gái cười xin vâng.

Hơn một năm sau, Tể Tướng bị bãi. Nhân có người viết thư riêng cho Vương, lại gửi nhầm vào nhà Cấp gián. Cấp gián mừng lắm. Trước hãy nhờ người quen biết Vương đến hỏi mượn một vạn lạng vàng. Vương từ chối. Cấp gián thân hành đến nhà, Vương tìm khăn áo, mãi cũng không thấy. Cấp gián đợi lâu, giận Vương xược với mình, bực tức định quay ra. Bỗng thấy công tử, áo cổn mũ miện, có người con gái từ trong cửa đẩy ra. Cấp gián hãi quá, đoạn rồi lại cười và vỗ về công tử, lột lấy áo mão của chàng cuốn laị mang đi.

Vương vội ra, thì khách đã đi xa; nghe kể duyên do, sợ mặt nhợt như đất thó, khóc oà lên mà rằng:

- Ðây là họa nàng dâu đây. Bất nhật sẽ giết cả họ nhà ta thôi!

Liền cùng phu nhân vác gậy chạy sang. Cô gái đã biết trước, đóng chặt cửa, tha hồ cho chửi mắng.

Vương giận, lấy búa phá cửa. Cô gái ở trong nhà mỉm cười nói:

- Thầy chớ giận. Có con dâu ở đây, đao kiếm búa rìu con dâu cũng xin chịu, quyết không để phiền luỵ đến thầy mẹ. Thầy làm thế là muốn giết dâu để bịt miệng nhân chứng ư?

Vương bàn thôi.

Cấp gián về, quả dâng sớ tâu Vương mưu phản, đem mũ miện áo cổn ra làm bằng. Chúa thượng giật mình, xét nghiệm ra thì tua mũ miện làm bằng lõi cây cao lương, cây bố, áo bào khâu bằng vải nát lấy ở khăn bao vàng.

Vua giận Cấp gián vu cáo, lại cho triệu Nguyên Phong đến, thì thấy dáng điệu ngây ngô lộ rõ, mới phì cười nói:

- Thế này mà cũng làm vua được ư?

Bàn giao việc cho Pháp tì xét. Cấp gián lại kiện nhà Vương có yêu quái. Pháp tì tra hỏi nô bộc trong nhà, đều nói không có ai, chỉ có nàng dâu điên và anh con trai ngây, suốt ngày cười đùa. Hàng xóm láng giềng cũng không khai gì khác. Bấy giờ án mới định; cấp gián bị xung làm lính ở Vân Nam.

Vương từ đấy mới biết cô gái là kỳ dị, lại thấy mẹ nàng lâu không đến, ngờ không phải là người trần. Bảo phu nhân dò, nàng chỉ cười không nói. Hỏi gạn mãi thì bưng miệng đáp:

- Con là con gái Ngọc Hoàng, mẹ không biết ư?

Không bao lâu, Vương được thăng chức Kinh Khanh. Ngoài năm mươi tuổi vẫn lo không có cháu. Cô gái ăn ở đã ba năm mà đêm đêm vẫn nằm riêng, hình như chưa có sự chung chạ gì. Phu nhân sai khiêng sập đi, dặn công tử nằm chung với vợ. Ðược vài hôm, công tử nói với mẹ:

- Mượn sập của con mang đi, sao ngang bướng không mang trả? Tiểu Thu cứ đêm đêm gác chân lên bụng, thở chả được, lại quen tay, cứ cấu vào đùi người ta nữa!

Con hầu, vú ở , không ai nhịn được cười; phu nhân nạt, phát cho mấy cái, bảo đi.

Một hôm cô gái tắm ở trong buồng, công tử trông thấy đòi tắm chung, cô gái bật cười ngăn lại, dỗ bảo đợi một lúc. Ra rồi nàng mới thay nước nóng đổ vào vại, cởi quần áo của chàng ra, cùng thị tỳ đỡ vào. Công tử cảm thấy hơi nóng ngột ngạt hét to lên đòi ra; cô gái không nghe, lấy chăn chùm lên. Một lát, không thấy kêu nữa, mở ra xem thì đã tắt thở. Nàng vẫn cười nói thản nhiên, không sợ, kéo ra đặt lên giường, lau khô mình mẩy, đắp thêm chăn cho.

Phu nhân nghe thấy, vừa khóc vừa chạy vào mắng:

- Con điên kia, sao giết con tao?

Cô gái nhoẻn cười đáp:

- Con ngây như thế chẳng thà không có.

Phu nhân càng giận, lấy đầu húc cô gái, bọn thị tỳ xô vào kéo ra khuyên can. Ðương lúc ồn ào, một con thị tỳ chạy đến bảo:

- Công tử rên được rồi!

Phu nhân thôi khóc, sờ vào mình con thì thấy hơi thở nhỏ nhẹ mà mồ hôi ra như tắm, ướt cả chăn chiếu. Một lát, mồ hôi không chảy nữa, bỗng mở mắt trông bốn bên, nhìn khắp gia nhân như không quen ai cả, nói:

- Bây giờ nhớ lại những việc trước, cứ như nằm mộng! Sao vậy nhỉ?

Phu nhân nghe câu nói không có vẻ ngây, lấy làm lạ lắm, dắt về thăm bố. Hỏi thử mấy lần, quả không ngây. Mừng rỡ như bắt được của báu. Ðến tối sai khiêng trả sập về chỗ cũ, sắp sửa chăn gối để xem sao.

Công tử vào buồng, đuổi hắt thị tỳ đi. Sáng ra, ngó xem thì sập vẫn bỏ không. Từ đấy, không thấy ngây và điên nữa, mà sắc cầm hoà hợp quấn quít như hình với bóng.

Hơn một năm. Vương lại bị bè đảng của Cấp gián đàn hặc, đòi bãi chức, nên quan trên cũng khiển trách. Trước kia quan Trung Thừa Quảng Tây có tặng Vương một bình ngọc, giá đáng nghìn vàng, bấy giờ định đem ra đút lót để gỡ tội. Cô gái cũng thích, cầm xem chơi, bỗng tuột tay rơi vỡ, xấu hổ, chạy đến tự thú. Vợ chồng Vương đang buồn nghe về nỗi bị người dèm báng đòi cách quan, nghe thế giận lắm, cùng nhiếc mắng thậm tệ.

Nàng trỗi dậy đi ra, nói với công tử:

- Tôi ở nhà anh, những cái bảo toàn được không phải chỉ một cái bình, sao không nể mặt nhau một chút? Nói thực với anh: tôi không phải là người. Vì mẹ tôi gặp nạn sấm sét, ơn sâu được thầy che chở, lại vì đôi ta có duyên phận năm năm với nhau, cho nên tôi đến đây để đền ơn, và cũng để cùng anh trọn nguyền đấy thôi. Thân tôi bị nhiếc mắng đã nhiều, nhổ tóc mà đếm cũng không xuể, sỡ dĩ không đi ngay là vì cái duyên năm năm chưa trọn. Bây giờ thì làm sao còn nán lại được nữa.

Ðọan hầm hầm bước ra. Ðuổi theo thì đã biến mất. Vương ngẩn người ra, hối hận đã không kịp nữa. Công tử vào trong nhà, nhìn phấn thừa, thoa cũ, khóc lóc muốn chết, ăn ngủ không ngon, ngày càng gầy mòn héo hắt. Vương lo lắm, vội toan cưới vợ khác cho con để giải phiền, mà công tử thì không vui, chỉ tìm thợ vẽ giỏi họa tranh Tiểu Thu, ngày đêm thếp hương khấn vái.

Gần hai năm sau, tình cờ có việc từ làng khác về. Trăng sáng vằng vặc. Ngoài thôn vốn có một khu vườn cảnh của nhà Vương; công tử vừa cưỡi ngựa đi qua bên ngoài tường, bỗng nghe có tiếng cười, liền dừng cương, sai đầy tớ nắm hàm thiếc rồi đứng lên trên yên trông vào, thì thấy hai người con gái đang chơi đùa trong đó. Vì bóng trăng bị mây phủ mờ mờ, không trông rõ lắm. Chỉ nghe một cô áo xanh nói:

- Con ranh này, phải đuổi ra ngoài cổng mới được!

Một cô áo đỏ nói:

- Mày đang ở ngay trong sân viện nhà tao, lại còn định đuổi ai?

Cô áo xanh nói:

- Con ranh, không biết thẹn. Làm vợ không đắt, bị người ta tống về, lại còn nhận vơ sản nghiệp của người ư?

Cô áo đỏ nói:

- Chẳng hơn cái đứa đến già vẫn không ai thèm ngó đến!

Nghe giọng nói giống hệt Tiểu Thu, công tử vội cất tiếng gọi to. Cô áo xanh bước đi, nói:

- Tao không cãi vã với mày nữa, đức ông chồng nhà mày đã đến kia kìa.

Ðọan rồi cô áo đỏ đi tới, quả là Tiểu Thu. Công tử mừng lắm. Cô gái bảo trèo lên tường để mình đỡ xuống, nói:

- Hai năm không thấy mặt mà xương gầy còn một nắm rồi!

Công tử cầm tay khóc, kể nỗi nhớ nhung. Cô gái nói:

- Thiếp cũng biết thế, nhưng không còn mặt nào trông thấy người nhà được nữa. Hôm nay cùng chị cả chơi đùa, nào ngờ lại gặp nhau ở đây, mới biết duyên lứa trước không thể tránh được.

Mời cùng về, nàng không nghe; xin nàng ở lại trong vườn thì bằng lòng. Công tử bèn sai đầy tớ chạy về thưa với phu nhân. Phu nhân giật mình ngồi kiệu đến, mở khóa vào. Cô gái chạy đến, sụp xuống lạy. Phu nhân nắm lấy cánh tay nâng dậy, chảy nước mắt nhận hết lỗi xưa, hồ như không thể dung thứ cho mình nói:

- Nếu con không chấp nhận chuyện cũ thì xin hãy cùng về cho mẹ vui tuổi già.

Nàng đáp rằng không được, lời lẽ quả quyết. Phu nhân lo ngôi đình Tể hoang vắng, định cho nhìêu người đến hầu hạ. Cô gái cười nói:

- Con không muốn gặp ai cả, duy chỉ có hai đứa thị tỳ ngày trước, sớm tối theo con, không thể không quyến luyến chúng. Ngoài ra chỉ xin một người lão bộc trông coi cổng, còn thì không cần gì nữa.

Phu nhân thảy theo như lời nàng; lại nói thác đi rằng công tử dưỡng bệnh trong vườn, rồi hàng ngày mang thức ăn vật dụng ra mà thôi.

Cô gái thường khuyên công tử lấy vợ khác, công tử không nghe; hơn một năm sau, sắc mặt, tiếng nói của nàng dần dần đổi khác, lấy bức vẽ ra, rõ ràng là hai người. Lấy làm lạ. Cô gái nói:

- Trông thiếp bây giờ có đẹp như ngày xưa nữa không?

Công tử đáp:

- Bây giờ thì vẫn đẹp, nhưng so với trước thì hình như không bằng!

Cô gái nói:

- Nghĩa là thiếp đã già rồi!

Công tử nói:

- Người ngoài hai mươi, làm gì lại già ngay được!

Cô gái cười, đốt bức vẽ đi, giật lại thì đã cháy thành tro. Một hôm nàng nói với công tử:

- Ngày trước khi còn ở nhà, mẹ chàng thường bảo thiếp đến chết cũng không làm kén được. Bây giờ thì thầy mẹ đã già, chàng lại là con một, thiếp thực không sinh nở được, sợ nhỡ việc nối dõi của chàng! Xin lấy vợ về nhà, sớm tối hầu hạ thầy mẹ, chàng đi lại cả hai nơi, cũng không có gì là không tiện.

Công tử bằng lòng, nạp sính lễ ở nhà quan Thái sử họ Chung. Gần đến ngày cưới, nàng tự khâu áo giày cho cô dâu, rồi đưa về chỗ phu nhân.

Ðến khi cô dâu vào cổng thì tiếng nói, nét mặt, cử chỉ không khác gì Tiểu Thu chút nào. Chàng lấy làm lạ lắm. Trở lại khu vườn cảnh thì cô gái đã đi đâu không biết. Hỏi thị tỳ, thị tỳ đưa ra một chiếc khăn hồng, nói:

- Nương tử tạm về thăm bên ngọai, để lại vật này cho công tử.

Mở khăn, thấy có buộc cái quyết bằng ngọc , bụng đã biết nàng không trở lại nữa, bàn đem cả thị tỳ cùng về. Tuy giây lát không quên được Tiểu Thu nhưng may mà đối diện với vợ mới cũng như trông thấy người xưa. Mới chợt hiểu rằng cái duyên với cô gái họ Chung, Tiểu Thu đã dự biết, nên thay đổi dáng mặt của nàng trước, để khuây khoả nỗi nhớ của chàng ngày sau.

Đỗ Ngọc Toại dịch

Chuyện 16: Thanh Phượng

Họ Cảnh ở Thái Nguyên, vốn trước là thế gia, cửa nhà rộng rãi bề thế. Về sau sa sút, lầu viên san sát bỏ hoang đến quá nửa. Nhân đó, sinh ra nhiều điều quái dị. Cửa vào nhà lớn cứ tự dưng mở đóng, thường khi giữa đêm hôm, người nhà hốt hoảng xôn xao. Cảnh đâm lo, phải dời đến một cơ ngơi khác ở, chỉ để một ông lão ở lại canh cửa mà thôi.

Từ đấy, cảnh hoang tàn đổ nát càng tệ hơn. Có người còn nghe cả tiếng nói cười đàn hát trong đó nữa.

Cảnh có người cháu ruột tên là Khứ Bệnh, tính cuồng phóng, không gì câu thúc nổi, dặn ông lão hễ nghe thấy gì lạ chạy đi báo cho mình ngay. Ðêm đó, thấy trên lầu có ánh đèn lúc sáng lúc tắt, ông lão vội đến báo với chàng.

Chàng muốn vào tận nơi xem cho biết sự lạ, ai ngăn cũng không được.

Cửa ngõ trong nhà vốn đã thuộc hết, chàng bàn rẽ cỏ rậm, lần đường quanh co đi vào. Trèo lên lầu rồi, vẫn chưa thấy có gì khác lạ. Băng qua lầu đi quá vào trong nữa, thì nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm. Lén nhòm xem, thấy hai ngọn đèn lớn thắp song song, sáng trưng như ban ngày. Một ông già khăn áo nhà nho, ngồi quay mặt hướng Nam; đối diện là một bà già, cả hai đều khoảng ngoài bốn mươi tuổi. Ngoảnh Về hướng Ðông là một chàng trai tuổi chừng hai mươi; bên phía tay mặt lại là một cô gái, tuổi mới cập kê. Ai nấy đang cùng ngồi vây quanh một bàn đầy rượu thịt, vui cười trò chuyện.

Chàng đột ngột bước vào, cười, nói to lên rằng:

- Có một người khách không mời mà đến đây!

Cả đám cùng kinh hoảng chạy trốn, riêng ông già bước ra, quát hỏi:

- Ai mà lại dám xông vào buồng riêng nhà người ta thế?

Chàng đáp:

- Ðây là buồng nhà tôi, ông chiếm lấy. Có rượu ngon tự mình uống với nhau, không mời qua chủ nhà một câu, chẳng phải là bủn xỉn lắm sao?

Ông già ngắm kỹ một lượt rồi nói:

- Không phải là chủ nhân mà.

Chàng nói:

- Tôi là đồ ngông, tên là Cảnh Khứ Bệnh, cháu ruột của chủ nhân đây.

Ông già vội kính cẩn đáp:

- Lâu nay vẫn ngưỡng mộ danh tiếng Thái Sơn, Bắc Ðẩu!

Bèn đưa tay vái, mời chàng vào. Rồi gọi người nhà thay mâm cỗ.

Chàng ngăn lại. Ông liền rót rượu mời khách. Chàng nói:

- Chúng ta hai nhà như một, khách khứa cùng ngồi với nhau cần gì phải lánh mặt, xin mời cả ra cùng uống cho vui. Ông già gọi 'Hiếu Nhi' , giây lát chàng trai từ ngoài bước vào. Ông nói:

- Ðây là thằng con tôi.

Vái chào rồi ngồi xuống. Hỏi thăm qua về gia thế, ông già tự nói mình tên là Nghĩa Quân, họ Hồ.

Chàng vốn tính hào hoa, nói năng bàn luận như gió. Hiếu Nhi cũng là người phóng khoáng, chuyện trò qua lại, đã thấy mến nhau ngay. Chàng hai mươi mốt tuổi, hơn Hiếu Nhi hai tuổi, bàn gọi cậu ta là em. Ông già bảo:

- Nghe nói cụ tổ ngài khi xưa có sọan cuốn 'Ðồ Sơn ngoại truyện' ngài có biết chăng?

Chàng đáp:

- Thưa có biết.

Ông già nói tiếp:

- Chúng tôi là giòng dõi họ Ðồ Sơn đây. Từ đời Ðường trở về sau, gia phả còn nhớ được, còn từ Ngũ Ðại trở về trước thì thất truyền. Dám xin công tử làm ơn chỉ giáo cho.

Chàng kể qua công trạng của cô gái họ Ðồ giúp vua Vũ thuở xưa, thêm thật nhiều lời, lưu loát trôi chảy.

Ông lão cả mừng, bảo con trai rằng:

- Hôm này may mắn được nghe những điều chưa từng được nghe bao giờ. Công tử đây cũng chẳng phải ai xa lạ, hãy vào mời mẹ và Thanh Phượng ra cùng nghe, để cho biết công đức của tổ tiên mình một thể.

Hiếu Nhi bước vào sau bức màn. Chốc lát, bà cụ cùng cô gái bước ra. Nhìn kỹ, thấy dáng liễu yêu kiều, làn thu ba lóng lánh, trên đời dễ không ai đẹp bằng. Ông già trỏ vào bà cụ nói:

- Ðây là bà lão nhà tôi.

Lại trỏ sang cô gái nói tiếp:

- Còn đây là Thanh Phượng, cháu gọi tôi bằng chú. Cũng có phần sáng dạ, hễ nghe được điều gì nhớ không quên. Cho nên gọi ra cho nghe cùng.

Chàng nói chuyện xong bàn uống rượu, nhìn cô gái trân trân không chớp mắt. Cô gái biết , bèn cúi đầu xuống. Chàng ngầm đặt chân lên mũi giầy của nàng. Nàng vội thu chân lại, nhưng cũng không có ý giận dữ. Bấy giờ tâm thần, chí của chàng đều bay bổng, không thể tự chế được nữa, liền vỗ bàn mà nói:

- Ðược người vợ như thế này, dẫu đổi cho làm vua cũng không màng.

Bà cụ thấy chàng đã có vẻ say, càng thêm ngông, bàn cùng cô gái đứng dậy, vén bức màn, bước vào. Chàng mất hết hứng thú, cũng từ biệt ông già về. Nhưng tơ lòng vấn vương, không sao quên được tình cảm của mình đối với Thanh Phượng.

Ðến đêm, lại lần sang, thì hương còn thơm nức, mà chờ đợi đến hết đêm, tịnh không còn nghe một tiếng động nhỏ. Trở Về bàn với vợ, muốn đem cả nhà sang ở hẳn bên đó, hầu mong lại có lúc được hội ngộ chăng. Vợ không nghe. Chàng cứ một mình dọn sang, học hành dưới lầu. Ban đêm đang ngồi tựa ghế, thì một con quỷ xoã tóc bước vào, mặt đen như sơn, trừng mắt ngó chàng. Chàng cười, nhúng ngón tay trỏ vào nghiên mực rồi tự bôi lên mặt, giương mắt thao láo nhìn lại. Con ma thẹn mà bỏ đi. Ðêm hôm sau, canh đã khuya, vừa tắt đèn định nằm, nghe phía sau lầu có tiếng mở then, rồi tiếng kẹt cửa. Chàng vội trở dậy nhìn xem thì thấy cánh cửa hé mở. Giây lát, nghe có tiếng giầy nhỏ nhẹ, lại có ánh đèn từ phòng trong đi ra. Nhìn sang, thì chính là Thanh Phượng. Bất chợt thấy chàng, nàng hoảng hốt trở lui vào, vội vã đóng hai cánh cửa lại. Chàng quỳ dài xuống, nói vọng vào:

- Tiểu sinh không nề hà khó khăn, nguy hiểm, thực cũng chỉ vì nàng. May gặp lúc không có ai, xin được cầm tay cười một tiếng, thì chết cũng không dám ân hận.

Cô gái từ trong nói ra:

- Thâm tình khăng khít, sao thiếp lại không hay, nhưng lời giáo huấn của chú về phận gái chốn khuê môn rất nghiêm, nên không dám vâng mệnh.

Chàng cố van nài:

- Cũng chẳng dám mong được kề da áp thịt, chỉ xin trông thấy nhan sắc cũng đủ lắm rồi.

Cô gái dường như có ý bằng lòng, mở then cửa bước ra, nắm lấy cánh tay chàng kéo dậy. Chàng mừng cuống lên, đem nhau xuống dưới lầu, ôm ghì lấy và đỡ lên ngồi trên đầu gối mình.

Nàng bảo:

- Cũng may có chút túc duyên, nhưng chỉ hết đêm nay thôi, sau dầu có nhớ nhau cũng không làm gì được nữa.

Chàng hỏi:

- Vì sao vậy?

Nàng đáp:

- Chú thiếp sợ chàng ngông, nên giả dạng làm quỷ dữ để dọa chàng, mà chàng vẫn không nao núng; hôm nay tính dọn nhà đi nơi khác. Cả nhà đều đã mang đồ đạc đến nơi ở mới, chỉ còn mình thiếp ở lại đây coi giữ, ngay mai cũng ra đi.

Nói xong định lui gót, bảo rằng:

- Sợ chú Về.

Chàng gắng giữ lại, muốn cùng nàng giao hoan. Ðương lúc còn giằng co, đối đáp, thì ông già ập vào. Cô gái vừa thẹn, vừa sợ, không biết làm thế nào, chỉ cúi đầu đứng tựa thành giường, mân mê giải áo, không nói gì cả.

Ông già giận dữ mắng:

- Con tiện tì này, làm nhơ nhuốc danh giá nhà tao! Không đi ngay, roi vọt quất vào lưng bây giờ!

Nàng cúi đầu vội vã bước ra. Ông già cũng ra theo. Chàng từ phía sau lắng nghe, tiếng chửi mắng vang lên không ngớt, rồi tiếng Thanh Phượng khóc rưng rức. Lòng đau như cắt, chàng cất tiếng nói to lên:

- Tội lỗi ở cả tiểu sinh đây, chứ Thanh Phượng có dự gì vào đấy? Hãy tha lỗi cho Phượng, bao gươm đao rìu búa, một mình tiểu sinh xin chịu tất.

Một lúc thấy yên ắng, chàng bàn trở về giường ngủ.

Từ đấy, trong nhà tuyệt không còn nghe thấy tăm hơi gì nữa. Chú chàng được tin lấy làm lạ, vui lòng bán rẻ cơ ngơi cho chàng. Chàng mừng, đem cả gia quyến dọn sang. ở được hơn một năm, vừa lắm, song vẫn chưa một lúc nào quên được Thanh Phượng.

Gặp tiết thanh minh, chàng đi tảo mộ, lúc trở về thấy hai con chồn nhỏ đang bị chó đuổi riết. Một con nhảy vào bụi rậm chốn thoát, còn một con chạy cuống qut ở trên đường, từ xa trông thấy chàng, quẩn lại bên cạnh, kêu thương, cụp tai cúi đầu, dường như có cầu cứu. Chàng bỗng thấy thương, mở vạt áo bọc vào, đem về. Ðến nhà, đóng cửa, đặt lên giường, thì ra là Thanh Phượng. Mừng quá đỗi, bèn an ủi và thăm hỏi. Nàng đáp:

- Vừa rồi, đang cùng con hầu đùa giỡn thì gặp phải nạn lớn. Nếu không có chàng, ắt đã táng mạng vào bụng chó. Mong không vì khác loaì mà ghét bỏ nhau.

Chàng đáp:

- Ngày đêm tưởng nhớ, hồn mộng vấn vương. Nay gặp nàng như bắt được của báu, có đâu lại nói đến ghét bỏ!

Nàng nói:

- Ấy cũng là số trời. Nếu không vì gặp chuyện thì đâu còn được theo nhau? Nhưng thế cũng lại là may, con hầu hẳn cho thiếp đã chết, thì có thể cùng chàng đính ước bền lâu được.

Chàng mừng dọn một căn nhà riêng làm chỗ ở cho nàng.

Cứ thế được hơn hai năm, một đêm, chàng đang đọc sách, chợt Hiếu Nhi ở đâu bước vào. Chàng ngừng đọc, ngạc nhiên hỏi đến có việc gì. Hiếu Nhi sụp xuống đất, cất tiếng buồn thảm nói:

- Phụ thân tôi gặp nạn bất kỳ, phi anh ra không ai cứu nổi. Lẽ ra phải thân đến khẩn cầu, nhưng sợ không được tiếp, nên cho tôi đi thay.

Hỏi có việc gì thì Hiếu Nhi đáp:

- Công tử có quen biết cậu Ba nhà họ Mạc không.

Chàng đáp:

- Người ấy là con nhà đồng niên với tôi.

Hiếu Nhi nói:

- Ngày mai cậu ta đi qua đây, Nếu có đem theo một con chồn săn được, mong anh giữ lại cho.

Chàng đáp:

- Câu chuyện xấu hổ dưới lầu hồi nào, vẫn canh cánh mãi trong dạ, nên những việc gì khác, không dám tự biết đến. Như muốn tôi đem hết sức hèn ra giúp, trừ phi Thanh Phượng đến đây, không xong.

Hiếu Nhi rơi lệ đáp rằng:

- Em Phượng đã chết ngoài đồng từ ba năm nay rồi!

Chàng bèn giũ áo nói:

- Ðã thế thì mối hận lại càng sâu nặng hơn thôi.

Rồi chàng cầm sách cao giọng ngâm nga, tuyệt không đoái nhìn đến gì nữa. Hiếu Nhi đứng dậy, khóc lạc cả giọng, che mặt mà bước ra.

Chàng liền đến buồng Thanh Phượng, kể cho nghe duyên cớ. Nàng thất sắc hỏi:

- Thế có cứu thật không?

Chàng đáp:

- Cứu thì vẫn cứu, nhưng vừa rồi mà không nhận lời ngay là cũng để trả miếng chuyện ngang ngược hồi trước cái đã.

Nàng mới mừng rỡ nói:

- Thiếp mồ côi từ bé, nhờ chú nuôi nấng mới trưởng thành. Ngày ấy, dẫu có mang lỗi với chàng, nhưng cũng do phép tắc trong nhà mà phải thế.

Chàng nói:

- Ðành thế, nhưng cũng không khỏi phải làm người ta ấm ức trong lòng. Nàng mà chết thật, thì nhất định là không cứu đâu.

Nàng cười mà đáp:

- Nhẫn tâm nhỉ!

Ngày hôm sau quả nhiên có chàng Ba họ Mạc đến, túi cung da hổ, đai ngựa chạm vàng, đầy tớ theo hầu rất hách. Chàng ra cửa đón tiếp, trông thấy các giống cầm thú săn được rất nhiều, trong đó có một con chồn đen, máu ướt đẫm cả da và lông. Vỗ vỗ xem, da thịt hãy còn ấm. Bèn thác cớ áo cừu bị rách, hỏi xin để dùng vá áo. Mạc khảng khái cởi dây ra tặng chàng. Chàng liền giao ngay cho Thanh Phượng, rồi ra yến ẩm với khách. Khi khách đi về rồi, cô gái ôm con hồ vào lòng, ba ngày sau thì sống lại. Quay trở một lát, lại hóa thành ông già. Ngước mắt nhìn thấy Phượng, ngỡ mình không còn ở dưới cõi trần. Nàng lần lượt kể hết thực tình. Ông già bàn sụp xuống lạy, thẹn thùng xin tạ lỗi xưa. Rồi mừng rỡ nhìn nàng nói:

- Ta vẫn cho là mày không chết, nay quả thế thật.

Cô gái nói với chàng:

- Như chàng có lòng nghĩ đến thiếp, thì xin cho mượn chỗ nhà lầu, để thiếp được trả nghĩa chú về công ơn nuôi nấng.

Chàng nhận lời. Ông già bẽn lẽn, giã biệt mà đi. Ðến tối, quả mang cả nhà lại. Từ đó, như cha con trong một nhà, không còn điều gì nghi kỵ.

Chàng ở riêng chỗ nhà học. Hiếu Nhi thỉnh thoảng đến cùng chuyện trò. Con trai người vợ cả của chàng dần dần lớn lên, bèn nhờ Hiếu Nhi dậy dỗ, vì tính nết ôn tồn, chỉ vẽ khéo léo, thật có tư cách mô phạm của ông thầy.

Đỗ Ngọc Toại dịch

Nguồn: http://www.sahara.com.vn/