16/3/13

Liêu trai chí dị (C9-12)

Chuyện 9: Hồng Ngọc

Ông cụ họ Phùng người Quảng Bình có một con trai tên chữ là Tương Như. Hai bố con cùng là Chư sinh. Ông Phùng tuổi gần sáu mươi, tính ương ngạnh mà nhà vẫn thiếu thốn. Trong khoảng vài năm, vợ và con dâu lại cùng mất cả, việc cơm nước đều phải tự làm lấy.

Một đêm, Tương Như ngồi dưới bóng trăng, chợt thấy người con gái láng giềng từ bên kia tường nhòm sang. Chàng nhìn thấy đẹp, đến gần thấy hé cười, lấy tay vẫy, không đến, cũng không di, cố nài mãi mới trèo thang sang. Liền ăn nằm với nhau. Hỏi họ tên, cô gái nói:

- Thiếp là con gái nhà láng giềng, tên là Hồng Ngọc.

Chàng rất yêu, xin cùng nàng tính chuyện lâu dài. Cô gái nhận lời. Từ đấy, đêm đêm thường đi lại, được độ nửa năm. Một đêm, ông Phùng thức dậy, nghe có tiếng con gái cười nói, nhòm vào gian nhà của con thì nhìn thấy cô gái. Giận lắm, gọi chàng ra mắng:

- Ðồ súc sinh, làm cái trò gì thế? Cửa nhà sa sút như thế, còn không biết chịu khó gìn giữ, lại còn học thói đàng điếm ư? Người ta biết ra thì phẩm hạnh của mày còn ra gì nữa! Dẫu người ta không biết thì tuổi thọ của mày cũng giảm.

Chàng quỳ xuống nhận lỗi, khóc xin hối cải. Ông cụ mắng cô gái:

- Con gái không biết giữ phép buồng khuê, đã nhuốc mình lại làm nhuốc cả người. Nếu việc vỡ lở ra, hẳn không chỉ một mình nhà này xấu hổ.

Mắng xong, bực tức trở về nhà ngủ. Cô gái chảy nước mắt nói:

- Lời bố quở trách thật là thẹn nhục! Duyên phận hai ta thôi thế là hết.

Chàng nói:

- Còn cha, con không được tự quyết định. Nếu nàng còn có tình, thời nên cố gắng ngậm tủi làm lành.

Cô gái muốn quyết tuyệt. Chàng nghe, sa nước mắt. Cô gái lại khuyên giải, nói:

- Thiếp với chàng không có lời của mối lái, không có lệnh của cha mẹ, chỉ là trèo tường chui gạch mà theo nhau, thì sao có thể cùng nhau đầu bạc được? Vùng này có một người tốt đôi với chàng, có thể hỏi làm vợ.

Chàng phàn nàn nhà nghèo, cô gái nói:

- Tối mai xin đợi, tôi sẽ mưu tính cho.

Ðêm hôm sau, cô gái quả nhiên đến, bỏ bốn mươi lạng bạc ra tặng chàng, nói rằng:

- Cách đây sáu mươi dặm, ở thôn Ngô có người con gái họ Vệ, tuổi đã mười tám, còn cao giá nên chưa ai lấy; chàng đưa nhiều tiền thì ắt phải xong việc.

Nói xong, từ biệt mà đi. Chàng tựa lúc thuận tiện, thưa với bố, muốn xin đi xem mặt, nhưng câu chuyện số tiền thì giấu đi, không dám nói cho bố biết. Ông Phùng tự lượng nhà nghèo, lấy cớ đó gạt đi. Chàng lại tìm lời ôn tồn nói với bố cứ thử đến xem cho biết thôi. Ông cụ gật đầu.

Chàng bàn thuê đầy tớ và người ngựa đi đến nhà họ Vệ. Vệ vốn là người làm ruộng. Chàng gọi ra ngoài nói chuyện riêng. Vệ biết chàng là con nhà dòng, lại thấy dáng vẻ đàng hoàng, trong bụng đã bằng lòng, nhưng còn ngại chàng kỳ kèo tiền nong chăng.

Chàng nghe ông cụ nói ngập ngừng, đã biết , bàn dốc tiền trong túi ra, bày trên bàn. Vệ mừng, nhờ người học trò bên láng giềng đứng giữa, viết tờ giấy đỏ mà giao ước với nhau. Chàng vào nhà chào lạy cụ, thấy nhà cũng chật hẹp, cô gái đứng nấp sau mẹ. Chàng đưa mắt nhìn, tuy ăn mặc xuềnh xoàng mà thần sắc tinh anh rực rỡ, bụng mừng thầm. Vệ mượn tạm nhà bên để tiếp đãi chàng rể và nói:

- Công tử không cần đón dâu, đợi may được ít quần áo sẽ đưa đến tận nơi

Chàng liền hẹn ngày rồi về, nói dối với bố rằng:

- Họ Vệ mến nhà ta dòng dõi thanh bạch nên không đòi tiền.

Ông cụ cũng mừng.

Ðến ngày hẹn, Vệ quả đưa cô gái đến. Cô gái siêng năng dè sẻn, lại thuần tục nết na, tình nghĩa vợ chồng thật là thắm thiết. Hơn hai năm sau, sinh được một con trai, đặt tên là Phúc Nhi.

Nhân ngày tết Thanh Minh, bố con đi thăm mộ, gặp kẻ thân hào trong huyện họ Tống. Tống nguyên làm quan Ngự Sử trong triều, phạm tội tham tang, phải cách chức về làng, những vẫn giương oai hà hiếp người. Hôm đó cũng đi thăm mộ về, thấy cô gái cho là đẹp, hỏi người trong thôn biết là vợ chàng. Nghĩ Phùng là học trò nghèo, đem nhiều của ra dụ dỗ, có thể làm cho đổi lòng. Liền sai người bắn tin cho chàng. Chàng nghe thấy, giận hiện ra mặt, rồi lại nghĩ thế không địch nổi với Tống, bàn nén giận làm vẻ tươi cười, về nói với bố. Ông Phùng giận lắm, chạy ra trước mặt người nhà họ Tống, trỏ trời vạch đất mắng nhiếc tàn tệ. Tên người nhà ôm đầu lủi đi mất. Họ Tống cũng tức giận, sai mấy đứa xông vào nhà chàng, đánh cả bố lẫn con, làm sôi sùng sục. Cô gái nghe thấy, bỏ con xuống giường, xoã tóc chạy ra kêu cứu. Chúng bèn cướp lấy, khiêng lên rồi ầm ầm kéo đi. Hai bố con bị đánh sụm, rên rĩ trên đất; đứa bé khóc oe oe trong nhà. Hàng xóm láng giềng cùng thương hại, xóc đỡ đặt lên giường. Qua ngày sau, chàng chống gậy mới đứng lên được, còn ông cụ thì tức giận không ăn rồi thổ huyết mà chết.

Chàng lăn khóc, ẵm con đi kiện Ðốc Phủ. Kiện hầu khắp mọi nơi, rút cục vẫn không thắng, sau lại nghe nói vợ không chịu khuất phục mà chết, lại càng đau xót. Khí oan đầy bụng, không lối nào giãi bày được. Thường nghĩ muốn đón đường đâm Tống chết, nhưng lo đầy tớ nó đông, con nhỏ, lại không gửi được. Ngày đêm buồn bã nghĩ ngợi, hai mắt không chớp nổi.

Chợt có một người đàn ông đến viếng nhà, râu quăn, hàm bạnh, xưa nay chưa từng quen. Chàng mời ngồi, toan hỏi họ tên quê quán, khách đã vội nói trước:

- Ông có cái thù người ta giết mất bố, cướp mất vợ mà không báo ư?

Chàng ngỡ là người của Tống sai đến dò hỏi, nên chỉ trả lời ậm ừ cho xong. Khách giận, mắt trợn tròn muốn rách khóe, liền bước ra nói:

- Tôi tưởng anh là người, nay mới biết anh là thằng hèn không đáng đếm xỉa.

Chàng xét thấy có cái gì là lạ, liền quỳ xuống, kéo áo khóc nói rằng:

- Thực ra vì sợ là người nhà họ Tống đến dò la, nay xin giãi bày hết tâm can. Cái điều nằm gai nắm mật của tôi, kể đã nhiều ngày rồi vậy; chỉ thương hòn máu trong bọc này, sợ rồi tuyệt tự mất. Ngài là bậc nghĩa sĩ, liệu có thể vì tôi mà làm chàng Chữ Cu được chăng?

Khách nói:

- Ðó là việc của đàn bà con gái, tôi không làm được. Cái việc ông muốn nhờ người, xin hãy tự làm lấy, còn cái việc ông muốn tự làm thì tôi xin làm thay cho.

Chàng nghe nói, đập đầu xuống đất. Khách chẳng thèm ngoái lại, bỏ đi ra. Chàng chạy theo hỏi họ tên, đáp rằng:

- Việc không xong, không oán; việc xong không nhận ơn.

Rồi đi liền.

Chàng sợ vạ đến mình, ẵm con đi trốn.

Ðến đêm, cả nhà họ Tống đang ngủ, có người vượt qua mấy lần tường, giết ba cha con nhà Ngự Sử với một thị tì, một con dâu. Nhà họ Tống làm tờ trạng cáo quan, quan rất kinh hãi. Tống cố vu cho Tương Như. Vì thế quan cho lính đi bắt chàng. Chàng trốn không ai biết là đi đâu, vì thế càng cho là thật. Ðầy tớ nhà họ Tống cùng với nhà quan đi lùng khắp nơi, đêm đến núi Nam Sơn, nghe có tiếng trẻ khóc, lần tìm ra được, liền trói mang về. Ðứa bé càng khóc dữ, chúng liền giật lấy vứt đi. Chàng oan ức muốn chết. Khi gặp quan lệnh ở huyện, quan hỏi tại sao giết người? Chàng thưa:

- Thực là oan! Nhà họ Tống chết về đêm, tôi ra đi từ ban ngày; vả lại ẵm đứa nhỏ khóc oe oe như vậy thì leo tường giết người sao được?

Quan lệnh nói:

- Không giết người sao lại đào tẩu?

Chàng đuối lý, không biện bạch được nữa. Liền giam vào ngục. Chàng khóc nói rằng:

- Tôi chết cũng không tiếc nhưng đứa bé mồ côi kia có tội tình gì?

Quan lệnh nói:

- Mày giết con người ta đã nhiều, thì giết con mày còn oán gì nữa?

Chàng bị lốt áo mũ nho sinh lại bị cùm kẹp, đánh đập khổ sở nhưng cung không xưng nhận điều gì.

Quan lệnh đêm hôm ấy nằm ngủ bỗng nghe có vật gì cắm phập vào giường, kêu bần bật thành tiếng, sợ quá kêu lên. Cả nhà giật mình thức dậy, xúm lại đốt đuốc soi, thấy một con dao ngắn lưỡi sắc nhọn sáng loáng, găm vào giường, sâu xuống gỗ đến hơn một tấc, chặt cứng không thể rút ra được. Quan lệnh trông thấy, sợ hết hồn vía, cho người cầm giáo đi lùng khắp nơi cũng không thấy tung tích gì cả. Bụng cũng nản, lại nghĩ: người nhà họ Tống đã chết rồi, không có gì phải kiềng họ nữa, bàn trình bẩm lên quan trên để giải oan cho chàng rồi tha về.

Chàng về đến nhà, trong hũ không còn một đấu gạo,một mình một bóng ngồi trông bốn bức tường mà thôi. May được nhà hàng xóm thương xót cho ăn uống, tạm bợ sống qua ngày. Nghĩ đến cái thù lớn đã trả được thì mừng đến tươi tỉnh lại; nhưng nghĩ đến cái hoạ thảm khốc, sut nữa chết cả một nhà thì nước mắt lại đầm đìa sa xuống; lại nghĩ nửa đời nghèo xác dòng dõi không ai nối, thì ở nơi vắng người bỗng khóc rống lên, khản cả tiếng không tự nén giữ được.

Như thế chừng nửa năm, việc bắt bớ cũng nhạt dần, bàn kêu xin với quan huyện được mang hài cốt họ Vệ về. Chôn cất xong, đau xót muốn chết. Một mình trằn trọc trên giường, nghĩ không còn cách gì để sống.

Bỗng có người gõ cửa, chàng chú lắng nghe, thấy ngoài cửa có tiếng một người đang nói chuyện với trẻ con. Chàng vội dậy, dòm xem thì hình như một người con gái. Cánh cửa vừa mở, liền hỏi:

- Cái oan lớn đã được rửa, may không việc gì chứ?

Tiếng nói nghe quen lắm,mà trong lúc thảng thốt không thể nhớ được. Ðánh lửa soi thì ra Hồng Ngọc, dắt một đứa nhỏ cười đùa ở dưới đầu gối. Chàng chẳng kịp hỏi, ôm lấy cô gái mà khóc oà. Cô gái cũng thảm đạm lắm. Rồi đẩy đứa bé mà nói:

- Mày quên bố mày rồi ư?

Ðứa bé nắm lấy áo cô gái, mắt chòng chọc nhìn chàng. Chàng nhìn kỹ thì ra Phúc Nhi. Giật mình kinh hãi, khóc mà nói rằng:

- Sao con lại về đây được?

Cô gái nói:

- Nói thực với chàng, trước kia thiếp nói là con gái bên láng giềng là nói dối đấy, thiếp thực là hồ. Nhân đi đêm thấy tiếng trẻ khóc trong hang, liền bế về nuôi ở Tần. Nghe nạn lớn đã yên nên đem con về cùng chàng đoàn tụ.

Chàng gạt nước mắt lạy tạ. Ðứa bé ngồi trong lòng cô gái y như nương tựa vào mẹ đẻ, thật không nhận ra bố nữa. Trời chưa sáng, cô gái đã trở dậy. Hỏi thì đáp:

- Kẻ hèn mọn này muốn đi đây.

Chàng chưa mặc áo, quỳ ở đầu giường, khóc không ngẩng mặt lên được nữa. Cô gái cười nói rằng:

- Thiếp nói dối chàng đấy. Nay nhà đương gây dựng lại, không thức khuya dậy sớm sao được?

Rồi phát cỏ, quét dọn, làm như đàn ông vậy. Chàng lo nhà nghèo túng, không thể đủ ăn. Cô gái nói:

- Chỉ xin chàng cứ việc buông màn đọc sách không phải hỏi đến thiếu đủ, may không đến nỗi chết đói nào.

Rồi bỏ tiền sắm khung cửi dệt vải, lại thuê vài mươi mẫu ruộng, mướn người cày cấy, vác phạng đi phát tranh, kéo lá lợp nhà, hàng ngày như thế, coi là việc thường. Làng xóm nghe nói có vợ hiền càng vui lòng giúp đỡ. Chừng nửa năm sau, cảnh nhà thịnh vượng, như thể một nhà giàu lớn.

Một hôm chàng nói:

- Sau lúc tro tàn, nhờ mình tay trắng gây dựng lại, nhưng còn một việc chưa được thoả mãn, biết làm thế nào?

Hỏi là việc gì, chàng đáp:

- Kỳ thi sắp đến, mà khăn áo chưa lấy lại được?

Cô gái cười nói:

- Trước đây thiếp đã lấy bốn lạng vàng gửi lên quan quảng văn đã lấy lại được tên vào sổ. Ðợi chàng nhắc thì đã lỡ lâu rồi còn gì?

Chàng càng cho là thần. Khoa ấy, chàng đỗ thi Hương. Bấy giờ tuổi vừa ba mươi sáu, ruộng tốt liền bờ, nhà cửa cao rộng. Cô gái người vẫn mảnh dẻ tưởng như gió thổi là bay, mà làm lụng quá con nhà nông. Tuy mùa đông rét buốt vẫn chịu khó làm, mà bàn tay vẫn mềm mại như mỡ đông. Tự nói là ba mươi tám tuổi, người ta trông chỉ chừng đôi mươi.

Đỗ Ngọc Toại dịch

Chuyện 10: Bành Hải Thu

Nho sinh ở Lai Châu, là Bành Hiếu Cồ, học ở cơ ngơi khác cách nhà khá xa. Trung thu không về kịp, một mình hiu quạnh, nghĩ trong thôn chẳng có ai trò chuyện được. Chỉ có chàng thư sinh họ Khâu là danh sĩ trong huyện, nhưng vốn có tật kín, Bành thường khinh bỉ.
Trăng lên, càng thấy buồn tênh, cực chẳng đã đành viết thiếp mời Khâu. Rượu nửa chừng, có một người gõ cửa lạch cạch, tiểu đồng chạy ra xem thì là một thư sinh muốn yết kiến chủ nhân. Bành đứng lên cung kính mời khách vào. Vái chào xong, cùng ngồi quanh chiếu rượu, hỏi họ hàng quê quán, khách đáp:
- Tiểu sinh người Quảng Lăng, cùng họ với ngài, tên chữ là Hải Thu. Gặp đêm trăng đẹp thế này, ở nhà trọ càng buồn khổ. Nghe tiếng ngài là bậc cao nhã, bàn đường đột yết kiến.
Nhìn xem, người ấy áo vải mà sạch sẽ chỉnh tề, nói cười phong lưu. Bành mừng lắm nói:
- Vậy ra là người đồng tông với tôi. Ðêm nay là cái đêm gì mà gặp được khách quý thế nàch
Liền sai rót rượu, khoản đãi như bạn thân từ trước. Xem , khách dường như cũng rất khinh Khâu, Khâu ngẩng lên bắt chuyện, thì ngạo mạn không đáp lễ. Bành thẹn thay cho Khâu, bàn đánh lảng câu chuyện, xin hát trước một khúc dân ca cho vui. Rồi ngửa mặt dặng hắng lần nữa, hát khúc Hào Sĩ Phù Phong, cùng nhau vui cước.
Khách nói:
- Tiểu sinh không biết hát, không lấy gì đáp lại khúc dương xuân của ngài. Xin nhờ người hát thay được chăng?
Bành đáp:
- Xin vâng.
Khách hỏi:
- Ở thành Lai Châu này có danh kỹ nào không?
Bành trả lời:
- Không có.
Khách nín lặng hồi lâu rồi bảo tiểu đồng:
- Ta vừa gọi một người đến ở ngoài cửa, hãy ra dẫn vào đây!
Tiểu đồng đi ra, quả thấy một cô gái đang loanh quanh ngoài cửa. Nàng khoảng đôi tám, xinh đẹp như tiên. Bành ngạc nhiên hết sức, kéo nàng cùng ngồi. Cô gái mặc áo màu lá liễu, choàng khăn màu vàng, hương thơm sực nức bốn bên.
Khách an ủi:
- Lặn lội ngàn dặm tới đây, thật phiền nàng quá!
Cô gái mỉm cười vâng dạ. Bành lấy làm lạ, gạn hỏi, khách đáp:
- Quê quán khổ nỗi không có giai nhân, tiểu nhân vừa phải gọi cô này trên thuyền ở Tây Hồ đến đâ-
Ðoạn bảo nàng:
- Khúc Chàng Bạc Tình cô vừa hát ở trên thuyền hay lắm, xin hát lại lần nữa.
Cô gái hát rằng:


Chàng bạc tình,
Tắm ngựa ao xuân nọ,
Tiếng người xa,
Tiếng ngựa bỏ.
Trời sông cao,
Trăng núi nhỏ,
Ngoảnh đầu đi không về,
Trong sân trời rạng tỏ.
Chẳng oán xa nhau nhiều,
Sầu hội vui ít có,
Ngủ nơi nao?
Ðừng như bông theo gió.
Cho dù chẳng phong hầu,
Chớ về Lâm Cùng đó!

Khách lấy cây sáo ngọc dắt trong tất ra hoà theo tiếng hát, hết khúc thì sáo cũng dừng.

Bành sửng sốt khen mãi không thôi, rồi hỏi:
- Từ Tây Hồ đến đây đâu chỉ ngàn dặm? Thế mà trong phút chốc vời đến được, chẳng là tiên hay sao?
Khách đáp:
- Ðâu dám nói đến tiên, nhưng có thể coi muôn dặm gần như ngoài cửa. Ðêm nay trăng gió trên Tây Hồ đẹp hơn mọi khi nhiều, không lẽ không đến xem một chuyến? Ngài theo chơi được chăng?
Bành đang để tâm xem sự lạ liền nhận lời đáp:
- Rất hân hạnh.
Khách hỏi:
- Ngài đi thuyền hay cưỡi ngựa?
Bành nghĩ ngồi thuyền nhàn nhã hơn bàn nói:
- Xin cho đi thuyền.
Khách bảo:
- Nơi đây gọi thuyền hơi xa, trên sông Ngân hẳn có người chở đò.
Bàn giơ tay vẫy lên không, gọi:
- Thuyền ơi! thuyền xuống đây! Bọn tôi muốn đến Tây Hồ, không sẳn tiền thưởng đâu.
Lát sau, một chiếc thuyền hoa từ trên không lướt xuống, khói mây quấn quýt. Họ cùng lên thuyền. Thấy một người cầm bơi chèo ngắn, đoạn cuối gài kín lông chim dài, hình dáng như cái quạt lông, phẩy một cái là gió mất vi vu. Thuyền dần dần lên tít mây xanh, nhằm hướng Nam lướt tới, vùn vụt như têy
Khoảnh khắc thuyền đã hạ xuống nước. Chỉ nghe sáo đàn rộn rã, chiêng trống vang lừng. Ra khỏi khoang nhìn, trăng in khói sóng, thuyền chơi họp chợ, người lái buông chèo, mặc thuyền tự trôi. Nhìn kỹ, quả là Tây Hồ thật.
Khách lấy ra từ sau khoang món nhắm lạ và rượu ngon, vui vẻ đối ẩm. Lát sau, một chiếc thuyền lầu tới gần rồi đi sát ngay bên cạnh. Nhòm qua song cửa thấy trong thuyền có hai người đang cười rộ bên bàn cờ.
Khách đưa chén rượu mời cô gái, nói:
- Cạn chén, rồi đưa cô về.
Trong lúc cô gái nâng chén, Bành bịn rịn bồi hồi, chỉ sợ nàng đi mất, bàn lấy chân bấm khẽ. Nàng đưa mắt liếc ngang, Bành càng xao xuyến, xin hẹn ngày gặp lại.
Cô gái nói:
- Nếu chàng có lòng thương, cứ hỏi tên Quyên Nương là ai cũng biết.
Khách lấy ngay khăn lụa của bành trao cho nàng, bảo:
- Tôi thay ông ấy đính ước lời hẹn ba năm sau.
Ðoạn khách đứng lên, đặt cô gái trên lòng bàn tay nói:
- Tiên chăng! tiên chăng!
Rồi kéo cửa sổ thuyền bên, bỏ cô gái sang. Mắt cửa chỉ bằng cái đĩa nàng ép mình trườn vào, không cảm thấy bị chật hẹp chút nào. Lát sau nghe thuyền bên có tiếng nói:
- Quyên Nương tỉnh rồi!
Tức thì thuyền ấy chèo đi ngay. Xa trông thuyền nọ đã ghé bến, người dưới thuyền kéo cả lên bờ, Bành bỗng mất hứng chơi, bèn nói với khách muốn lên bờ cùng xem qua đây đó. Vừa mới thương lượng, thuyền đã tự cập bờ, nhân đó bỏ thuyền lên bộ dạo quanh chừng hơn một dặm. Khách đến sau, dắt một con ngựa, bảo Bành giữ lấy. Rồi khách lại đi ngay, dặn rằng:
- Ðợi tôi mượn thêm hai con ngựa nữa.
Mãi không thấy khách đến, đường đã vắng người, ngìng trông trăng đã xế về Tây, trời đã sắp rạng. Khâu cũng không biết đi đường nào. Bành dắt con ngựa tới lui, không biết nên đi hay ở. Khi giong cương cho ngựa tới nơi đậu thuyền thì cả người lẫn thuyền đều chẳng thấy đâu. Bành nghĩ lưng túi rỗng không, càng thêm lo sợ. Trời đã sáng rõ, thấy trên mình ngựa có một túi nhỏ, thò tay xem, được ba bốn lạng bạc, bàn mua thức ăn rồi cứ đợi, bất giác gần trưa. Bành tính chi bằng hỏi thăm Quyên Nương dần dà sẽ hỏi được tin Khâu nhưng khi hỏi đến tên Quyên Nương thì chẳng một ai biết cả. Bành cụt hứng buồn tênh, hôm sau lên đường. Ngựa chạy tốt, may không liệt nhược, nửa tháng về tới nhà.
Lúc ba người cưỡi thuyền bay lên, tiểu đồng về báo:
- Ông chủ đã lên tiên rồi!
Cả nhà đau buồn khóc lóc, nghĩ rằng không về nữa. Bành về tới nhà, buộc ngựa bước vào, người nhà sửng sốt mừng rỡ, xúm lại hỏi han, bấy giờ Bành mới kể hết những sự lạ. Nhân nghĩ chỉ một mình về quê quán, e bên nhà Khâu nghe tin sẽ đến gạn hỏi, bàn răn người nhà chớ nói rộng ra. Trong lúc chuyện trò, Bành kể đến lai lịch con ngựa. Mọi người nghe nói của tiên cho bàn kéo cả ra chuồng xem. Tới nơi chẳng thấy ngựa đâu, chỉ thấy chàng Khâu bị buộc cạnh chuồng ngựa bằng giây cương cỏ. Ai nấy kinh hãi quá sức, gọi Bành đến xem. Thấy Khâu gục đầu dưới máng cỏ, mặt mày xám ngắt, hỏi không nói, duy hai mắt lúc nhắm lúc mở mà thôi. Bành thấy bất nhẫn quá,sai người cởi giây cương vực lên giường.
Khâu như người mất hồn, đổ nước cháo nóng cho, nuốt được chút ít, giữa đêm hơi tỉnh vội đòi ra nhà tiêu. Xốc nách nách đưa đi. Khâu xón ra được mấy cục phân ngựa. Lại cho ăn uống tí chút, bấy giờ mới nói được, Bành đến bên giường hỏi han, Khâu kể:
- Sau khi rời thuyền, hắn dẫn tôi đi nói chuyện phiếm. Ðến chỗ vắng, hắn vỗ đùa vào gáy, tôi liền mê mẩn ngã lăn ra. Nằm phục giây lát, nhìn lại thấy mình đã hoá ngựa. Tâm trí vẫn tỉnh táo nhưng không nói được. Thật là chuyện vô cùng nhục nhã, không sao nói với vợ con được. Xin bác chớ tiết lộ.
Bành nhận lời, sai người hầu thắng ngựa đưa Khâu về.
Từ đấy Bành không sao quyên được Quyên Nương. Ba năm sau, vì có người anh rể làm chức quan Phán ở Dương Châu, Bành nhân đến thăm. Châu này có Lương công tử là chỗ thân quen với Bành, mở tiệc mời chàng đến uống rượu. Trong tiệc có mấy đào hát đều đến vái chào. Công tử hỏi đến Quyên Nương, người nhà thưa là bị ốm.

Công tử giận dữ nói:
- Con tiện tỳ cao ngạo thanh giá, hãy mang thừng trói đem đến đây!
Bành nghe đến tên Quyên Nương, giật mình hỏi là ai. Công tử đáp:
- Nó là con hát số một ở Quảng Lăng. Cậy có chút tiếng tăm mới dám kiêu căng vô lễ.
Bành ngờ tên họ ngẫu nhiên trùng nhau, nhưng lòng vẫn xúc động hồi hộp, chỉ mong được thấy mặt ngay. Lát sau, Quyên Nương đến, công tử hầm hầm kể tội.

Bành nhìn kỹ, quả là người đã gặp trong tiết trung thu, bèn thưa với công tử:
- Cô này là chỗ tôi quen biết cũ, mong ông tha thứ
Quyên Nương đưa mắt ngắm Bành, dường như cũng ngạc nhiên.

Công tử chưa vội hỏi kỹ đã sai người mời rượu. Bành hỏi:
- Khúc Chàng Bạc Tình nàng còn nhớ chăng?
Quyên Nương càng kinh hãi, chăm chú nhìn Bành rồi mới hát khúc xưa. Lắng nghe, đúng là tiếng hát đêm trung thu năm ấy.
Rượu tàn, công tử sai nàng chăn gối hầu khách. Bành nắm lấy tay nàng hỏi:
- Lời hẹn ba năm hôm nay mới thực hiện được chăng?
Quyên Nương đáp:
- Năm xưa theo người đi chơi thuyền Tây Hồ, em uống chưa được mấy chén đã như say. Trong lúc choáng váng bị một người nhấc đem đến một thôn nọ. Một tiểu đồng dẫn em vào nhà trên chiếu rượu có ba người, chàng là một trong số đó. Sau lại đi thuyền đến Tây Hồ , người ta mới đưa em về thuyền cũ qua mắt cửa sổ. Mỗi khi nhớ lại lúc cầm tay ân cần, cứ bảo là mộng ảo. Nhưng khăn lụa còn đây, em vẫn gói kỹ cất đi.
Bành kể nguyên do rồi cùng nhau than thở. Quyên Nương ngả mình vào lòng Bành, nức nở nói:
- Tiên đã làm mối, xin chàng đừng cho em là kẻ phong trần đáng vứt bỏ mà thôi không nghĩ đến người đang ở trong bể khổ này.
Bành đáp:
- Lời hẹn trên thuyền chưa ngày nào tôi lãng quên. Nếu nàng có đó, dù có phải dốc túi bán ngựa, tôi cũng khô š
Sáng hôm sau, thưa chuyện với công tử, lại vay mượn quan Biệt giá ngàn vàng, xoá sổ cho nàng rồi đưa nhau về quê. Tình cờ đến cơ ngơi nọ, nàng vẫn nhận ra nơi uống rượu năm nào.

Phạm Tú Châu dịch

Chuyện 11: Bộ Da Vẽ

Thư sinh họ Vương, quê ở Thái Nguyên,một hôm đi sớm, gặp một người con gái ôm bọc quần áo, bôn ba một mình, chân bước ra dáng khó nhọc Vương vội đi vượt lên, nhìn kỹ thì ra một cô gái tuổi chừng đôi tám, nhan sắc tuyệt vời. Bụng yêu thích lắm, liền hỏi:
- Sao mới sớm hôm mà đã đi lẻ loi một mình thế?
Cô gái đáp:
- Là khách qua đường, hiểu sao được nỗi lo buồn của người khác. Hỏi nhau làm gì cho mệt?
Chàng hỏi lại:
- Nàng có nỗi buồn lo gì vậy? Nắu có thể gắng giúp được, tôi sẽ không từ.
Cô gái ủ dột đáp:
- Bố mẹ tham tiền, bán thiếp cho một nhà giàu sang. Người vợ cả rất hay ghen, sớm chiều đánh mắng nhục nhã, không thể chịu nổi nên phải trốn đi.
Hỏi:
- Ði đâu bây giờ?
Ðáp:
- Người đã đi trốn, lại có nơi nào định trước được?
Chàng nói:
- Tệ xá không xa, xin mời nàng quá bước lại đó.
Cô gái mừng lắm, theo chàng. Chàng mang hộ bọc quần áo, đưa nàng về cùng.
Cô gái thấy nhà không có người bèn hỏi:
- Tại sao chàng không có người nhà?
Chàng đáp:
- Ðây chỉ là thư trai thôi.
Cô gái nói:
- Nơi này tốt lắm. Chàng như có bụng thương mà cứu sống thiếp thì xin bí mật, chớ để lọt ra ngoài.
Chàng bằng lòng. Liền cùng nàng chung chạ. Dấu diếm trong buồng kín, qua mấy ngày cũng không ai hay.
Chàng nói hé với vợ. Vợ họ Trần, ngờ rằng đó là nàng hầu vợ bé của nhà đại gia nào, khuyên chồng để cho cô ta đi. Chàng không nghe. Tình cờ một hôm đi qua chợ, gặp một đạo sĩ, nhìn chàng kinh ngạc, hỏi có gặp ai lạ không.
Chàng đáp:
- Không.
Ðạo sĩ nói:
- Người anh đầy tà khí, sao lại nói là không?
Chàng lại cố chối. Ðạo sĩ liền bỏ đi và nói:
- Mê muội thay! Ðời vẫn có kẻ sắp chết đến nơi mà còn chưa tỉnh!
Chàng thấy lời nói lạ nên cũng hơi ngờ người con gái, nhưng lại nghĩ cô gái đẹp sờ sờ ra đấy, sao đến nỗi là yêu quái được; cho đạo sĩ là kẻ mượn tiếng yểm tà để lấy miếng ăợc;
Một lát sau về đến nhà học. Cổng trong đóng chặt, không thể vào được, trong bụng đã ngờ có sự gì, liền trèo qua chỗ tường lở mà vào, thì cửa buồng cũng đóng. Chàng rón rén đến trước cửa số nhìn, thấy một con quỷ nanh ác, mặt xanh lét, răng chơm chởm như răng cưa, đang giãi một tấm da người lên trên giường, lấy bút màu vẽ lên trên. Vẽ xong, ném bút, nhấc tấm da như thể nâng tấm áo, khoát lên người, lập tức hoá ra một cô gái.
Trông thấy tình trạng đó, chàng sợ quá, bò rạp trên mặt đất mà lẻn ra. Vội đi tìm đạo sĩ thì đã không biết là đi đâu. Tìm kiếm khắp nơi, mới gặp ngoài đồng, liền quỳ xuống xin cứu mạng. Ðạo sĩ nói:
- Sẽ xin trừ giúp. Con quỷ đó cũng khốn khổ lắm mới tìm được người thay nó, ta cũng không nỡ hại tính mạng nó.
Liền lấy chiếc phất trần đưa cho chàng, dặn treo ỏ cửa buồng ngủ. Lúc sắp đi, hẹn gặp lại ở miễu Thanh Ðế.
Chàng trở về không dám tới nhà học, đành ngủ ở buồng vợ, treo phất trần lên. Vào khoảng canh một, nghe ngoài cửa có tiếng lách cách, tự mình không dám dậy nhòm, phải bảo vợ nhòm xem. Chỉ thấy cô gái đi đến, nhìn lên phất trần không dám bước nữa; đứng đó mà nghiến răng, một lúc lâu mới đi. Lát sau lại đến mắng rằng:
- Ðạo sĩ chỉ doạ ta nhưng đâu có được! Chẳng lẽ miếng ăn đã đến miệng lại nhả ra sao?
Liền lấy phất trần bẻ nát, rồi phá cửa buồng ngủ bước vào, nhảy lên giường của chàng, xé bụng chàng, moi lấy quả tim rồi đi.
Vợ chàng kêu thét lên. Con hầu vào soi đèn thì chàng đã chết, trên khoang bụng máu me bê bết. Trần thị rất sợ, chỉ khóc, không dám kêu. Hôm sau nàng cho em chồng là chàng Hai chạy đi nói với đạo sĩ. Ðạo sĩ tức giận nói:
- Ta đã thương tình, ngờ đâu con quái này lại dám to gan đến thế!
Lập tức theo người em chàng về thì cô gái đã biến mất.
Bàn ngẩng đầu, nhìn bốn phía nói:
- May nó trốn chưa xa.
Lại hỏi:
- Phía Nam là nhà ai?
Chàng Hai đáp:
- Ðó là nhà của tiểu sinh.
Ðạo sĩ nói:
- Hiện nó ở nhà anh.
Chàng Hai ngạc nhiên, cho rằng không có. Ðạo sĩ hỏi:
- Có người lạ nào mới đến không?
Chàng Hai đáp:
- Tôi đến miễu Thanh Ðế, quả thực không biết, để về nhà hỏi xem.
Ði một lát, trở về nói:
- Quả có thật, sáng nay có một mụ già đến, xin làm mướn cho nhà tôi, vợ tôi giữ lại, mụ vẫn còn đó.
Ðạo sĩ nói:
- Chính là nó đấy.
Liền cùng đi sang, cầm kiếm gỗ đứng ở giữa sân thét:
- Yêu nghiệt, đền ta phất trần đạy!.
Mụ già ở trong nhà hốt hoảng, tái mặt, ra cửa toan chạy. Ðạo sĩ đuổi theo đâm mụ, mụ ta ngã xuống, tấm da người tuột ra, hoá thành một con quỷ dữ, nằm kêu rống lên như lợn. Ðạo sĩ lấy kiếm gỗ chém, bêu đầu lên; thân nó biến thành đám khói dày đặc, xoáy tròn trên mặt đất, thành một đám dày. Ðạo sĩ lấy ra một cái hồ lô mở nút để vào giữa đám khói, kêu vù vù như mồm hút hơi, một lát khói hết, đạo sĩ nút hồ lô lại, bỏ vào đãy. Mọi người nhìn tấm da, lông mày, con mắt, chân tay không thiếu gì cả. Ðạo sĩ cuộn lại, tiếng kêu như cuộn trục tranh, cũng bỏ vào trong đãy, rồi từ biệt toan đi. Trần thị đón vái trước cửa, khóc xin làm phép hồi sinh cho chồng. Ðạo sĩ từ chối, không thể làm được. Trần thị càng thảm thiết, quỳ rạp trên đất không dậy. Ðạo sĩ nghĩ ngợi rồi nói:
- Phép thuật của ta còn nông cạn, thực không thể làm ngươi chết sống lại được. Ta trỏ giúp một người, may ra có thể làm điều đó. Ðến cầu xin tất là có kết quả.
Hỏi người nào? Ðáp:
- Trong chợ có một người điên, thường nằm trên đống phân, thử đến mà kêu xin với ông ta xem. Nhưng dù có buông tuồng làm nhục phu nhân, phu nhân cũng chớ có tức giận.
Chàng Hai cũng đã biết người điên đó, bèn từ biệt đạo sĩ, rồi cùng chị dâu đi tìm. Thấy người ăn mày rồi dại ca hát trên đường, mũi dãi lòng thòng, bẩn thỉu quá không thể gần được. Trần thị lết đầu gối đến trước mặt. Người ăn mày cười, nói:
- Người đẹp yêu ta chăng?
Trần thị kể nguyên do, thì lại cười lớn, nói:
- Ai cũng là chồng được cả, làm sống lại làm gì?
Trần thị cố kêu van. Bàn nói:
- Kỳ thay, người chết mà lại nhờ ta làm sống lại được; ta là Diêm Vương hay sao?
Tức giận lấy gậy đánh Trần thị. Trần thị nhẫn nhục cố chịu đau. Người trong chợ dần dần đổ đến xem chật như bức tường. Người ăn mày khạc đờm ra đầy bàn tay, đưa tới trước Trần thị nói: Ăn đi! Trần thị đỏ bừng mặt, có vẻ ái ngại. Lại nghĩ đến lời đạo sĩ dặn liền cố liều nuốt.
Thấy bãi đờm trong cổ họng, cứng như túm lông, cố nuốt thì nghèn nghẹn mà trôi xuống, rồi dừng lại ở quãng ngực. Người hành khất cười lớn nói:
- Người đẹp quả yêu ta thay!
Liền đứng dậy đi, chẳng ngoảnh lại nữa. Bước theo sau, thấy vào trong miễu. Cố đuổi kịp để kêu nài nữa, thì không biết đã đi đâu mất. Tìm trước, tìm sau không thấy tăm hơi đâu cả, vừa thẹn vừa giận mà trở về. Ðã thương chồng chết thảm, lại hối vì nỗi nhục ăn bãi đờm, nàng ôm mặt ngồi khóc, chỉ muốn chết ngay. Ðương toan gạt máu liệm thây chồng, người nhà cứ đứng nhìn, không ai dám đến gần; Trần thị ôm lấy thây chồng, nhặt mớ ruột, vừa xếp lại vừa khóc. Khóc đắn lúc khản cả tiếng, bỗng buồn nôn, thấy cái vật kết trong ngực trôi tuột ra, chưa kịp quay đầu lại, nó đã rơi vào trong ngực người chết.
Kinh hãi nhìn kỹ thì ra đó là quả tim người, vẫn đang nhảy thon thót trong ngực, hơi nóng bốc lên như khói. Lấy làm lạ, vội đưa hai tay khép bụng chồng lại, hết sức giữ chặt lấy, hơi nới tay thì khí nóng từ khoang bụng lại toả ra; mới xé lụa vội buộc chặt lại. Sờ tay vào thây chồng, dần dần ấm lại, bàn lấy chăn đắp lên. Nửa đêm mở ra xem, thấy mũi có hơi thở. Ðến sáng thì sống lại hẳn. Chồng kể lại: Hoảng hốt như nằm mơ, chỉ thấy bụng còn đau lâm râm. Xem chỗ bị xé rách, thấy đóng vẩy to bằng đồng tiền, sau dần dần khỏi.

Đỗ Ngọc Toại dịch

Chuyện 12: Xảo Nương

Miền Quảng Ðông có thân hào họ Phố, tuổi ngoại sáu mươi, sinh một trai tên là Liêm, rất thông tuệ, nhưng chẳng may bị trời hoạn, mười bảy tuổi mà dương vật chỉ nhỏ như con tằm. Xa gần biết chuyện, không một nhà con gái nào dám hứa gả. Tự nghĩ phận mình dòng dõi đã tuyệt, ngày đêm lo lắng không biết làm thế nào.
Liêm theo thầy học tập, một hôm nhân thầy đi vắng, ngoài cửa có gánh xiếc khỉ, bèn bỏ học đi xem. Ðến chừng đoán thầy sắp về đắn nơi, sợ hãi, bỏ trốn luôn. Rời nhà được mấy dặm, trông thấy một nàng áo trắng dắt một con hầu nhỏ đang đi ở phía trước. Một lần cô gái quay đầu lại, thì ra khuôn mặt diễm lệ ít ai sánh được. Gót sen bước có vẻ chậm rãi, Liêm vội đi vượt lên. Cô gái quay sang nói với con hầu:
- Thử hỏi chàng xem có phải định đến kẻ Quỳnh không?
Con hầu bàn gọi chàng hỏi. Liêm hỏi lại rằng có việc gì. Cô gái đáp:
- Ví thử có đi Quỳnh thì có phong thư, phiền chàng tiện đường đưa giúp về nhà hộ. Mẹ già tôi ở nhà cũng là người hiếu khách.
Liêm lúc ra đi vốn cũng chưa định đi đâu. Nghĩ rằng lênh đênh hồ hải một chuên cũng hay, bàn nhận lời. Cô gái liền rút lá thư đưa con hầu, con hầu trao lại cho chàng. Hỏi họ tên quê quán người nhận thì nàng đáêáêáêášên
- Họ Hoa, ở làng gái Tần, cách thành Bắc chừng ba bốn dặm.
Chàng bàn đáp thuyền mà đi. Ðến được thành Bắc đất Quỳnh Châu vào lúc trời đã chiều tối. Hỏi thăm thôn gái họ Tần thì chẳng một ai biết cả. Ðành nhắm hướng Bắc mà đi, được chừng bốn năm dặm thì trăng sao đã hiện lên nhấp nháy, cỏ dại thơm lừng trải dài mờ cả mắt, chốn đồng không chẳng có lấy một quán trọ nào; tình cảnh thật khốn quẫn. Nhìn thấy một ngôi mộ bên đường, nghĩ muốn nằm nghỉ quách bên ngôi mộ đó, nhưng lại khiếp sợ hổ lang. Bèn ôm cây trèo lên, ngồi chồm chỗm trên ngọn cao. Nghe tiếng thông reo xào xạc, côn trùng tỷ tê, trong lòng thảng thốt, hối hận như thiêu như đốt. Thốt nhiên nghe bên dưới có tiếng người. Cúi đầu nhòm xuống, thì rành rành đã là một nơi sân viện; một cô gái xinh đẹp ngồi trên phiến đá, hai con hầu vấn tóc châm đuốc hoa đứng hầu hai bên. Người đẹp quay đầu sang bên trái bảo:
- Ðêm nay trăng sáng sao thưa, gói trà cô Hoa vừa tặng có thể đem pha một ấm uống thưởng thức đêm thanh được đấy.
Chàng nghĩ đây hẳn là ma quỷ, trong mình sởn cả gai ốc, nín hơi không dám thở. Chợt một con hầu nhìn lên nói:
- Trên cây có người.
Cô hãi kinh hãi đứng bật dậy kêu lên:
- Trẻ ranh lớn mật ở đâu dám mò đến đây nhòm trộm người khác!
Chàng cả sợ, không còn chỗ nào để trốn nữa, đành ôm cây tụt xuống, phục xuống đất xin tha thứ. Cô gái đến gần, đưa mắt nhìn qua một lượt, chợt đổi giận làm vui, kéo chàng dậy cùnng ngồi. Chàng liếc mắt ngó nàng, thì tuổi khoảng mười bảy mười tám, vẻ người xinh đẹp có một. Nghe giọng nói cũng tiếng vùng này, nàng hỏi:
- Chàng đi đâu đây?
Ðáp rằng:
- Có người nhờ đưa giúp lá thư.
Nàng nói:
- Ðồng hoang khối khách ăn đêm, ngủ giữa trời sương rất đáng ngại. Nắu chẳng hiềm nhà tranh vách đất, xin mời vào nghỉ tạm.
Nói rồi đưa chàng vào nhà. Trong nhà chỉ có một chiếc giường, nàng sai con hầu sắp hai tấm chăn lên đấy. Chàng tự thẹn thân hình khiếm khuyết, xin nằm ở dưới đất. Nàng cười đáp:
- Khách quý đến nhà, con gái đâu dám thất lễ, đòi nằm cao hơn khách
Chàng không biết tính sao đành phải nằm chung một giường, nhưng trong lòng hoang mang lo lắng, không dám tự tiện co duỗi. Chẳng bao lâu, cô gái luồn bàn tay nhỏ nhắn qua lớp chăn, cấu nhẹ vào đùi chàng. Chàng vờ ngủ, như không biết gì. Lại một chốc nữa, nàng mở chăn ra chui hẳn sang, lay chàng, chàng vẫn nằm im không động. Nàng thuận tay lần xuống thám thính chỗ kín, bỗng ngừng ngay lại, dáng buồn thiu, rồi thiểu não lật chăn trở dậy; giây lát nghe có tiếng khóc. Chàng bàng hoàng cả người, không biết chui vào đâu cho hết thẹn, lại giận trời kia sao nỡ bắt người ta phải khuyết tật. Cô gái gọi con hầu thắp đèn lên. Nhìn thấy mặt nàng còn ngấn lệ, con hầu kinh ngạc có điều gì buồn. Nàng lắc đầu đáp:
- Ta tự thương phận mình bạc thôi!
Con hầu đứng trước giường, nhìn chằm chằm xuống mặt chàng. Nàng bảo:
- Hãy gọi anh ta dậy rồi bảo xéo đi!
Nghe mấy lời ấy chàng bội phần xấu hổ. Lại thêm lo đang giữa đêm hôm, tối tăm mù mịt chẳng biết đâu mà đi. Giữa lúc còn dùng dằng chưa quyết đi một người đàn bà đẩy cửa bước vào. Con hầu thưa:
- Cô Hoa đã về.
Chàng hé mắt nhìn trộm thì thấy bà này tuổi đã ngoại năm mươi, nhưng còn giữ được phong vận. Thấy cô gái chưa ngủ, bà liền hỏi duyên cớ. Nàng chưa kịp đáp thì lại thấy trên giường có người nằm, bèn hỏi:
- Nằm cùng giường là ai đấy?
Con hầu trả lời thay:
- Lúc tối có một chàng trai trẻ đến đây xin ngủ nhờ.
Bà liền cười:
- Biết đâu Xảo Nương hôm nay vui vầy đuốc hoa cơ chứ!
Chợt thấy cô gái ngấn lệ chưa khô, bà kinh ngạc hỏi:
- Ðêm hợp cẩn mà lại buồn bã khóc lóc không phải cách; chẳng lẽ chàng rạ thô bạo lắm sao?
Nàng không đáp, mặt càng thêm âu sầu. Bà ta định kéo vạt áo để nhìn rõ chàng, vừa động đến áo thì phong thư rơi xuống giường. Nhặt lên xem bà bỗng sợ hãi nói:
- Chừng nét chữ của con gái tôi đây mà-
Mở ra đọc, bà than lên một tiếng chua xót. Cô gái hỏi nguồn cơn thì bà đáp:
- Ðây là thư của con Ba báo tin nhà, nói rằng chàng Ngô chồng nó đã mất, nó nay trơ trọi không nơi nương tựa. Chưa biết tính thế nào.
Cô gái tiếp:
- Ban nãy anh ta nói là chuyển giúp lá thư cho ai đó, may mà tôi chưa đuổi đi.
Bà già gọi chàng dậy, hỏi rõ nguyên ủy lá thư. Chàng kể tình đầu. Bà bảo:
- Xa xôi làm phiền lặn lội đưa thư, nay biết lấy gì báo đáp!
Lại ngắm kỹ chàng rồi cười, hỏi:
- Vì sao lại làm trái Xảo Nươi
Chàng đáp:
- Chẳng biết mình có tội gì.
Bà quay sang hỏi cô gái. Nàng than rằng:
- Chỉ thương cho thân mình, sống đã vớ phải anh chồng lại cái, chết cũng lại nhà đứa bị thiến mà ăn nằm. Vì thế mà tủi thôi.
Bà già quay lại nhìn chàng nói:
- Thông minh linh lợi thế này, vốn là trống mà hoá ra lại là mái ư? Thôi thì khách nhà tôi, không thể làm phiền người khác mãi thế được.
Nói rồi dẫn chàng sang chái nhà phía Ðông, đưa tay sờ xuống khố mà khám nghiệm, rồi vừa cười vừa nói:
- Chẳng trách nào Xảo Nương khóc hết nước mắt cũng phải. Nhưng may vẫn còn chút cuống rễ. Còn có thể cố sức được.
Bèn khêu đèn, lục hết hòm rương, lấy ra một viên thuốc màu đen trao cho chàng, bảo nuốt ngay, lại dặn nhỏ rằng đừng cử động. Rồi đi ra.
Còn lại một mình chàng nằm nghĩ ngợi, không biết thuốc chữa chứng bệnh gì. Chừng khoảng canh năm tỉnh dậy, cảm thấy dưới rốn một luồng hơi nóng xông thẳng vào chỗ kín, lại lùng như có vật gì treo ở khoảng dưới háng. Ðưa tay sờ thử, thì ra mình đã thành một gã đàn ông hẳn hoi. Trong lòng mừng đến thảng thốt, giống như vị thượng quan thình lình được trao chín vật báu.
Khi hừng đông lờ mờ ở chấn song thì bà già trở lại, đem bánh mới hấp vào buồng cho chàng, lại dặn hãy cứ ngồi yên, rồi khoá trái cửa lại, ra ngoài nói với Xảo Nương rằng:
- Anh chàng vất vả mang thư đến đây, hãy giữ lại đấy, gọi con Ba về, cho nó kết nghĩa chị em. Với lại, cũng phải đóng cửa để khỏi người ta buồn chán.
Nói rồi ra cửa mà đi.
Chàng quẩn quanh mãi đâm buồn, thỉnh thoảng lại đến gần khe cửa, y như con chim ngó trộm qua nan lồng. Trông xa thấy Xảo Nương cũng muốn gọi lại báo rõ sự tình, nhưng e thẹn ngập ngừng nên lại thôi. Mãi đến tối mịt bà già mới dẫn con gái trở về. Vừa đẩy cửa đã lên tiếng:
- Ðể sầu muộn giết mất lang quân rồi! Con Ba hãy vào mà bái tạ đi!
Cô gái gặp trên đường mấy bữa trước rụt rè bước vào, ngước nhìn chàng, e ấp vái chào. Bà mẹ bảo họ gọi nhau bằng anh em. Xảo Nương cười:
- Gọi là chị em gái cũng được.
Rồi cùng kéo nhau ra gian giữa, ngồi quay quẩn quanh mâm rượu. Uống được vài chén, Xảo Nương hỏi đùa:
- Người hoạn thấy sắc cũng động lòng chứ?
Chàng đáp:
- Thì chân què vẫn nhớ đến giày; Mắt loà vẫn cứ loay hoay muốn nhìn mà!
Ai nấy cùng cười rộ. Xảo Nương lấy cớ Tam Nương vừa đi đường mệt nhọc, ép cô phải đi nghỉ. Bà mẹ quay sang Tam Nương, bảo cùng nằm chung với chàng. Tam Nương xấu hổ mặt đỏ bừng, không chịu đi. Bà mẹ bảo:
- Ðây là trượng phu mà cũng là cân quắc, còn có gì mà sợ?
Rồi giục hai người vào buồng, lại dặn riêng chàng:
- Trong thì làm rễ ngoài cứ vờ làm con ta cũng được.
Chàng mừng rỡ, nắm cánh tay nàng dắt lên giường. Như dao sắc mới mài lần đầu đem thử, khoái trá thế nào cũng có thể biết rõ. Trong lúc đầu gối tay ấp, hỏi nàng:
- Xảo Nương là người như thế nào?
Ðáp:
- Là ma đấy. Tài sắc vô song nhưng số phận lại thường gập ghềnh trắc trở. Lấy phải cậu út nhà họ Mao, bị bệnh liệt dương, mười tám tuổi đầu vẫn chẳng nên hồn. Vì thề ẩn ức không vơi được, ôm hận mà chết.
Chàng thất kinh, ngờ Tam Nương cũng là ma. Nàng nói:
- Nói thật với chàng, thiếp chẳng phải ma mà là hồ. Xảo Nương sống lẻ loi không có đôi mà mẹ con thiếp lại không có nhà, nên mượn tạm căn nhà này ở nhờ.
Chàng rất ngạc nhiên. Nàng nói:
- Ðừng ngại. Tuy là ma là hồ, nhưng không gây hoạ cho nhau đâu.
Từ đấy, hàng ngày họ thường cùng nhau chuyện trò, yến ẩm. Dẫu biết Xảo Nương chẳng phải là người mà lòng chàng vẫn quyắn luyến nhan sắc. Chỉ hận một nỗi muốn được hiến cho nàng mà không có dịp. Chàng vốn là người hoà nhã, lại giỏi yêu chiều pha trò, nên dần được Xảo Nương rất thươu
Một hôm, mẹ con họ Hoa có việc đi vắng, lại đóng cửa nhốt chàng ở trong buồng. Chàng tức bực, loanh quanh trong nhà mãi rồi đứng cách lần cửa gọi Xảo Nương. Xảo Nương bảo con hầu đem chìa khoá ra thử, mấy lượt thì cửa mở. Chàng ghé tai xin gặp riêng. Xảo Nương bảo con hầu đi chỗ khác, chàng liền kéo nàng lên giường và nằm áp lại. Nàng đùa cợt, đưa tay sờ phía xuống dưới rốn mà bảo:
- Ðến là tiếc! Chỗ này lại khuyắt mất rồi!
Nói chưa dứt lời thì tay đã chạm phải vật gì, tày một nắm, hoảng hốt kêu lên:
- Sao trước lờ mờ có thấy gì đâu mà nay đã lớn vổng lên nhanh thế?
Chàng cười đáp:
- Trước xấu hổ vì phải sắm vai khách nên nó rụt lại. Nay bị phỉ báng quá không chịu nổi, nên nó làm con ếch giận dữ đấy thôi!
Bèn cùng nhau giao hoan. Xong xuôi nàng mới chợt nghĩ ra, tức tối nói:
- Thì ra nay mới biết đóng cửa là có duyên cớ. Hồi trước cả hai mẹ con lênh đênh không nơi nương náu, đã nhường nhà cho mà ở. Rồi Tam Nương theo học thêu thùa, cũng lại hết lòng bày vẽ, không giấu giếm tí gì. Thế mà nay lại sinh lòng đố kỵ thế đ giấu
Chàng phải lựa lời khuyên giải, lại lấy tình thực mà nói, nhưng Xảo Như vẫn hậm hực mãi. Chàng bảo:
- Giữ kín đấy nhé! Cô Hoa dặn tôi nghiêm lắm.
Nói chưa dứt lời thì Hoa Cô đã đẩy cửa bước vào. Hai người vội vàng nhỏm dậy. Hoa Cô trừng mắt hỏi:
- Ai mở cửa?
Xảo Nương cười chặn lời, tự nhận mình mở cửa. Hoa Cô càng giận, quát mắng mãi không thôi. Xảo Nương vẫn cười mỉa, đáp:
- Mẹ này mới thật nực cười chứ! Ðã là trượng phu mà cũng cân quắc thì còn làm được gì nữa?
Tam Nương thấy mẹ mình và Xảo Nương ra sức khích bác lẫn nhau, trong lòng không yên, bàn đứng ra can ngăn, cả hai mới đổi giận làm lành. Xảo Nương lời lẽ dẫu gay gắt, nhưng xem từ đấy đã muốn nhún mình thờ Tam Nương làm chị. Chỉ hiềm Hoa Cô ngày đêm canh phòng ráo riết, nên đôi tình nhân không thể tự do thổ lộ, chỉ biết đầu mày cuối mắt đưa tình mà thô xem
Một hôm Hoa Cô bảo chàng rằng:
- Cả hai chị em chúng nó đều đã hầu hạ anh. Nhưng nghĩ lại, sống ở đây không phải là kế lâu dài. Vậy anh nên về trình với cha mẹ để sớm tính chuyện đính ước trăm năm thì hơn.
Liền đấy, bà sắm sửa hành trang, giục chàng lên đường. Hai cô gái nhìn chàng, mặt mày ủ rũ, mà Xảo Nương càng như không chịu nổi, lệ ròng ròng như châu sa, không lúc nào dứt. Hoa Cô ngăn họ lại rồi dẫn chàng ra đi. Vừa ra khỏi cửa thì lầu viện đã biến đâu mất, chỉ còn thấy một ngôi mộ hoang.
Hoa Cô tiễn chàng lên tận thuyền, nói:
- Sau khi anh đi, già này cũng sẽ dắt hai con gái đến trú ngụ ở quý ấp. Nếu không quên ước cũ thì xin đợi nhau trong đám vườn hoang nhà họ Lý để làm lễ nghênh hô ngụ
Chàng bàn trở về quê.
Bấy giờ, ông già họ Phó đã tìm kiếm con trai hết cách. Ðang giữa lúc lòng lo như lửa đốt thì bỗng thấy con về, mừng rỡ ngoài tưởng tượng. Chàng kể lại vắn tắt đầu đuôi, nhân nói cả việc đính ước của họ Hoa. Cha bảo:
- Lời nói của yêu quái sao đủ để tin. Mày sở dĩ còn toàn mạng trở về cũng chỉ vì bị tật nguyền chứ không thì đã chết rồi.
Chàng đáp:
- Ðám đó tuy khác loài nhưng tình cũng như người; huống nữa, lại thông minh, xinh đẹp, có lấy làm vợ cũng chẳng sợ họ hàng làng xóm chê cười.
Cha không nói gì, chỉ cười nhạt. Chàng bèn lui ra. Nhưng rồi vì ngứa nghề, không đành phận, bèn tư thông với con hầu. Dần dần giữa ban ngày cũng công khai giở trò dâm dật, có muốn làm cho câu chuyện kinh động đến tai cha mẹ. Một hôm, con hầu nhỏ lén nhìn thấy, chạy đi báo với bà cụ. Bà cụ không tin, đến gần xem, bấy giờ mới đâm hoảng. Cho gọi con hầu đến hỏi, liền biết rõ sự thật. Mừng quá sức, gặp ai cũng nói toạc ra, để chứng tỏ con mình không có tật; rắp tính chuyện hôn nhân với nhà thế gia. Chàng nói riê muốn là
- Không phải nhà họ Hoa thì không lấy đâu.
Mẹ nói:
- Trên đời thiếu gì gái đẹp, hà tất phải là quỷ với yêu.
Chàng đáp:
- Con ví không có Hoa Cô thì đâu biết mùi đời. Bội bạc người ta chẳng phải là điều hay.
Ông lão họ Phó nghe lời, cho một người tớ trai và một vú già đến nơi xem xét. Ra khỏi thành Ðông chừng bốn năm dặm thì tìm được thửa vườn hoang nhà họ Lý. Nhác thấy một làn khói bốc lên nghi ngút giữa một khóm trúc bên bức tường thấp đã đổ nát, bà vú bàn xuống xe, rảo thẳng đến cửa, thì bắt gặp mẹ con đang lau ghế cọ nhà, như có chờ đợi. Bà vú vái chào, thưa rõ lời chủ dặn. Nhìn thấy Tam Nương, bà họ L. Nhá họ
- Ðây chính là vợ của tiểu chủ tôi sao? Tôi vừa thấy đã phải thương, không trách công tử cứ mê mẩn như người mất hồn.
Rồi hỏi luôn đến cô chị. Hoa Cô than thở mà rằng:
- Ðó là con gái nuôi của tôi. Ba hôm trước cháu bỗng bị bạo bệnh, tạ thế mất rồi.
Nhân đó, đem rượu thịt ra thết đãi bà vú và người tớ trai. Bà vú trở về thuật rõ dung mạo, cử chỉ của Tam Nương. Cả ông bà đều vui mừng. Sau cùng mới nói đến tin Xảo Nương mất. Chàng nghe đau đớn muốn trào nước mắt. Ðến đêm nghênh hôn, gặp mặt Hoa Cô, tự mình hỏi lại. Hoa Cô đáp:
- Ðã đầu thai ở đất Bắc rồi.
Chàng than thở giây lâu. Ðón Tam Nương về rồi mà rốt cuộc vẫn không dứt tình được với Xảo Nương. Hễ nghe có người nào ở kẻ Quỳnh mới đắn đếu cho gọi đến hỏi chuyện. Có người cho biết dưới mộ cô gái họ Tần đêm đêm vẫn nghe tiếng quỷ khóc. Chàng ngờ có sự lạ, vào bảo với Tam Nương. Tam Nương trầm ngâm một lúc lâu rồi khóc mà nói:
- Em phụ chị rồi!
Gạn hỏi lại thì đáp rằng:
- Thú thực lúc mẹ con thiếp ra đi, không nói cho chị ấy biết. Tiếng gào oán đó chẳng phải của chị ấy thì còn ai nữa? Trước đã định bảo thật cho nhau, nhưng lại sợ phơi bày tội lỗi của mẹ.
Chàng nghe đoạn đổi buồn thành vui, lập tức cho sắm sửa xe cộ, ngày đêm vượt đường đi gấp; ruổi đến trước mộ nàng, gõ vào tấm mộc chủ cắm ở mộ mà gọi to lên:
- Xảo Nương! Xảo Nương! Anh ở đây!
Giây lát thấy cô gái ẵm một đứa trẻ từ trong mồ chui ra, đau đớn ngước đầu lên, mắt nhìn ai oán không dứt. Chàng cũng ngậm ngùi rơi lệ. Sờ vào đứa bé trong lòng hỏi con ai. Xảo Nương đáp:
- Ðây là cái mầm oan nghiệt của chàng để lại. Sinh được ba tháng rồi.
Chàng nói:
- Trót nhầm nghe lời Cô Hoa khiến mẹ con phải chôn chặt mối hờn ở dưới lòng đất. Tội thật không tha thứ được.
Rồi cùng nhau dắt díu lên xe, băng vời vượt biển mà về. Ôm con vào trình mẹ. Mẹ nhìn thấy đứa bé mặt mũi khôi ngô, thân thể khoẻ manh, không giống với loài yêu ma, càng thêm mừng rỡ. Hai cô gái sống hoà thuận, thờ bố mẹ chồng rất có hiếu. Về sau, ông Phó bị bệnh, mời thầy thuốc đến, Xảo Nương bảo:
- Bệnh không làm gì được nữa, vì hồn đã lìa khỏi xác.
Nàng đôn đốc sắm đồ tang liệm, xong đâu đấy thì ông mất.

Ðứa bé lớn lên giống cha, phần thông tuệ còn trội hơn. Mười bốn tuổi đã vào học nhà phán.

Ông già cở Cao Bưu, hiệu Tử Hà, từng làm khách đất Quảng,nghe được chuyện này.Chỉ có tên làng xóm thì nhớ không chính xác, và chung cục câu chuyện ra sao cũng không được rõ.

Nguyễn Huệ Chi dịch

Nguồn: http://www.sahara.com.vn/