11/3/13

Nữ tướng miền sơn cước (H1-2)

1. Quái Nhân trong "Vụng Chết" Hắc Giang

Tây Bắc... Xứ Thái... Miền sơn cước thâm u huyền bí... Sơn Lai Châu vùng đường ngược thần tiên “phá” lãnh quét lá rừng, bóng dáng cô nàng thướt tha soi đáy suối, mùa xuân hoa bướm trắng xoá đèo cao. Hội tung “còn” rách giấy hồng điều trai gái bói nhân duyên với những cảnh “ngựa thồ nhà gác, nước vác cơm đồ” đầy phong vị...

Hắc Giang nước chảy lững lờ giữa những đợt núi non trùng trùng điệp điệp vắt qua mấy dãy biên thuỳ... Trên dòng, thuyền buôn xuôi ngược ngày đêm, dân chài đánh lưới tháng, năm, từ khúc sông Bờ đổ lên, thuyền nan lơ lửng bập bềnh, khá đông, tới miệt Lai Châu, càng ngược thượng nguồn, thuyền chài càng thưa thớt. Người ta càng đồn đại vùng sông Hắc này có tiếng dữ, núi rừng chạy sát bờ nước, khúc nào cũng lắm vực thẳm hang sâu, đầy loài thuỷ tộc nguy hiểm ẩn náu, ghê nhất giống dải, thuồng luồng thích máu thịt người, khách buôn xuôi ngược vô ý thò chân xuống nước, bất thần bị chúng táp liền...

Nên chỉ có rất ít tay lão luyện thông thuỷ tinh Hắc Giang mới dám lội tới vùng này săn bắt thuỷ quái.

“Nghịch” nhất khu vực hang “Tuyệt mệnh”. Thổ dân thường gọi là “Vụng chết”. Khu này núi vắt như bát úp, nhiều vực xoáy ăn suốt vào ruột núi, các giống thuỷ quái to lớn dữ tợn thường ngự trị, kẻ nào vô phúc qua hang ổ chúng, bị nuốt chửng lúc nào không biết, vì giống thuỷ quái này đánh hơi người rất thính, từ dưới vực “vanh” lên nhanh như cắt.

Tương truyền rằng: Bỗng một đêm vào độ hạ, mưa to gió lớn lòe sấm động ầm ầm, nước lũ từ núi cao trút xuống Hắc Giang lồng lộn như con thú tiền sử hiện về gầm gừ chồm sóng bạc đầu, khách buôn, dân chài nép thuyền xế bên kia bờ, nhìn sang “Vụng chết”, thấy sóng dâng cao đến mấy thước, một con dải, thuồng luồng vọt lên mặt nước đánh nhau dữ dội, con dải to như cái móng nanh vút, nghe rõ cả tiếng nước xè. Ngọn núi trên vũng bỗng chuyển động, rồi một “hình thù” cổ quái hiện ra; phi nhân phi thú, xanh biếc lập loè như ma trơi vừa rú vừa nhảy từ ngọn núi nọ sang ngọn kia đến nửa đêm biến mất.

Tiếng rú cực rợn chuyển động cả khu “Vụng chết”, át tiếng gió gào mưa hú, nghe như dùi đâm vào tai khiến các buôn ngư dân ấp tít xa đều buốt óc muốn phát điên.

Sáng mai, dân hạ nguồn vớt được 10 xác người, 5 đàn ông, 5 đàn bà, xác nào cũng trần truồng, 5 xác đàn ông như bị băm nát chỉ còn từng mảnh quần áo nhỏ dính bết vào da thịt, còn xác đàn bà, cái nào cũng bị nát nhũ hoa, mặt tuy đã xám ngắt, vẫn còn rõ nét đẹp khác thường. Lạ nhất là khuôn mặt nào cũng có vẻ rất bình thản, miệng hoa hé cười đê mê như đã chết trong phút say sưa nhất đời! Cả Tây Bắc kinh hồn. Sau đêm mưa gió đó thỉnh thoảng lại một vài cô gái mất tích, gái nào cũng xinh đẹp. Và thỉnh thoảng cuối nguồn Hắc Giang lại nổi lên vài xác gái đẹp mất nhũ hoa.

Dân gian cùng đồn đại về “Vụng chết”, quan quân phái người tới “Vụng”, lần nào cũng lại thấy xác nổi cuối nguồn nát như tương. Từ đó Tây Bắc lại thân chỗ nào cũng chập chờn bóng ma thiêng quái độc, không ai dám bén mảng tới khe “Vụng” dữ, ban ngày thuyền buôn phải qua từng bàn thắp hương vái nép sát bên kia hồ.

Ba năm qua.

Con gái đẹp nhà giàu vẫn mất tích mỗi tuần trăng, mất ít nhất mấy người. Canh giữ đến mấy vẫn biến mất sau một cơn gió thoảng, dân sơn cước cũng cho là “Vụng chết” có thuỷ quái thành tinh, các tù trưởng có thầy Mo, mụ Ké tới Vụng tróc tà, pháp sư đi không có một người trở lại.

Một đêm vào trung tuần tháng tám gió lộng trăng vàng.

Tư dinh tiểu vương Thái, Đèo Văn Phong đèn nến sáng trưng, quan khách Tây Tàu Thái Kinh ra vào tấp nập gia nhân chạy ngược chạy xuôi phục dịch, gái hầu tha thướt qua lại, các cô nàng phá lĩnh quét sàn đang xoè quạt, xoè khăn, khèn lâu dìu dặt thanh âm nguyên thuỷ chờn vờn...

Họ Đèo mở đại hội mừng ngày sinh nhật cô gái thứ ba Đèo Nguyệt Tú. Rượu cần đã cạn mấy vò, tiếng ca chúc của cô nàng mác sừng trâu chuốc rượu bốc lên cao vút như tiếng linh hồn đèo núi chênh vênh.

Tư dinh chiếm một khoảng lưng đồi rất rộng, có cầu bắc ra tận suối, khắp bốn bề, lính dõng chĩa súng canh phòng cẩn mật một con chuột qua không lọt. Lúc đó Đèo Nguyệt Tú đang đứng giữa đám chị em bè bạn chuyện trò, sửa soạn ra “xoè”. Giữa đám hoa lan rừng Tây Bắc, cô gái thứ ba họ Đèo nổi bật như một đoá hoa rừng vương giả, áo hồng, váy đen thuỷ ba kim tuyến viền gấu bó sát dáng thân tròn lẳn, thắt chẽn lưng ong, hồng đào căng phây nếp lụa, đẹp mởn như hiện thân xứ Thái vào xuân.

Thình lình có tiếng rú ma âm giai rợn nổi lên nẻo tiền dinh, vụt cái, tràn vào, ập tới, chủ khách lính tráng giật nảy mình muốn nổi da gà.

Mấy người con trai họ Đèo xách súng chạy ra hành lang, chưa kịp quát gia đinh lính dõng, đã nghe tiếng rú rung chuyển cả vùng dinh mấy dãy, rồi khắp bốn bề trời bỗng nổi cơn dông xoắn tròn như lốc, cột sàn rung rinh muốn gãy, bao nhiêu đèn đuốc vùng tắt phụt.

Vừa lúc mây đen kéo qua mặt trăng tròn, toàn dinh tối sầm lại.

Giữa cơn nhốn nháo kinh hoàng, chợt nghe tiếng thét trong phòng Nguyệt Tú. Rồi im bặt. Chỉ còn tiếng quát tháo, gọi nhau, chân chạy rầm rập. Dông gió chợt ngừng.

Mấy khắc sau, đèn nến sáng rực, cha con họ Đèo cùng đám quan khách chạy sang phòng Nguyệt Tú, còn thấy đủ mặt các cô nàng đứng ngơ ngác như mất hồn, mồm há hốc và cô gái thứ ba đẹp nhất Tây Bắc đã biến đi không dấu vết, như đã theo trận gió cuốn sàn vừa qua.

Ai nấy đều kinh dị ngó quanh. Vợ tiểu vương xứ Thái hoảng hốt vội hô gia nhân đi tìm. Nhưng sục sạo khắp vùng dinh trong ngoài tuyệt không, di tích cảnh vật vẫn y nguyên, lá rừng xào xạc, lính gác ngẩn ngơ khắp tứ phía không có một dấu chân người dẫm trên cỏ ấm.

Cô gái quý của tiểu vương Đèo đã “ngấm vào”... ác mộng.

Gạn hỏi tất cả đám lính dõng gác quanh dinh, cũng không kẻ nào thấy một hình bóng khác trong cơn dông tắt đèn, chỉ có một tên đứng trấn ngay dưới sàn thẳng phòng Nguyệt Tú, sau khi nghe tiếng thét hãi hùng, có ngẩng mặt lên, nhưng vụt ngửi rõ một mùi tanh tao đến lộn mửa, thoảng trốc đầu như có một khối mây lạnh buốt khiến hắn hoa cả mắt chẳng còn thấy chi nữa.

Lạ thật! Chỉ mấy khắc bỗng nổi dông và biến mất... hay một hồn ma phách hiện về?

Một mùi tanh lộn mửa? Trời! Mùi thuồng luồng sông Hắc! Thôi có lẽ con tinh thuồng luồng “Vụng chết” rồi! Mấy cô Châu biến mất tích, người nhà cũng ngửi thấy tanh...

Họ Đèo lo sợ quan khách xôn xao, bàn tán cả đến mấy viên quan Tây ngoài tỉnh vào chơi cũng phải kinh nghi, tưởng đến chuyện ma thiêng nước độc.

Mọi người còn đang sục tửu, rầu rĩ bỗng nghe ngoài cổng ồn ào, lính dõng quát tháo giật giọng.

Rồi có tiếng nhạc đồng khua vang, Tiểu vương họ Đèo ngó ra, thấy bọn lính dõng đang tất tả đóng cổng, một tên chạy vào vừa thở vừa lắp bắp:

- Bẩm... bẩm đại nhân... có một người dữ tợn xông vào... Không chịu xưng tên, nói muốn vào chơi...

Đèo hơi nhíu mày chưa kịp nói chi, thì ngoài kia, lính dõng đã khép chặt cổng, nhưng cổng vừa khép kín bỗng bật tung, hắt lính dõng ngã lỏng chỏng, một nhân mã tiến luôn vào, bước một, qua sân.

Mọi người trông ra, ánh sáng rực soi, người cỡi ngựa là khách trượng phu, râu quai nón xồm, mắt diều hâu, da còn hằn nổi bật vết sẹo trắng bóng dọc thái dương coi cũng dữ tợn. Quần áo đen tuyền như con ngựa ô đang cỡi.

Từng giao du với khách giang hồ, tiểu vương họ Đèo vùng quát:

- Bay đâu! Ra mời quý khách vào đây!

Người con cả họ Đèo vội chạy theo tên gia đinh, nhưng vừa được mấy bước, khách đã giục ngựa vọt vào, rập đã tới khu sảnh, ghìm cương, vuốt râu, ngửa mặt nhìn lên, cất giọng sảng rè như lệnh vỡ:

- Họ Đèo có tiếng hiếu khách, sao lại sai lính đóng cổng đuổi người? Mỗ lỡ cùng đường muốn vào ngủ nhờ một tối, chắc vào lầm nhà rồi!

Tiếng ta nói lơ lớ, khó nghe, giọng lệnh ồn ồn muốn vỡ màng tang mọi người. Ai nấy còn đang nhìn nhau, chẳng rõ khách trượng là hạng người nào? Khách vùng cười ngất, ngoắt luôn cương lộn ra. Tiếng cười lần này càng lạ, rung chuyển cả không khí, cột sàn kêu cót két, áp lực đè trĩu lên ngực khiến họ Đèo cùng khách khứa tức thì đau cuồng chực ngã.

Họ Đèo đứng lên, lật đật xuống sàn, nói lớn:

- Quý khách miễn chấp! Dinh vừa có biến, nên cho đóng cổng sợ người lạ! Bản chức xin thỉnh khách phương xa!

Ngựa đã ra mấy thước khách nghe tiếng “có biến” vùng ngoắt cương, lộn lại luôn.

Họ Đèo vừa tới khách đã nhảy xuống, ngó sững, mắt diều hâu lừ lừ. Chợt cúi chào, hỏi:

- Ngài có phải họ Đèo, Tiểu vương vùng này, đã mấy đời ngự trị thượng nguồn Hắc Giang?

Đèo nghiêng mình từ tốn:

- Còn quý khách? Chẳng hay bản chức có thể được rõ phương danh?

Khách cười lớn:

- Mỗ bên Vân Nam sang, làm nghề lạc thảo, cải tên, người làm vua, quan không thích mà gọi khách râu xồm còn hơn đại vương!

Tiểu vương xứ Thái cười theo, liếc khách súng cối trễ sườn, ngựa chừng vừa qua chuyến viễn hành, tốc cả vải phủ lưng, ló ra hai họng trung liên đen ngòm.

Chợt khách ngó lên:

- Hình như dinh ngài có hội! Chà! Đông quá không kém Hoàng Su Phì! À! Mà ngài vừa bảo có biến, việc buồn, mỗ ngủ nhờ sao tiện?

Họ Đèo chợt nhớ chuyện con gái bị mất tích, khẽ thở dài:

- Dinh vừa xảy chuyện chẳng lành! Nên bọn dõng mới sợ người lạ. Mời tiên sinh lên!

Khách ném cương cho mã phu, theo cha con Đèo Văn Phong lên sàn dinh.

Dạ hội dang dở, khách thì thào bàn tán.

Họ Đèo giới thiệu khách râu xồm, đoạn thỉnh vào chỗ ngồi bên chủ nhân.

Khèn lau nổi lên, hoa rừng tha thướt, khách râu xồm ăn uống rất tự nhiên, không nói nửa lời.

Lát sau chợt hỏi:

- Giờ ngài có thể cho biết được chăng?

Họ Đèo buồn rầu kể qua chuyện ghê gớm và thở dài:

- Quý khách đi đường xa mệt, để bản chức bảo chúng sửa soạn chỗ ngả lưng. Nếu khách muốn dùng mấy điếu...

Khách trượng phu lắng nghe, chợt hỏi:

- Còn chuyện xác chết trôi sông? Và những lời đồn đãi về con tinh thuồng luồng?

Đèo chậm rãi kể lại chuyện Tây Bắc từ ba năm trước, những vụ chết bí ẩn tại vùng “Hang tuyệt mệnh”.

Mắt khách sáng quắc, đăm đăm nhìn vị Tiểu vương, chợt thấp giọng hỏi một câu không mạch lạc:

- “Vụng chết”? Phải chăng miền Vụng khi xưa Tôn Thất Thuyết Nam triều từng trẩy quân qua, trong lúc tẩu quốc?

Đèo hơi ngạc nhiên, gật đầu. Khèn lau bốc vù. Khách buông chén trà, đứng phắt lên:

- Cám ơn! Giờ mỗ xin cáo biệt!

Ngạc nhiên, viên tù trưởng Thái đứng lên theo, mở to mắt:

- Kìa quý khách vội chi? Bản chức đã sai dọn phòng...

Thản nhiên đến độ hơi lạnh lùng, khách dồi lại bao súng, đáp gọn:

- Mỗ đến “Vụng chết”!

- ???

- Giết thuồng luồng tinh, cứu tiểu thơ.

Cảm động, họ Đèo rung động:

- Quý khách cần bao nhiêu dõng?

- Cám ơn! Mình mỗ đủ rồi! Nếu có thể, xin mượn một con thuyền nhỏ!

Chủ nhân, quan khách ngó nhau kinh dị.

Lát sau, trên dòng sông Hắc khét tiếng “dữ” nhất Tây Bắc.

Một con thuyền độc mộc hình thoi chạy xé nước xuống khu “Vụng chết”, trên thuyền, khách trượng phu ngồi câm nín khua bơi chèo, bên con ngựa ô đứng hếch mõm như đớp gió.

Tay chèo khua hết sức nhẹ, đều như thuyền độc mộc đi vùn vụt, nhác coi tay chèo cũng biết ngay khách là thiện nghệ sông nước mạnh tợn dị thường.

Sóng đen, thuyền đen, nhân mã đen, vòm trời đen, im vắng đến rợn người, thoáng “Vụng chết” đã lù lù trước mặt, há mõm đen ngòm đớp nghiến thuyền độc mộc.

Khách neo thuyền gần cửa hang, lắc mình xẹt tới, đứng trên nhà đá tai mèo.

Hang thở thần nước xoáy cuồn cuộn, vồ vào đá tai mèo phát âm quái gở.

Nhưng vào trong hơn thước, cửa hang bị đá phiến lấp kín.

Không nói nửa lời, khách vung tay đánh ra một nhát phản phóng. “Bùng” tiếng dữ dội phiến đá vỡ tan rơi lùm bùm xuống nước. Hang “chết” đen thui, hút sâu.

Khách vùng quát dõng dạc:

- Thuồng luồng tinh! Có khách tới viếng!

Tiếng quát muốn vỡ hang, gọi đến ba lần, mới có tiếng đáp âm âm bên tai như ma xó:

- Chó con! Muốn vào cứ vào, không được làm ồn!

Khách cười khô, thả bóp 41 trái hoả pháo. Ruột hang sâu thẳm hiện ra vách dựng thành, thuỷ lôi nổi lềnh bềnh như lợn con, chạm phải nổ tan xác. Xác người trắng hếu nhô lên như nhát người yếu bóng vía.

Khách quay ra lấy bơi chèo, bẻ rắc từng mảnh, quát:

- Giả tinh! Ta vào đây!

Lời vừa buông, khách đã ném vù một mảnh gỗ vào trong, và nhanh như cắt, cất vọt mình qua khúc thuỷ lôi. Chân chưa hạ, tay đã quăng luôn mảnh khác vừa lúc thân sà xuống, khách đã đạp trúng mảnh gỗ lềnh bềnh đà cất vọt lên. Cứ thế, lướt trên dòng, nháy mắt cả mớ gỗ bơi chèo ném hết, khách đã vượt vào tít hang sâu đến bảy tám chục thước.

Đang lúc lơ lửng trên cao, hoả pháo vụt tắt, tối om.

Nhưng hang đá tận cùng, khách còn kịp thấy rõ ruột hang nở rộng đến mấy trăm thước vuông, cuối cùng là một cái vực sâu thăm thẳm bờ lởm chởm đá tai mèo.

Và ngay bờ vực trong cùng, có một “hình thù” ngồi lù lù, đen ngòm, bất động.

Khách vọt lên một mỏm đá phía tả vực đứng yên.

Hang tanh lộn mửa. Dưới nhỡn quang, ngổn ngang đầy xác chết đầu lâu, thân gái trần xiêm.

Quái nhân hình như đang nhòm xuống vực chợt lưng lửng ngó lên.

Giữa bóng tối, hai con mắt quái đỏ khé như mắt thú rừng ăn đèn săn, đưa đi đưa lại trên mặt đen thui, coi cực kỳ gớm ghiếc.

Tia mắt quái nóng bỏng, khách râu xồm vận nhỡn quang, bất ngờ, bắn vụt ra một trái hoả pháo rớt giữa mặt quái. Quái nhân há miệng đớp luôn trái cầu lửa, nuốt chửng.

Nhưng khách lạ cũng đã kịp nhìn rõ hình thù quái, trần trục, đen thui, tóc xoã ngang lưng như tổ quạ, và giữa lùm tóc rối bù, bộ mặt coi càng phát rợn, đen như mực tàu, dị dạng coi hệt một hình thù vừa bị thui cháy.

Khách bắn luôn trái lửa, lần này sang phía hữu khu vực. Nhưng quái nhân đã phất tay đánh liền, phát âm trầm:

- Chó ngu! Sắp giờ Tý nó đang nổi lên giao chiến, gần sáng, nó lặn mất! Lỡ cả việc!

Nói xong quái nhân lại ngó chòng chọc xuống vực, không buồn để ý tới khách lạ. Khách càng lấy làm kỳ, thấy quái nhân không xuất thủ. Bèn liếc nhìn theo.

Vực nước xoáy tròn có một cái xác người trương phềnh lập lờ, bỗng lặn mất, mặt nước nổi ba đào càng lúc càng dữ, rồi quả nhiên, dưới vực trồi lên một cặp dải, thuồng luồng cực lớn, vừa tranh nhau táp xác, vừa đánh nhau dữ dội. Dải vanh xè xè, giao long uốn khúc, xé nước, múa vuốt, nhe nanh, vục sôi sùng sục có lúc thuỷ quái trồi lên tận mép vực, để lộ đến nửa thân khổng lồ.

Quái nhân vừa ngó vừa lẩm bẩm, bất thần con giao long vọt lên táp luôn chân khách râu xồm.

Khách co vụt chân lên, trong lúc bất ngờ bị con quái đớp mất mảng đế giày vải.

Nổi giận, khách đánh xuống một nhát phản phong. Vù! Bốp! Nước toé cầu vồng, con quái cuộn khúc, lặn mất. Con dải xè xè vanh tròn rồi cũng lặn theo. Vực sâu yên sóng.

Quái nhân vùng ngẩng lên:

- Đánh nó bị thương, làm hỏng việc đêm nay, mi phải chết!

Lời chưa dứt, quái nhân đã xoè mười ngón tay chụp liền.

Khách nhảy sang bên, trầm giọng:

- Khoan! “Giao long chưởng” chưa xong, sao đã vội dùng. Chắc có định ý? Sao không xuất hắc chưởng?

Quái nhân vẫn ngồi yên, thé giọng:

- Khà khà! Mi sắp chết, ta cho mi biết: Chỉ có giao long trảo mới vào đáy vực nổi! Chưởng phá cũng sụp chết! Vụt tiêu! Miệng vực cửa đá dày mấy thước, sức ta chưa đủ xiên qua! Vừa nói vừa trỏ xuống vực sâu, khách sực hỏi:

- Sao không đục đá mà vào? Trong đó yểm tàng bảo vật Nam bang?

Quái nhân cười thé:

- Thì giờ đâu đục được? Không thấy cả trăm xác nát nhừ sao? Mi sắp về âm, biết điều bí mật để khai với họ Tôn ư?

Vù! Mười đường chảo vươn đen tựa vuốt giao long chụp tới, lần này khách đứng yên, xuất hai tay đánh ra mười ngọn chỉ phong kình lực.

Bùng! Sức ép nặng nề, cả hai cùng bật ngược lại hơn thước, suýt ngã.

Khách râu xồm không khỏi rúng tâm, quái nhân bất giác cười xé gió:

- Ba năm nay mới có mi đờ nổi trảo phong! Muốn xuống vực sâu, hãy cùng bản vương hợp sức! Sức hai người cộng lại, bằng sáu năm khổ luyện thần công!

Khách nhíu mày suy nghĩ. Chợt gật đầu:

- Được lắm! Nhưng mỗ còn việc mọn quái tinh phải theo!

- Cứ nói!

- Nguyệt Tú gái họ Đèo vừa bị mi nổi gió bắt về, hãy thả cô nàng ngay lập tức!

Quái nhân gật đầu:

- Nó còn nguyên vẹn, chưa tới giờ luyện âm công! Lát nữa sẽ theo mi về!

Quái nhân đứng dậy.

Nhựa chàm cháy bừng khét lẹt. Dưới ánh nhựa khét, quái nhân trần thân, coi càng dễ sợ, chẳng khác một hình thù phi nhân, đen thui, cái đen ngòm như hắc ín rõ ràng từ xương thịt đen ra. Bất giác khách nghĩ thầm:

- Tiếng đồn không sai, hắc ảnh ma nhân quả tay lợi hại tẩm khí độc lâu năm, hắc chưởng luyện thành, tai họa võ lâm không ít!

Quái nhân đi trước, đưa khách vào một ngách hang gần đấy.

Quả nhiên trong ngách lố nhố có bóng gái Kinh, Thái bị xích từng bầy, tít trong có một cô nàng rất đẹp mặc váy lửng thuỷ bá kim tuyến, đang ngồi khóc tỉ tê.

Vừa nhác bóng quái đen, cả bọn kêu thét lên kinh hãi như thấy thuồng luồng tinh.

Quái nhân lại đưa khách sang ngách bên cắm thoi nhựa chàm lên vách, quài tay kéo một cần trúc lớn.

Từ nóc hang, một phiến đá dày đến hai thước hạ xuống, vít cửa ra vào.

Quái nhân bảo khách cùng lùi mấy bộ:

- Giờ hãy thử đánh coi! Nhớ chỉ đánh vừa đủ hình người, thu gọn, nếu phá tan sẽ hỏng hết!

Khách vận công, tung liền ba nhát. Cửa đá bung hình người vừa vặn lọt, cả khối tuyệt không rung.

- Hảo chỉ công! Giờ tới phiến khác! Cả hai cùng xuất thủ!

Trục hạ xuống một phiến đá dày đến ba thước.

Khách lạ cùng quái nhân đứng ngang nhau nhất tề ra tay.

Bùng bùng! Liền mấy tiếng vang âm, phiến đá bung hình người, nhưng vì sức gió gồm quá nhanh, hình người vừa lọt, cả khối đá đã rã ra từng mảnh lớn, đổ ngổn ngang.

Khách lạ tiến đến quan sát, quái nhân đi sau, bất thần đánh vụt ra một đường chưởng dữ. Khách nghe hơi gió, giật mình toan vận lực đỡ, nhưng đã muộn! Cách quá gần, phản phong vụt nhanh như chớp, trúng lưng. Bình! Cả thân hình trượng phu bắn tung qua phiến đá thủng như trái cầu, rơi tõm xuống vực sâu.

Quái nhân phát cười the thé, vọt theo, nhòm xuống, nước toé cao cả thước, rồi... mất tăm.

- Khà! Chó dại tử thương rồi! Thuồng luồng đang thèm máu tươi thịt sống, được bữa no nê. Khà khà! Chó lặn xuống mò bảo vật. Thằng giặc râu xồm lợi hại, không dùng mẹo hiểm nó đã làm uổng công khổ luyện trấn hang thần như chơi.

Miệng nói, tay búng liên hồi xuống, chỉ phong xiên nước tựa giáo phóng, quái nhân ngửa mặt rúc the thé. Ngoài sông Hắc, bỗng đổ mưa to gió lớn ào ào, nước lũ trút vào cuồn cuộn vực sâu sủi bọt ngầu, gió thổi ruột hang phát âm vi vu như tiếng tù và.

- Giờ Tý!

Quái nhân bước vào ngách nhốt gái tơ, bọn đàn bà rú lên, ôm mặt kêu vang.

Quái nhân lừ mắt đỏ nhìn khắp lượt, bất thần giơ tay quơ luôn một cô gái Kinh ngồi gần Nguyệt Tú, lôi ra. Cô gái giẫy giụa, run bắn người, phều phào như hết hơi:

- Trời ơi! Ai cứu... cứu... lạy ông tinh thuồng luồng tha... tha con...

Soạt! Cả mớ xiêm y rách bung dưới vuốt quái nhân. Cô gái khoả thân lẩy bẩy ngã ngồi xuống như tàu lá, miệng không ngớt kêu vang.

Quái nhân vừa chụp lấy bờ vai cô gái, chợt nghĩ đến điều chi, lập tức quơ tay lên hốc đá, lôi ra một cái nghiên son, đoạn ngửa mặt trong lên trần, tìm tòi. Muỗi vo ve, vài con dơi đập cánh, xế trước mặt, bỗng có mấy con thạch sùng bò ra, tặc lưỡi, đớp muỗi. Ngoắc một cái, quái nhân đã búng rụng một con rớt xuống giãy đành đạch. Quái nhân chụp lấy, bẻ nghiến làm đôi, rỏ máu tong tong vào nghiên son mài xoèn xoẹt.

Xong, chấm ngón bôi quanh cổ tay cô gái một vòng. Máu son chốc bỗng xển lại, nháy mắt vòng vẽ son đã xám ngoét. Quái nhân nhảy bung quanh, thé quát:

- Con gái buôn thuyền lẳng lơ, mới lớn đã mất trinh! Cho thuồng luồng ăn thịt mày!

Bịch! Tả thủ đánh ra, cô gái bắn ùm xuống vực. Tiếng thét hãi hùng hút chìm mất tăm.

Mới hay quái tinh dùng máu thạch sùng pha son, thử gái. Lối này gọi là dấu “thủ cung sa” bên Tàu, các nhà quý tộc thường dùng. Phàm con gái lớn, cô nào cũng vẽ vòng son cổ tay suốt năm tháng, vòng vẽ đỏ chót, chứng tỏ gái còn trinh. Chừng lấy chồng, ngay sau phát động phòng giao hợp, thông huyết với đàn ông, vòng son lập tức đen xỉn lại.

Cô nào chưa chồng, lại vụng trộm với trai rồi, ngay lúc vẽ vòng, vòng sẽ ngả màu nhìn qua, biết liền. Tục này, cốt để chọn gái trinh, vì người Tàu, Việt quý phái trước rất trọng trinh tiết. Cưới phải vợ thất trinh, coi như một cái nhục cho cả họ. Nhờ phép này, con gái thường phải cố giữ mình không dám tính trò nguyệt hoa bừa bãi.

Quái nhân đánh cô gái Kinh xuống vực, lập tức xông vào, lôi ra một cô gái sơn cước chừng mười tám. Nhưng vừa bôi son, vòng lại xỉn, quái nhân nổi giận quăng luôn xuống vực.

- Gái tơ mới lớn đã có trai! Đồ gái thối!

Và gầm gừ xông vào. Lần này cũng một cô nàng miền núi dáng quý tộc, vòng vẽ để lâu vẫn đỏ chót.

- Hay lắm! Gái ngoan! Chớ sợ! Ngồi yên! Nhìn bản vương! Thanh khí nàng sẽ giúp ta luyện “Âm công”! Nhìn đây! Vươn người lên! Nàng sẽ vào cõi bồng lại, hiến dâng cho nghệ thuật từng nguồn sinh lực! Nhìn đây!

Soạt! Xiêm y rách bung, cô gái rú lên dưới ánh sáng nhựa chàm, hiện ra như một pho tượng đá trắng tuyệt mỹ.

Giọng quái chìm dần, tay quái nắm bờ vai, cặp mắt chiếu tia đỏ khé. Lạ thay! Trước nàng còn giãy như đỉa phải vôi, sau vụt trở nên ngoan ngoãn, nhìn quái nhân miệng hé cười đê mê, thân trên vươn lên, căng đầy sinh lực. Quái nhân ngồi bất động, ve vuốt bầu vai non ngập dần. Thình lình quái nhân phát rú lên như con thú điên, nhe nanh, cắn phập phập vào ngực tơ. Máu phun vòi. Nạn nhân quằn quại đau đớn. Nhưng vẫn cố rướn lên, mê man chẳng khác gái đệ tử hiến máu thân thể phách linh hồn cho quỷ chúa cà rồng.

Ánh chàm vụt tắt. Hang tối om, chỉ còn vang âm tiếng cú ma quái lấp tiếng rên khẽ.

Mấy phút sau, quái nhân bật nhựa chám đứng sững giữa hang, mồm mép còn bê bối máu tươi. Dưới nền đá lạnh, cô gái núi chỉ còn là một đống thịt mềm nhũn, ngực tơ nát nhừ, rỉ máu nằm thoi thóp.

Quái nhân hất tung xác nàng xuống vực lè lưỡi liếm môi, mắt rực hung quang như con thú còn thèm mồi, quái nhân ngất nghểu, biến vào ngách giam gái, chụp lấy cô gái thứ ba con tù trưởng Thái.

Cô gái quý tộc Tây Bắc kinh hoàng ré lên vùng vẫy như con gà chíp dưới vuốt diều hâu.

- Ngàn lạy ngài thuồng luồng tinh tha cho con...

- Gái ngoan chớ sợ! Ta đưa lên cõi bồng lai! Hà hà! Con gái tù trưởng chắc còn trinh không phải thử máu thạch sùng...

Soạt! Manh áo bung, mắc vuốt tay quái như bươm bướm! Phựt! Mảnh lụa lót bay theo dưới vùng ánh sáng chờn vờn, cô gái họ Đèo hiện ra như pho tượng khoả bán thân, khuôn hoa lồ lộ thổn thức kinh hoàng như ức xẻ non trong bàn tay thô bạo.

Vuốt nhọn miết chảy trên làn da thịt non tơ, quái nhân cười thé, cô gái quằn quại thét lên, run bần bật mặt hoa não nùng. Đang cơn ghê khiếp bỗng nghe tiếng cười khanh khách cả hai nhìn ra, sực thấy một bóng cao lênh khênh mặt đỏ hỏn như con nít sơ sinh, tay chống gậy, ra phần cổ quái.

- À, chó thui giỏi hở! Chiếm “Vụng chết” bắt gái tơ, ăn một mình! Nhường ả này cho ta!

Cả hai đảo bộ vung tay, cô gái họ Đèo dạt ra xa, dáo dác. Bùng bùng! Trần hang muốn sụp, thình lình cả hai vọt sang hai bờ vực.

Hắc Ảnh cười the thé:

- Lão mặt huyết! Mi đã cùng ta đánh nhau liền ba tháng, giờ đã có quần thảo cả năm cũng thế thôi! Thuận chia đôi, ta sẽ cho rõ điều bí ẩn! Sức Hắc Huyết cùng ra, mi cùng ta sẽ làm chủ vực sâu này!

- Để bất thần mi hạ độc thủ! Như vừa đánh gã râu xồm Vân Nam! Ta cũng đoán mi không vô cớ ngồi tại đây suốt ba năm!

Quái nhân Hắc Ảnh trỏ xuống vực:

- Mặt Huyết thông minh đó! Dưới vực có hang ngầm, phiến đá cửa dầy mấy thước, ta đã thử, chưa xong! Mi còn nhớ cách đây gần một thế kỷ. Phụ Chánh Đại Thần Tôn Thất Thuyết tẩu quốc, đã qua vùng Hắc Giang, đem theo cả kho vàng triều Nguyễn?

Huyết Ảnh cười nhạt:

- Sử Việt, Tàu có chép: Nhưng nhà nước Đông Dương, các phái hắc bạch trong đời đã cày nát Hắc Giang, không thấy! Bản đồ liền thất lạc bốn phương, sao mi biết nơi tàng yểm?

Quái nhân lạnh lùng:

- Mặt Huyết, thường nhân không rõ còn mi khôn quỷ khác người sao không đoán lão Tôn đã được một tên phù thuỷ yểm vàng bằng bí thuật Nam bang! Dưới vực có bảo vật, nhưng ta ngờ có thể là “Phù Thuỷ Thần Thư”.

Huyết Ảnh “a” một tiếng, sáng hẳn mắt:

- Phù Thuỷ Thần Thư! Bí pháp vô giá trên đời khả dĩ hô âm binh, chìa khoá kiếm kho tàng còn quý hơn cả đống vàng trong thiên hạ! Ma Thui đi trước, ta lội nước theo sau.

Cả hai tiến đến mép vực.

Vừa định nhảy xuống, bỗng nghe tiếng cười khanh khách, tiếp liền tiếng quát tựa dùi xiên:

- Này! Hai tên kia! Dừng lại bà hỏi đã!

Cặp quái nhân cùng trông ra đã thấy một con thuyền thoi chỉ dài non thước tây ngược nước luồng tiến vào, trên thuyền, một bà già gầy đét, dữ tợn ngồi xổm bất động, hai con mắt xanh lè như đèn bấm.

Thuyền xé nước như tên, lướt tới, thoáng đã vào vực phình.

Cặp quái nhân nhìn nhau, vùng cúi đầu vái chào.

Bà lão không buồn đáp lễ.

Ầm! Song chảo vụt thốc xuống, hai đường đen đỏ xẹt từ tay quái ra, nhanh độc dị kỳ, đánh trúng ngực bà lão.

Lạ thay! Bà lão vẫn ngồi yên, rút trong mình ra một chiếc đàn tỳ bà. Gảy lia, âm thanh rung chuyển hang đá, xoắn lấy quái nhân tựa như có một sức vô hình giằng xé, cặp quái lật đật vọt ra xe, bà lão ôm đàn nhảy lên bờ vực, cười lanh lảnh:

- Hai đứa bay sao không ở bên Tàu, lại sang đây? Định ăn trộm bảo vật đem về Tàu sao?

Vừa nói vừa hất mớ tóc xoã sang bên, cặp quái bỗng lẩm bẩm:

- Giặc già thần sầu nơi miền Âm Hồn biên giới đó ư?

Bà lão dữ tợn phát âm:

- Bọn bây hậu cũng biết Thần sầu Đoạt mệnh bà sao?

Cả hai cùng “à” kinh ngạc:

- Thần Sầu... còn sống thật ư? Quái nương sinh từ thế kỷ trước, biệt tích hơn năm mươi năm nay... lẽ nào...

Lão bà quắc mắt:

- Nội mày biết mặt cả Tôn Thất Thuyết, cỡi ngựa bắn súng từ thủa Tây hạ thành Hà Nội, lúc bọn bay chưa đẻ, mới trăm năm đã già lắm sao?

Vừa nói vừa toan phát đàn tỳ bà đánh bỗng bà lão sực thấy cô gái Đèo Nguyệt Tú đang len lén co ró nép vào vách đá gần đấy trố mắt nhìn ba kẻ dị dạng, líu lô toàn tiếng Quan Hoả, Quảng Đông pha.

Bà lão vẫy tay cười thé:

- Con nhỏ kia đẹp hở! Xưa hồi bà còn trẻ bà cũng đẹp như mi, lũ chó đực theo như ruồi bọ! Chịu làm môn đệ bà đưa về núi?

Đang cơn hãi, cô gái Đèo Nguyệt Tú đánh liều chạy bay lại, van lạy rối rít.

- Điểu nhi, Viên nhi đâu?

Từ ngoài vạt vào hai đứa bé trạc 13, 14, một mặc áo lông chim, một lông vượn, nhác coi tưởng hai con thú, điểu.

Bà lão truyền đem Nguyệt Tú ra ngoài. Đoạn vác đàn tỳ bà quật cặp quái nhân, miệng hét:

- Hang báu đâu? Nói, bà chia phần cho, không nói, bà đập chết!

Cặp quái chừng ngán bà lão dạt tránh, Hắc Ảnh trỏ vực:

- Dưới này, nhưng thần chết chờ dưới, mỗ chưa đủ sức!

- À, hay hở! Nào dẫn bà đi! Giở trò bà vặn cổ.

Hắc, Huyết phóng vụt xuống vực. Bà lão phóng theo. Vực sâu hút, nước đen xì, càng xuống càng lạnh lẽo. Hắc Ảnh cầm đèn săn cá, đẫn đầu, cả ba chúc một hơi dài vẫn chưa thấy gì.

Cả ba xuống nữa. Không đầy một trượng nữa, đã tới đáy vực lổn nhổn đầy xương người xương cá. Ngay vách đáy có một cửa hang ăn chếch lên, miệng loe như cái phễu.

Chỗ này nước chảy cuồn cuộn. Ba người vừa bơi tới, chợt thấy nước chuyển động, một con dải bằng cái nong vành lại, xé nước, há mõm chực táp. Huyết Ảnh cầm giáo định đâm vào mép con thuỷ quái, nhưng Hắc Ảnh đã gạt đi, quát phì nước:

- Không được giết dải ta nuôi!

Đoạn cầm đèn lắc mấy cái! Con dải gầm ghè, lảng ra.

Chợt giữa tiếng nước cuốn, rõ ràng có những tiếng xè xè như dao chém.

Định thần trông vào cửa hang, không khỏi lạ lùng. Vì cách mấy thước, phía trong, có một cái guồng khổng lồ, tua tủa hàng ngàn lưỡi dao to bản sắc như nước, luồng chảy mạnh, guồng quay tít, dao lia veo véo, sơ ý bị cuốn vào, xác nát như tương.

Lão bà Thần Sầu, Huyết Ảnh nhìn Hắc Ảnh, như hỏi. Quái nhân trỏ guồng dao:

- Guồng dữ này yểm tàng không biết từ đời nào. Xác nát trôi sông hắc phần nhiều đều của bọn giỏi võ thị tài lặn xuống bị vào luồng, ba năm trước ta suýt táng mạng vì nó đó!

Huyết Ảnh cầm đèn soi gần, ngạc nhiên vì dao bén lâu đời dưới nước cũng không hoen gỉ, sức quay có lúc nhanh như cánh quạt.

Hắc Ảnh khô giọng:

- Độc đạo! Phải qua đó mới vào hang trong ăn chếch cao! Giờ thử vào coi!

Huyết Ảnh cười nhạt, vận sức, bàn tay đỏ như máu, đánh ra một luồng chưởng cực mạnh. Rắc! Guồng dao chạm gió, rung lên, nước toé dạt, nhả ra một mũi dao gãy.

Hắc Ảnh bắt mũi dao, Huyết Ảnh toan đánh nữa bỗng Thần Sầu quát lớn:

- Tàu ngốc! Làm thế bao giờ mới phá gẫy hàng ngàn lưỡi dao guồng?

- Để đó bà đỡ một tay!

Nói xong, bà già tiến sát guồng, xoè tay đẩy lia lịa ngược luồng. Nước xé sóng dời luồng đang thốc vào, chợt bị dội lại và guồng dao đang xè xè bỗng quay chậm hẳn rồi đứng im.

Lão bà vươn tay nắm nghiến lấy cần trục, tay kia bẻ rắc liền mấy lưỡi dao, hất hàm:

- Còn đợi gì không lách vào?

Cặp quái nhân nhìn nhau, khó xử. Dao gẫy ló một khoảng vừa người len, nước xiết, nếu buông tay, guồng quay bất thần, võ công mấy cũng nát thây.

- Vào đây!

Hắc Ảnh tặc lưỡi, cầm đèn, lựa chiều tuôn vụt người đi. Vừa khít. Dao chạm da, lạnh ngắt, Huyết Ảnh tuôn theo. Chờ cặp quái vượt qua, Thần Sầu lập tức uốn cong mình đạp chân trước. Người vừa đậu ngược, bà ta đã đẩy mạnh tay, theo đà lao vào, tay vừa buông, guồng dao đã quay tít như chong chóng, lấp hẳn cửa hang.

Hắc Ảnh, Huyết Ảnh ngó lại không khỏi ghê bản lĩnh Thần Sầu. Đã có định mưu, quái nhân xách đèn dẫn hai người luồn theo giòng, vào mãi.

Ruột hang thắt, mở không đều, ăn ngược mãi, ngoằn ngoèo uốn khúc, chừng vài mươi trượng, bỗng nghe tiếng Hắc Ảnh nói lớn:

- Đây rồi!

Chân chạm đáy, cả hai trồi lên mới rõ hang nước tận cùng, trước mặt chếch cao là một vách đá lồi lõm rộng chừng mấy thước vuông.

Lạ nhất là có ánh sáng chói loè hắt qua khe đá thâm u, xa xa.

Hắc Ảnh Ma Nhân trỏ lên, bảo:

- Bảo vật để trong kia! Nhưng nếu cửa này sụp đổ, cả lòng hang bị lấp kín ngay!

Ba người lên cạn, ngước mặt trông. Hú thử, âm vang hun hút, lão bà quái dị hất hàm:

- Giờ chúng bay đánh coi! Nhất loạt cùng vào một chỗ!

Hắc Huyết vận kình lực đánh ra hai phát phản phong cực mạnh. “Bùng bùng”. Đá vụn bay rảo, áp lực đè nặng, trông lên, cửa đá vẫn trơ trơ. Bà lão cười thé:

- Đá phiến dày quá, bọn mi không phá nổi đâu! Để bà vung trước đã!

Dứt lời, bà lão quăng mình lên, nằm dính ngực bụng vào mặt đá như con mối. Mười khắc qua, quần áo chợt bốc khói, khô cứng, da dẻ càng lúc càng đỏ rực. Chừng phút sau, bà ta buông mình xuống. Mặt đá in rõ hình người trăng trắng như vôi, bà lão hất hàm:

- Điện công nung ầm ĩ rồi đó! Hai đứa thử coi!

Hắc Huyết vận sức đánh lên. Nghe tiếng quật bùng, mặt đá chỗ hình người nứt ra mấy mảng, vài tảng nhỏ rớt xuống. Bà lão nóng ruột xoè hai tay bất thần đẩy thốc một cái. Ầm! Tiếng như trời long, ruột hốc tối sầm đá lớn nhỏ rớt như núi lở, nhiều hòn trắng xoá. Cả ba phải nhảy lùi lại, trông xuống đá đổ hàng đống, ngó lên, cửa đá vỡ tung, để lộ cửa hang sâu chếch ngược, vừa người lách.

- Cửa mở rồi! Báu vật nước Nam trong kia!

Hắc Ảnh vừa bật reo, đã xách đèn, nhảy vụt vào cửa hốc sâu nhanh như chớp. Không chậm trễ Huyết Ảnh chống giáo vọt theo. Bà lão mặc cặp quái tranh nhau, đợi cả hai khuất hẳn, mới quăng người lên.

Cửa hang ăn chếch đến mấy thước, càng vào càng vỡ loe rộng, cặp quái lướt vừa tới miệng trong bóng cả hai sát vai nhau, cùng lom khom đứng sững, bàng hoàng trước khung ảnh huyền ảo đập vào mắt. Bên trong là một cái hang rộng, sâu chếch xuống độ hai thước ánh sáng xanh lét hắt soi lên các dòng thạch nhũ kỳ quái đủ hình thù.

Tít trong cùng, một trăm ngọn đèn leo lét án theo đồ bát quái càn khôn chẳng biết thắp từ đời nào coi ảo rợn như những ngọn đèn ma. Và dưới vùng sáng đèn xanh vật vờ, là một vùng ánh sáng chói loà, cặp quái cùng dụi mắt, trừng nhìn, đầy vẻ đảo điên và dòm kỹ, vùng ánh sáng vàng là những đống ngổn ngang chồng chất vàng thoi, chập chờn, chói lọi hoa cả mắt. Dòm kỹ lại, chẳng thấy đâu nữa.

- Vàng... vàng thoi...

- Vàng... Ô, vàng diệp...

Cả hai chen nhau nhảy ùa xuống. Bất thần nghe tiếng quát lanh lảnh:

- Hai người kia! Nhập hang khẩu chú đâu? Đọc mau không ta ché...é ém!

Tiếng thét gai sắc như dao nạo nứa, cặp quái đứng khựng lại, đưa mắt dòm, tưởng sực thấy sát vách hang cùng, ngay dưới hàng đèn xanh mét có một cái ngai son đỏ chót, trên ngai có một cô gái mặc áo tía, hài thêu, trước mặt có kê một chiếc bàn độc thấp, trên bàn gác ngang thanh gươm gỗ sơn đỏ bên những đồ chói lọi giống đồ thờ. Dưới đèn, khuôn mặt cô gái áo tía lồ lộ đẹp mê hồn, hai con mắt phượng long lanh cực kỳ linh hoạt.

- Chém... é... ém!

Mắt vụt long sọc, cô gái áo tía thò tay vớ lấy thanh gươm gỗ, đứng phắt dậy. Cách hơn 20 bước Hắc Ảnh Huyết Ảnh còn đang lấy làm lạ đưa mắt cho nhau, bỗng thấy loáng cái, cô gái áo tía đã đứng trước mắt, chém xả xuống một đường lẹ như chớp loé. Cặp quái nhân đứng xa nhau năm bảy bộ, lạ thay cùng thấy gươm lia vụt, giật mình. Huyết Ảnh, Hắc Ảnh tung khí giới đỡ. Chát chát! Khí giới đứt lìa, cả hai lật đật nhảy lùi 2 phía loáng cái, cô gái áo tía dã phạt gươm “véo véo”. Hắc Ảnh bị hớt phăng mảng tóc, Huyết Ảnh mất nửa vạt áo. Cặp quái vừa lăn mình ra hai góc, lại bị liếm mất mảng vai đau thấu xương. Cả hai chĩa súng nhả hai phát trúng cô gái xuyên qua ngực chưa kịp bắn thêm, súng đã bị chém đứt đôi, kiếm soẹt ngón tay, máu rỏ tong tong. Áo tía chập chờn kiếm khí phạt lia, tình thế mười phần nguy ngập.

Bà lão kỳ dị lúc đó đứng khom người ngoài cửa đảo mắt điện nhìn vào, ánh mắt rực vàng như bốc cháy.

- À, ngai son, gái áo tía, nữ thần canh gác kho tàng nước Nam! Chó thui huyết heo hai đứa chết đến nơi rồi! Hì hì! Hoa lai thần ám, dùng cả súng ống bắn quỷ thần! Phù Thuỷ Thần Thư! Kho tàng Tôn Thất Thuyết!

Như con thú rình mồi, vừa thấy gái áo tía lướt ra chém cặp yêu quái, bà lão rún mình, nhảy vụt một cái xa mấy trượng, đứng sát bàn độc.

Ngay lúc đó, Hắc Huyết bị gươm gỗ chém thương, thất kinh hụp đầu, quăng mình ra cửa đá. Phựt! Chát! Gót giầy bị kiếm phang, phạt lìa mảng đá bắn vèo, cặp quái co chân bắn ra lăn tòm xuống vực.

Trong hang, bà lão vừa thò tay chụp pho sách bỗng giật thót, sực thấy cô gái áo tía ngồi trên ngai mắt long sọc, thanh gươm gỗ gác ngang pho sách. Mím môi, vừa giật pho sách, bỗng mắt loá ánh kiếm liếc sang, lại thấy bóng gái tía xịch tới, chém véo xuống cánh tay. Lẹ như cắt, bà lão rụt tay, cầm pho sách văng vút người ra xa, thò tay kia lật soạt soạt coi. Chỉ là tập giấy trắng, không một chữ nhỏ.

- Trời ơi! Trời ghét gì ta lại cho thành “Vô tự thần thơ”! Uổng bao công lặn lội cả đời người! Cẩu trệ!

Vừa ngửa mặt hét, áo tía lướt tới, bà lão ném đại pho sách vào gái tía vọt chạy ra. Nhưng kiếm nháng chặn lối, bà lão cả kinh, vội cắn lưỡi đọc chú, phun phì một cái. Chừng sợ uế áo tía, kiếm nháng vẹt sang bên, bà lão thừa cơ lao vụt ra cửa hang còn nghe rõ tiếng hét lảnh sau lưng, đá vụn bắn rào rào.

Ầm! Cửa đá bỗng sụp đổ, trần ụp từng tảng lấp kín cửa hang.

Tít ngoài “Vụng chết”, trời vừa ngớt mưa.

Ánh trăng đã ngả non Tây, rải ánh vàng bệch xuống dòng sông Hắc, sương lam khí đá bốc mờ xoá chìm vụng dữ.

Dòng sông khuya ngăn ngắt, một đàn vạc đi ăn đêm vừa sà xuống, bỗng kêu quang quác, bay xé lên kinh hoàng.

Bồng bềnh trên vụng có hai cái xác đàn bà, không xiêm y bị nước xoáy đứng lên như nát trăng vàng.

Bí mật lại trùm khắp miền sông Hắc.

2. Thảm Sát Lê Gia Trang

Biên thuỳ Tàu - Việt.

Chiều đỏ cuối hạ. Quả lửa đáp gần rặng núi Tây. Vắng gió. Khí đá hun oi nồng. Mấy dãy rừng già quạnh quẽ hoang sơ, thỉnh thoảng vài tiếng gà chiều vọng từ dưới thung lên đèo eo óc buồn tênh.

Bỗng từ bên phía đất Tàu có tiếng vó ngựa khua lốc côc xao động núi rừng, nhịp kêu triền miên đơn điệu chuyển về vùng đất biên. Chim bay xào xạc, tiếng vó câu chợt sang nước phóng, rập dừng lại trên lưng đèo sát giời tuyến thảo dã.

Hiện rõ một đoán nhân mã lố nhố ngót trăm người súng ống tua tủa. Hầu hết, mặc quặm áo ka ki vàng hoe, còn một số ít mặc quân phục xám thép, nhác trông qua cũng đoán ngay được là đám quân gia của vị tướng quân phiệt Tàu đương thời.

Toán binh dàn nhang đèo, viên quan võ chỉ huy đứng trước hàng quân, bên cổ ngựa có cắm một cây cờ cao gần hai thước, trên ngọn phất phơ một lá hiệu kỳ sặc sỡ, động khép nếp, thấp thoáng ẩn hiện hàng chữ “Trần” nét Hán tự rất sắc. Cả đám lính phò một chàng trai Việt trạc hai ba, hai tư tuổi mặc quần áo lối Công tử, tiểu vương sơn cước, hình dong tướng tá khác thường dáng dấp thư sinh tầm thước, có mấy người lực lưỡng cũng y phục miền núi đứng sát sau lưng, cạnh mình còn một người Tàu trạc ngũ tuần, mặc áo xường xám lê thê.

Nhân mã đều đẫm mồ hôi, cát bụi viễn hành. Chàng trai Việt rút khăn lau mặt, trỏ xuống thung lũng nơi có phân mao mọc đầy chạy suốt sơn lâm nửa ngã về phía Bắc, nửa ngả về phương Nam, kẻ thành một đường giới tuyến thiên nhiên chia hai lãnh địa Việt - Tàu.

- Đất Cao Bằng kia rồi ! Mời vắng nước hơn năm cảnh thổ đã khác xưa. Yên tĩnh quá !

Người khách già mặc áo xường xàm cùng một người Việt trung niên lực lưỡng đánh ngựa lên sát chàng trai, rút ồng nhòm quét, giây khắc người Việt thì thầm:

- Quái lạ, sao chưa thấy bọn lão Quản Đô lên đón?

Chàng trai quay lại, cúi đầu chào người khách, từ tốn:

- Tới đất nhà rồi ! Cám ơn Đốc Bàn mất công lặn lội vất vả đưa mấy cung đường. Giờ tiên sinh có thể cho quân lính quay ngựa về nội dịa được rồi.

Viên Đốc Bàn già có dáng tần ngần lưu luyến chiếu viễn kính xét khắp vùng biên, chợt bảo:

- Miền này giặc cướp như ong, ẩn hiện bất thường. Thổ phỉ Tàu thấy cờ hiệu Tổng Đốc Đại Nhân chắc không dám phạm tới, chỉ sợ bọn giặc bên Việt Nam làm bậy, xẩy ra chuyện chi Đại Nhân trách phạt bọn “ngộ” chẳng an tâm ! Nếu ngại trời sắp tối xin Công tử cứ để bọn “ngộ” hộ tống vào tận nội địa Việt Nam.

Chàng trai mỉm cười:

- Vùng biên này, phụ thân tôi trấn giữ đã lâu! Đốc Bàn đừng ngại ! Sớm muộn sẽ có người ra đón. Tiên sinh cùng quân lính đi cả ngày, nên quay lại không tối mất !

Dứt lời chàng trai toan giục ngựa về phía đoàn lính hộ tống, ngỏ ý cám ơn chợt thấy viên quan chỉ huy tiến lên, trỏ sang đất Việt, giọng kính cẩn:

Im lìm như chết, chắc có gì bên đó! À! Công tử kìa, có đàn chim bay loạn như...

Viên quan võ chợt ngưng bặt, theo ngón tay trỏ, tận nẻo Đông Bắc chếch xa xa chim ngàn liền mấy bầy bay xé lên không trung tứ tán, rồi gà rừng kêu quang quác vùng biên cảnh đang im vắng bỗng xuất hiện một đoàn người ngựa hơn trăm bóng nối đuôi nhau thả kiệu băm tiến về phía Tây, thoáng đã mất dạng.

Mấy phút sau, đoàn người ngựa đã hiện ra xế dưới chân dãy đồi ngang thung biên, trong ống viễn kính, cả bọn mặc lối thổ dân, quan binh lẫn lộn, giữa đoàn còn thêm đến 20 con ngựa thổ từng bó chi lớn trên lưng. Vừa nhô ra, thình lình đoàn người ngựa chạy giạt khỏi chân núi, xé thành hai, lộn phắt lại thu hình cung dương, cứ thế tế nước đại như điên.

Ngay lúc đó, súng nổ đì đùng đạn xé không khí, mấy toán nhân mã từ mấy phía vọt ra, bắn loạn, đông đến mấy trăm tên, toàn đội mũ rộng vành. Đoàn người bị phục kích vừa chạy vừa cầm cự, một cánh chừng 30 tên cuốn bầy ngựa thổ tế vòng qua thung biên, bất ngờ lại bị một toán phục nữa chặn đường bắn vãi. Nháy mắt, đoàn người bị phục đã tan tành, chết khá nhiều, chạy tứ tán, mấy cánh quân phục từ các ngả kéo lại, cuốn tất cả ngựa thổ, ngựa chiến, súng ống tù binh, phóng ngựa qua thung biên, về đất Tàu.

Đứng trên đèo, viên quan chỉ huy vừa toan truyền vệ binh bố trí, nhưng lão Đốc Bàn đã quát trầm:

- Lộ mục tiêu rồi! Bố trận bị vây đánh chết ngay! Cứ dàn ra, đứng dưới cờ hiệu! Chắc đám thổ phỉ bên này đó thôi!

Rất nhanh, đoàn vệ binh lập tức dàn ngang, một viên đội trưởng lấy ra một lá hiệu kỳ lớn mắc vào cán dài, trương rộng đèo cao, ngay trốc đầu bọn chàng trai Việt.

Quả nhiên dưới thung bọn thổ Phỉ đã thấy bóng người ngựa trên đèo. Viên tướng vạm vỡ múa “pạc hoọc” hô lên một tiếng, cả cánh quân lập tức giạt chếch gọng kìm, kẹp lấy chân đèo, viên tướng thổ phỉ vừa định khai pháo, chợt thấy bóng cờ trên cao, liền rút ống nhòm coi, ngựa đen bước một, hai bên tả hữu có 5, 6 tên đầu mục dữ tợn.

- Hầy à! Bọn nào trên kia sao lắm cờ quạt thế? Chúng mày có đứa nào biết chữ, đọc coi!

Một tên dõng cao, đỡ ống nhòm chiếu khắp lượt nghiêng ngó mãi ngọn cờ lớn.

Chợt một cơn gió chiều thổi lộng lưng đèo, lá cờ mở rộng trên nền vóc màu hiện rõ mấy chữ Hán trần kim tuyến lấp lánh dưới nắng chiều: Lưỡng Quảng Tổng Đốc Đại Tướng Trần...

Tên đầu mục quay phắt sang, trao ống nhòm cho chủ tướng...

- Đại vương! Cờ hiệu Tổng đốc Lưỡng Quảng...

Vừa nghe đến đó, viên tướng thổ phỉ giật phắt ống nhòm chiếu lia lịa, nói ồn ồn:

- Hầy à! Tổng Đốc! Chà chà, quan lớn Đại tướng ở tận thành Quảng Đông ra đất ăn cướp này làm gì cà? Lạ thật! Lạ thật! Mà sao chỉ có một dúm lính ốm? Đánh chết ngay!

- Đại vương! Có khi đại binh còn đi sau! Hay người nhà Tổng Đốc? Kìa! Đại vương có thấy người đứng dưới ngọn cờ không?

Tướng thổ phỉ ngắm nghía giây lát đoạn giục lên, nói lớn:

- Binh nào trên đó? Sao có cờ quan lớn Đại tướng?

Lão Đốc Bàn tiến ra sát ghềnh đá, chiếu viễn kính nhận ngay được dáng Ma Thiên Trụ, một viên tướng thổ phỉ khét danh hung thần biên giới còn dữ hơn cả Lầm Đại vương miệt giáp Lào Kay, chuyên chơi tai người, Trụ thích nhất môi đàn bà, thường chọn đủ loại xẻo ướp bày trong phòng, lục lâm cường khấu phải kinh oai, gọi Ma Vương, dân mấy dãy biên thuỳ thường gọi biệt danh “Trụ vương hiếu sát”. Quan binh Tây, Tàu không sao đánh dẹp nổi, Trụ Vương có nhiều tay súng thiện chiến, tài võ lại cao, có thể độc hành lấy đầu người như bỡn.

Vừa nhác bóng tướng thổ phỉ dữ tợn, lão Đốc Bàn đã rúng tim, cố trấn tĩnh quát vọng xuống:

- Trụ vương! Lâu nay mạnh giỏi chứ? Bản chức có lời chào! Vừa đánh được món hàng lớn à?

Tướng thổ phỉ cười lớn:

- À! Đốc Bàn Xường! Vết đạn năm nào lành chưa? Đem lính đi bắt cướp đó ư? Sao lại dựng cờ Tổng Đốc?

Đốc Bàn Xường nghiêm mặt:

- Bản chức hộ tống công tử cháu quan Đại tướng Trần sang Nam! Công tử về nước có chút việc. Xếnh xáng một mực đánh cháu ngài sao?

Tướng thổ phỉ xua tay cười ha hả:

- Hầy à! Cháu quan Đại tướng? Tưởng bọn lính nào! Không muốn gây sự với Tổng Đốc Lưỡng Quảng! Xưa Tổng Đốc suýt chém đầu rồi lại tha ngộ mà! Thôi chào Đốc Bàn.

Viên tướng thổ phỉ hung thần múa “pạc hoọc” hô lớn. Cả cánh quân xạ phang phóng chếch về phía Tây Bắc như giông, thoáng đã mất hút nẻo biên thuỳ.

Đốc Bàn cùng đồng bọn thở phào. Chàng trai Việt ngẩng nhìn trời chiều nắng xế, chợt bảo Đốc Bàn:

- Yên rồi! Giờ tiên sinh có thể quay về! Bọn tôi vượt biên được rồi!

Viên Đốc Bàn không chịu, truyền binh hộ tống chàng trai xuống đèo, vượt biên địa phân mao, vào sâu nội địa hơn dặm, mới lộn về Tàu.

Chàng trai cùng 6, 7 tòng nhân mải miết ra roi, xuyên rừng vượt núi, đi qua những vùng biên cảnh hoang sơ, tới lúc mặt trời lặn hẳn, mới hạ nước phóng, thả kiệu băm tiến vào một miền đồi núi điệp trùng thiên hiểm, tít xa xa thỉnh thoảng có ánh lửa thổ dân le lói lưng đèo.

Núi Gầm! Mấy dãy sơn lâm bất tận vắt dọc suốt từ vùng Tam Đảo lên tít biên khu Bắc Xế, nằm giữa Cao Bằng, Hà Giang con sông Gầm uốn khúc xuyên sơn, đổ nước nguồn Tàu xuống tít sông Lô, cắt ngang đầu núi Bắc Thượng, ngọn Phi Mã Yên Sơn (Pi-a-ya) ngửi mây, nhòm khắc miền sơn kỳ thuỷ tú, lãnh địa cao thâm của các sắc dân Thổ, Mán, Nhắng, Mèo v.v...

Đi tới lúc trăng thượng tuần xế Mã Yên Sơn, cả bọn đến vùng Nước Hai, nơi nổi tiếng có giống ngựa hay nhất Đông Dương.

Người đàn ông Việt trung niên dẫn đường, bỗng bảo chàng trai:

- Lạ thật! Vẫn không thấy bọn Quản Đô! Lúc đi đón cậu Ba, cụ lớn nhà có dặn sẽ cho lão Quản lên biên đón, nếu cần, sẽ cắm trại chờ, sao vẫn chẳng thấy?

Chàng trai hơi nhíu mày, dáng lo âu:

- Hay có chuyện chi... ngăn trở? Này, chú Lực! Sao tôi thấy trong mình khắc khoải lạ! Như...

Người đàn ông trung niên vùng giơ tay làm hiệu, cùng giạt vào chân núi.

Rập! Có tiếng vó câu khua đường đá dăm, rồi một bóng ngựa từ quèn núi chạy vụt ra, mang trên lưng một người gục ôm cổ ngựa.

Năm Lực nhận ra dáng quen quen, bật kêu giật giọng:

- Kìa! Ai như lão Quản?

Con ngựa vừa tới ngang chỗ cả bọn nấp, kỵ sĩ có ngóc đầu lên, dướt trăng, thoáng bộ râu năm chòm đẫm máu. Vút! Vút! Liền hai mũi tên từ phía sau bay theo, cắm phập vào lưng kỵ sĩ già. Theo đường tên, một tốp 5, 6 bọn nhân mã xốc tới, tên đi đầu còn múa cây cung.

Nhanh như cắt, Năm Lực thò tay lên vành khăn, phóng vút liền mấy mũi dao lá lan.

Bất ngờ, cả mấy tên đuổi theo ngã nhào, có tên chân mắc bàn đạp, bị ngựa kéo bừa nát như bùi dẻ.

Năm Lực vọt ra, rượt theo con ngựa chạy trước, níu tay cương, đỡ luôn kỵ sĩ xuống.

- Trời! Lão Quản! Sao thế này?

Chàng trai vừa giục ngựa lại, ôm lấy nạn nhân. Kỵ sĩ trạc 50, quắc thước, mình đầy thương tích, mở mắt ra, thất thần, lắp bắp:

- Kìa! Cậu! Lão đi đón... bị phục binh... Chết sạch... Mới ra khỏi gia trang một giờ ngựa... Năm Lực đưa cậu ba... về mau... Hình như nhà... có biến... Cụ... cụ...

Ông già nhăn nhó, máu đầm đìa, chàng trai rung giọng:

- Sao? Lão? Biến sao? Ai?

- Nó... trời... nó là...

- Ai... bọn nào?

- Về mau... đường khác...

- Nó là...

Nhưng kiệt lực, lạc hẳn giọng, ông già nhìn mọi người, nghẹo sang bên, đôi mắt mở trừng trừng.

Chết rồi.

Năm Lực rút phắt mũi tên sau lưng ông già, soi ánh trăng bẻ rắc. Cả bọn mím môi, cúi đầu.

Chàng trai xúc động, nhìn lão người nhà thân tín.

Năm Lực vùng bảo:

- Buộc ông quản cho chặt! Thổ Mã Yên Sơn chỗ này nghịch lắm, phải phò công tử đi mau!

Năm Lực lục soát mấy xác chết, toàn lạ mặt.

Nửa phút sau, cả bọn lại lên đường, mang cả xác lão quản.

Xuyên sơn, bắt vào ngả khác, đi tới cuối canh hai đã đến một vùng rải rác bản dân, trong đêm có tiếng nước xô ghềnh.

- Sông Gầm! Sắp đến gia trang sao vắng lặng thế này?

Năm Lực gò cương bên giòng, đưa mắt nhìn bốn phía.

Trăng tà xế núi Tây. Gió lộng, sương chăng một vùng sơn thuỷ, tít xa giữa khu đồi chập chùng, rải rác bóng sàn thổ dân, đột nhô lên mấy mái nhà ngói nhấp nhô ẩn hiện giữa lá cây um tùm đầm ánh trăng khuya.

Im đến rợn người. Chàng trai hỏi Năm Lực:

- Phụ thân ta đang trấn nhậm Cao Bằng sao không gọi ta về dinh thành, lại dặn gặp tại trang trại? Lạ quá!

Bỗng từ phía nguồn sông Gầm liền mấy trái hoả pháo vọt lên trời.

Rồi tiếng súng thi nhau nổ đì đẹt liên hồi, vang động cả miền sông núi.

Cả bọn biến sắc, Năm Lực vùng cất tiếng:

- Nẻo gia trang! Có chuyện gì rồi! Ẩn mau! Các chú hộ vệ công tử, để tôi về trước coi sao!

Mấy tòng nhân – người Tàu – chắc tay chân thân tín của Tổng Đốc Lưỡng Quảng – cùng “dạ”, một người gầy rong, suốt cuộc hành trình không nói nửa lời, bỗng đánh ngựa lên sát Năm Lực, trầm giọng bảo:

- Chắc có dạ chiến. Ông bạn Nam thuộc địa hình, nên ở bên công tử, phòng bất trắc, còn dẫn đi ẩn nấp. Để ngu mỗ tới coi!

Năm Lực nhìn lại, nhận ra người đó là viên giáo đầu trong soái dinh Trần Tế Đường, lính tráng quen gọi là “Phàn giáo đầu”, thảy đều nể sợ. Lại nghe, người này nói tiếng ta khá sõi, Năm Lực không khỏi ngạc nhiên, người Tàu gầy đã cười khô giọng:

- Ông bạn Nam chớ ngại. Ngu mỗ từng sang Đông Dương mấy lần, cũng hay vào chỗ đánh nhau. Bọn lục lâm từng gọi “Đại vương Phàn” mà! Một tay súng nổ cự được trăm quân!

Miệng nói, tay múa tít cặp tiểu liên, lại vỗ vào hông ngựa:

- Còn cái này nữa! Ông bạn cứ yên lòng!

Năm Lực chẳng thấy vật chi, cũng vội bảo:

- Vậy cả hai cùng đi thám tốt hơn! Còn các chú cứ cùng cậu ba đợi đó.

Mấy người Tàu vội đưa chàng trai xuống ẩn vào lùm cây rậm.

Năm Lực, Phàn giáo đầu giục ngựa dọc sông Gầm, chạy ngược về phía súng nổ.

Hoả pháo cầu cứu vẫn liên tiếp bay lên trời. Đạn bay chát chúa, liên thanh thỉnh thoảng lại có tiếng nổ lớn vang động khắp miền.

Chừng nửa giờ sau, bỗng thấy Năm Lực cùng Phàn giáo đầu tế ngựa lại, vai áo rách bươm vì đạn xé.

- Công tử! Công tử đâu? Mau theo tôi lánh nạn! Nguy lắm rồi! Bọn giặc nào đánh gia trang, đông lắm sắp vỡ rồi!

Chàng trai tuấn tú nhảy ngựa ra, nắm lấy vai Năm Lực:

- Sao? Chú bảo sao? Bọn nào lại đến phá ấp trại? Bọn nào? Trời! Mau đưa tôi về!

Dứt lời giục ngựa toan phi, Năm Lực níu tay cương, sợ hãi:

- Cậu ba! Chớ liều mất mạng! Bọn nào không biết, nhưng – hình như nó cửa tử đánh vào! Hoả lực nó mạnh lắm, trong có non trăm tay súng, yếu lắm rồi! Cậu ba không quen trận mạc xông pha, chớ liều!

Chàng thư sinh giật cương, nhìn về phía súng nổ, khói lửa bỏng cháy ngạt, ánh rực vòm trời.

- Nó đốt trang – Cả nhà chắc về đó – Có việc gấp, phụ thân tôi mới gọi... Trời! Không khéo nguy mất! Cả nhà tôi... Sao gặp được bây giờ!

Buông lời, chàng thư sinh phóng thốc xuống đồi, chạy bay về phía gia trang. Bọn Năm Lực cả kinh vội phi theo bén gót.

Tiếng súng vẫn nổ dòn, dữ nhất phía cổng tiền. Ánh lửa rực trời, gia trang bốc cháy, quân giặc tay hồng đuốc tay súng, vừa phi ngang dọc vừa bắn, nhiều tên nhảy ào lên tường. Tiếng súng chống cự yếu dần, từ phía quân giặc, một toán quân giúp kẹp phò một lão râu thưa, mặt mày hung tợn, tay cầm lá cờ đen phất lia, hét:

- Nhào vào đánh cận chiến! Bây đâu! Kích tiền chặn hậu! Chớ để nó chạy thoát!

Cờ hiệu bay tung, bọn Năm Lực phò chàng trai lao vào phía hậu trang, vừa tới hồi Bắc, thấy một đội quân giặc cầm hồng đuốc ào tới, vừa nhác thấy, Lực vùng kêu khẽ:

- Trời! Giặc Cờ Đen! Cờ Đen Pi-A-Uác!

Đẹt! Đẹt! Bọn Lực hạ được mấy tên, phóng bừa vào cổng hậu. Quân giặc ào rượt theo.

Đang cơn nguy cấp, bỗng từ phía Bắc kéo tới một cánh quân nam nữ kỵ binh lố nhố, cầm đầu là một thiếu phụ trẻ tuổi, đẹp lẳng tình đến siêu lòng người dưới bóng cờ hiệu màu xanh. Vừa tới, lập tức quân cờ xanh tẻ làm hai, nửa đánh cản quân đen, nửa kéo rốt vào cổng hậu. Nhờ thế bọn Năm Lực mới vượt vào trong được. Nhưng vào đến nơi chỉ còn vài bọn gia đinh, lính dõng cầm cự mạn tiền, đang lui dần. Bọn Lực chạy qua vườn hậu, vọt ra hoa viên bên hồi, thấy xác chết ngổn ngang ngay hòn giả sơn.

Một chàng trai mặc quần áo ka-ki nằm gục, tay còn cầm súng. Chàng tuổi trẻ tuấn tú nhảy xuống, lật mặt, kêu thống thiết:

- Trời! Anh Cả! Anh Thái Hùng!

Vừa kêu vừa sờ quanh, rất lạ là người bất hạnh cổ bị đứt gần lìa, vết cứa nham nhám lấm tấm như dính ngân nhũ, mấy xác gần đấy cũng vậy. Chỉ vài kẻ có vết đạn.

Bọn Lực vội vực Thái Hùng, giục chàng trai rời hoa viên. Mặt tiền lửa rực, lố nhố quân giặc.

Chàng trai dắt ngựa, chạy băng vào thềm, đạn réo trốc đầu. Gia trang đang nghẹt cháy. Nơi nhà chính, cảnh tượng đổ vỡ kinh hồn, xác chết rải rác, không còn một bóng sinh vật.

- Phụ thân! Mẫu thân! Trời! Cả nhà đâu rồi?

Chàng trai chạy vô mấy phòng vắng ngắt, vọt lên lầu. Máu chảy đẫm cầu thang.

Mấy xác gái hầu nằm vật, trong buồng, mẹ chàng nằm chết trên giường, cần cổ gần lìa, khuôn mặt đẹp lão còn in đậm nét thê lương khó tả, máu chảy vũng trên nệm trắng.

- Trời! Mẹ!

- Phụ thân! Trời ơi!

Chàng trai nhào tới, ôm lấy xác mẹ, từ 2 mép bà, bỗng ứa ra 2 giòng máu.

Quá xúc động, chàng trai vùi mặt vào mặt mẹ, bồng xác bà, chạy sang buồng bên. Lại cảnh gớm ghê! Em gái chàng Trâm Anh, nằm chết trên giường, thân thể loã lồ, xiêm y rách nhầu, vung vãi, khuôn mặt xinh đẹp còn khắc hằn nét kinh hoảng, hai mắt trợn trừng, thân dưới nhầy nhụa di tích bị hãm hiếp, nhũ hoa nát như chó gặm.

Tất cả vùng ôm mặt, Năm Lực lẹ tay giật vội màn “tuyn” phủ lên mình cô gái xấu số. Chàng trai thét như điên.

Súng nổ quân hô gần kề, phèn giáo dẫn quân ra, kêu giật:

- Rời khỏi đây mau! Giặc đã kéo vào!

Chàng trai gạt lệ, ôm xác mẹ, bọn Lực bồng xác Trâm Anh, chạy xuống dưới, gọi tìm vẫn không thấy ai nữa.

- Còn phụ thân tôi! Anh Hai Kiệt, Nhuỵ Kiều nữa!

Giặc Đen ùa vào sân trước bắn nhầu. Tù và rúc vang động. Bọn Năm Lực đành cấp tốc bỏ thể xác lên lưng ngựa, giục chàng trai bỏ chạy theo lối hậu. Cả bọn vừa dắt ngựa băng chếch qua khu sau nhà bỗng giật mình, thấy một bóng áo sa khăn xếp nghỉ trên ghế đá. Chạy lại coi thì ra chính viên tuần phủ Cao Bằng, chết trong thế ngồi chơi, cổ cũng gần lìa.

- Phụ thân!

Lòng đau gia biến, không kịp khóc, chàng con trai tuần phủ vội thờ xác cha, cùng đám người nhà thân tín, hấp tấp thoát ra ngả cổng trước, vừa vặn giặc Cờ Đen ập vào mặt cổng tiền, nàng nữ tặc lẳng tình kéo nữ binh vào ngả cổng hậu.


Nguồn: http://truongton.net/