31. Anh hùng tương ngộ, Nhân nghĩa trọng thiên kim
Âm thanh não nùng quái gở vẫn vang đều, thứ âm nước rỏ xuống đá, hốc, cùng các đồ kim khí như đánh đàn chai, đàn cồng, chín mươi chín ngọn đèn đất xanh vẫn chao qua chao lại, guồng Bát Quái quay đều. Ngoài xa, tiếng thác đổ vọng âm... hang sâu chìm trong cảnh ghê rợn huyền hoặc chẳng khác cảnh quỷ sứ khảo tội nhân dưới mười tầng địa ngục diêm vương.
Người bịt mặt có dáng xúc động cực kỳ, toàn thân rung động, bíu chặt tay vào mỏm đá ngó trừng trừng, thở dốc, lẩm bẩm:
- Địa Ngục Cửu Tuyền! Trời! Đây là Địa ngục hay Dương trần? Người... Đúng người rồi! Người có thể khổ nhục thế này ư? Chịu cực hình ròng rã hơn năm trời. Trên đời này lại có thể có người vợ thù hận chồng đến thế này sao?
Liếc sang vách tả, thấy Người Rừng nãy giờ vẫn ôm mặt gục vào vách, chừng không muốn nhìn cảnh thê thảm đang diễn bên kia vực.
Lấy mắt đo chiều rộng vực, người lạ nói một mình:
- À! Vực rộng lắm! Muốn vượt qua phải có cái sào dài, hay một sợi thừng móc vào thạch nhũ? Quái vật Rừng năng khiếu thô sơ, còn biết thương xót người lâm nạn, ta đây trượng phu trong thiên hạ, lẽ nào chịu bó tay? Đúng "người" rồi!
Lúc đó guồng bánh vẫn quay, mùi thịt nướng khét lẹt lan tỏa khắp hang sâu. Ánh đèn xanh vật vờ hắt lên guồng, soi rõ khuôn mặt của tội nhân. Đó là một ông già tóc bạc, râu bạc, mặt hồng đang ngả màu chì, mặt chỉ bị vài vết lửa đốt, dao rạch, chưa xóa hẳn diện mạo, nhưng từ cổ xuống thân thể nát nhàu như búi dẻ, vì những vết tra tấn dữ tợn, có nhiều chỗ lửa đốt còn sủi mỡ, chảy nước vàng, có chỗ móc ăn sâu hoắm đỏ hỏn, máu mủ bê bết coi mười phần gớm ghiếc.
Người lạ đang đảo mắt tìm kiếm vật vượt vực, bỗng nghe xa xôi có tiếng hú lê thê sởn óc. Rồi bên kia vực, từ trong hốc vách nhảy vọt ra hai con cọp xám lớn như bò mộng, ngồi chồm chồm hai góc cục trường, dòm tên tội nhân, gầm gừ, múa vuốt. Guồng trần quay hạ tội nhân xuống sát đáy. Một con cọp giơ vuốt táp liền.
Phựt! Một mảng thịt đã móc đầu vuốt cọp, máu rỏ long tong, con thú đớp liền, nhai chóp chép.
Quay sang phía bên kia, lại con cọp khác táp, tội nhân quằn quại, rú lên âm âm, nhưng không phát ra một tiếng kêu nào, chừng như chịu đựng hình phạt quá nhiều, cắn răng chịu đựng đã quen.
Con cọp lại táp thịt nữa, người lạ nấp ngoài nhảy xổ ra, thét lên đau đớn khác thường:
- Nghiệt súc không được hại người! Tôn sư? Trời ơi! Tôn sư khổ đến thế này ư? Ai... ai đã hành hạ tôn sư?
Tiếng quát vang động hang sâu. Người Rừng giật mình xoay phắt mình lại, dòm quanh. Sực thây bóng người lạ đứng mép vực dưới vùng sáng tối nham nhở, con quái vật tiền sử có vẻ sợ hãi, lùi lại sát vách trong ngó chòng chọc. Hai con cọp nghe quát cũng vểnh cổ vểnh tai đưa mắt dòm, nhưng khi guồng hạ thấp, chúng vẫn giơ vuốt táp móc thịt ăn như thường. Không chịu nổi, người lạ hét lớn:
- Nghiệt súc! Không được xúc phạm tôn sư!
Soạt! Một ánh thép nháng bay theo tiếng phát xuyên vút qua cục trường nhanh như tia chớp lóe.
Nghe "phập" một tiếng ngọt lịm, con cọp đã đứt đôi, cái đầu quay lông lốc.
Con kia kinh hãi rống lên cong đuôi chạy xé vào vách hang sâu nhưng ánh thép đảo vồng cầu đảo chém cụt đuôi kèm theo một bàn chân sau!
Người Rừng thấy ánh sáng lập lòe, có vẻ kinh hãi, dáo dác chực phá chạy.
Ngay lúc đó, tội nhân quay trên bánh xe bỗng phát giọng run run sửng sốt:
- Ai... ai đó? Ai phóng nổi kiếm qua vực chém cọp? Năm mươi bộ... trên đời này còn ai ngoài Đại Sơn Vương, Nam Thánh, Đông Quân, Sài Kíu Tinh, Thần Sầu? Mà... mà hơi thép lạnh buốt thấu xương... sao... quen thế? Ai?
Người lạ thâu gươm, cầm lăm lăm trong tay. Đó là một thanh tiểu kiếm xanh lè vùng rung giọng gọi:
- Tôn sư! Tôn sư! Đệ tử đến cứu tôn sư đây! Đệ tử phá tan Địa ngục...
Tội nhân cao giọng phều phào:
- Ai, ai đó lại xưng đệ tử? Kẻ bất hạnh này suốt thế kỷ khổ đau, có ai là đệ tử?
Người lại nói vọng sang:
- Tôn sư! Tôn sư! Đệ tử đây mà! Đúng họ Lê đây mà! Trời ơi! Tôn sư không nghe được tiếng đệ tử sao? Dũng, con đây mà!
Im khá lâu, bỗng ông già tội nhân thở dài, chìm hẳn giọng vào vòng bánh xe quái ác vẫn quay:
- Chao ôi! Dũng họ Lê đấy ư? Hiếu tử ta gặp miền hang Phi Mã, đem về Si Công Linh đấy ư?
Cả mừng, người lạ tiến sát mép vực, lăm le nhảy sang, nói lớn:
- Dạ... dạ chính đệ tử đây! Đệ tử đi tìm tôn sư bao nhiêu tháng trường.. Trời ơi! Sao tôn sư lại đến nỗi này?
Im mấy khắc, chợt tội nhân gọi vọng sang:
- Dũng, hiếu tử đấy ư? Coi chừng mang họa trong địa ngục! Hiếu tử đã rửa xong thù nhà chưa?
- Bẩm chưa! Còn nhiều uẩn khúc. Tôn sư! Con vào phá ngục, cứu tôn sư đây!
- Dũng con! Lui ra mau! Không được làm quấy! Ta đem thân trả nợ phu thê!
Ra mau! Không mang họa! Sức con địch sao nổi bà ta!
Im vài giây.
- Không! Không! Con không thể tuân lời tôn sư! Người phải rời Địa ngục dương gian này! Không ai cản nổi con đâu!
- À, hơn năm luyện võ, dẫu được truyền điện công, cũng không địch nổi bà ta đâu!
- Tôn sư! Dầu thác con cũng phải cứu thầy! Thầy chớ ngại! Con đã được Đại Sơn Vương truyền bí thuật, đã được Hắc Sát biển Đông truyền...
- Không! Nếu vậy con không phải Dũng họ Lê rồi! Dũng không trái lời ta.
- Không! Chính con đây! Nhưng con quyết cứu thầy ra khỏi hỏa ngục quái ác này! Thầy hãy ngó con đây!
Soạt! Người lạ giật phăng mảnh vải trùm mặt. Ánh đèn vật vờ soi tỏ bộ mặt đẹp lạ thường của Trại Phan An Lê Thái Dũng.
Vẻ xót xa não nề in rõ trên khuôn dáng hào hoa.
Tội nhân thở dốc không ra cười không ra khóc:
- Chao ôi! Ta bị khoét mắt hơn năm nay rồi còn đâu! Nghe tiếng hiểu... Mi dạo này công lực mạnh lắm rồi! Lời hứa như dao chém đá, mi nên rời khỏi hang ngay! Đây là Địa Ngục nhốt chồng, của riêng vợ ta nhốt ta, không can dự chi đến người ngoài!
Người lạ, Thái Dũng vẻ mặt xót xa, dáo dác nhìn quanh tìm vật vượt, miệng thống thiết:
- Trời ơi! Tôn sư đã mù lòa? Bị khoét mắt? Thần Sầu Bà đã đang tâm khoét mắt tôn sư? Vợ khoét chồng à?
Chàng trai họ Lê đi dọc bờ vực, bỗng như sực nhớ ra điều chi, Lê nhảy lùi phắt lại mấy bộ, vươn tay giật chiếc gậy giắt sau lưng.
Trên bánh xe quay, tội nhân già lúc đó cố vươn cổ nghiêng tai nghe ngóng, vùng gọi hết lực thừa:
- Mi đâu rồi? Sao không lên tiếng? À... thì ra mi toan tính nhảy vào Địa Ngục! Vực rộng không thể nhảy một cái, mi lại định giở thuật "đạp vật cách không phi" đó ư?
Thái Dũng cầm ngay chiếc gậy ngắm nghía, e ngại rung giọng:
- Đệ tử đây! Trong hang toàn đá, đệ tử định mạn phép tôn sư ném chiếc gậy làm vật tựa qua vực đấy!
Miệng nói, tay giơ cao chiếc gậy song, toan quăng về phía trước, bỗng dừng phắt lại, ngơ ngác vì nghe tiếng tội nhân già kêu lên giật giọng:
- Khoan khoan! Ngốc tử! Vực ôn sâu thẳm, đạp nhằm gậy rơi mất còn gì! Mi không biết giá trị chiếc gậy đó sao? Gậy của lão Thần Quân Mặt đỏ!
Thái Dũng chợt hiểu ông già muốn nhắc đến vật nhét kín trong ruột gậy. Vì tội nhân già đang bị khảo đả trên guồng bánh xe Địa Ngục chính là khách võ lâm thượng thừa khét danh Hồng Diện Thần Quân. Ông già bất hạnh, kỳ lạ, suốt đời gặp toàn chuyện ngang trái, thầy dạy võ đầu tiên của Lê Thái Dũng và là chồng oan khổ của Thần Sầu Đoạt Mệnh Bà, đã để di ngôn lại cho Dũng trước khi đem thân trả nợ Thần Sầu tại miền thâm sơn Si Công Linh.
Nhớ lại chuyện cũ, chàng tuổi trẻ càng xúc động tâm can, rung giọng đáp:
- Mong ân tôn sư thương tưởng, đêm nọ đệ tử đã nhận được di ngôn!
- À, trách nào ta "nghe" kiếm khí quen quen! Còn... lời dặn?
Thái Dũng sực nhớ lại việc cũ, bất giác khẽ thở dài, đứng ngay người chắp tay, cúi đầu, kính nói:
- Đắc tội muôn lần... đệ tử vẫn cố tuân lời di huấn, quyết làm chuyện thuận thiên đạo nhân luân... bất nhân bất nghĩa... theo nghiêm luật sư môn... nhưng cứ mỗi lần đáo sự, đệ tử tự nhiên lại làm toàn chuyện trái ngược hẳn... đã nhiều lần mắc tội... dám xin tôn sư mở lượng...
Dũng đang nói dở câu, bỗng Thần Quân mặt đỏ vùng cao giọng hỏi chặn luôn:
- Ngốc tử! Thế mi có làm theo lời ta dặn mỗi khi phạm phải cấm điều không?
Chàng trai cung kính:
- Dạ... bẩm, một lần phạm tội, đệ tử đều hối ngộ, rạch người đền tội... Và nay di thư đã đầy máu rỏ thành cuốn huyết thư...
Thần Quân "à" một tiếng rồi nín thinh.
Guồng bánh xe quay đến hai vòng, lửa liếm da thịt khét lẹt, chợt ông già tội nhân hỏi:
- Dũng họ Lê! Máu đổ đầy giấy bản... mi có thấy gì không? Đầu óc thông minh như mi có hiểu ý ta không?
Chàng trai ngơ ngác:
- Bẩm... dám mong tôn sư mở lượng... Đệ tử biết mình đã phạm nhiều tội lớn... Nếu không vì thù nhà còn mang nặng, đệ tử đã đem thân đền đáp...
- Ngốc tử! Dài dòng! Mi chưa bao giờ ngồi đọc huyết thư trên lửa sao?
Chẳng hiểu ông già hỏi có ý chi. Thái Dũng vừa đáp "bẩm chưa", đã nghe lão phá cười chua chát:
- Ngốc tử! Chao ôi! Mi thật vô duyên. Cuốn đó giữ bên mình chứ?
- Bẩm, ngày đêm không rời... Nhưng lúc canh ba vừa rồi, mải đấu với Sài Kíu Tinh, Tây Quỷ, Đông Quân, chẳng may rút gươm quá mạnh đã rớt mất... Không còn...
Vừa nghe dứt, ông già vùng kêu lên hai tiếng "chao ôi" vô cùng tiếc hận, rồi im bặt toàn thân bất động, mặc cho lửa đốt dùi xiên.
Thái Dũng thấy thái độ kỳ lạ của ông già, không khỏi giật mình kinh ngạc, mở to mắt nhìn, gọi giật:
- Tôn sư! Tôn sư! Chuyện chi thế tôn sư?
Gọi hỏi liền mấy câu, vẫn bất động, mãi mới nghe ông già thở phào một cái, cất giọng thê lương khó hiểu:
- Trai Lê! Còn đứng đấy làm gì! Mau rời địa ngục! Ôi thôi! Một đời bất hạnh, còn việc cuối cùng dốc lòng ký thác cho mi, cũng không xong nốt! Vô duyên xấu số! Xấu số vô duyên! Vô duyên với cha mẹ, vợ con. Vô duyên với kẻ thù, với học trò. Vô duyên với nước nhà! Ha ha! Nam quốc Nam nhân. Ta sinh ra dưới trời Nam, mang máu Việt Nam, ta người Nam quốc, muốn đền nợ Nam Bang cũng không xong! Ha ha! Ta không phải Nam nhân! Ta chỉ còn mong trả nợ lão bà!
Càng lúc giọng ông già càng bi thống, thảm thê như tích chứa cả nỗi hận mang trùm vũ trụ của một hiếu tử dốc lòng trả nợ sinh thành không được, một tay kiếm khách thượng thừa suốt đời khổ luyện, tìm thù không còn nữa, nỗi thương dung của hiền phu muốn yêu vợ con không được. Ông thầy thương trò muốn giúp, không xong, đến cả việc cuối cùng đền nợ nước gã không nổi nốt!
Thái Dũng nghe tưởng chừng như muôn ngàn mũi dao đâm vào ruột, hiểu thấu niềm thống hận của tôn sư, một bậc dị nhân siêu đẳng đầy lòng trung hậu nhân nghĩa, hiểu mà suốt đời không làm được việc như ý, để phải đem cả xác thân trả nợ quái thê? Sống mũi cay cay, chàng trai rưng rưng mắt thương thầy, đoán chắc trong cuốn di ngôn có ẩn điều chi quan hệ, nên vội nén xúc cảm, vùng cao giọng bảo:
- Tôn sư! Có điều chi... tôn sư cần dặn? Đệ tử vượt vực sang rước "người"!
- Ra mau! Ra mau! Ta với mi, giao ước đã xong, còn gì bận óc đâu! Ra mau!
- Nhưng nơi đây địa ngục trần gian... đêm ngày thầy chịu khảo đả ghê gớm, con không thể đứng nhìn cảnh thảm.
- Trai Lê! Đây là Địa ngục nhốt chồng! Ta chỉ còn mỗi việc trả nợ lão bà, mi định cản sao? Ra mau! Chao ôi! Nợ gối chăn... phu thê chung thân xa cách... nay đến hồi gánh trả! Ôi! Hình phạt bà ta xử đây nào đã thấm gì với ngót thế kỷ đàn bà phải cô đơn một bóng khuê phòng. Ta vì thù nhà, lưu lạc bốn phương để bà lủi thủi suốt đời, tội này trượng phu phải gánh!
Thái Dũng không hiểu nỗi lòng của Thần Quân, vốn đối với ai cũng bao dung như trời biển, tính lại cương cường sòng phẳng đến độ quá khích, nhưng nghe ông già bảo "đem thân" trả nợ gối chăn, chịu hình phạt độc ác bù lại tội để bà già cô đơn suốt tuổi xuân thì chàng trai không sao chịu nổi, vùng lớn tiếng nói vọng sang như quát:
- Tôn sư! Xưa nay phu xướng phụ tùy, vợ ngoan phải theo chồng dẫu xuống đến âm tiểu đệ cũng chẳng từ, huống chi một đời lẻ bóng? Thờ chồng không kể đến thân, hiền phụ phải giúp chồng trả thù nhà nợ nước, lẽ đâu còn bắt đền nợ gối chăn vô lý thế? Thầy xa vợ vì nghĩa lớn, thầy không thể thác oan!
- Trai Lê! Ta đã hứa đem thân trả nợ, mặc bà muốn nhốt ta vào Địa Ngục cửu tuyền hành hạ, hay đem xuống âm cung! Chớ can dự! Ra ngay! Nán lại có khi mang họa!
Thấy ông già cứ cam lòng chịu đựng nhục hình, Thái Dũng không chịu nổi, vùng kêu lớn:
- Trời ơi! Trên đời này sao lại có người vợ sói lang hành hạ chồng như quỷ sứ hành tội nhân dưới ngục A tỳ! Thầy có tội chi đâu? Nếu không chịu nổi cảnh cô đơn, theo sách "Gia Lễ", bà có thể... Đang nói, chàng trai chợt ngừng bặt, vì đột nhiên có tiếng hét the thé nhọn hoắt nổi lên như dùi vào túi, rồi từ phía cuối hang Địa ngục, một bóng đàn bà vụt xuất hiện, nhảy vèo một cái đứng sững sau cục trường bánh xe quay, mắt long sòng sọc sắc như dao, mặt bừng bừng giận dữ: Thần Sầu Đoạt Mệnh Bà!
Quái bà Miếu Âm Hồn trỏ hét:
- Thằng chó đú! Phải mày định nói... "bà có thể bỏ đi lấy chồng, nếu ba năm bặt vô tín" phải không? Nói mau! Mày là đứa nào dám vác xác vào đây? Ông già nghe tiếng thốt thở phào kêu lên:
- Chao ôi! Quỷ cái đã ra! Nhỏ con khá đi mau... mới được!
Thái Dũng vốn người có nghĩa, từ trước đến giờ, khi biết Thần Sầu Bà là vợ tôn sư, vẫn hết lòng kính nể, dẫu chạm trán đánh nhau, nhưng nay chứng kiến cảnh tôn sư bị nhục hình, chàng thấy mặt quái bà, giận sôi lên quên cả lễ độ, trỏ gậy song, quát lớn:
- Đúng đó! Bà già quái! Sao bà không đi lấy chồng khác, lại thù hận Thần Quân tôn sư?
Thần Sầu nhảy lên đứng kế bên bánh xe, dòm sang bên kia vực, hét:
- Chó đú! Mày là đứa nào dám nói hỗn? Trai trung không thờ hai chúa, gái tiết trinh chỉ biết một chồng. Bà nội mày không may bị tơ hồng se phải lão khùng suốt đời bỏ vợ đi kiếm kẻ thù, mày tưởng bà nội mày tiết trinh lễ nghĩa không thua "Nàng Mạnh Quang cử án tề mi", lại có thể nhảy đi kiếm một thằng chó chết nào làm chồng lẽ nữa ư? Đang giận, nghe quái bà khoe mình như nàng Mạnh Quang, chàng trai họ Lê không khỏi cười thầm.
Vì nàng Mạnh Quang vốn là một "lão nương" nổi tiếng đời Xuân Thu về đạo kén chồng, thờ chồng trong thiên hạ. Nàng lên mười sáu tuổi, kén chồng khắp liệt quốc chư hầu, không gặp người vừa ý. Rất nhiều tài tử văn nhân võ tướng muốn lấy nàng, nhưng nàng không ưng, thề "nếu chẳng gặp hảo trượng phu, thà chết già làm con ma trinh tiết còn hơn." Kén mãi đến năm sáu mươi tuổi mới gặp một lão trượng phu bảy mươi tuổi, hai người nên duyên cầm sắt, rất ý hợp tâm đầu, vì tân lang cũng là bực đi kén vợ khắp liệt quốc chư hầu từ mười tám tuổi.
Nàng Mạnh Quang hết dạ thờ chồng, hai người ăn ở với nhau như khách. Mỗi lần dâng cơm nước, vật dụng, nàng Mạnh Quang đều "cử án tề mi" nâng ngang mày dâng chồng. Người chồng cũng giơ cao tay cung kính đỡ lấy, thành một giai thoại đặc biệt về nghĩa phu thê!
Thái Dũng bèn nghiêm sắc mặt, tiến hẳn ra chỗ sáng, nói lớn:
- Lễ nghĩa nàng Mạnh Quang? Bà biết Mạnh Quang ăn ở với chồng sao không? Nàng "cử án tề mi", còn bà, bà hành hạ độc ác hơn lang sói! Bắt nợ chồng?
Còn bà thực tình bà đâu có lủi thủi khuê phòng, suốt đời mê mải đuổi theo kho tàng. Bà mê vàng hơn cả chồng con sao còn bắt vạ?
Thần Sầu Bà trợn tròn mắt hét:
- À! Tưởng đứa nào, té ra thằng nhãi con tuần phủ Cao Bằng! Can dự chi đến mi? Biết không? Lão mặt đỏ này miệng nói tử tế, trong lòng hiểm hơn rắn rết!
Mày biết gì dám xen vào việc riêng của bà nội! Cút ngay!
Vút! Quái bà vung tay múa tít một sợi dây câu móc sáng quắc, ngẩng lên nhìn ông già, hét chìm gai:
- Nghiệt phu! Gan bằng bắp chuối, hiểm hơn rắn rết! Coi vàng hơn vợ, hơn cả xác thân! Tận tình nhân nghĩa! Đêm nay chúng nó đổ đến núi Quạ, tranh nhau từng phút, lão vẫn giấu vàng trong bụng, không khai! Hừ!
Vút! Vút! Soạt! Phập! Lưỡi câu bay lên móc vào bụng dưới lão Thần Quân, lôi ra một mảng vai rách dính thêm một miếng thịt bầy nhầy đỏ hỏn. Ông già rú lên, quằn quại, phều phào:
- Bà... bà giết tôi đi! Để sống làm gì? Tôi thân còn chẳng tiếc, tiếc chi vàng!
Vút! Lại một miếng thịt móc ra, máu rỏ tong tong.
- Không tiếc vàng, nhưng nghiệt phu tiếc ta! Cho ta không đáng làm chủ kho tàng nước Nam! Nói mau!
Guồng quay, lửa đốt, dùi xiên, câu móc, ánh đèn ma quái vật vờ. Thái Dũng chợt hiểu, quái bà hành hạ khảo đả tìm bí mật kho tàng.
- À, thì ra tôn sư có điều bí mật ghi ngầm trong cuốn di ngôn và quyết không tỏ lộ cho ai biết! Tiếc thay! Ta đã đánh mất tập thư vô giá kia! Nay ác bà ác nghiệt quyết khảo đả "người" tìm biết điều bí mật. Thương thay! Người đã truyền hết điện lực cho ta, nay lại một lòng thủ tín, đem thân trả nợ quái thê... Lẽ nào ta để người chịu nhục hình ghê gớm mãi? Dầu sao cũng cứu người đã!
Nghĩ đoạn, Thái Dũng vùng quát lớn:
- Quái bà! Hãy ngừng tay độc! Lê mỗ phá vỡ Địa ngục!
Lời bay, ánh thép xanh đã bay theo nháng cục trường. Chàng trai hét một tiếng, ánh thép đảo cầu vồng nhanh như điện. Chát chát, phập phập! Bao nhiêu giáo lửa, móc câu, dây chằng cần trục quanh bánh xe đã bị chặt đứt theo mấy hàng đèn đất đang chao! Lập tức guồng ngừng quay, cục trường rúng động rồi tất cả đều yên. Thiên La Địa Võng tối sầm, chỉ còn vài chục ngọn đèn tít trên cao cháy vật vờ. Thuận đà, ánh thép đảo cầu vồng loe rộng, phạt nốt mấy hang giáo nhọn cần trụ, xẹt thốc xuống đầu Thần Sầu. Quái bà nhảy vèo vào sâu, hét:
- À, thằng chó đú dám phá Địa ngục của bà nội! Quản ngục đâu! Xé xác nó cho ta!
Người Rừng nãy giờ vẫn đứng giương mắt dòm, có vẻ sợ hãi, bỗng nghe tiếng quát Thần Sầu, nó chớp lia hai con mắt đỏ ngầu, trở nên hung hãn khác thường, lắc lư sấn ngay tới.
Thái Dũng tưởng từ ngoài vực vào chỗ quái bà cũng trên bảy mươi bộ, nên lập tức thu kiếm, lùi lại, toan quăng gậy nhảy vào cục trường. Sực thấy Người Rừng xông tới, chàng vội đảo tay kiếm, định chém, vùng nghe tiếng Thần Quân hú một tràng quái dị, tiếp liền tràng tiếng Quảng Tây:
- Nằm xuống! Tìm chỗ nấp! Không biết địa hình cạm bẫy, chớ vào!
Lẹ trí, Dũng vật luôn mình xuống, lăn vèo vào chỗ có thạch nhũ đúng lúc Người Rừng nghe hú cũng đứng sững lại. Trong kia Thần Sầu đã dậm nhẹ chân một cái, từ mấy phía vách liền mấy tràng tên thép, đạn chì bắn vãi cả vào chỗ Dũng như mưa! May chàng vừa hụp xuống, đạn xé trốc đầu, lưng xiên qua áo, "chíu" bên tai nóng bỏng. Nguy hiểm! Chàng trai vừa ngồi lên chưa kịp ẩn thân, Thần Sầu đã đánh thốc hai tay, vẫy hai họng súng theo nhanh như chớp. Dũng vừa định thần đưa mắt trông vào đã thấy họng súng khạc đạn!
- Chó đú chết này!
Tiếng quái bà thé nhọn. Đoành đoành! Liền hai tiếng nổ động hang sâu... Một cơn gió thốc đẩy bắn Dũng vào sau thạch nhũ.
Ngó vào đã thấy quái bà kêu lên kinh ngạc, ôm tay bắn lộn sau mỏm đá trong, súng bắn tung đâu mất! Sực trông ra xế bên vách tả, đứng sừng sững một bóng người rắn như hình thạch nhũ dưới ánh đèn loang lổ, vạt áo chàm còn lộng bay theo thế vừa vọt tới, chân đá gió vừa thu hai tay hai súng, uy phong trùng trùng.
- Thần Xạ Đại Sơn Vương!
Quái bà bật kêu. Thái Dũng sực nhận ra ân huynh, lòng mừng khôn xiết, vừa bật được một tiếng "trời" sửng sốt. Người tướng lạc thảo Vân Nam đã quay tít súng, bắn dứ thêm hai phát về phía quái bà, cất giọng chuông đồng sang sảng:
- Thối bà! Mỗ không bắn chết ngay vì còn muốn nói vài câu chuyện! Không ngờ trên đời lại có thứ vợ quái ác như mụ! Nhốt chồng vào hỏa ngục khảo đả cực hình táng tận lương tâm, cạn tình phu phụ! Biết điều tha cho Hồng Diện lão và ra đây ngay!
Cuối hang sâu, Thần Sầu Bà cười thé:
- Tướng giặc bắn trộ, tưởng giỏi lắm sao? Thoát được vực hang trên, mò vào hang dưới này không bị tử thần phong vật chết, may đó! Giờ hãy cút đi! Đừng xen vào việc riêng của mụ! Đại Sơn Vương cười khô:
- Mỗ hứa tàn canh sẽ ra khỏi vực hang! Giờ mụ không chịu nói chuyện sao?
Nghiệt phụ! Giờ mỗ mới rõ câu "tối độc phụ nhân tâm"! Nhốt chồng hành hạ suốt năm ròng, đòi của báu... Được lắm! Để mỗ vào địa ngục coi cạm bẫy ra sao!
Dứt lời, toan lựa thế nhảy qua vực, bỗng trên bánh xe, ông già tội nhân vùng phào giọng:
- À... ai đó? Bắc Thần Vân Nam đây ư? Nghe thấy Bắc Thần oai võ, lão từng ước ao xem mặt, thử tài... Tiếc thay! Giờ gặp đây mắt lão chẳng còn, võ công đã hết! Cám ơn lòng tốt của người nhưng lão đây đem thân trả nợ lão bà, bất tất Bắc Thần phải nhọc lòng!
Tướng lạc thảo tuy xông pha trăm trận, lâm sự lắm lúc giết người như ngóe, nhưng bản tính nhân hậu, ghét điều độc ác, thấy cảnh vợ khảo chồng chẳng thể làm ngơ, vùng nói lớn:
- Lão Quân tiên sinh! Quái bà nanh ác hành hạ chồng còn ghê hơn thần trùng khảo đả vợ. Chỉ hạng đàn bà đó, mỗ không thể chiều ý tiên sinh được!
Dứt lời đoạn phóng qua vực, nhưng giữa cảnh vờn sát khí, thình lình có tiếng thét chói tai rõ giọng đàn bà giàu điện lực:
- Khảo chồng hơn thần trùng khảo đả! Trời ơi! Trên đời này lại có thể có người vợ "thờ" chồng đến thế sao?
Tiếng bay van vát, ai nấy đều đảo mắt nhìn quanh. Bỗng thoáng từ phía xế sau lưng Thái Dũng chỗ nhiều thạch nhũ có một cái đĩa trắng toát bay xé lên trốc vực thẳm rồi một bóng trắng xóa bắn vụt theo, cái đĩa vừa hạ xuống đang quay tít trốc vực độ hai thước thì bóng trắng cũng vừa hạ xuống, đạp trúng mặt đĩa bắn vụt mình đi, đĩa rơi xuống vực thẳm bóng trắng đã sừng sững trong cục trường bên guồng bánh xe. Tính ra hai cái nhảy cách không đã vượt hàng mấy chục bộ dài.
Cả Đại Sơn Vương, Thái Dũng, Thần Sầu thấy bóng trắng dùng thuật "cách không phi" vượt qua vực rộng trong nháy mắt, thảy đều thầm phục bản lãnh của bóng lạ. Tướng lạc thảo vùng khen lớn:
- Hảo nghệ thuật!
Vì lối nhảy cách không đạp vật này là một bộ môn tuyệt kỹ trong võ học thuộc phép phi hành cao đẳng, phải tay giàu công lực giỏi khinh thân lắm mới luyện nổi. Nó cũng tựa như lối "đánh ciseau" trong môn nhảy dài của các tay lực sĩ trên vận động trường vậy, nhưng còn khó hơn nhiều. Lối "đánh kéo" kia rất lợi hại nên bị cấm trong các cuộc nhảy thi, vì đáng lẽ lực sĩ nhảy dài được sáu thước, hết đà hạ chân xuống, nếu biết "đánh kéo" đến mức sáu, dùng tận lực đạp tung hai chân vào không khí có thể vọt bắn thêm quãng nữa rồi mới hạ xuống. Còn lối cách không này, chẳng những phải giỏi khinh thân, còn phải lựa sao đạp trúng vật lơ lửng kia, làm một điểm tựa vọt mình đi. Vực Địa ngục này sâu rộng khác thường, sẩy chút hụt chân là rớt xuống đáy chết tiêu dưới lòng nước ôn. Cả ba người đều đã quen thuật "đạp vật phi" nên chỉ nhác qua đã lượng được bản lĩnh kẻ lạ, cùng đảo mắt trông theo, càng ngạc nhiên thấy bóng trắng đứng đó là một bóng cao cao, mặc quần áo đại tang, đội mấn nhọn, mặt trùm kín, tay chống gậy bện rơm coi mười phần quái dị.
Vừa hạ chân, bóng này đã ngửa mặt lên, hỏi to:
- Ông già mặt đỏ! Phải ông già bị nhốt cả năm này rồi? Phải bị bà già khảo đả như thần trùng không? Nói mau! Nói mau!
Trên bánh xe, Thần Quân phều phào có giọng ngạc nhiên hết sức:
- Ai? Lại ai vừa nhảy vào đấy? Chao ôi! Sao bữa nay lắm kẻ vô can xen vào chuyện gia đình lão? Mà ai tiếng đàn bà sao nghe quen quen. Lão đem thân trả nợ bà già. Mặc lão!
Bóng nữ mặc đại tang phát cười thê lương chua chát lạ thường, vụt véo cây gậy vào không khí:
- Già khùng! Già khùng! Hỏi có bị khảo thực không?
Thần Sầu Bà lúc đó đứng tít cuối hang, đang ngạc nhiên không ít trước sự xuất hiện thình lình của cái bóng trắng, vừa nghe đến đấy, quái bà vùng hét giận:
- Chó cái! Mày là con nào bịt mặt vào tra hỏi? Bà nội mày khảo lão khùng hay không, sao chẳng chịu giương mắt ếch mà nhìn, hỏi thừa lời!
Bóng trắng dòm thân xác Thần Quân nát nhàu, lở loét đầy thương tích, vùng kêu:
- À! Thần Sầu khảo đả Thần Quân. Vợ oán thù chồng, nhốt ngục xẻo thịt nướng da! Ông già võ công cái thế, sao chịu nhục hình?
- Chó cái! Lão khùng truyền hết điện công cho thằng họ Lê rồi, còn đâu! Gan hơn cóc tía, khảo mãi không xưng, coi bà nội như cỏ rác! Chó cái cút đi, chớ xen vào việc riêng của bà nội.
- À! Thì ra khảo đả tìm vàng. Vàng! Vàng! Bà già quái ác thần trùng!
Véo véo! Rắc rắc rắc! Rầm rầm! Cây gậy cuốn rơm đánh thốc ngược lên như chạy máy cả cái guồng bánh xe, cục trường, câu móc gẫy nát ra từng mảnh, nhả luôn thân thể lão Thần Quân xuống, trong lúc thân lão tội nhân đang đổ từng loạt mảnh vụn bắn vung thì cây gậy xoay chiều vụt thốc về phía Thần Sầu Bà. Bóng trắng xuất thủ cực lẹ đến nỗi Đại Sơn Vương, Thái Dũng đứng ngoài phải phục thầm. Quái bà cả giận hét:
- Con này giỏi! Dám phá ngục bà!
Tay đánh thốc ra, nghe "bùng" một tiếng. Cả Thần Sầu, bóng trắng đều bật lùi cả thước, nhưng bóng trắng đã vung tay khoa ngược đầu gậy đỡ đỉnh ngay lấy thân hình lão Thần Quân cuốn vụt xuống, cắp luôn vào ngang nách, thủ pháp nhanh lẹ.
Thần Sầu Bà trợn tròn mắt, rút "soạt" thanh mã tấu, nhảy vèo ra, chém nhàu.
- Chó cái! Để lão khùng đó! Mang đi đâu?
- Đem ra ngoài Địa ngục thần trùng, tìm nơi mát mẻ chữa chạy cho ông già. Để đây cho bà hành hạ mãi sao?
Hai bóng đảo như cặp chim cắt giữa lòng Địa ngục chập chờn ánh xanh lè. Địa ngục đầy cạm bẫy, bóng trắng vẫn lượn như không. "Chát" gậy rơm quật vào mã tấu, tay quái bà muốn tê chồn, bóng trắng cười thỏ thẻ.
- Mã tấu Lý Tú Thành Thái Bình Thiên Quốc! Lần này sẽ gãy đôi!
Chiếc gậy rơm quả có sức dị kỳ phát gió vù vù. Lão Thần Quân chẳng hiểu nghĩ sao, vùng kêu lên:
- Chiếc gậy... Có khí lạnh quen quá! Người là ai? Bắt lão đem đi đâu?
Máu... Ông già vội ngừng bặt vì một ngón tay bóng trắng đã điểm vào huyệt yếu ngất đi.
Bóng trắng búng nhẹ một cái. Bốp! Cả cục trường bỗng dày đặc khói mù.
Thái Dũng đứng ngoài thấy bóng lạ cắp Thần Quân, bèn nhảy vút ra trấn mép vực, toan phóng qua, sực thấy bóng trắng từ trong làn khói vọt ra, toan lựa thế tung mình qua vực, chàng trai vùng quát:
- Bạn mỗ! Hãy trao tôn sư cho Lê này về săn sóc!
Bóng trắng cắp Thần Quân lộn phắt lại, biến vào khói mù. "Bùng bùng đoàng đoàng" liền mấy tiếng nổ vang động, cả hang sâu rung chuyển muốn sụp. Mùi khét nồng nặc lan qua vực. Đại Sơn Vương quát trầm:
- Dũng! Coi chừng lôi phục độc khí!
Lời vừa ra, Thái Dũng đã quăng luôn chiếc gậy song ra ngoài vực, nhảy vọt sang cục trường đuổi bắt lại Thần Quân. Đại Sơn Vương đứng kế bên tả, giật mình hét:
- Dũng, quay lại! Mụ già sắp cho nổ địa ngục!
Vèo! Tướng lạc thảo quăng mình ra vươn tay túm Dũng nhưng không kịp, Dũng đã vọt đi, chỉ quơ được cái gậy, theo đà đảo vòng ra mép vực hữu. Giữa khi đó, bỗng trong cục trường mù mịt, có tiếng Thần Sầu cười điên dại:
- Chết! Cho chúng mày chết hết! Địa ngục bà vào dễ, khó ra! Hé hé! Ầm! Cả cục trường nổ tung, trần vách sụp đổ, các mảnh bánh xe, giáo cụt, đá vụn bắn tung như mưa rào. Mấy chục ngọn đèn đất phụt tắt vì áp lực.
- Trời! Hiền đệ nguy rồi! Dũng đâu? Đại Sơn Vương lia đèn bấm, từ trong một bóng vụt ra giữa cơn mưa đá vụn, nhưng chừng đuối sức, cái bóng còn cách mép ngoài đến năm thước, đã sa vụt xuống vực sâu. Đáo sự mới biết phản ứng thần diệu, tướng lạc thảo Vân Nam vừa thoáng thấy, đã bắn vút người ra theo hình cánh cung, tiện tay cầm gậy song, quét một vòng rộng, vừa gạt bay đá vụn vừa gạt dính vào lưng bóng kia. Và theo đà nhảy cả tướng núi cùng tay gậy gạt người đã đảo vòng sang mép hữu ngay khi còn lơ lửng tướng núi đã co tay gậy, kéo thốc bóng kia sang vòng tay trái lăn "vèo vèo" phía có thạch nhũ nhấp nhô. Cái bóng suýt sa vực không ai khác Thái Dũng.
- Sao? Hiền đệ có sao không?
- Ân huynh! Chúng biến ngách nào? Đệ chỉ bị sức ép lôi phục... Choáng váng chút thôi! Coi chừng Người Rừng! Đèn bấm chiếu lia, chẳng thấy quái vật đâu nữa.
- Chắc nó chạy rồi! Mau theo ngu huynh ra khỏi hang Địa ngục! Sợ mụ cho nổ đen hơi!
Hai người vừa vọt đi mấy chục bộ, đã nghe "ầm" lưng, tiếng địa lôi lở núi, đá tảng quật vào vách ình ình.
Hang tối mò, tình thế cực hiểm nghèo, lôi phục phát nổ bất cứ lúc nào.
- Đội đèn lên trán. Nắm chặt lấy vạt áo, sắp đến chỗ có luồng "tử thần phong" độc khí rồi đó! Phải vận hết tốc lực may ra kịp!
Hai người dính vào nhau bắn theo hai ánh đèn bấm chập chờn vừa vọt qua mành nước cửa thì liền mấy tiếng ầm ầm, cả khu hang Địa ngục chỉ còn là đống đá đen sì.
Vượt khỏi vực ngoài ào thác đổ, hai người cứ cắm đầu bắn mình đi như gió, tiếng lôi phục nổ ầm ầm như đuổi theo sau, quanh co khúc khuỷu mãi qua được luồng tử thần phong bên lại gió rít nước gào, thoắt chỉ còn cách cửa tử thần vài chục thước. Đèn xanh nhảy nhót, Đại Sơn Vương nghe tiếng lôi phục phát nổ quá gần, vùng quát:
- Vận hết nội lực, đề thân bắn mình đi mới kịp! Phía trước là cửa hổng! Nắm chặt không quật vào mép đá!
- Dạ!
Hai bóng như hai mũi tên rời dây cung bắn đi.
Thái Dũng nghe gió vù vù bên tai, mắt thấy đèn nhảy múa, vụt đã thấy ánh đỏ rực đập nhỡn quang, lồng ngực thử nhẹ hẳn như vừa trút được cả ngọn Ô Đầu Sơn trong buồng phổi. Ầm ầm! Liền hai tiếng long trời chân vừa hạ xuống, đã bị sức ép sau lưng đẩy bắn lên cao như trái cầu, đầu óc choáng váng, thần kinh rung động, nghe có tiếng thét giật bên vai:
- Coi chừng... đề bắn mình lên phía trái!
Tiếng quát còn dở, tay Lê đã bị giật rời vạt áo. Đại Sơn Vương toàn thân bay vút lên cao dạt sang phải, đúng lúc có một "tảng núi xồm xoàm" từ ngoài bắn vào, xẹt qua vai nóng hổi.
Thất kinh, Thái Dũng vội giang rộng cánh tay, nhịn thở, kìm đà bốc, vật mạnh người xuống tạo thăng bằng, cảm rõ chân giầy quét kéo hơn thước mới dừng. Vừa hoành thân định thần quan sát bỗng nghe "ầm" tiếng, tối tăm mặt mũi, thoáng vật xồm xoàm lại dật dờ bắn qua đầu cũng những tảng đá lớn nhỏ như xé không khí.
Trong mấy khắc đất trời đảo lợn, khét lẹt mùi đá vội gió thổi vù vù, bên tai có nhiều tiếng người kêu thất thanh, lẫn tiếng rống gầm kinh động... Rồi im lặng mênh mông, tiếng nước đổ gió thổi nghe vụt xa xôi mơ hồ như chìm vào dĩ vãng.
Chàng trai họ Lê thu mình chớp mắt đảo dòm quanh, suýt bật kêu sửng sốt. Vì phía hang vừa thoát ra, địa lôi đã phá sập biến cả cửa khẩu chỉ còn là một vách núi ngổn ngang đầy đá chồng, còn xông mùi khét. Cách độ hơn trượng, xế dưới chân lù lù hình thù khổng lồ của Người Rừng đang loạng choạng bò nhỏm dậy, miệng hộc máu tươi, thân xác đầy thương tích.
Lúc đó mới hay đã thoát ra ngoài triền núi, đứng chênh vênh trên sườn hữu, cách cửa tử thần mười lăm bộ, xế gần chỗ hai triền núi đâm vào nhau theo hình tam giác, dưới chân lởm chởm toàn mỏm đá tai mèo sắc như dao.
Và Đại Sơn Vương đã biến đâu mất. Mừng vì thoát khỏi trận địa lôi mưa đá, lại lo ngại nghĩa huynh ngộ nạn, Thái Dũng rạp mình xuống gọi lớn:
- Ân huynh! Ân huynh đâu rồi!
Vừa mở miệng, bỗng nghe gió bốc tới tiếp liền tiếng phát giật giọng:
- Coi chừng, địch thủ! Chó sói không được cắn trộm!
Nhanh trí, Dũng ngã soài xuống "véo" có vật nhọn táp sát mang tai lạnh buốt, suýt hớt cả một bên má. Dũng giật mình vừa vươn tay rút thanh kiếm đã nghe "chát" tiếng khô cắc, trước mặt nháng hào quang ngó ra còn kịp thấy một cái đầu sói sáng quắc bắn lộn tít xa, theo vệt thép loáng bình minh đỏ vừa tắt, thấy bên kia triền trái, tướng lạc thảo Vân Nam đứng sững, mắt sáng như điện, tay cầm ngang lưỡi gươm Mèo tộc, trỏ mũi thép ra nẻo ngoài nắng lớn. Dòm theo mọi sự thấy cách chừng hai mươi bộ, ngoài cửa hẻm mờ sương, lố nhố bóng lão động chủ Phản Tây Phàn cùng bọn Thầy Mo, Độc Trùng Bà.
Lão Tinh cười thé:
- Tưởng chú em đã chôn xác trong Địa ngục! Lão gia tìm suốt canh năm, hiện mấy phía vòng vây chặt lắm, đừng hòng trốn thoát! Biết điều nộp món đó mau!
Như đáp lời lão Tinh chợt mấy phía ở đầu hàng loạt súng nổ chát chúa. Tiếp liền tiếng chó sói tru vang động núi rừng bình minh, rồi mấy phía hiện ra mấy chục cái đầu chó sói nhô khỏi mỏm đá triền, nhe nanh múa vuốt chực xông tới táp táp.
Lúc đó, Người Rừng bị kẹt giữa vòng, đứng gừ gừ hết dòm trước lại dòm sau, lão Tinh bảo chó sói táp liền, chẳng ngờ Đại Sơn Vương lại chém bạt đầu sói, mắng lớn:
- Chó Tinh! Không được giết nó! Tưởng đem ít tay súng quèn, mấy con chó đủ vây hãm nổi mỗ sao? Quái thù Rừng! Chớ sợ! Lùi lại ta bảo vệ cho!
Lạ thay! Như hiểu tiếng người, con quái vật dáo dác lùi ngay lại, lùi mãi.
Sài Kíu Tinh thé giọng:
- Lão gia đã bố phòng suốt đêm, làm chủ núi Quạ rồi! Thức thời, cả hai mau nộp bảo vật! Đại Sơn Vương bảy mảnh, còn một mảnh, người bịt mặt vừa đoạt của Thần Sầu, chính chú mày. Đúng! Nộp mau! Chớ để ta phải nổi hiệu kêu đại pháo!
Lời lão vừa buông trên triền tả hữu, ẩn sau điểm tựa, bốn con mắt huynh đệ vụt nhìn nhau như dò xét.
Thái Dũng sực nhớ đến mảnh họa đồ Bát Quái tình cờ đoạt được của quái bà miếu Âm Hồn.
- Bảy mảnh trong tay nghĩa huynh, một mảnh hiện trong túi ta... Ghép lại thành chìa khóa mở kho tàng vô giá! Chỉ sau đây nửa phút gia phả họ Lê đã thành vô dụng! Lời nguyền gia tộc, bao nhiêu tử biệt...
Và lớp lớp vàng thoi chồng chất... Bí mật cuối cùng hiện trong tay ta... Đại Sơn Vương cũng nhớ ngay lại điều bí ẩn trong huyết thư nằm túi áo, và bảy mảnh họa đồ Bát Quái.
- Chìa khóa, mở kho tàng chí bảo hiện trong tay ta! Chỉ khắc sau, họa đồ Bát Quái sẽ thành vô ích! Cả thiên hạ chưa ai biết, kể cả lão Thần Quân, Thái Dũng!
Lời nguyền dao chém đá, sứ mạng thiêng liêng, kho bao nhiêu huyết hãn... Bí mật nằm đây. Đầu óc choáng váng, bốn mắt chiếu vào nhau muốn bốc cháy tự nhiên... dây thần kinh Đại Sơn Vương rung mạnh, tướng núi khẽ hất hàm, chìm giọng đá hỏi:
- Lê đệ! Điều đó đúng không?
Hình ảnh thâm tình rực lên, với cử chỉ giọng nói bao dung, ngày cứu mạng bên Bằng Giang... Nhưng buổi truyền nghề tác xạ, bí thuật võ công cùng bao nhiêu kinh nghiệm dọc ngang... của nghĩa huynh quắc thước, chí tình... Ánh mắt trong suốt thăm thẳm như pha lê, chàng trai họ Lê gật đầu rất tự nhiên, lễ phép.
- Dạ đúng đó. Lão không nói sai đâu! Ngu đệ vào Ô Đầu Sơn tìm nơi giam Thần Quân, tình cờ vào mật thất quái bà bắt được hộp bảo vật trong vách ghép.
Mở coi mới hay chính bản họa đồ Bát Quái. Sực nhớ ân huynh đã có bảy, em bèn bỏ túi, định tặng anh, nãy giờ bận, chưa kịp thưa. Hiện ngu đệ cầm đây, để lấy biếu anh!
Giọng Dũng rất thành khẩn, vừa nói vừa lần túi áo trong lấy hộp sắt nhỏ bằng bao diêm ra, toan quẳng sang, lại do dự sợ thất lễ, vừa định nhổm lên... Bên kia ánh mắt điện thoáng dịu hẳn, tướng lạc thảo Vân Nam khẽ thở phào, nao dạ có ý hối đã ngờ vực người nghĩa đệ, vùng xua tay, rung giọng:
- Khoan đã! Dũng! Đừng trao vội!
Ngay khi đó, ngoài xa, Sài Kíu Tinh vùng nói lớn, hấp tấp:
- Phải đó! Phải đó! Chớ dại đưa của quý cho tướng cướp, nó lấy không kho vàng! Để nộp lão gia, lão tha ngay lập tức.
Thái Dũng trừng mắt mắng:
- Chó sói! Không được hỗn! Ân huynh! Biên thùy đại loạn, mấy cõi dân gian đồ thán, cả thiên hạ giết nhau từng phút, tranh nhau từng giây. Chỉ tại kho vàng vô chủ! Thượng Đế run rủi cho em bắt được mảnh cuối cùng để em cản chúng, ân huynh mau đi làm chủ kho tàng triều Nguyễn cho xong!
Véo! Hộp sắt rời tay Dũng bay qua hẻm thắt sang triền bên kia. Đại Sơn Vương vừa kêu được tiếng "khoan" đã thấy Dũng ném sang, tướng núi vội nhổm lên, vừa kịp nhác thấy lão Tinh nhô đầu chong súng bắn chặn cái hộp, tướng núi vẫy vụt tay súng phải "đoàng". Đạn Thần Xạ xói tung cây súng lão Tinh, tay trái chàng quài ra bắt dính cái hộp sắt.
- Trong thiên hạ có hai chiếc chìa khóa mở kho tàng. Cả hai chiếc đã nằm trong tay ta trong một khắc!
Trong thoáng giây, hình ảnh ngày kỳ ngộ rực lên... với bao niềm rung động bao dung, những buổi dạy bắn, những câu tâm sự cử chỉ ngôn ngữ của người nghĩa đệ... Và những lời phát nguyện đinh ninh "chỉ theo đường bản đồ Bát Quái."
Rất tự nhiên, Đại Sơn Vương vừa bắt được hộp lập tức quăng trả lại:
- Hiền đệ! Hãy cầm lấy! Ta có điều muốn nói! Với lấy hộp, ngạc nhiên, đừng mở to mắt.
- Kìa, sao thế ân huynh?
- Hiền đệ! Biết cuốn di ngôn đâu không?
Ngay lúc đó, cả tiếp mân xôn xao, rồi lão Tinh vùng hét:
- Quả nhiên, tám mảnh họa đồ trong tay hai chú! Bay đầu! Chận họ lại! Đại Sơn Vương, Thái Dũng không khỏi chột dạ, vội đảo mắt quan sát địa hình, vì cửa hang đã lấp, giữa hẻm thắt, súng bắn thẳng không ngại, chỉ sợ súng bắn vòng cầu, nếu bọn lão Tinh có thủ hạ đóng phía dưới với vài khẩu moóc-chê!
Quả nhiên, đúng như mối lo của hai người, liền mấy tiếng "cạch bùng" rồi hai phát nổ "ầm ầm" ngay cửa hầm, tung đá vụn rào rào.
- Sao ân huynh biết? Di thư đệ đã đánh rơi trên ngọn... hồi đêm... Tiếc thay!
- Không sao! Ta tình cờ bắt được! Tình cờ máu ta chảy đẫm... mới hay máu rỏ thành vàng... Hiện giữ để trả em đây! Đại Sơn Vương rút tập thư nhét vào ruột gậy, đưa tay làm mật hiệu đọc thư.
Dũng lúc đó mới sực nhớ lúc nãy lão tôn sư có hỏi "đã bao giờ đọc trên ánh lửa chưa?" Chàng trai vụt hiểu kêu lên:
- Trời ơi! Ân huynh lại bắt được cả gậy song! Khoan đã! Để xuống núi sẽ hay!
- Tình thế hiểm nghèo, ta muốn vật hoàn cố chủ.
Dứt lời, Đại Sơn Vương quăng vụt gậy sang, Thái Dũng lật đật đưa tay chụp bắt, tay kia ném luôn hộp sắt đựng mảnh họa đồ thứ tám.
Hai người cùng bắt dính, bốn mắt nhìn nhau. Tướng lạc thảo Vân Nam trầm giọng:
- Hai đường đều dẫn tới kho tàng nước Nam. Đường ai nấy đi, ước mong anh em ta không gặp nhau ngay ngưỡng cửa kho tàng!
Dũng thở dài:
- Anh đã mắc lời nguyền phải đoạt, ước mong em tới chậm một đêm! Đại Sơn Vương nhếch miệng cười bâng khuâng:
- Tương lai còn thuộc về trời! Giờ phải thoát vây lập tức! Hiền đệ khá lưu tâm, thấy cơ hội tốt, thoát nạn chớ chậm trễ!
Lời vừa dứt, bỗng nghe súng nổ tứ bề, đạn bay vù đầu. Người Rừng trong hang chạy ùa ra chỗ Dũng ẩn. Lại có tướng lạc thảo Vân Nam gọi nhỏ "hiền đệ sẵn sàng."
Thốt nhiên, chàng tuổi trẻ họ Lê thấy nhói tim như bị dùi đâm, vụt ngẩng nhìn sang Đại Sơn Vương.
Tướng lạc thảo Thần Xạ vẫn hai tay hai súng vẫy đều về phía bọn Sài Kíu Tinh, nhưng hai con mắt nhìn Dũng thăm thẳm, trong ánh mắt điện chan chứa sự thương mến khác thường, ẩn hiện lẫn niềm xót xa u uẩn sâu như Đông Hải.
Vừa chạm tia nhìn Thái Dũng, tướng lạc thảo thở phào một hơi dài, lặng lẽ gật gật đầu liền mấy cái, lắc vai bắn vọt mình ra sau triền.
- Ân huynh! Ân huynh!
Thái Dũng bật nhỏm lên dòm theo, chỉ thoáng thấy bóng áo chàm mất dạng sau mỏm đá tai mèo.
- Chúc người mạnh giỏi!
Ngay khi đó, liền mấy tràng súng nổ dòn, đạn xé "chíu chíu" trốc đầu, lẫn nhiều tiếng thét rợn, chàng tuổi trẻ họ Lê vừa cùng Người Rừng bắn mình đi một quãng, sực nghe rõ tiếng lão động chủ Phản Tây Phàn hét lớn:
- À, con rể Lưu Vĩnh Phúc! Lại mi!
Có tiếng cười ngạo nghễ bốc cao, tiếp liền là giọng Đông Quân Phi Mã Ác Sơn:
- Chó đú Tây Phàn! Đừng hòng phỗng tay trên! Lão gia lao tâm khổ trí đã nhiều, khi nào chịu để mi phỗng gọn? Cút đi! Để đấy cho lão gia!
Tiếng chúa soái Cờ Đen bay van vát, đạn vãi như mưa rào. Thái Dũng ghé mắt dòm, thốt giật mình, thấy hình tượng quái gở đen sì từ phía dưới vọt lên, theo sau lố nhố hàng trăm bóng giặc Cờ Đen vừa nhảy ào vừa bắn lia lịa, cách chỉ chừng trăm bộ. Ngó xuống sườn núi còn cách thung rừng đến hai ba thước, toàn đá tai mèo, nhiều chỗ trần trụi không một lùm cây ngọn cỏ, rất để lộ mục tiêu.
Bọn Sài Kíu Tinh vừa chống trả, vừa giạt ngang, đảo mắt tìm giữa trận mưa đạn. Bầy chó sói tinh khôn vẫn đánh hơi tru hộc. Thái Dũng còn đang lựa thế xuống núi, bỗng lại nghe tiếng quát tháo gần kề, giọng xạ phang, Quảng Đông lẫn lộn, líu lo mấy phía, sau một mỏm đá thoáng thấy bóng Đông Quân lao về nẻo chó tru.
Tình thế hiểm nghèo, chậm trễ sẽ rơi vào giữa vòng súng đạn Đông Quân, Sài Kíu Tinh. Thình lình nghe liền mấy loạt đạn "moóc" riêng, rồi có tiếng cười khanh khách của viên soái tướng Thập Vạn Đại Sơn Vương như chày vồ đóng vào tai quân địch:
- Cờ Đen vẫn mạnh giỏi chứ? Bữa nay cũng kéo đến vùng núi Quạ, định tìm mỗ chăng?
Dũng ghé mắt trông sang, vụt thấy Đại Sơn Vương nhô sững bên kia triền, dáng uy ngạo như hình đá mọc phơi gan trước họng súng mấy phe cường địch.
- À! Bắc Thần! Tưởng ai! Cố nhân! Cờ Đen vây tứ phía, tiếc thay lại gặp cố nhân có bảy mảnh họa đồ!
- Hà hà! Cờ Đen lầm rồi! Mỗ cũng rất tiếc vừa thu trọn tám mảnh, lại gặp Cờ Đen! Thôi! Mỗ đi lấy kho vàng! Vài hôm nữa sẽ tặng Cờ Đen vài tạ! Giờ còn ít "na" cầm tạm, nhớ chia cho lão Sói vài trái ăn chơi! Đoàng đoàng đoàng! Giữa cơn sửng sốt bỗng tạc đạn nổ liên hồi. Tây Phàn, Phi Mã Ác Sơn lật đật nằm rạp xuống, chừng dòm lên, đã thấy một dãy sa mù nhân tạo chặn ngang họng súng.
- Quân bay! Vượt sa mù, bám sát!
Tù và rúc vang động. Thái Dũng sực hiểu người nghĩa huynh muốn lộ diện nhử địch theo cho mình rút. Không dám chậm trễ, chàng trai họ Lê bắn vọt mình xuống dưới, phóng vun vút, như mũi giáo lao, chừng xuống được chỗ có cây cối bờ bụi, trông lên quả nhiên đã thấy lố nhố đen kín toàn bóng giặc Cờ Đen ngay chỗ chàng vừa đứng những tất cả đều xoay lưng lại, mải rượt nhìn về phía Đại Sơn Vương. Đảo ngó sang bên, không khỏi ngạc nhiên thấy Người Rừng đã đứng lù lù sau một mỏm đá rậm rạp. Thái Dũng hơi yên dạ, tiếp tục men triền bắc lao xuống thung rừng.
Chân núi Ô Đầu sương chăng mờ đỏ ánh bình minh. Trên nóc ngọn hang tử thần có một con thác đổ xuống một con suối trắng xóa vùng suối khe vắng vẻ.
Thái Dũng cả mừng, vừa chạy đến bên suối rửa mặt tỉnh táo sau một đêm thức trắng, bất ngờ thấy chim bay tán loạn, lố nhố mười mấy bóng người từ sau con thác vọt ra, dẫn đầu là một hình thù quái gở áo thụng đen, trùm mặt chống gậy xương âm u như bóng oan hồn: Sài Kíu Tinh, Thầy Mo, Độc Trùng Bà v.v...
- Nhỏ Lê! Mạnh giỏi chứ? Đưa đây mau! Hé hé! Không ngờ phúc chí tâm linh, bữa nay lão gia lại khôn hơn Cờ Đen! Cờ Đen nó đuổi theo tướng giặc Vân Nam đến phờ râu!
Thái Dũng kịp nhận ra địch thủ, thì đã vào tầm súng! Thất kinh, chàng trai chỉ còn kịp giật bắn mình vào sau một ghềnh đá, rút súng, lạnh lùng:
- Lão Tinh! Mi lầm rồi! Cờ Đen không dại đâu! Họa đồ Bát Quái đã sang tay Đại Sơn Vương rồi!
Bọn Sài Kíu Tinh cũng dạt sau điểm tựa, cười ngất:
- Nhỏ Lê! Họa đồ để cho chúng, lão gia chỉ cần tập sách trong túi Lê! Nộp mau! Ruột lão gia nóng như lửa đốt! Mau! Chuyến này đừng hòng thoát! Coi kìa!
Dũng vừa định rút kiếm, vội liếc sang bên, không khỏi thất vọng vì từ phía tả lại một toán hàng hai mươi tay súng đang sấn tới chân thác, gọng kìm kẹp lại, không lối thoát! Bất giác, chàng trai phẫn nộ thét lớn:
- Chó sói! Lại đây! Lại đây! Cùng ta tan xác với huyết thư! Vào đây ăn tạc đạn!
Sài Kíu Tinh cười ré:
- Nhỏ Lê! Đến nước này mi còn tiếc kho vàng hơn mạng sống? Hà hú! Cao thủ Tây Phàn đâu? Đợi gì nữa! Đạn nổ đì đẹt, liền mấy trái tạc đạn khói mê mù quăng vào ghềnh đá. Dũng vừa phất tay nổi gió hất bắn tung, nổ từng cụm khói. Bỗng nghe tứ bề súng nổ ran, đạn vãi vào lưng bọn Sài Kíu Tinh, có tiếng thét lảnh:
- Chó tinh! Không được bức chàng! Có soái cô đây!
- Trời! Con nhỏ cháu ngoại Lưu Vĩnh Phúc! Đạn bắn như mưa, đánh dạt lũ quái tà. Thình lình lại nghe tiếng hổ, beo, tây tượng gầm rống động sơn lâm, từng bầy sơn thú ào ào kéo tới, trên các tàn cây lại trùng động vật bò cạp rắn rết ong kiến cùng nhau vo vo sà xuống, tấn công. "Mây tử thần" tới đâu nghe tiếng kêu rú chỗ đó, lũ Sài Kíu Tinh thất kinh bỏ chạy tứ tán.
Thái Dũng đưa mắt trông ra đã thấy nàng nữ tặc Cờ Đen Long Nữ Thiên Kiều lẫn một cánh nữ binh vọt ngựa tới, từ phía tả lại thấy nàng nữ chúa rừng thiêng Tây Côn Lĩnh cỡi cọp mộng xua bầy sơn thú ào đến. Cả hai khí thế bừng bừng, chỉ chực nuốt sống nhau.
Thái Dũng nhảy ra, gọi tên cả hai nàng. Hai nàng cùng réo gọi chàng:
- Giặc tràn tứ phía, mau theo em ra khỏi vùng núi Quạ này!
- Bốn bề chỗ nào cũng có quái thú mai phục. Đông Quân Phi Mã Ác Sơn đang xục, Sài Kíu Tinh rượt, vậy phải có sơn thú độc vật mở đường mới được!
Chàng mau theo thiếp! Ào ào đì đẹt, hai nàng vừa gọi vừa bắn nhau, Thái Dũng vò đầu kêu lớn:
- Mỗ xin can! Xin can! Cám ơn hai nàng có lòng giúp mỗ, nhưng hai nàng đánh lộn, mỗ biết theo ai? Ở lại đánh, mỗ đi kiếm ngựa!
Dứt lời chàng bỏ chạy đi như gió. Nhờ vậy hai nàng phải xua quân ào ào rượt theo, không ham tranh chiến dữ!
Rừng sớm ngâm sương, bình minh rực rỡ. Dũng cứ lao như tên về hướng dấu ngựa. Được một quãng, nghe ầm ầm sau lưng trông lại, đã thấy hai nàng cỡi thú vừa đuổi theo vừa đánh nhau dữ dội. Phía sau hùm beo tây tượng quân gia rầm rập, cuốn theo như thác lũ, song song hai gọng kìm cách nhau không đầy trăm bộ, thỉnh thoảng lại bắn đì đẹt, tạo thành cảnh tượng khá bi hài.
Nhất lại thêm Người Rừng cứ lẽo đẽo chạy theo Dũng. Náo loạn cả một vùng núi Quạ.
Thái Dũng cứ theo chân núi chạy vòng lên mạn Tây Bắc, vừa chạy vừa ngắm địa thế nghĩ thầm:
- Ô Đầu Sơn mấy bề súng nổ, địch thù như rươi, tới chỗ thả ngựa là thoát hiểm! Huyết Phong Câu chạy luồn rừng không ngựa nào theo kịp!
Chợt đến chỗ núi ăn vòng ra, rất hiểm trở. Thái Dũng phải vọt đá mỏm đi, vừa đi vừa hú hiệu vang động, bất thần nghe súng lớn nổ ình ình như giã gạo dọc chân núi. Chàng trai vội nằm rạp xuống nghe "cạch" phía trước "ầm" phía sau, cánh quạt đạn xé xé trốc đầu, cứ thế nổ đều. Rồi nghe có tiếng kèn đồng vang dội, giữa lá cây, chợt hiện rõ còi hiệu quân đoàn biên giới theo vó ngựa cuốn tới rất nhanh.
- À! Quân tướng De Monstre! Ta rơi vào đúng đường tiến binh, chắc mở trận bao vây rồi! Đấu óc đảo tính kế. Rừng tả có chỗ im lìm... thường là ổ phục. Quan binh không quen băng sườn núi.
Nhanh như cắt, chàng trai cùng Người Rừng nhảy vọt lên triền cao, phục ẩn vào hốc đá.
Quả nhiên, kỵ binh nhà nước theo nhịp súng chặn kéo tới rầm rập bao chân núi. Xa xa, giữa đám vệ binh, lão tướng De Monstre rê ống nhòm khắp trên dưới thoắt đã đi qua, chạm trán bọn Nhị Kiều, bắn nhàu, phút chốc tiếng súng đã chuyển xa mau về phía Nam.
Không chậm một khắc, Thái Dũng lập tức nhảy xuống tiếp tục đi lên mạn Bắc. Đang chạy, thình lình lại nghe tiếng thét the thé trước mặt, rồi vụt từ triền núi cao vút lên trăm thước, một cái bóng trắng toát cắp một cái ô lớn nhảy vèo xuống.
Giật mình, Dũng nấp vội sau một thân cây lớn, dòm lên thấy bóng trắng lơ lửng hạ xuống, nách trái còn cắp ngang một người.
Chính người đàn bà mặc đại tang đã cắp Thần Quân Hồng Diện trong Địa Ngục Cửu Tuyền!
Dũng nhác thấy cả mừng, nhảy vụt lên đỉnh giật cứu ông thầy bất hạnh.
Nào ngờ vừa nhảy đi, chưa kịp hạ chân thì từ trên núi lại có một bóng nữa cắp một cái khiên nhảy véo xuống, đuổi bóng trắng. Nhưng lại bị lạng đi một quãng ngắn nên Dũng vừa hạ chân, bóng kia cũng hạ phịch xuống ngay trước mặt chàng.
Thì ra Thần Sầu Bà.
Vừa hạ xuống, lấy lại thăng bằng, sực thấy Dũng nhảy tới, quái bà giật nảy mình, hệt như còi tàu!
- À! Thằng chó đú con quan ôn! Ma đưa lối quỷ đưa đường lại gặp mày!
Miệng hét, tay rút súng bắn liền, nhưng hết đạn. Dũng lúc đó chỉ chú ý đến cái bóng kia nên bắn mình đuổi theo liền, quái bà cũng vọt theo. Bóng trắng nhanh dị thường, thoắt đã mất dạng.
Dũng đang xục tìm, bỗng nghe kèn Tây vang động. Trong rừng một đội kỵ binh nhà nước đổ ra bắn loạt. Giật mình chàng trai vọt xé ngang, vừa may khi đó, từ cánh thung gần đấy, con Huyết Phong Câu vừa hý vừa phóng ra như bay.
- À, vừa đúng lúc! Hay lắm!
Chàng trai thót lên lưng tuấn mã, rạp mình, nghe tiếng Thần Sầu chửi the thé.
Chàng trai giục ngựa bay đi, ngoảnh lại cười ngất:
- Bà già Mạnh Quang! Xin chào mạnh giỏi! Mỗ đi lấy kho vàng triều Nguyễn đây! Đạn réo, quân reo, thoảng trong gió tiếng quái bà chửi loạn, rượt theo. Tuấn mã vốn thuộc tính rừng, vểnh bờm, hếch mõm. Núi lâm tuyền, nhạt nhòa màu trong nắng sớm, tiếng súng xa dần... xa dần... Thoắt vó ngựa đã bay qua vùng cỏ phân mao.
Bốn bề quạnh quẽ, từng dải thung đèo mơn mởn hiện ra, trong hoa cỏ như ngửi thấy mùi phương Bắc. Đã vào sâu đất Tàu!
32. Bí ẩn trên ngọn Mang Bành
Cho ngựa vượt thêm vài dặm nữa, chàng tuổi trẻ họ Lê mới dừng cương trên một ngọn đồi cao, cây cối um tùm.
Núi đá từng gẫy chập chùng vắt tận biên cương, bốn bề hoa dại ngát hương, chim kêu vượn hú dưới chân đồi, suối chảy róc rách, có con đường mòn chạy vắt chếch xa, ẩn hiện sơn thôn vài mươi nóc nhà Tàu Thổ Quảng Tây... Phong cảnh như tranh vẽ, chàng tuổi trẻ thở phào, lòng nao nao, nhớ về dĩ vãng...
Huyết Phong Câu chạy vào rừng thâm sơn Tây Côn Lĩnh, chàng tuổi trẻ ngó lên thấy rừng núi trùng trùng ngọn cao nhất khắc sừng sững vào nền trời trăng vòng hình đầu con trăn khổng lồ ngóc đớp mây bay, lòng hoài cảm bất giác ngửa mặt than:
- Mang Bành Sơn ôi! Ngọn núi "đũng săn" này năm nào tôn sư đã cho ta lên uống nước Thánh Tuyền, dạy nên nghề võ, lại còn truyền hết công lực trong người cho ta. Mà nay núi vẫn đứng kia, tôn sư biệt tích, thù nhà chưa báo nổi, lời nguyền còn nguyên... Đang ngậm ngùi, bỗng nghe tiếng hú kéo lên triền như tiếng ma tru, chàng vội thả ngựa, một mình vùn vụt đằng sơn.
Lát sau đã lên tới triền đỉnh Mang Bành Sơn. Đỉnh cao, gió lộng, sương chăng, bốn phía im lặng, dòm lên đầu rắn hổ đớp trời quái gở, trông xuống, rừng Tây Côn Lĩnh chìm dưới vực mờ thẳm, vài tiếng hoẵng lạc bầy kêu sương nghe mơ hồ phảng phất như từ thế giới nào vọng lên.
Lúc đó, trăng hạ tuần sắp mọc, mây đêm đổ ánh xuống khu lãnh mờ mờ loang lổ. Dũng cứ nương bóng núi vượt lên, vừa đến ngang chỗ mang trái ván hở, thì trăng hạ tuần vừa nhô khỏi phía Đông hắt xuống một thứ ánh sáng huyền hoặc như trong mộng ảo. Bất thần nghe có tiếng đàn bà rú vô cùng thê thảm như con lợn bị chọc tiết, tiếp liền giọng van lơn não nuột líu cả lưỡi:
- Ôi! Trăm lạy ngài mãng xà tinh... xin tha cho con... con khiếp lắm!
Giọng gái Kinh run rẩy chưa dứt, lại nghe tiếng cười thé nhọn cất lên, chờn vờn:
- Hà hà! Con gái chó si! Nhìn vào mắt ta! Hiến thân cho tuyệt nghệ! Sắp đủ trăm đứa rồi!
Giọng đàn ông này nghe nhọn như dùi đâm, đầy công lực vờn tử khí, như có như không, hết sức quái gở. Dũng không khỏi dột lòng kinh ngạc, vội bìu núi đá, vượt lên thật nhanh, được vài bộ sắp leo hẳn lên mang bành sực nghe tiếng rú nữa của đàn bà, nhưng giọng khác, dứt tiếng kêu van, phảng phất lại có giọng đàn ông gai sắc:
- Khà khà! Gái ngoan! Gái ngoan! Đừng sợ! Tao hấp điện rất êm... mày lên cực lạc! Hà hà!
Giọng Tàu Quảng lơ lớ. Lần này khá xa, chìm rợn tựa tiếng ma nhái trong hốc đá. Thái Dũng vọt hẳn lên mang rắn, phục sau đá mỏm, dòm lên, thốt giật mình vì cảnh quái đản đập vào nhỡn quang.
Ngay trên đầu rắn, dưới ánh trăng lưỡi liềm, một bóng người đen thui như cột nhà, cháy hai con mắt đỏ khé như mắt thú, đứng sững, hai bàn tay đầy vuốt nhọn móc vào bả vai một người đàn bà đứng đối diện. Đó là một cô gái rất xinh, xiêm y đã bị xé rách nằm một mớ dưới vòng chân, khuôn ngực nở, bụng thon, thắt đáy tò vò, coi như pho tượng đá trắng. Kỳ lạ là cơ thể cô gái vẫn còn run bắn, nhưng khi đó, phảng phất nét say mê, mắt mở to nhìn quái nhân, miệng nàng ta nhoẻn cười, hai bàn tay từ từ đặt lên vai quái nhân, miệng lắp bắp, dưới trăng coi đúng dáng của một người bị hút mất linh hồn, say sưa hiến dâng cho ma quỷ.
Vuốt tay níu cứng bờ vai. Dũng vừa nhô lên ghé mắt nhìn, đã thấy hai bàn tay quái nhân trôi vụt xuống, tự nhiên dáng liễu cong veo như cầu vồng, giãy lên như đỉa phải vôi, rồi im hẳn. Ánh trăng soi loang xác thân, rõ mười vệt tím bầm chạy từ vai xuống, cái xác cong veo vẫn đứng như đóng xuống mặt đá, tóc rũ thành giòng chấm gót, coi giống hệt một cô gái xiếc đang uốn lộn biểu diễn.
Quái nhân cũng uốn mình bắn ngược về phía sau mấy thước, hét the thé:
- Huyết heo! Sắp thành công rồi! Còn năm mạng nữa đủ điện công bá chủ võ lâm!
- Chó thui! Ta chỉ còn bốn đứa, mi liệu coi đủ vào bắt sống rắn chúa chưa?
Có tiếng khác tít xa hắt tới, quái nhân đen thui phát cười the thé, vung tay búng về phía cái thây đàn bà "véo véo" "bục bục". Dưới trăng, ngực bụng thây chết cứng loáng hiện ra từng lỗ sâu hoắm, dùi thủng suốt lưng, dọc mấy hàng đều, cái thây vẫn đứng im.
Thái Dũng bất giác nghĩ thầm:
- Chà! Ma Nhân đã luyện "âm điệu kỳ công" đến mức lợi hại ghê gớm, xuyên qua thây vẫn bất động! Mới hồi năm biệt tung tích, ngờ đâu nó vẫn ẩn thân núi thẳm luyện độc công. Chắc muốn bắt rắn chúa làm chi đây! Nếu để nó thành công, thiên hạ sẽ mang thảm họa, đợi gì không ra tay trừ hậu họa một phen! Óc nghĩ, tay vung, định xuất đầu lộ diện nhưng ngay khi đó chợt nghe "véo" xé gió, rồi một bóng cao đã từ đâu bắn vọt đến cạnh quái đen, dưới trăng hiện rõ một quái nhân cao lớn, mặt đỏ hơn, mắt long sọc, coi thập phần độc dữ.
- Huyết Ảnh Ma Nhân! À! Lưỡng quái!
Thì ra cặp người quái chính là Hắc Ảnh, Huyết Ảnh, hai quái nhân Quảng Tây thuộc hắc đạo chuyên bắt gái luyện "âm công". Năm trước tưởng chiếm vụng Hắc Giang nuôi thủy quái luyện "giao long chưởng" để xổng bị "thần giữ của" chém chết.
Sau dạo thoát khỏi Lê Gia trang rồi Mang Bành này, không ngờ cặp quái này lại chiếm khu Thánh tuyền làm sào huyệt.
Huyết Ảnh đã bắn cái thây sang bên bảo Hắc Ảnh:
- Nếu được rắn chúa, mi cùng ta có thể xuống núi lúc hết trăng! Giờ nó đang ngủ. Nào thôi! Nghĩ sao? Ta ngứa ngáy lắm rồi. Cả năm nay học võ rắn, luyện nọc công, đến lúc bắt rắn chúa! Mi trắng hay đen?
- Đen để chó thui, ta con trắng!
Lưỡng quái đi về phía mang hữu mất dạng.
Thái Dũng chợt nghĩ ra một kế, liền lặng lẽ đi theo, mới hay dưới mang là một khu ghềnh khá rộng, có một cái hốc nhỏ hệt tai rắn.
Huyết Ảnh đứng dưới mang, nâng ra một phiến đá ném bên, để lộ ra một cửa hốc vừa người vào.
Hắc Ảnh đội đèn bấm, giắt một thanh đoản đao, xăm xăm nhảy vọt vào lỗ tai rắn. Được một phút, bất thần nghe bên trong có tiếng thét vang âm, rồi Hắc Ảnh Ma vương từ trong phóng mình ra, đứng bên miệng hốc, mặt còn khắc rõ nét kinh dị, nói nhanh:
- Hang rắn có người! Võ ghê gớm, đoạt mất đoản đao! Nhưng... không thể có người giỏi đến thế! Có lẽ... có lẽ...
Dũng dòm, mới hay quái đen tay không, cả chiếc đèn đội đầu cũng biến mất. Đang lấy làm lạ, chợt nghe Huyết Ảnh cười sằng sặc:
- Ma... Hắc hắc... Mi định nói trong đó có ma? Ma đoạt khí giới của quái!
Hắc hắc! Để ta vào coi nó có mấy đầu mấy tay!
Lời dứt, quái đỏ cầm mã tấu lao vọt vào hốc, nhưng không đầy một phút đã từ trong bắn ra, húc cả vào vách đá, kinh ngạc khác thường, kêu:
- Lạ dữ! Nó... nó... núp... giật mất của ta. Định kéo cả ta vào... Lạ thật! Người hay ma?
Cặp quái nhìn nhau ngơ ngác. Dũng nghe hai gã nói chuyện càng kinh nghi.
Thì ra bọn chúng lần vào hốc được mươi bộ, đang chiếu đèn, tự nhiên như có một cánh tay vô hình lôi thốc vào, vừa vận công tọa tấn, đã bị quăng phăng khí giới, rồi cả cái đèn trên trán cũng bị giật bay, choáng cả đầu. Trong kinh ngạc, chỉ nghe tiếng xé gió loáng ánh đèn vào tít trong, tiếp liền những tiếng sằng sặc như ma nhái khiến cả hai phải tháo ra như giông. Lạ nữa là lưỡng quái trấn nhật dạ trên ngọn Mang Bành, còn ai lọt vào được vì xế dưới mang chính là cái lều vải của chúng dựng đó.
Dũng còn đang thắc mắt, bỗng thấy lưỡng quái nhảy vào lều, loáng nhảy ra, tay đuốc, tay đao, cùng với nhau tiến vào hốc dị.
Cặp quái thì từ phía Đông Bắc, hai hình thù lạ nhảy vọt tới, dòm quanh, trỏ lều hốc nói nhỏ:
- Sào huyệt chúng đây rồi! Chúng vừa vào hốc! Ánh đuốc kìa!
Hai bóng lạ nhảy đến vén lều. Dưới trăng vàng, Dũng không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra chính Song Ma Kỳ Hình, cặp vợ chồng Sam chuyên cõng nhau đi khắp thiên hạ tìm thù, đã được chàng chữa khỏi bệnh mù lòa tê bại. Chưa hiểu cặp này đến đây làm gì chợt nghe mụ Ma Trảo bảo chồng:
- Này phu quân! Núp đánh hay vào gặp?
- Tìm mãi mới thấy dấu kẻ thù, phải gặp giết trước mắt mới hả vong linh Cha Mẹ! Chúng mới luyện độc công, ta cùng hiền thê kém gì.
- Phu quân nói phải! Nhưng phải cùng đánh đòn phép mới hay!
Dũng cứ ẩn mặt theo dõi, nghe cặp Sam vẫn nói chữ như trước không khỏi buồn cười, đã thấy "bạch" một tiếng. Mụ Ma Trảo trùm chăn nhảy tót lên cổ lão Hành chễm chệ như cỡi ngựa.
Ma Hành phóng vụt vào.
Thái Dũng nằm ép, nghe bỗng trong hốc nổi lên nhiều tiếng thất thanh, rồi hình thù Sam cõng nhau bắn thốc ra như con diều táp, liền phía sau lại lưỡng quái bắn theo. Thì ra lưỡng quái nhảy ra, lao phải Song Ma vừa lần vào, bốn người lao bốn phía. Huyết Ảnh hét:
- Con ma! Con ma trùm vải liệm!
Mụ Ma Trảo lúc đó khí giới cũng đã biến mất, hét chửi, tay kéo chăn xuống cổ:
- Hai con quái! Bà nội ông nội mày đây! Ma nào! Khôn hồn quỳ xuống nghe tội!
Lưỡng quái đảo mắt dòm, phát cười khan:
- À, ra Ma Hành, Ma Trảo! Mò đến nộp mạng à?
Lão Ma Hành quát:
- Vợ chồng tao tìm mãi mới nhận ra vết kẻ thù! Ngờ đâu là chúng mày! Còn nhớ tàn sát cả nhà Đốc Bàn Wang, trại chủ Woòng tại miền Lưỡng Quảng không?
Chúng tao là giọt máu sống sót đây!
Lưỡng quái ngó Song Ma, vùng cười thé:
- À à! Thế ra lão Wang, lão Woòng còn hai đứa mày ư? Phải phải rồi! Đêm đó không thấy chúng mày, bản vương lóc thằng Wang thành từng miếng thịt ném chó, chó ăn.
Vừa nghe đến đây, Song Ma rống lên thống thiết, xuất thủ đánh liền.
Dũng không khỏi ngạc nhiên, thấy Song Ma tài nghệ đã vượt hẳn lên gấp đôi.
Lưỡng quái cũng khác hẳn hồi ở Lê Gia Trang, nháy mắt một khu mang rắn đá vụn bay vèo, phản phong quật ép bừng bừng, lên vai rách bụng chừng vài hiệp, chợt nghe có tiếng thét bừng bừng, rồi cả bốn bắn tung bốn phía. Ma Trảo bắn phía xế Đông, Ma Hành bắn lộn lên trên mang tình cờ rớt ngay trước chỗ Dũng ẩn. Còn lưỡng quái cũng bắn lộn ra xa. Lão Ma Hành ngã xuống, hộc ra búng máu ôm ngực rống lên:
- Quái độc! Đêm nay không giết được mày, tao thà là...
Hiếu tử thương hiếu tử. Thái Dũng vươn ngón tay chụp lấy đai lưng lão Ma Hành, thì thào:
- Cứ ngồi im! Mỗ Dũng họ Lê đây! Vợ chồng Sam giỏi lắm, nhưng không thắng nổi độc công của chúng đâu! Chống âm công độc không gì bằng độc công dương, để mỗ giúp cho mười thành! Nào! Điều hòa!
Lão Ma Hành giật nảy mình, "à à, tôn sư, trời". Vốn nhanh trí, lập tức ngồi xếp chân, bên kia lạ thay Ma Trảo cũng xếp chân hét:
- Có gan đánh một đòn nữa!
Lưỡng quái có vẻ coi thường, phát cười thé nhọn, long mắt, dùng tận lực tung ra một chiêu kết liễu, kèm tiếng "chết" gai gai. Cả hai tay cùng đánh, nghe bùng bùng hai tiếng tựa sấm nguồn, quái đen quái đỏ bắn tung lại như hai bóng ma dật dờ lộn mấy vòng, máu miệng hộc ra, lăn như trái cầu bay khỏi đấu trường, ngã vật xuống mép Mang Bành. Không chậm một khắc, Song Ma hét lên, phóng mình xuống như cặp thú chụp mồi. Rồi khu ngọn Mang Bành im lìm, quạnh quẽ như cũ.
Dòm theo chẳng thấy quái, ma đâu. Dũng vừa toan nhảy xuống vào hốc, sực nghe có tiếng cười âm u kỳ dị rồi từ phía Ma Trảo ngã trước, một bóng trắng vọt lên, lao thốc vào hang đá nhanh như con cắt.
Thái Dũng nấp ghềnh trên, thấy bóng lạ vọt vào "tai rắn", thân pháp ảo diệu khác thường. Bất giác dột lòng nghĩ thầm:
- À, một kẻ cao bản lãnh! Vừa nhảy lên lập tức bay vào hang rắn không chút do dự. Rõ ràng hắn tới núi Mang Bành có đích chi đâu! Gia phả cất trên núi, chắc trong hang này, nguồn Thánh Tuyền có ổ độc xà vương còn nơi nào để bảo vật tốt hơn? Hay hắn đến tìm bảo vật?
Lòng đầy nghi hoặc, chàng trai họ Lê buông mình nhảy xuống ghềnh, dưới mang chạy ra mép, đảo mắt tìm lưỡng quái, Song Ma, nhưng một khu triền ngọn đẫm trăng khuya không một bóng người. Chập chùng mấy dải ghềnh đá hiểm suốt từ trên ngọn sương chạy xuống vụng chân núi mịt mờ, thăm thẳm chỉ thấy bóng cây loang lổ, vực sâu muôn trượng, vọng đưa tiếng gió hú gai người.
- Im vắng lạ lùng! Hay tất cả dắt đưa nhau xuống vực?
Chàng trai khẽ thở dài, quay lại hang rắn. Cửa cốc tối om đầy bí ẩn bất trắc.
- Có gì nguy hiểm nấp trong? Rắn chúa? Cánh tay vô hình có sức vạn năng tước khí giới? Người? Ma quỷ? Hay thứ chi đây? Lại còn cái bóng trắng vừa nhảy vào?
Thái Dũng nhìn cửa hốc đen, suy nghĩ sực nhớ đến hai tiếng "kỵ thép" trong huyết thư, chàng trai bèn tháo sắc, gươm, súng đạn tất cả mọi thứ bằng kim khí, dấu kín vào một hốc đá gần đấy, trừ chiếc đèn bấm và diêm nến.
Một cơn gió khuya lùa hang rắn, chàng trai theo gió lách vụt vào tay không khí giới.
Hang tối thui, ăn vòng như lỗ tai người. Tiến chừng năm bước, trông lại cửa hốc đá bị che khuất, trước mặt hiện ra một khu hang rộng gió từ ngoài cửa khẩu lùa vào tạo nên một thứ âm hết sức quái gở, nghe phì phì như loài quỷ vật rống từng cơn. Và lạnh đến sởn gai ốc, kèm theo một mùi tanh tao gớm ghiếc.
Thái Dũng đứng tựa vách, hít một hơi, phân chất nhận ra ngay mùi rãi rắn cực độc, chỉ ngửi phải, người thường cũng nhiễm chết ngay. Lắng tai nghe có tiếng nước chảy róc rách rất nhỏ, âm hưởng mơ hồ lạ.
Vận nhỡn quang nhìn, thấy lờ mờ rất nhiều hình thạch nhũ, quan sát khá lâu mới nhận rõ hang loe còn sâu thẳm, ngay phía trước mặt có một dải đá dài chạy từ ngoài cửa khẩu vào tít trong hệt một cái lưỡi nằm trong họng. Chỗ chàng đứng, rẽ sang trái là vào họng.
Không một tiếng động của sinh vật. Đứng mươi khắc, Dũng bước ngoặt về phía trái, được vài thước, gặp một mõm đá mọc ngược, chàng rút phắt cây đèn, bấm tách chiếu lia theo hình cung, lấy mỏm đá làm điểm tựa phòng bị tấn công bất thần. Chẳng ngờ vừa rút đèn bấm ra, vụt cảm rõ toàn thân rúng động, rồi trong gió lùa như có một bàn tay vô hình từ đâu thò ra giật bay cây đèn, mạnh đến độ suýt lôi cả Dũng ra khỏi mỏm đó. Trong cơn kinh dị, còn thoáng thấy vệt đèn xanh nhảy múa bay vù vào trong họng như một ánh chớp mất tăm!
Lạ nữa là không một hơi nhân điện quanh mình.
Dũng vận sức sẵn, tiếp thêm mấy bước nữa. Lại vù cơn gió lùa bỗng vụt cái nhanh như một chớp chân trái, chân phải như bị tay vô hình dạt mạnh, phát ra hai tiếng "phựt phựt" lạng người đi.
Dũng giật mình, ngồi phục xuống, nhưng bốn bề lại im lìm, hệt ma trêu quỷ chọc. Sờ vội xuống chân giày, dây giày đã đứt tung và hai miếng sắt nhỏ bọc đầu dây đã biến mất rồi!
Vốn thông minh, đầu óc chàng trai Tây học vụt nổi ngờ, nhớ ngay lại chương trình địa và vật lý học.
Kiểm lại các thứ có sắt đều để ngoài cửa, trong người còn dây giày, cùng một cái bật lửa gói kỹ trong giấy dày để túi trong.
Lập tức chàng thử moi ra, thử mở giấy gói, quả nhiên chưa mở hết, cái bật lửa đã bay vút đi như ma giật.
- À ra thế! "Kỵ sắt" là vậy! Lưỡng quái tuy cao bản lãnh, nhưng ít học không hiểu về vật lý, địa dư, biết sao nổi "bàn tay vô hình" ghê gớm trong kia?
Nguyên miền Nam Băng Dương đuôi trái đất có rặng núi Nam Châm, phàm tàu thủy không may lạc gần lập tức bị núi Nam Châm hút bay vào, tàu tan người chết nhanh như ảo mộng. Các nhà hàng hải thám hiểm có việc xuống Nam Cực đến gần vùng núi Nam Châm đều phải dùng thuyền gỗ, đồ gỗ. Phàm các vật dụng nào có sắt đều phải loại bỏ, kể cả một cái khuy áo, đồng hồ. Có thủy thủ quên khuy áo sắt, đến vùng có chỗ hút, bị giật bắn khuy, rách áo, ngã bay xuống biển.
Người ta chế ra được cái địa bàn định phương hướng cũng nhờ rặng núi Nam Châm miền Nam Băng Dương, tuy khi cổ nhân chế được địa bàn cũng biết rõ nơi trái đất có núi Nam Châm.
Như về năm Tân Mão (1109 trước Tây lịch kỷ nguyên) đời Chu Thành Vương có nước Việt Thường, phía Nam Giao Chỉ sai sứ đem bạch trĩ sang cống. Viên quan nhà Chu là Chu Công Đán, chế ra được cái xe chỉ nam giúp sứ Việt Thường về nước, cái xe này có một bộ phận có kim chỉ nam giống địa bàn, cũng đều nhờ sức hút của núi Nam Châm. Sau các nhà khoa học chế ra các món võ khí giới có gắn nam châm rất lợi hại như thủy lôi từ thạch v.v... cứ đủ lượng chất là sắt thép nam châm tự động hút dính.
- Cách khá xa, hút phăng cả súng gươm chắc chắn trong kia phải có khối đá nam châm lớn lắm!
Thái Dũng lại tiếp tục tiến vào, ngóng trừng mắt nhìn khắp xó tối cố tìm cái bóng vừa đột nhập. Nhưng vào khá sâu vẫn chỉ thấy tĩnh như đá nhấp nhô hiện lờ mờ trong hang, nhưng tiếng gió thổi lại vọng âm dị cùng tiếng nước rỏ nghe càng rõ. Đang men quanh, thình lình nghe luồng gió lại thốc ra, Dũng hụp xuống tránh.
Chỉ thoảng "chát" một tiếng hình thạch nhũ trốc đầu đã gẫy vụn, đá rụng rào rào rất nhẹ.
Giật mình sực nghe có tiếng cười quái gở chờn vờn:
- Đây rồi! Hà hà! Ổ rắn chúa đây rồi!
Xòe! Có tiếng diêm bật, rồi một làn ánh sáng vật vờ giữa lòng hang vắng.
Cảnh tượng kỳ ảo vụt hiện, trăm hình nhũ đá sừng sững giống quái thú đứng, ngồi rình nấp trong ruột hang, dưới vùng ánh sáng vàng úa, ruột hang coi càng giống cổ họng người khổng lồ, có cái lưỡi gia sắc nhấp nhô chạy cuốn dọc ra tận cửa khẩu, gần như chia đôi lòng hang.
Và ánh sáng từ bên kia lưỡi đá hắt ra, cách chỗ chàng đứng chừng ba mươi thước độ bốn mươi lăm.
Thái Dũng tiến luôn vào, càng vào sâu, trần hang càng cuốn sát cao, loe rộng, nhưng nền đá lồi lõm gập ghềnh, mỗi cơn gió từ cửa khẩu thổi thốc vào, chạy vi vu trong cổ họng, xông ra mùi tanh nồng nặc rất khó ngửi.
Vách trong cùng dựng đứng, thu hẹp dần, nhờ ánh sáng vật vờ Dũng thấy cổ họng giãn ra, đường bán kính chừng một thước Tây, tối om chẳng rõ còn sâu bao nhiêu. Có tiếng rỏ tí tách bên trong, cuối lưỡi đá có một đường rãnh trũng sâu chạy dọc ra tận đầu lưỡi ngoài coi giống một con suối cạn. Từ mặt lưỡi chạy lên trần cao đến con sào, Thái Dũng men sát gò lưỡi, đảo mắt tìm kiếm bóng lạ, bỗng thấy bên kia lưỡi, ánh lửa nhảy múa bập bùng, nghe "véo véo" liền mấy tiếng, tiếp theo có tiếng cười the thé âm âm rõ giọng đàn bà:
- Ra đây! Ra đây! Phóng nữa mau! Coi họ nhà Xà chúng mày có mấy ngón võ gia truyền!
Tiếng quát rất chìm nhưng vang âm khắp ruột hang như lưỡi cưa kéo màng tang chợt lại "véo véo" mấy tiếng "bạch bạch" liền hai con rắn xanh nhỏ bằng cái đũa bay sang rớt nằm vắt chết trên gò lưỡi ngay bên Dũng.
- Ra nữa! Tao đang muốn tìm ổ chúa! À! Giỏi! Giỏi!
Tiếng quát chợt cất cao kéo dài như nhái cợt, "véo véo" như xé lụa vút vút chỉ phong, rồi một cặp rắn hổ từ đâu phóng vụt lên trần tiếp liền có cái bóng nhảy vụt theo, ánh sáng kéo dài ngoằng xanh mét, rồi im lửa cháy bừng "xèo xèo" hiện ra một bóng người trắng toát đứng trên mặt lưỡi gần cuống họng, tay trái cầm một thoi bạch lạp lớn, tay phải bóp gọn hai con rắn hổ lớn ngay cổ, mang rắn bành ra phun phì phì to bằng cái đầu.
Dũng vừa thấy bỗng lạ thì lại có một con rắn hổ nữa từ đâu phóng lên mổ vụt vào gáy. Cái bóng nhanh đến độ Dũng chỉ thoáng thấy bóng rắn đen đã thấy mõm rắn độc dính chặt vào bóng người rồi. Nhưng chàng không khỏi giật mình, khi sực nhận ra chẳng phải con độc xà mổ trúng gáy người mà người này đã đảo ngoắt đầu lại đớp nghiến vào cổ con rắn lúc nào không biết. Cả ba con rắn hổ giẫy đành đạch, thò đuôi ngoáy nách. Cái bóng phát cười âm u, đưa tay búng lia lịa, phựt liền ba cái đuôi đứt nghiến, máu rỏ ròng ròng, bóng lạ ngậm luôn ba cái đuôi chùn chụt. Mãi lúc đó Thái Dũng mới kịp nhận thấy bóng lạ trùm kín, chính là cái bóng mặc quần áo đại tang đã cứu Thần Quân mang đi đêm trước! Đang phân vân không hiểu bóng này đến đây làm chi, bỗng thấy bóng lạ quăng bẹt ba xác rắn hổ, mắng:
- Rắn chúa thối! Làm gì trong ổ không ra để ta phải uống máu chó mãi!
Lời dứt, bóng lạ nhảy vèo sang bên kia. Dũng ghé mắt dòm thấy bóng lạ cầm nến soi khắp hang hốc, moi túi ra một cây hương lớn thắp quạt khói vào các hốc.
Mùi khét cực khó ngửi xông khắp ruột hang, liền mấy con rắn nhảy ra mổ nhưng đều bị bóng lạ tóm nghiến, thủ pháp lẹ dị thường. Cứ bắt được con nào lại uống máu, uống luôn cả nọc độc như không. Đang dòm, chợt thấy bóng lạ nhảy vọt đâu mất, chừng góc phút sau lại thấy phóng qua lưỡi đá, đứng sững cách Dũng độ ba bước. Dũng vừa ngoảnh sang, bóng lạ đã chợt trông thấy chàng, hét dữ:
- À! Chó thối! Phải tối qua ngươi cũng mò vào hang Địa Ngục núi Quạ?
Thái Dũng nhìn bóng lạ, qua làn vải trùm, hai con mắt người đàn bà long sòng sọc phát tia đỏ khé quắc như mắt điên của tay giỏi thôi miên ngó vào đâu muốn xém da thịt. Chàng trai trờ tới:
- Còn bà? Chính mỗ cũng đang lấy làm lạ không hiểu bà đến đây làm gì?
Bóng đàn bà hờ hờ dò xét, vùng phát tiếng cười gai:
- Nhỏ con! Ta hỏi ngươi, ngươi lại hỏi ta. Khùng! Đến làm gì?
- Còn bà?
Hai người hỏi vặn nhau luẩn quẩn, chợt người đàn bà hét:
- Cút đi! Đừng phá ta nữa! Để ta tìm rắn chúa!
- Tìm rắn chúa! À! Vậy bà cứ tìm! Mỗ tìm cái khác! Người nào việc nấy, không sao!
Người đàn bà nhìn Dũng, mắt trợn ngược:
- À! Nhỏ con! Tìm chi?
Dũng chưa kịp đáp, bỗng đâu phì vo vo, "véo" một tiếng, từ xó tối một vật loằng ngoằng nhỏ như cái đũa bắn vụt ra mổ vào người đàn bà áo trắng. Lúc đó người đàn bà đang đối diện Dũng nhưng tai thính lạ thường, lập tức hụp đầu tránh, múa tay chộp. Vật đen sì là một con rắn cực độc, luồn dưới ống tay áo bắn véo theo đường cánh cung mất dạng.
- À, phi xà vương! Rắn chúa độc nhất thế gian, bổ nhất hoàn cầu đây rồi!
Giỏi giỏi! Rắn chúa này giỏi võ lắm, tránh được quỷ thủ của...
"Véo" lại một con rắn khác màu trắng bắn ra, nhanh như một lưỡi móc câu phóng đâm vụt tới mổ người đàn bà, người này vừa lắc tránh, con rắn kia bắn xẹt qua mổ Dũng. Dũng vừa né kịp, con rắn đã mất dạng, chỉ để lại một mùi tanh tao nồng nặc, nhưng tinh mắt, Dũng đã nhận được chỗ nó vừa bắn vào, chính cái hốc sâu hun hút ngay cuốn họng rắn đá.
Người đàn bà tay vẫn cầm nến, có vẻ thích chí, hét đinh:
- Vợ chồng rắn chúa! Một giọt máu tăng thêm một tuổi thọ! Của báu thế gian! Đâu, đâu rồi? Nhỏ con! Người có thấy chỗ nó vừa bay hay không?
Dũng nghe người đàn bà cứ gọi mình là "nhỏ" không khỏi bực mình, nhưng đoán người này đã có tuổi, chàng vẫn giữ lễ, trỏ vào lỗ hổng cuống họng, chậm rãi nói:
- Chúng vừa bay vào đó!
Người đàn bà búng luôn mấy nhát vào lỗ, chỉ phong vo vo xói lỗ hút chìm.
Nóng nảy, bà ta nhảy phắt lên thành lưới, đốt hương khét lẹt mùi hồng hoàng ném miệng lỗ, đoạn lấy tay áo hất quạt thốc vào.
Không đầy phút, quả nhiên rắn chúa kỵ hồng hoàng, từ trong bắn xéo ra nhất tề mổ liền. Tay vẫn cầm thoi nến, tay kia người đàn bà đảo nhẹ một cái đã kẹp được cả hai con rắn.
Dũng đứng phía dưới đang ngẩng coi, bất ngờ vút có hai vật đen trắng bắn ra, thình lình mổ ống chân bà ta. Nhanh như điện giật, Dũng phất tay đánh bạt cặp rắn ra xa, dập vách tường nát thây, nhưng cặp rắn này lại bắn vèo vào hốc mất.
Lúc đó mới hay cặp trong tay người đàn bà là hai con rắn khác.
- À! Vợ chồng con rắn chúa này tinh quái như ma, biết đánh lừa, cắn trộm!
Nhỏ con lẹ tay lắm! Bắt sống chia đôi, nghe!
Bà ta lại lấy ra nén hương nữa thắp, quả khói um. Quả nhiên trong ổ chỉ còn cặp rắn chúa, bị hồng hoàng bắn ra, mỗi con táp mổ một người. Lần này cặp xà vương chúng đã nổi hung, vừa phun độc khí phì phì vừa phóng tới. Người đàn bà thủ pháp rất lẹ, nhưng chỉ kịp né tránh, không sao bắt nổi, lại đứng trống trơn trên lưỡi đá, cứ bị nó chao qua thao lại, mổ nhát xoay trở luôn, ngọn nến cầm tay có lúc rạp xanh chực tắt. Dũng đứng dưới từng được nghe xem rắn chúa phi nhanh như chớp đảo, lại biết xà vương cực độc, dẫu trong mình có tích chất độc, bị nó mổ trúng cũng nguy, nên chàng nhảy vèo lại tựa lưng vào vách, lựa kẹp ngay được cổ con rắn đực đen. Bỗng nến tắt phụt, có tiếng hét:
- Bắt giùm! Bắt giùm! Nó bị ta búng đứt đuôi rồi!
Liền có tiếng xé gió loằng ngoằng trốc đầu, rồi trong hang tối, có bóng luồn vút ra lối cửa khẩu.
Dũng vẫn đứng im, chờ mấy khắc thấy bốn bề quạnh quẽ, liền nhảy lên chỗ họng rắn đá, định vào ổ xà chúa tìm vật yểm tàng.
Nhưng vừa lên đã thấy người đàn bà kia từ ngoài nhảy vào, tay cầm một thoi nến mới thắp, kêu lớn:
- Nó trốn mất rồi! Kìa, nhỏ con sao không bắt giùm ta? Lên đây làm gì? Chao ôi! Mất của báu! Tiếc chết người!
Thái Dũng giơ con rắn chúa đực, điềm đạm bảo:
- Bắt được một đây! Nhưng hiện giờ Thần Quân đâu?
Người đàn bà mừng rỡ chìa tay định nhón lấy, giọng nói ngạc nhiên:
- Hỏi ông già mặt đỏ? À! Thế ra mi là học trò ông già? Nếu vậy mi đến đây kiếm gia phả họ Lê? Ông già mạnh giỏi lắm, mi yên tâm!
- Nhưng bà là ai? Sao lại đem "người" đi? Mỗ yên lòng sao được?
Chẳng ngờ vừa nghe đến đây, người đàn bà vụt nổi giận bừng bừng, trỏ mặt Thái Dũng mắng như tát nước.
- Chó thối! Biết tao là ai dám bảo không yên? Trên thế gian này, còn gì tốt bằng ông già mặt đỏ ở với tao?
Dũng lạnh lùng:
- Vâng, trên đời này tưởng còn gì bằng vợ con, nhưng mỗ đây đã chứng kiến cảnh vợ khảo chồng.
- Cút đi! Đưa rắn đây rồi cút đi cho rảnh!
Vừa nói vừa vọt lại, xuất thủ định giằng rắn chúa, năm ngón tay vươn như móc câu, nhưng Dũng đã cười bảo:
- Xem bà quen rắn độc, sao còn định đùa với rắn chúa? Giết một con chỉ giây lát cả vùng này sẽ đầy nhóc các giống độc xà Si Công Linh đến báo oán! Bà không biết phi xà vương có ám hiệu truyền điện sao? Uống máu một con... giảm thọ đó!
Miệng nói, tay quăng luôn con rắn đen ra ngoài mất biến.
Người đàn bà cắm luôn cây nến xuống kẽ đá, lừ lừ tiến đến lại sát Thái Dũng, trầm tiếng hét:
- Thả mất rắn phải thế mạng! Đừng hòng lấy gia phả! Món đó ông già đã để cho ta! Cút đi!
Dũng vẫn đứng yên, cau mày:
- Vô lý! Thần Quân bao giờ lại hai lời? Mỗ tuân di ngôn, không để ai gạt đâu!
- Chó thối! Ông già vợ khảo cả năm, không khai, nếu chẳng chịu cho ta sao biết nơi chôn giấu ở ngọn Mang Bành này?
Thái Dũng vụt lùi một bước, nghiêm giọng:
- Thầy mỗ không khi nào để ý! Hay... hay bà đã dùng độc mưu hãm hại Thầy mỗ?
Lời chưa dứt, người đàn bà đã xẹt tới, xòe ngón móc mắt nhanh như cắt. Thái Dũng lắc đầu tránh, đưa tay gạt mạnh một cái, thoáng nghĩ:
- Trong các môn, mình kém nhất quyền cận chiến bất lợi! Người này coi tài nghệ còn sắc hơn cả Thần Sầu!
Nào ngờ người đàn bà móc dữ, đảo luôn tay xỉa xuống bụng chàng, cấp thời vô phương tránh né, chàng trai ấn vụt hai tay xuống. Chát! Bốn bàn tay dính vào nhau như nam châm hút sắt. Người đàn bà vùng phát giọng chìm âm đắc chí:
- Nhỏ con! Mi mắc mẹo ta rồi! Sức mi chịu được mấy phát điện giật của Từ Thạch Công?
Dũng hơi chột dạ, hỏi nhanh:
- À! Thế ra bà là Quỷ Khấp Nương!
- Còn ai nữa? Mi tới số mới gặp ta! Hà hà!
Trong thoáng giây, Thái Dũng sực nhớ lời đồn đại về một người đàn bà kỳ dị tánh nết bất định, bản lãnh siêu việt đến độ quái gở, khắp giới giang hồ lạc thảo, quan binh mấy cõi Tàu Mán Mông đều phải kiêng nể, chưa kẻ nào đánh trúng bà ta một đòn mà thoát chết. Đó là một thiếu phụ không ai rõ quốc tịch, nói tiếng Kinh như người Kinh, nói tiếng Tàu như dân bản địa, thường mặc áo đại tang, có lúc rất hiền hậu chuyên cứu người, có lúc rất rợn giết người như ngóe, nhưng đặc biệt không bao giờ xuất thủ hạ sát. Bao giờ cũng để kẻ địch đánh trước và địch sẽ chết vì đòn đó. Vì người đàn bà rất giỏi về quyền cước chỉ trảo, có môn điện công hết sức lợi hại, được mệnh danh là "Từ Thạch Thần Công" hút dính tay chân địch thủ như nam châm và truyền điện công độc khí sang đánh chết trong nháy mắt. Kẻ bị đánh cháy thui xám xịt chẳng khác bị điện giật nướng hay bị sét đánh coi dễ sợ.
Người ngoài cuộc vẫn thấy bà ta bất động, chừng kẻ kia chết đen thui mới rõ.
Ngoài ra, người đàn bà này thỉnh thoảng lại khóc rống lên lúc đêm canh vắng, kẻ bạo gan cũng phải dựng tóc gáy, nên thiên hạ gọi là Quỷ Khấp Nương, có kẻ còn gọi là "Từ Thạch Quỷ Nương". Không ai thấy mặt, biết tên tuổi hành tung. Trong kỳ truyền thuật tác xạ, chính Đại Sơn Vương có nhắc qua đến người đàn bà quái dị này và dặn thận trọng tránh đấu quyền chỉ trảo khi đối đầu.
Giờ nghe nói, Dũng sực nhớ ra thì tay đã dính chặt rồi.
Tuy hơi chột dạ, chưa lượng nổi điện công bà ta đến mức nào nhưng Thái Dũng vốn người điềm đạm, lập tức vận dụng nhân điện độc khí trong mình, dõng dạc:
- Quỷ Khấp! Vô thù oán, sao lại dùng đến đòn sinh tử?
Người đàn bà cười thé:
- Nhỏ con! Đã thấy điện giật chó thui? Số mi đã mạt, gặp ta lúc thích giết người. Nghe đồn mi được ông già mặt đỏ truyền nhân điện phải không?
- Quả đúng!
- À! Vậy đốt mi cũng như đốt ông già, coi tài nghệ được bao nhiêu! Hay lắm!
Theo tiếng cười sằng sặc, Dũng cảm rõ hai tay nóng ran, biết tình thế đã gay, chàng trai chưa kịp phản ứng đã nghe người đàn bà quát trầm tiếng "chết". Từ tay bà ta một luồng điện khí vụt chạy sang, thoáng thấy mu tay bà ta đỏ gay như thép nung, chàng cảm rõ đến nghe một tiếng "ối" thất thanh, người đàn bà bắn lộn đi một vòng, giáng "huỵch" vào vách đá, loạng choạng lấy lại thăng bằng, dòm chàng kêu sững:
- Chó quái! Chó quái! Mi là ma hay người, làm bắn cả Từ Thạch điện công bà vào vách? Bà nhận điện, độc khí tích hàng thế kỷ công phu... luyện cả đời người...
Dũng chợt hiểu.. Thì ra trong thân thể chàng nhân điện chất độc tích chứa quá nhiều khi quát "khoan", tự nhiên đã đầy điện công xung thoát, dội bắn bà ta đi, phải tay khác đã bị điện giật chết tươi.
Yên tâm, chàng mỉm cười chậm rãi:
- Quên khuấy chưa nói kỹ, mỗ đây tuy mới tập võ hơn năm, nhưng cũng là một cây thuốc độc sống, một cái lò phát điện đó!
- Chó quái! Lò chó thui! Cậy chó đú!
Quỷ Khấp Nương hét như điên, nhảy vọt lại vươn trảo chụp.
Không muốn tử chiến, Dũng lắc mình nhảy vọt ra lối ngoài.
Người đàn bà vọt đuổi theo. Nhờ được uống nước Thánh Tuyền Mang Bành Sơn, Dũng chạy rất lẹ, nào ngờ Quỷ Khấp Nương lẹ không kém, chặn ngay lối ra, hét:
- Chó đú chạy đâu! Ba đòn không chết, tao chịu chết!
Lời bay, kình lực theo liền. Dũng đành vung tay, quật lại.
Bùng! Toàn thân rung động, chàng trai bật lộn lại đến mấy bộ, chừng định thần trông ra, người đàn bà cũng đã bắn ra khỏi hang từ khắc nào rồi, thoảng trong gió lùa, còn nghe từ dư âm tiếng kêu ngân chuyển hốc đá. Rồi im.
- Điện lực Quỷ Khấp Nương dữ thật! Không vận toàn lực, chắc mình cũng nguy rồi! Chẳng hiểu bà ta sống thác ra sao? Đã định lần ra, sực nhớ đến gia phả, chàng trai tặc lưỡi, lao vội vào trong.
Thoi nến vẫn còn cháy chập chờn. Vọt lên lưỡi đá, chàng quơ nến, lách vụt vào hang rắn. Ổ rắn tanh lộn mửa, ẩm ướt nhơ nhớp đầy rãi rắn, nước rỉ, khí độc khí đá bốc ngụt, rải rác nhiều xác rắn lột đủ loại lớn nhỏ, xanh đỏ. Càng vào càng tanh, hang loe rộng, cuống lưỡi gồ ghề sắc nhọn, dòm hai bên có chỗ sâu đến thước rưỡi, vách đá rất nhiều hốc ổ đầy xác rắn lột, có chỗ còn cả con vừa lột nằm như chết. Soi tìm khắp nơi chẳng thấy chi lạ. Dũng sực nhớ Thần Quân đêm nào đem chàng lên cho uống nước quý, có nói: "Nước Thánh Tuyền uống phải lọc sạch chất độc vì khởi nguồn ngay chỗ xà chúa nằm. Nhờ hớp nước đó, chúng nhẹ thân thành phi xà."
Thái Dũng theo đường rãnh trên lưỡi bước vào, chừng hai mươi thước thì đụng vách trong.
Quả nhiên chỗ đó có một hốc đá rất hẹp, ngay cuống lưỡi coi hệt một cái đài hoa hàm tiếu, có một cái lỗ đường kính chỉ vài phân, sâu độ bốn gang, lờ mờ dưới đáy có một miếng đá nhẵn bóng lấp lánh như ngọc.
Thái Dũng đảo mắt quan sát, ánh nến không soi thấu, chàng trai đoán gia phả giấu trong, vừa định thọc tay xuống để tìm bất thần nghe tiếng người đàn bà hét thé lảnh:
- Thằng chó đú đâu rồi? Còn hai đòn nữa, ra đây!
Dũng tắt phụt nến. Chừng mấy khắc lại nghe tiếng quát từ ngoài bay ngập hầm:
- Chó đú... ú... ú! Còn một đòn tay to, một đòn khí giới bên ngoài! Lẩn đâu rồi? À, hay nó mò vào ổ rắn!
Dũng khom mình dòm ra, thoáng thấy ánh lửa vật vờ ngoài hốc, chỉ độ năm bộ. Ánh lửa lại gần, thình lình lại nghe tiếng mắng lớn:
- À, lại bầy nhãi vật này nữa! Vào cả đây! Tao cho hít thuốc một thể!
Tiếp liền, ánh sáng nhảy nhót như ma chơi, gió rít ào ào, ngoài hốc veo véo như xé không khí, bùng bùng, hang động vang đá vụt bắn rào cả vào lô trong.
Không nghe tiếng người khác.
- À, rắn chúa trở về báo oán! Ổ nay nhỏ, nếu mụ ném khói mê, tình thế gấp lắm!
Thái Dũng thò luôn cả cánh tay xuống lỗ, quơ tìm lia lịa. Lổn nhổn khá nhiều thứ mềm nhớp, bỗng sờ phải vật chi tròn tròn như hạt đậu. Tưởng trứng rắn, nhặt lôi lên, mới hay đó là hai viên chì nhẵn thín, sáng chói phát tia trong bóng tối, giống hột cườm dưới ánh mặt trời, coi rất lạ.
- Vật chi? Hay... Ngọc rắn? Xưa nay từng nghe người đời nói đến ngọc rắn ngọc rết, mình chưa hề thấy. Biết đâu?
Bỏ luôn vào túi, chàng lại quơ ngược lên, sờ từng tấc đá, đã hơi thất vọng, bỗng sờ ngay phải một vật cứng gọn, giật nhẹ, lôi ra được một ống nứa khô. Thì ra chỗ đó có một lỗ sâu. Cả mừng, thử xoay, mới hay ống nứa có nắp đậy. Thái Dũng cho luôn vào ngực áo. Đúng lúc đó, từ ngoài liền mấy đường chỉ phong bắn xiên vào, chàng vừa vọt tránh đã thấy bay vào một khối lửa rực, xông mùi thơm hắc rất lạ khứu giác.
Vừa hít phải, Dũng sực thấy choáng váng thất kinh vội nín thở, bế huyệt, đánh ra một nhát phản phong, và cửa tử lao vút mình ra ngoài như tên bắn. Thân thể mới ra chừng chín phần mười, đã nghe tiếng động ầm ầm, giữa vùng sáng lửa vật vờ, thoáng thấy hàng đàn rắn lớn nhỏ vừa bắn dạt tứ phía. Một bóng mặc đại tang từ bên hữu phóng lại, xòe tay xỉa luôn vào ngực!
Lấy được vật báu rồi, Dũng không muốn ở lại làm chi, thân đang lơ lửng túng thế, đưa luôn tay gạt nhanh. Chát! Hai tay chạm nhau, nương điểm tựa, Dũng quăng mình như trái cầu, ngay khi chân chưa chạm đất, chàng uốn mình đứng ngay đã cách ổ rắn trong hơn một bộ. Ra khỏi vòng vây rắn, dòm lại, thấy hàng trăm con đang ùa vào mổ Quỷ Khấp Nương. Người đàn bà vừa đánh đuổi rắn vừa hét:
- Thằng con quan ôn! Lại tao hỏi đã! Mi đã tìm thấy của...
- Chán rồi! Mỗ đi đây! Chúc bà mạnh giỏi, ở uống máu rắn quý, tìm bảo vật!
Thân thể vọt như mũi tên rời dây cung, chàng tuổi trẻ lao một mạch ra khỏi khi hang rắn chúa.
Ra tới ngoài, còn nghe phía trong ầm tiếng động. Trông lên trăng hạ tuần đã lên cao vàng bệch, cả vùng Mang Bành Sơn vẫn chìm trong im lặng thâm sâu.
Không chậm nửa khắc, chàng trai họ Lê lấy luôn hành lý khí giới, lập tức rời khỏi ngọn chạy xuống núi như giông.
Mãi đến lúc ngồi trên lưng Huyết Phong Câu phóng sâu vào khu rừng Si Công Linh, chàng mới yên trí, rạp mình theo nhịp ngựa lòng lâng lâng nghĩ đến nhiệm vụ vừa xong.
Trăng khuya nhạt bệch, núi rừng quạnh quẽ, đi khỏi Mang Bành Sơn đến mấy dặm, vẫn không thấy tăm tích Quái Ma đâu, cả người đàn bà quái dị Từ Thạch Nương cũng chẳng thấy bóng.
- Đòn công nặng lắm. Hai con quái độc không chết cũng bị thương. Vợ chồng Sam sức báo thù chẳng hiểu có bắt được chúng không? Còn Quỷ Khấp Nương, người đàn bà kỳ dị kia là ai? Biết đâu lại chẳng là con gái Thần Quân?
Nghĩ đến ông thầy bất hạnh, chàng trai dột lòng, gò phắt dây cương định lộn lại tìm người đàn bà lạ. Nhưng nhớ đến cuốn gia phả trong mình muốn coi trước rồi sẽ liệu, nhất lại thấy người đàn bà kia không có ác ý với thầy mình, chàng trai bèn giật cương, tế ngựa như gió, thỉnh thoảng lại thình lình quẹo trái, ngoắt hữu, đổi hướng luôn, phòng bị theo dõi.
Lát sau trông lại ngọn núi Mang Bành đã chìm khuất trong sương, bốn phía rừng già hoang vắng, ngẩng nhìn về phương Bắc từng dãy quần sơn như vẽ vào nền trời trăng nhạt, le lói vài ánh lửa Mèo chơi vơi trên ngọn mây. Chàng trai mới yên dạ, hạ nước phóng, đi kiệu băm đảo về mạn Tây Bắc vỗ nhẹ vào cổ ngựa.
- Huyết Phong Câu! Giỏi lắm! Đường xa dặm thẳm, một đêm vượt mấy giải biên thùy, xứng danh thiên lý mã không thua Xích Thố, Ô Truy! Giờ cứ chậm xuyên sơn dưỡng sức, còn nhờ mi nhiều đó.
Linh mã vểnh bờm, hý khẽ, từ đó thả vó êm ru. Thái Dũng quấn dây cương vào chỏm yên, lim dim mắt theo nhịp ngựa đều, chợp đi lúc nào không biết. Sau hai ngày hai đêm xông pha thức trắng, gió đêm rừng hiu lạnh xoa dịu thần kinh, chàng tuổi trẻ ngồi ngủ trên lưng ngựa như một võ tướng miền thảo nguyên Mông Cổ, mãi đến lúc mảnh trăng hạ tuần xế non Tây.
Chừng chợt thức, mở choàng mắt ra, mới hay trời đã sáng. Trông ra núi rừng đã nhuộm bình minh, ngựa đang đi giữa một miền sơn kỳ thủy tú, chim kêu vượn hú véo von, dưới vó câu đầy kỳ hoa dị thảo ngát hương, tùng bách um tùm, suối khe róc rách.
Mấy con gà rừng đang gáy, nghe tiếng chân ngựa vùng bay tán loạn kêu quang quác.
Thái Dũng cho ngựa bước một tiến đến con suối bên trái uốn khúc giữa một vùng cỏ xanh mởn, gần rặng núi đá.
Nhảy xuống đất vươn vai, thấy dễ chịu hẳn, bèn nới dây đai ngựa, thả cho con vật ăn cỏ, uống nước, và xách "sắc" hành trang, kiếm chỗ hờ có thạch bàn, ngồi nghỉ.
Thấy nước suối trong veo, chàng bèn tháo giầy vải, rửa chân, lội ra ngoài dòng rửa mặt. Nước mát lạ, tuy sang mùa thu, không lạnh như các con suối khác.
Nhận thấy quần áo mình mẩy đầy cát bụi đường trường, nhớp mồ hôi, lại dây mấy giọt máu, chàng liền cởi quần áo, nhảy luôn xuống tắm. Ống nứa để gia phả rút ra nhét vào "sắc", quần áo ném bên, định tắm xong sẽ giặt luôn thể. Chừng nhảy xuống thấy nước mát dịu tỉnh hẳn người, chàng khoan khoái khoa tay bơi một quãng. Xế bên kia có một tấm thạch bàn lớn, cách chỗ để quần áo độ mươi thước, chàng trèo lên ngồi kỳ cọ.
Vùng rừng núi này rất nhiều khỉ, vượn. Nhân bình minh kéo nhau ra ríu rít từng bầy, con hót con đánh đu rào rào, mấy con chuyền cành ra sát bờ suối. Thấy bóng người, cả lũ bỏ chạy xa xa, vừa đu vừa dòm. Ngước trông lên, thấy chúng Thái Dũng vốc nước té đùa. Cả lũ lại chạy xa thêm.
Chợt có một cặp vượn khoang từ đâu đu vèo lại, vừa đu vừa hót véo von, chốc chốc vươn mắt dòm. Dũng cười, khen:
- Chà, hay lắm! Trò tiếu hay lắm! Làm nữa coi!
Hai con vượn lại đu, hát, có một con nắm lấy một cành cây xòa bên dòng xế chỗ Dũng chỉ độ mười thước, buông thòng mình dòm chàng và... đái tồ tồ... một tay bốc nước đái ngửi!
Dũng hắt nước mắng. Con vượn cứ đu đưa, đoạn lại thò tay gãi dái sồn sột.
- À, con quái này gớm thật!
Dũng vốc nước, ném mạnh. Rắc! Cành cây gẫy, con vượn rớt xuống đất, kêu chóe chóe. Dũng cả cười. Con vượn đu tới liền. Dũng đang nhìn, thình lình nghe con Huyết Phong Câu hý mạnh mấy tiếng. Chàng ngoảnh phắt lại, thấy con ngựa đang phóng tới chỗ để quần áo, và có một bầy ba, bốn con vượn khác đang đu vèo vèo xuống. Chàng vừa phắt thấy thì lũ vượn này đã nhảy ùa cả lại chỗ thạch bàn, bụi rậm, vồ hành lý, quần áo chàng.
- Chà, lũ quái gớm thật! Dám ăn trộm đồ vật!
Thái Dũng biết giống khỉ vượn rất tinh nghịch, thường khi ăn cắp cả lương thực thổ dân nên vội lớn tiếng quát đuổi. Thấy động chúng phá chạy tứ tán, nhưng vẫn không chịu buông đồ, gớm nhất là có hai con lớn lôi cả "sắc" nặng nhảy lên cành, có con vớ phăng cả dây súng.
Cấp thời Thái Dũng vội cúi xuống, bốc được mấy hòn sỏi, vừa vọt về đuổi, vừa ném veo véo như vãi đậu.
Hai con cắp "sắc" trúng đạn sỏi, ngã lộn nhào, liền với con trộm dây súng, gậy song. Nhưng khi Dũng vọt được lên bờ, có con bị thương cố phá chạy cùng hai con trước ôm quần áo. Hai con này vồ nhảy lên cành, thoát khỏi, cứ thế đu nhử trêu Thái Dũng. Thấy chúng đã chuyền khá xa, bèn cúi nhặt hai hòn sỏi nhỏ búng vút theo. Chóe! Trúng tay con ôm quần áo ra ngoài ngay lúc vừa lìa cành, rớt lộn nhào xuống quần áo vãi tung.
Nhưng nó lại bíu được cành đu đi cùng con kia chuyền lên ngọn, chạy biến mất. Dũng trông ngang vướng cành lá, không thấy, bèn nhặt lấy y phục. Kiểm lại, chỉ mất một cái áo "may ô" lót mình, chàng trai ngó xác một con bị chết nằm gần đấy, lắc đầu tặc lưỡi, lẩm bẩm:
- Hừ! Không ngờ khỉ vượn vùng này gớm thế! Phá chọc người như giặc! Đó rồi, chàng bèn tay y phục, đem bộ quần áo bẩn ra giặt, phơi, đoạn ngồi ngay thạch bàn, nhớ đến cuốn gia phả, bèn lấy ra coi.
Trong ống nứa còn một ống sắt nữa đựng hai cuốn sách. Một khổ lớn như loại sách chữ nho, bằng giấy bản, bìa giấy bồi phết cây già dùng nước không mủn rách.
Ngoài bìa có hàng chữ son viết dọc, nhiều nét đã phai mờ.
Lê gia chi phả hệ tộc thứ chi tằng tổ Long Đĩnh Còn cuốn kia chỉ bằng bàn tay, bìa sơn cũng giấy bản, chữ thảo, ngoài đề mấy chữ Nôm rất lạ:
Cả hai cuốn sách này xem xong sẽ hóa thành chó sói...
Kẻ nào mà thoát khỏi sẽ tìm thấy bí mật giữa âm thanh.
Nhận được nét chữ Thần Quân, Thái Dũng không khỏi ngạc nhiên về lời ghi chú bên ngoài, bèn nghĩ thầm:
- Trong này có gì nguy hiểm? Lời nguyền Lộng ngữ? Tà thuật? Đe dọa? Hay thử thách về vật lý? Đắn đo mấy khắc, chàng bèn để cuốn gia phả xuống lòng, duỗi chân, tựa vào thân cây, giở cuốn phụ ngôn của Thần Quân ra xem thử.
Nhưng giấy bản chừng để chỗ ẩm thấp đã lâu, nên gần như dính vào nhau rất khó giở. Rất tự nhiên, theo thói quen thông thường của nhiều người khi đếm bạc giấy, giở sách khô, chàng bèn đưa ngón tay lên miệng thấm nước bọt, lần từng tờ. Đây gần như tập ký ức sự của Hồng Diện Thần Quân, chữ rất nhỏ, suốt mấy chục tờ đầu ghi lại cuộc đời phong trần bất hạnh của ông già, từ ngày luyện võ tầm thù cho đến đêm tuyệt vọng được rõ kẻ thù đã chết rồi, âm thầm đến miền sông Gầm gặp đêm thảm sát Lê Gia trang.
- À, đây rồi! Biết đâu "người" chẳng tiết lộ cho ta thấy vài tia sáng về vụ án Lê gia!
Thái Dũng cả mừng, giở vội trang sau chú ý coi, bỗng nhiên thấy mắt hoa hẳn lên, đầu choáng váng lạ thường như kẻ bị gió độc. Nét chữ nhảy múa trước mắt, cảm rõ trong mình vụt chuyển sang một trạng thái hết sức kỳ dị. Người tê hẳn đi, ngứa ngáy rồi trong khoảnh khắc, người hâm hấp, rõ sắp lên cơn sốt rét, khát nước lạ lùng.
- Sốt rét rừng chăng? Trời! Nguy rồi! Khéo mình bị nhiễm độc!
Chàng trai thất kinh, bật tiếng khẽ sực nhớ lại hồi bị kiếm Đông Quân chém, trạng thái trong người lúc đầu cũng giống bây giờ. Và chàng nhớ luôn đến câu chuyện hẹn giờ chết từng được nghe hồi còn đi học. Có kẻ chết đi, để lại một tập sách với lời nguyền ghi ngoài hẹn "kẻ nào đọc xong năm phút sẽ chết liền." Sách vào tay kẻ thù, người này đọc xong quả nhiên ngã lăn ra chết ghê gớm như bị một lời nguyền linh thiêng. Mãi sau người ta mới hay người đó đã thác vì chất độc. Tập sách kia tờ nào cũng tẩm các chất độc, nạn nhân chết vì vô tình dùng tay thấm bọt miệng giở cho dễ, và tự nhiên đã nhấp chất độc mà không biết.
- À! Đúng rồi! Sách có tẩm nọc rãi chó sói điên lẫn các chất độc khác! Vô tình ta bị trúng rồi!
Kinh dị, Dũng vội ngồi cấp tốc bế huyệt, tay phải cầm sách, tay trái thò vào túi áo trong tìm thuốc giải.
Nào ngờ vừa may kiếm được một viên linh đơn của Lãn Ông tái thế Mai Hoa Thung cho ngày nào, chàng trai chưa kịp bỏ miệng thình lình "soạt" cái tập sách bay vụt lên không.
Nguồn: http://truongton.net/