Chuyện 91: Người Hóa Hổ (Hướng Cảo)
Hướng Cảo tên chữ là Sơn Đán, người Thái Nguyên. Cảo đối với anh là Thạnh hết sức kính ái. Thạnh dan díu với một ca kỹ tên là Ba Tư. Hai bên đã cắt máu ăn thề song vì cha mẹ cô gái đòi sính lễ quá nặng nên lời ước nguyện không thành. Bà mẹ muốn rút ra khỏi sổ làng ca kỹ để hoàn lương trước hãy lo cho Ba Tư đã. Có công tử Trang vốn thích Ba Tư, đòi mua làm thiếp. Ba Tư nói với mẹ:
- Những ước mong cùng thoát nơi nước lửa, khác nào muốn ra khỏi địa ngục lên cõi thiên đường. Nếu lại đâm đầu làm thiếp người ta thì khác gì như trước. Vì mẹ thuận theo chí con thì cậu Hướng là được.
Mẹ bằng lòng, ngỏ ý ấy với Thạnh. Vừa qua Thạnh có tang vẫn chưa lấy vợ cho nên được tin ấy mừng lắm, liền dốc hết của cải cưới Ba Tư. Công tử Trang tức giận Thạnh dám cả gan tránh gái yêu của mình, nhân gặp nhau trên đường liền lớn tiếng nhục mạ Thạnh. Thạnh không chịu, Trang thét người hầu vác gậy đập chết, phơi thây ra đấy rồi bỏ đi. Cảo nghe tin chạy ra thì anh đã chết. Cảo đau thương phẫn uất khôn xiết, làm đơn kiện lên quận. Trang hối lộ khắp nơi, khắp chốn cho nên việc cứ như đáng bùn sang ao.
Cảo cứ ôm nỗi phẫn uất trong lòng không sao tố giác phơi bày ra được, nghĩ duy chỉ có cách đón đường mà giết kẻ thù. Từ đó, hàng ngày cứ thủ dao nhọn, phục ở bụi rậm trên đường núi. Lâu lâu việc tiết lộ, Trang biết mưu ấy, cho nên hễ đi đâu là có phòng bị nghiêm ngặt. Hắn nghe tin ở Phần Châu có tên là Tiêu Đồng, đã gan dạ lại có tài thiện xạ, liền bỏ nhiều vàng ra đón về làm vệ sĩ. Cảo không sao thi hành được kế của mình, nhưng vẫn hàng ngày rình đón may ra có dịp nào chăng.
Một hôm Cảo phục trong bụi, bỗng mưa lớn trút xuống, trên dưới ướt dầm, rét run không chịu nổi. Rồi gió táp bốn bề dữ dội, băng tuyết tiếp đến, thân thể bỗng nhiên đau đớn tê liệt. Trên đỉnh núi có một ngôi đền thờ sơn thần, Hướng Cảo gắng gượng bò lên. Vào được đến miếu thì vị đạo sĩ quen biết vẫn còn ở đó. Nguyên trước đây đạo sĩ thường hay hành khất qua thôn, Cảo thường cho ăn, vì thế quen biết. Thấy quần áo Cảo ướt sũng, ông lấy áo vải bố trao cho, bảo thay cho đỡ rét. Cảo thay xong tự nhiên thấy buộc phải phải ngồi chồm hổm như con chó. Nhìn lại mình thì lông lá đã mọc, rõ ràng hóa thành con hổ. Còn đạo sĩ thì biến đâu mất. Cảo vừa hãi vừa giận. Nhưng rồi lại nghĩ: chuyến này vồ được kẻ thù xé thịt mà ăn, như thế là kế đạt lắm rồi.
Cảo bò xuống đến nơi phục cũ, thấy thi thể mình nằm trong bụi rậm, lúc ấy mới biết mình đã chết, song chỉ sợ diều quạ riả xác, cho nên cứ loanh quanh đấy trông coi. Ngày hôm sau như trời xui đất khiến vậy. Trang đi qua đó hổ vụt ra tát hắn lộn từ trên ngựa xuống đất, ngoạn đứt đầu mà ăn. Tiêu Đồng quay trở lại bắn trúng bụng hổ, rồi xảy chân cũng chết.
Xác Cảo ở trong bụi rậm mơ màng như vừa tỉnh mộng, phải qua một đêm mới đứng lên được, thất thiểu đi bộ về nhà. Người nhà thấy Cảo mấy đêm liền biệt tăm đã ngờ và sợ, nay thấy về, đều mừng vả thăm hỏi. Cảo chỉ nằm, ngơ ngơ ngác ngác mà chưa thể nói gì được. Lát sau có tin Trang vị hổ vồ. Mọi người tranh nhau đến giường báo tin mừng. Lúc đó Cảo mới nói:
- Hổ là ta đó.
Bèn thuật lại đầu đuôi chuyện lạ. Do đó mà tin ấy lan truyền ra.
Con tên Trang đau đớn vì bố chết thảm thương, nghe chuyện càng sinh hằn, liền đầu đơn kiện Cảo. Quan thấy chuyện ấy quái đản lại không có cắn cứ cho nên không xét đến.
Nguyễn Văn Huyền dịch
Chuyện 92: Vương Giả (Vương Giả)
Tuần phủ Hồ Nam sai châu tá (quan giúp việc ở cấp châu) áp giải sáu mươi vạn tiền lương về kinh. Giữa đường bị mưa, trời tối, cả đoàn ở độ đường, không nơi trọ, thấy một ngôi chùa cổ phía xa, tìm đến trú lại. Trời sáng nhìn đến số tiền áp giải thì đã sạch trơn không thấy đâu nữa. Mọi người thảy đều kinh hãi, nhưng không thể quy tội cho ai. Viên châu tá phải về bẩm rõ sự tình với quan tuần. Quan tuần cho là lừa bịp nói càn, định đem xử tử. Đến khi tra hỏi những người sai dịch cùng đi ai ai cũng đều cung như thế. Quan bắt viên châu tá phải trở lại chốn cũ dò xét manh mối vụ ấy.
Đi qua một ngôi miếu, ông ta thấy một người mù, hình mạo kỳ dị, với cái bảng đề mấy chữ: “Xem đoán mọi điều sâu kín trong lòng” liền nhờ bói một quẻ. Người mù nói: “việc mất vàng phải không?”. Viên châu tá nhận đúng, rồi thuật lại mọi chuyện. Người mù đòi đem cho một cỗ kiệu, rồi bảo:
- Hãy theo ta, sau sẽ hay.
Các sai dịch cùng đi theo cả. Người mù bảo: “Đông!” tất cả theo hướng đông, bảo “Bắc” lại đi theo hướng bắc. Đi năm ngày vào một hang núi sâu, bỗng thấy có thành quách, người ở đông đúc. Vào thành đi một lát, người mù ra lệnh: “Dừng lại!”. Ông ta xuống kiệu, lấy tay chỉ hướng nam dặn:
-“Thấy cái cổng cao phía nam, có thể vào đó để hỏi”, rồi chắp tay bỏ đi.
Viên châu tá theo đúng lời chỉ bảo, quả thấy cổng cao, liền đi vào. Có một người ra, mũ mão chỉnh tề theo kiểu đời Hán, không xưng tên họ. Viên châu tá nói rõ lý do tìm đến. Người ấy bảo:
- Xin lưu lại mấy ngày, ta sẽ cùng ông đến gặp người có liên quan đến chuyện ấy.
Nói rồi dẫn viên châu tá đi theo, xếp ở một buồng riêng, cho ăn uống đầy đủ.
Nhân lúc thư thả, viên châu tá đi dạo về phía sau ngôi nhà thì thấy một cái đình trong vườn, chung quanh tùng già che bóng mặt trời, cỏ non trải phẳng như thảm. Đi theo dãy hành lang đến một cái đình cao. Lần theo từng bậc bước lên, thấy trên vách đá có treo mấy tấm da người còn đủ tai mắt mũi mồm, mùi tanh tưởi nồng nặc, bất giác mà sởn hết gai ốc. Ông ta sợ quá vội quay lại buồng ở, tự nghĩ thôi chuyến này thì xương da phải để lại nơi đất lạ, không hòng gì sống. Song lại nghĩ, tiến hay lùi đều cùng một chết, hãy cố đợi xem thế nào.
Hôm sau cái người áo mũ chỉnh tề ấy lại đến gọi đi, nói: “Hôm nay có thể gặp được”. Rồi ông ta cưỡi ngựa phóng như điên. Viên châu tá cố đi bộ theo. Một lát, đến một cửa dinh như dinh tổng đốc, sai dịch dàn hàng hai bên tả hữu, tư thế nghiêm chỉnh. Người ấy xuống ngựa dẫn viên châu tá vào. Lại qua một cửa nữa, thấy một vị vương giả áo gấm mũ ngọc, ngồi quay hướng nam. Viên châu tá bước lên làm lễ bái yết. Vị vương giả hỏi:
- Nhà ngươi có phải là viên quan áp giải Hồ Nam không?
Viên châu tá thưa phải. Vị vương giả nói:
- Tiền còn đầy đủ đây. Đó là tiền mà quan Tuần nha ngươi khảng khái dâng nộp, chắc chắn là như thế.
Viên châu tá khóc, thưa lại:
- Kỳ hạn đã mãn, trở về sẽ bị gia hình. Việc bẩm bạch với quan trên lấy gì làm chứng cớ?
Vị vương giả nói:
- Điều đó không khó.
Rồi sai mang ra một cái tráp to, bảo rằng:
- Đem cái này về bảo đảm sẽ yên ổn.
Rồi ra lệnh lực sĩ đưa ra.
Viên châu tá sợ quá không dám ho he điều gì nữa, chỉ còn việc nhận tráp mà về. Đường qua núi qua sông tất cả đều khác với đường đi vào. Ra khỏi núi, người đưa đường mới quay trở lại. Vài ngày về đến Trường Sa, viên châu tá trình báo lại hết với quan Tuần. Nhưng quan càng cho là nói càn, nổi giận không cho biện bạch gì nữa, sai tả hữu mang dây ra trói. Viên châu tá vội đưa cái tráp ra. Quan Tuần mở ra xem chưa xong, mặt đã tái như chàm đổ, liền sai cởi trói và bảo:
Tiền bạc là việc nhỏ, hãy cho người lui.
Quan Tuần liền phát lệnh cho các thuộc quan phải lập tức vận chuyển bổ sung. Vài ngày sau quan ốm rồi mất.
Trước đó, quan cùng người thiếp yêu nằm ngủ, đến khi tỉnh dậy thì tóc đã bị cắt hết. Cả nha môn đều kinh sợ, không biết tại sao. Bây giờ trong tráp là mớ tóc ấy. Ngoài ra còn có thư rằng:
- “Nhà ngươi từ khi thành đạt làm quan thú quan lệnh, chức vị cực cao thì của tham ô, quà hối lộ kể sao xiết. Khoản bạc sáu muơi vạn trước đây đã nghiệp dĩ thu vào kho. Hãy nên mở rộng túi tham nộp bổ sung thêm lệ cũ. Còn viên quan áp giải không có tội, không thể xử càn. Trước đây gọt tóc người thiếp để cảnh cáo tí chút, nếu như không tuân lời dạy bảo, sớm muộn sẽ lấy đầu ngươi. Món tóc đưa lại kèm đây có thể làm tin”.Sau khi quan Tuần mất, người nhà mới truyền bức thư ấy. Về sau các thuộc viên sai người đi tìm lại cái xứ kỳ lạ nọ chỉ thấy núi cao lớp lớp, vực sâu thăm thẳm, không có một con đường qua lại nào.
Nguyễn Văn Huyền dịch
Chuyện 93: Vụ Án Tình Si (Yên Chi)
Họ Biện ở Đông Xương chuyên nghề chữa bệnh cho trâu. Ông ta có con gái, tiểu tự là Liên Chi, tài sắc đủ về. Người cha yêu quý lắm muốn gả cho con nhà thanh quý, song những bậc giàu sang lại khinh là xuất thân hèn kém không xứng đáng để làm thông gia. Bởi vậy cô ta đến tuổi cập kê mà chưa có nơi có chốn.
Ở nhà đối diện có Vương thị- vợ họ Củng- tính khí lả lơi cợt nhả, là bạn trò chuyện tỉ tê trong chốn buồng the của Yên Chi. Một hôm tiễn chân Vương thị ra đến cổng, chợt thấy một chàng trai đi qua, quần áo trắng tinh, phong thái đĩnh đạc, Yên Chi đã chiều như phải ý, nét thu ba lúng liếng đôi hồi.
Chàng trai cúi đầu rảo bước đi qua. Đi đã rồi mà cô nàng còn cứ nhìn theo đăm đắm. Vương thị đóan biết ý tình mới nói chơi rằng:
- Tài sắc cô thế này mà sánh với người ấy thì không có gì đáng hận.
Cô gái ửng hồng gò má, nín thinh không nói một lời. Vương thị lại hỏi:
- Cô có biết chàng ta không?
- Không biết.
- Đó là tú tài Thu Chuẩn, con cố chử nhân họ Ngạc ở ngõ Nam. Tôi là người cùng làng nên có biết. Đàn ông trên đời này dễ không ai hòa nhã được như cậu ta. Cậu ta mặc đồ trắng vì tang vợ chưa hết. Cô vừa ý tôi sẽ nhắn lời mai mối cho.
Cô gái nín thinh. Vương thị cười quay về.
Mấy ngày sau vẫn không có âm hao gì, cô gái cho hoặc là Vương thị bận chưa đi ngay cho được, hoặc họ dòng dõi nhà sang không chịu hạ mình. Rồi cứ bổi hổi bồi hồi, nghĩ quanh nghĩ quẩn đến bỏ cả ăn uống nằm liệt giường. Vương thị đến thăm, gặng hỏi bệnh tình làm sao. Yên Chi rên rỉ:
- Em cũng chẳng biết vì sao? Từ hôm ấy chị về rồi em cảm thấy khó chịu, hơi thở bây giờ chỉ còn như mượn, sớm muộn gì thì em cũng sẽ đi thôi!
Vương thị thầm thì:
- Anh ấy nhà tôi buôn bán chưa về, cho nên chưa có người đánh tiếng đến nhà họ Ngạc, mình ngọc không an, phải vì thế chăng?
Đôi má Yên Chi ửng hồng hồi lâu. Vương thị lại đùa:
- Nếu quả vậy mà bệnh đến thế này thì còn e gì nữa? Trước tiên hãy gặp nhau một tối, chàng ta đến mấy mà lại không ưng?
Cô than thở:
- Đúng! Sự tình đến thế này thì không thể đừng được nữa. Tuy nhiên nếu họ không hiềm nhà em thấp hèn nhờ người mai mối ngay đi thì bệnh em ắt khỏi. Còn như hò hẹn tự tình thì quyết không thể được.
Vương thị cúi đầu đi về.
Thuở còn đào non, Vương thị đã từng tư thông cùng người học trò trong xóm là Túc Giới. Sau khi Vương thị thành gia thất, Túc cứ rình người chồng vắng nhà là ngựa quen đường cũ, lại tìm đến hú hí với người tình cũ. Tối ấy Túc đến, thị thuật lại chuyện cô gái, cốt làm trò cười rút rít với tình nhân, lại còn dặn đùa Túc đánh tiếng với Ngạc. Túc biết tiếng cô gái đẹp từ lâu, nghe chuyện ấy mà khấp khởi trong dạ, chuyến này có thể mượn gió bẻ măng. Nhưng muốn cùng mưa tình với tình nhân song lại sợ ả ta ghen, bèn ra vẻ vô tâm, khuyấy khỏa hỏi dò đường ngang lối tắt nhà cô gái.
Đêm hôm sau hắn trèo tường vào, đến ngay buồng Yên Chi gõ nhẹ vào cửa. Bên trong có tiếng hỏi:
- Ai đấy?
Đáp: Ngạc đây!
Tiếng cô gái hổn hển nói vọng ra:
- Em sở dĩ nghĩ đến chàng là vì chuyện trăm năm, đâu phải vì một tối. Nếu chàng quả thực yêu thương em thì hãy nhờ mai mối tới ngay. Nếu có ý đòi tư thông thì em quyết không dám vâng lời.
Túc giả vờ ưng thuận, chỉ khẩn cầu được nắm bàn tay thon thả làm tin. Cô gái không nỡ cự tuyệt thẳng thừng, đành gượng dậy mở cửa. Túc nhảy xổ vào ôm chầm lấy đòi điều kia khác. Cô gái không còn sức nào chống cự, ngã quay ra đất, thở không ra hơi. Túc vội dìu lên, cô gái nói đứt đoạn:
- Sao tàn ác đến thế! Tất không phải là Ngạc lang... Nếu quả Ngạc lang là người thuần nhã thấy tôi đau ốm hẳn phải xót thương, có đâu lại cuồng bạo thế này! ... Nếu còn vậy tôi buộc phải kêu lên thì sẽ tổn thương đến phẩm hạnh cả hai. Hỏi có ích gì?
Túc sợ bại lộ tung tích không dám tiếp tục cưỡng bức chỉ xin được hẹn hò gặp gỡ sau này. Cô gái xin chờ ngày nghinh hôn. Túc cho rằng hẹn ấy xa quá, cứ nài nẵng. Để chóng thoát khỏi cảnh bày bây, cô đành hẹn khi khỏi bệnh. Túc xin vật làm tin, cô gái không cho. Túc sấn sổ tuột lấy chiếc giày thêu của cô gái rồi quay đi. Cô gái gọi, đòi trả lại:
- Đã có lời giao ước, tôi đâu dám tiếc? Chỉ sợ vẽ hổ thành chó, để rồi chịu tiếng chê cười. Nay của tin đã lọt vào tay anh, liệu không thể nào quay trở lại được nữa. Anh như có lòng nào phụ bạc, tôi chỉ còn một chết mà thôi.
Túc quay trở lại ngủ với Vương thị. Đã đi nằm rồi hắn vẫn không quên đôi giày, lén thò tay vào túi áo thì giày đã biến đâu mất. Hắn vội vàng dậy che đèn lục lọi áo, lần tìm trong bóng tối. Vương thị thấy thế gặng hỏi, hắn cứ im thin thít. Hắn nghi Vương thị dấu đi. Ả ta lại cứ cười cợt ỡm ờ làm cho hắn càng nghi. Rồi sốt ruột không kìm giữ được nữa, hắn nói toẹt ra. Nói xong hắn đốt đuốc ra tìm ngoài nhà nhưng vẫn không thấy, đành nuôi hận trở về buồng Vương thị. Hắn vẫn còn hy vọng, đêm hôm khya khoắt không ai qua lại, nếu có giày rơi thì vẫn còn ở ngoài đường. Tờ mờ sáng hắn đã trở dậy, lục lọi tìm tòi, song vẫn không thấy gì cả.
Nguyên là trong ngõ có Mao Đại là tên du thủ du thực, không có nơi ăn chốn ở nhất định. Hắn ve vãn Vương thị nhưng không ăn câu. Lại biết Túc thường lui tới nhà thị nên rình bắt để cho bêu rêu một phen. Đêm ấy hắn qua cổng nhà thị, đẩy cổng vào thì thấy chưa gài, hắn lẻn luôn vào. Vừa đến cửa sổ thì giẫm phải một vật gì mềm mại như nắm lụa. Nhặt lên xem thì ra cái giày con gái bọc trong khăn. Hắn rấp rình nghe được hết mọi điều Túc thuật lại với ả tình nhân, thì mừng rỡ vô cùng, liền quay ra ngay.
Vài đêm sau, hắn vượt tường đột nhập vào nhà Yên Chi. Vì không thuộc đường lối đi lại, cho nên hắn tới nhầm buồng ông bố. Ông Biện dòm qua cửa sổ thấy có bóng đàn ông, nhác thấy cung cách ấy biết ngay là kẻ gian đi mò gái. Ông ta nổi giận, rút dao xông ngay ra, Mao Đại sợ quá tháo chạy, đang định vọt tường thì ông Biện đã đuổi sáp tận nơi. Gấp quá, liệu khó bề tẩu thoát, hắn ngoắt lại cướp lấy dao. Bà Biện trở dậy, thấy thế hô lên. Mao thấy nguy cơ bị tóm, liền sẳn dao chém chết luôn ông Biện.
Yến Chi đã hơi đỡ, nghe tiếng huyên náo, hớt hơ hớt hải vùng dậy. Đốt đèn lên soi thì ông bố đã bị bể sọ không nói được tiếng nào, lát sau chết luôn. Thấy ở chân tường có cái giày thêu của con, bà mẹ tra hỏi, cô gái khóc lóc kể hết tình đầu. Song không nỡ để lụy đến Vương thị, cô gái chỉ nói là Ngạc tự tìm đến nhà mà thôi.
Sáng ra, gia đình họ Biện phát đơn kiện lên huyện. Quan huyện cho bắt luôn Ngạc. Ngạc vốn là người ngây thơ, chưa từng trải, mười chín tuổi rồi mà gặp khách lạ vẫn thẹn thẹn thò thò như con trẻ. Cho nên khi bị bắt, anh ta sợ hãi quá chừng, trước công đường chẳng biết mở miệng nói năng ra sao, chỉ những run như cầy sấy. Quan huyện thấy cung cách ấy, tin đúng anh ta phạm tội, sai tra tấn rất dữ. Tạng thư sinh yếu ớt, không chịu được đau đớn, Ngạc nhận hết những lời vu khác.
Giải lên quận, tình thế lại diễn ra như ở huyện. Ngạc xin được đối chất với Yên Chi, nhưng vừa giáp mặt, cô gái đinh ninh đó là kẻ thù giết bố mình, chửi mắng sỉ nhục Ngạc thậm tệ. Ngạc cứng lưỡi không sao giải tỏ được nỗi oan khiên. Do đó Ngạc bị luận án tử hình. Qua mấy quan toà lớn vẫn y án.
Sau này được ủy cho phủ Tế Nam phúc lại. Bấy giờ ông Ngô Nam Đại đang làm tri phủ, vừa thấy Ngạc sinh, trong thâm tâm đã ngờ: diện mạo ấy khó có thể là kẻ giết người. Ông ngầm sai người đến nói chuyện, hỏi riêng một cách thoải mái thì càng rõ Ngạc bị oan.Suy ngẫm mấy ngày rồi ông mới hỏi cung lại. Đầu tiên hỏi Yên Chi :
- Sau khi đính ước có ai biết chuyện hay không?
- Thưa không.
- Lúc gặp Ngạc có ai nữa không?
Thưa không.
Gọi Ngạc lên, ông ôn tồn, an ủi. Ngạc thưa:
- Khi tôi qua cổng ông Biện có thấy người hàng xóm cũ là Vương thị cùng một thiếu nữ đi ra, tôi vội rảo bước tịnh không nói nửa lời gọi có.
Ông Ngô quay ra quát cô gái:
- Ngươi vừa nói khi gặp Ngạc không có ai ở bên. Sao đây Ngạc lại nói có người đàn bà hàng xóm?
Nói rồi làm vẻ như định tra tấn. Cô gái sợ vội thưa:
- Tuy đúng lúc ấy có Vương thị, song thị không có quan hệ tới việc này.
Ông ấy kết thúc cuộc đối chất, sai lính đi bắt Vương thị.
Mấy ngày sau Vương thị đến, ông không cho ả ta liên lạc với cô gái và lập tức thẩm vấn. Hỏi Vương thị:
- Ai là kẻ sát nhân?
Thưa: không biết.
Ông vờ thắt buộc như thật:
Yên Chi đã cung, việc giết ông Biện nhà ngươi biết hết, sao còn dám giấu?
Vương thị vội kêu:
- Oan con quá! Con dâm nữ ấy phải lòng trai, con tuy có ngỏ ý mối manh chỉ để mua vui thôi. Nó tự dẫn gian phu vào nhà, con đâu có biết!
Ông Ngô truy vấn cặn kẽ, ả ta thuật lại tỉ mỉ những lời đùa bỡn trước sau. Ông gọi cô gái lên, làm mặt giận dữ:
- Ngươi khai ả ta không liên qua gì, thế sao bây giờ y lại cung cả hai phía?
Cô gái sụt sùi:
- Tự con không ra gì làm cho cha phải chết thê thảm. Kiện tụng chưa biết đến bao giờ mới xong, nếu làm lụy đến người khác thật là bất nhân.
Quan lại hỏi Vương thị:
- Đã cợt nhả quá đáng như thế, sau có nói lại với ai không?
- Thưa không.
Quan vặn lại:
- Vợ chồng tỉ tê đầu ấp tay gối, sao lại có thể không nói được? Lại còn chối?
- Chồng con vắng nhà đã lâu.
- Mặc dù vậy, phàm đã trêu cợt người khác đều là để cười người ta ngu, để tỏ ta đây là giỏi. Thế mà lại không nói với ai? Ngươi còn định dối trá ư?
Rồi quan sai kẹp mười đầu ngón tay, ả ta không chịu được phải khai thực: “Đã trót hở với Túc.’ Quan liền thả Ngạc đến bắt Túc.
Túc đến, cung là không biết gì cả. Quan phán:
- Đã ngủ ở nhà gái tất không phải là kẻ tử tế.
Sai tra khảo, Túc phải khai thật:
- Đúng là có lừa cô gái, nhưng từ khi đánh mất cái giày thì không dám đến nữa. Còn việc giết người thì quả thực không biết sự thể ra sao.
Quan nổi giận:
- Hừ! Kẻ trèo tường chim gái thì có đâu mà không đến?
Rồi lại sai tra khảo. Đau quá Túc không chịu nổi, phải nhận cả.
Án thành, cáo lên trên, không ai không khen tài thần minh của ông Ngô. Án sắt như núi, Túc chỉ còn vươn cổ đợi mùa thu chịu hành quyết.
Túc là kẻ phóng đãng song cũng là một kẻ sĩ ở đất Sơn Đông. Nghe thấy ông học sĩ Thi Ngu Sơn (Tên chính là Nhuận Cương, đỗ tiến sĩ, làm quan học chính đất Sơn Đông, là thầy học tác giả Bồ Tùng Linh) là bậc hiền năng, yêu người tài, thương kẻ sĩ, Túc làm một bài từ khiếu oan, lời lẽ rất thống thiết. Thi công nghiên cứu bản cung, lật đi lật lại suy ngẫm, ông vỗ bàn kêu lên: “Tay học trò này oan rồi”.
Ông xin với dình Tuần, dinh án được tra lại án ấy. Hỏi Túc:
- Để rơi giày ở đâu?
- Bẩm không rõ. Chỉ nhớ là khi gõ cửa nhà Vương thị thì giày vẫn còn trong ống tay áo.
Ông quay sang hỏi Vương thị:
- Ngoài Túc ra, còn ai thông gian với ai nữa?
- Bẩm, không có ai nữa.
- Đã là kẻ đĩ bợm, đâu chỉ có chuyện một người?
- Con đã trót dan díu với Túc Giới từ thuở nhỏ chưa thể đoạn tuyệt được. Về sau không phải là không có kẻ ve vãn, chim chuột, song thực chưa dám đi lại thêm với một ai khác.
Ông bắt nói rõ tên những kẻ ve vãn để chứng thực.Vương thị cung tiếp:
- Kẻ cùng làng là Mao Đại đã mấy lần rồi, lần nào cũng bị cụt hứng.
Thi công châm biếm:
- Gớm nhỉ? Sao tự nhiên lại trinh bạch thế?
Liền sai đánh trượng. Ả ta gục đầu chịu đòn, máu me đầm đìa, song vẫn hết sức biện bạch là quả không còn đi lại với ai khác. Lúc ấy Thi công mới tha đánh, vặn hỏi:
- Chồng ngươi đi xa, há lại không có kẻ nào thác cớ đến gạ gẫm hay sao?
- Thưa, thế thì cũng có. Tên Giáp, tên Ất... đến một vài lần, hoặc vay mượn, hoặc quà cáp.
Những tên Giáp tên Ất này đều là những tên du đãng trong ngõ, cũng có ý định với a nhưng chưa dám lộ.
Thi công ghi họ tên bọn ấy, sai bắt đến hết, giam chúng ra miếu Thành Hoàng, bắt quỳ phục trước hương án rồi phán bảo:
- Đêm qua ta được thần nhân báo mộng: kẻ sát nhân không ngoài bốn, năm tên lũ bay. Nay trước uy linh thần linh, bay không được dối trá. Đứa nào tự thú được hưởng lượng khoan hồng. Bằng không thì quyết chẳng khoan thứ.
Bọn chúng đều đồng thanh kêu là không có dính dáng đến vụ giết người. Thi công sai đem hết gông cùm, kìm kẹp bày ra trên mặt đất, như thể chuẩn bị gia hình. Chúng bị buộc trói lại, lột trần truồng ra, nhưng vẫn một mực kêu oan. Thi công sai ngừng gia hình, phán bảo:
- Bay đã không tự nhận thì buộc ta phải nhờ quỷ thần chỉ bảo.
Rồi sai người lấy chăn che kín các cửa đền, không để cho ánh sáng lọt vào; trật trần lưng bọn chúng ra dẫn vào trong buồng tối, đưa một chậu nước vào bắt đứa nào cũng phải rửa tay rồi sắp hàng đứng dưới bức vách. Xong xuôi ông mới ra lệnh:
- Bọn bay phải quay mặt vào vách, cấm không được động đậy để thần nhân viết chữ vào lưng kẻ có tội.
Lát sau, gọi chúng lên kiểm tra, ông chỉ vào mặt Mao Đại, thét lớn:
- Đây đúng là tên sát nhân.
Thì ra Thi công đã sai người xoa than lên vách. Nước rửa tay chính là nước muội đèn. Tên giết người sợ thần viết vào lưng, cho nên trong bóng tối đã quay lưng lại tựa vào vách, đến khi sắp ra lại lấy tay che lưng nên trên lưng có vệt đen. Khi thẩm phán, Thi công đã có ý nghi Mao, đến bây giờ càng rõ rành. Rồi dùng cực hình tra khảo, Mao phải khai ra hết sự thực.
Sau đó, Mao bị kết án chém đầu, Túc Giới là sĩ buông tuồng bị giáng một bậc học vị.
Văn án được công bố, xa gần đều truyền tụng.
Ngày từ khi được Ngô công phúc án. Yên Chi mới biết Ngạc Thu Chuẩn là oan. Mỗi khi ra vào chốn công môn, gặp nhau nàng thường nhìn chàng mà nuốt lệ, tựa như có điều gì đau đớn tiếc nuối mà chưa nói được thành lời. Ngạccũng cảm động vì tình quyến luyến không che giấu của cô gái, trong lòng cũng rất mực mến yêu. Song lại nghĩ đến điều cô ta xuất thân hèn kém, mỗi khi bị dẫn giải đến nha môn trăm nghìn người nhòm ngó, chỉ trỏ, nếu lấy e sợ người ta chê cười. Bởi vậy cứ ngày đêm nghĩ quanh nghĩ quẩn mà không dám tự quyết được. Văn án cuối cùng được ban bố, trong đó có mấy câu kết về Yên Chi thấu lý đạt tình: “ Khen cho biết chống cự khi kẻ xấu lọt vào nhà, đó là người tình nhân trong trắng. Còn như biểu lộ thái độ ái mộ chàng trai đẹp, đó cũng là việc thanh nhã, phong lưu. Bởi vậy mong quan huyện đứng ra tác thành cho đôi lứa”. Lúc ấy Ngạc mới ngả một bề.
Và quan huyện đã làm đúng theo lời quyết án.
LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ
Rất rõ ràng: xử kiện không thể không hết sức cẩn trọng vậy! Cũng có thể biết người này bị kết oan, song ai biết kẻ kia còn có nhiều điều khuất tất. Tuy sự việc có điều ám muội song ắt thế nào cũng có kẻ hở. Cho nên nếu không suy ngẫm nghiên cứu kỹ thì không thể được vậy! Than ôi! Người ta đều phục cái bậc hiền minh có tài xử đoán ngục tụng, mà không biết dụng tâm của trời giá kia cũng thực là công phu vậy. Những bậc cai trị dân trên đời này chỉ biết cờ rượu qua ngày, chăn gấm xỏ tay, dân tình bên dưới khốn đốn, nào có động một chút lòng? Đến khi trống gióng mở cửa công đường thì ngất ngưởng trên cao tót, dưới sân nháo nhác tố khổ thì lại gông cùm trấn áp. Thế thì có lạ gì trong chốn tối tăm còn biết bao nhiêu oan khiên trầm uất.
Nguyễn Văn Huyền dịch
Chuyện 94: Con Người Quốc Sắc (Mao hồ)
Mã Thiên Vinh, con nhà làm ruộng, ngoài hai mươi tuổi goá vợ, vì nghèo quá không cưới nổi vợ khác.
Một hôm, đi ra thăm ruộng, trông thấy một thiếu phụ, mặc tử tế, xuyên bờ đạp lúa mà đi, mặt đỏ xem có vẻ phong lưu, Mã ngờ là người lạc đường, dòm quanh tứ phía không có ai, bèn chọc ghẹo chơi. Nàng mỉm cười, Mã toan đè ra giao hoan tại đó. Nàng gạt đi:
- Giữa thanh thiên bạch nhật, sao lại làm chuyện bậy bạ như vậy? Anh về nhà trước đi, khép cửa đợi tôi. Trời tối, tôi đến.
Mã không tin lời, nàng thề nguyền nói thật. Mã bèn vẽ đường lối cửa ngõ cho nàng biết, rồi nàng từ giã.
Đêm lại, quả đến, thuận cho giao hoan. Mã thấy mình mẩy nàng mềm nhũn, thắp đèn lên soi, da đỏ và mỏng manh như đứa trẻ sơ sinh lông tơ đầy mình, phải lấy làm lạ. Lại ngờ tông tích nàng vu vơ, tự nghĩ không khéo là chồn, liền thử hỏi đùa xem.
Nàng tự nhận ngay là chồn, không hề chối cãi giấu giếm. Mã nói:
- Đã là tiên nương, hẳn ai cần chi được nấy. Cô đã âu yếm với tôi, sao không cho tôi ít đồng qua cơn nghèo túng?
Nàng nhận lời. Đêm sau tới, Mã hỏi số tiền hứa cho đâu? Nàng làm bộ sửng sốt và nói: “Rủi tôi quên mất rồi”. Chừng sắp ra về, Mã lại nhắc. Đêm tới khi nàng vừa đến, Mã hỏi ngay:
- Món đó cô lại quên nữa chứ gì?
Nàng cười hẹn đến hôm khác.
Cách mấy hôm, Mã lại hỏi. Nàng vừa cười vừa rút trong tay áo ra hai nén bạc, đáng giá năm sáu đồng, hai bên rìa có những khía nhỏ trông xinh đẹp dễ thương. Mã mừng rỡ, cất kĩ trong rương. Chừng nửa năm sau, có việc cần xài bèn lấy ra cho người ta xem và nhờ bán giùm. Người ta nói:
- Đây là chì mà, đâu có phải bạc!
Đưa lên răng cắn thử, bể ngay. Mã sợ quá, vội vàng nhặt lấy về nhà. Đêm nàng đến, Mã gây gổ trách móc đáo để. Nàng cười:
- Mạng anh mỏng manh lắm, không xài được bạc thật đâu.
Thế rồi cười xoà bỏ qua chuyện đó. Mã cũng cười và hỏi:
- Nghe nói giống chồn thành tiên, đều là trang quốc sắc, nhưng nay tôi thấy đâu có phải vậy.
Nàng nói:
- Loài chúng tôi đều tuỳ theo hạng người gặp gỡ mà hoá thân hiện hình. Thứ anh, một đồng bạc còn không có phúc mà hưởng được, thì nhan sắc chim sa cá lặn, làm sao tiêu thụ cho nổi? Tôi xấu xí thế này, vốn không đủ dâng cho hạng thượng lưu, nhưng nếu đem so sánh với tụi chân to lưng gù thì tôi chính là quốc sắc đấy anh ạ!
Qua mấy hôm, nàng bỗng dưng đưa ra ba lượng bạc cho Mã và nói:
- Anh đòi hỏi nhiều phen, tôi suy nghĩ mạng anh không thể có tiền để dành mà cho anh làm chi. Nhưng nay đến kì cưới xin, vậy tôi đem cái giá cưới một con vợ để tặng anh, và xin cùng anh từ giã luôn thể.
Mã bày tỏ mình không hề có chuyện mối manh cưới hỏi gì cả. Nàng nói:
- Trong một hai ngày, sẽ có mụ mối tự đến.
Mã hỏi mặt mày người vợ sắp lấy xấu đẹp thế nào? Nàng đáp:
- Anh khao khát quốc sắc, rồi có quốc sắc cho anh mà!
- Tôi chẳng dám mong tới bực đó, nhưng với ba lượng bạc mua một con vợ sao đủ?
- Chuyện đó ông tơ bà nguyệt đã an bài, không cần ở nhân lực đâu.
- Nhưng tại sao cô vội từ giã tôi?
- Đêm nào tôi cũng dầm sương đội nguyệt mà đến hủ hỉ âm thầm với anh, đâu phải là cuộc lâu dài mãi được. Rồi anh sẽ có vợ anh, còn cầm giữ tôi làm chi?
Sáng hôm sau ra đi lại trao cho Mã một gói thuốc bột, dặn rằng: “Sau khi biệt nhau, e anh lâm bệnh, uống thuốc này thì khỏi”.
Liền ngày hôm sau nàng đi khỏi, quả có mụ mối đến. Mã hỏi nhan sắc người con gái trước hết. Mụ đáp rằng: ở giữa khoảng xấu đẹp. Lại hỏi tiền cưới độ bao nhiêu, mụ trả lời: chỉ độ bốn năm đồng.
Mã tuy không kèo nài về giá tiền đắt rẻ, nhưng chỉ muốn trông thấy người tận mắt cho được chắc ý. Mối tỏ ý lo ngại rằng con nhà tử tế, không chịu vác mặt đến nơi cho mình xem đâu. Nhưng rồi mụ hẹn cùng chàng đi đến nhà gái, sẽ tuỳ cơ liệu tính cho xem mặt cô dâu.
Khi đến làng đó, mối đi vào trước, bảo Mã đứng chờ bên ngoài. Lúc lâu mụ trở ra nói:
- Được rồi, người bà con bên ngoại tôi cùng ở nhà trên, vậy anh giả danh đến thăm bà con tôi. Nhà ngang trước cửa, chỉ cách gang tấc, tha hồ mà dòm.
Mã nghe lời, quả thấy nàng ngồi căn giữa, ngả mình xuống giường để cho người ta gãi lưng. Mã phớt qua, hai mắt ngó chăm thấy mặt mày như lời mối đã tả.
Đến lúc bàn định về khoản cưới, nhà gái không kèo nài gì hết, chỉ cần được một hai lượng, để mua sắm chút ít cho nàng xuất giá, có thế thôi.
Mã còn cò kè bớt một thêm hai, rồi mới nộp tiền, luôn dịp đền ơn mụ làm mai. Khi viết giấy tờ xong, tính ra ba lượng vừa hết, không thừa được xu con nào.
Vài hôm, chọn được ngày lành giờ tốt, đón vợ về nhà. Mã nhìn thấy vợ lưng gù bụng ỏng, cổ rụt như cổ rùa, trông xuống bàn chân to lớn phát sợ. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ những lời con chồn đã nói là có căn do vậy./.
Đào Trinh Nhất dịch
Nguồn: http://4phuong.net/