CATHERINEWashington 1945-1946
Một buổi sáng ngày 7 tháng Năm năm 1945, tại Reims nước Pháp, Đức quốc xã đã đầu hàng vô điều kiện trước quân đội Đồng Minh. Ách thống trị kéo dài hàng ngàn năm của Đế chế thứ Ba kia đã chấm hết. Những người trong cuộc đã từng biết đến cuộc tàn phá khốc lệt của Pearl Harbour, những người đã từng chứng kiến trận Dunkirk suýt nữa lỡ cơ hội đi vào lịch sử như một trận Waterloo của nước Anh và khả năng phòng thủ lỏng lẻo của London đến mức nào nếu vấp phải một cuộc tấn công toàn diện của không quân Đức Luftwaffe. Tất cả những người như vậy đều thấy được hàng loạt kỳ tích mang lại thắng lợi cho quân đội Đồng minh, đồng thời cũng biết rõ ranh giới giữa thắng bại rất chống chênh nếu tiến hành khác đi. Những thế lực của cái ác hầu như đã nổi lên đắc thắng, và quan điểm này thật là phi lý, thật là quá mâu thuẫn với đạo đức của đạo Cơ đốc là cái Thiện phải chiến thắng, cái ác phải quy thuận, đến nỗi bọn chúng đã sợ hãi làm ngơ đi và cảm ơn Chúa đã phù hộ và che giấu những việc làm xằng bậy của bọn chúng, không để cho các thế hệ mai sau được biết, trong hàng đống những hồ sơ được ghi dấu TỐI MẬT.
Thế giới tự do lúc này đã chuyển sự chú ý sang phía Viễn Đông. Những người Nhật với thân hình ngắn cũn, mắt cận thị, mặt vẻ hài hước, đang sống mái bảo vệ từng tấc đất họ chiếm giữ được, cuộc chiến có vẻ sẽ còn kéo dài và tổn phí nhiều xương máu.
Thế rồi sau đó vào ngày 6 tháng Tám, một trái bom nguyên tử đã ném xuống Hiroshima. Sự tàn phá vượt quá sức tưởng tượng. Chỉ sau vài phút đồng hồ, phần lớn dân cư của thành phố lớn này đã nằm chết la liệt, họ là nạn nhân của một cuộc tàn sát còn lớn hơn tất cả các cuộc chiến tranh và dịch bệnh ở thời Trung cổ gộp lại.
Ba ngày sau, ngày 9 tháng Tám, quả bom nguyên tử thứ hai lại được ném xuống đất Nhật, lần này xuống Nagasaki. Kết quả còn tồi tệ hơn nữa. Cuối cùng nền văn minh đã đạt tới thời điểm đẹp nhất. Người ta có thể đạt tới nạn diệt chủng mà tính được bằng tỷ số số nhân những triệu người trong một giây đồng hồ. Đối với người Nhật, thế là quá đủ rồi, và ngày 2 tháng Chín năm 1945, trên tàu chiến Missouri, tướng Mỹ Douglas Mac Arthur đã nhận sự đầu hàng vô điều kiện của Chính phủ Nhật Bản.
Cuộc thế chiến thứ hai đã chấm dứt.
Khi tin tức loan đi, toàn thế giới nín thở một lúc lâu, sau đó rộ lên tiếng tung hô nhiệt thành vui mừng. Các thành phố và làng mạc trên khắp hành tinh rầm rộ những cuộc tuần hành sôi sục của dân chúng tổ chức chào mừng chiến tranh chấm dứt, chấm dứt mọi cuộc chiến, chấm dứt mọi cuộc chiến, chấm dứt mọi cuộc chiến…
Ngay ngày hôm sau, thông qua một nguồn tin kỳ lạ mà Bill Fraser không bao giờ giải thích cho Catherine rõ, ông có thể làm một cú phôn tới Larry Douglas đang đóng trên một hòn đảo ở Nam Thái Bình Dương. Làm như vậy mới khiến cho Catherine ngạc nhiên. Fraser bảo nàng nán đợi ông tại văn phòng nàng để trưa hôm đó họ sẽ đi ăn cùng nhau. Vào lúc 2 giờ 30 chiều, nàng gọi cho Bill qua máy bộ đàm.
- Anh định đưa em đi đâu ăn trưa thế? - Nàng hỏi - Sắp đến giờ ăn chiều rồi còn gì.
- Cứ ngồi yên đợi - Fraser đáp - Anh sẽ đến chỗ em ngay bây giờ.
Năm phút sau, ông gọi cho nàng:
- Có một cú phôn cho em ở đường dây số một đấy.
Catherine nhấc ống nghe lên:
- Allô!
Nàng nghe có tiếng xoẹt xoẹt và rào rào như tiếng sóng từ một đại dương xa xăm. Nàng nhắc lại.
Một giọng nam nói:
- Bà Larry Douglas đấy phải không?
- Vâng - Catherine lúng túng đáp - Ai đấy?
- Xin bà đợi cho một lát.
Qua ống nghe, nàng nhận thấy một giọng rất cao. Lại tiếng rào rào, sau đó là tiếng nói:
- Cathy đấy à?
Nàng ngồi, tim đập mạnh, không thể nói nên lời:
- Larry? Anh Larry?
- Đúng đấy, cưng ạ.
- Trời ơi, anh Larry? - Nàng bật khóc, toàn thân nàng run rẩy.
- Em thế nào, hở cưng?
Nàng lấy móng tay ấn và cánh tay mình cố làm cho mình đau để ngăn chặn sự mừng rỡ thái quá đang bỗng nhiên ập đến với nàng.
- Em… em vẫn khỏe - Nàng đáp - Anh… anh đang ở đâu vậy?
- Nếu anh nói rõ nơi anh ở, anh sẽ bị "cúp" máy ngay. Anh đang ở một nơi giữa Thái Bình Dương.
- Thế cũng là gần rồi? - Nàng cố kiềm chế giọng nói - Anh vẫn khỏe đấy chứ?
- Khoẻ.
- Bao giờ anh về nhà?
- Sắp rồi - Chàng hứa hẹn.
Catherine lại nước mắt lưng tròng:
- Được, được chúng ta hãy… khớp giờ đồng hồ của nhau nhé.
- Em khóc đấy à?
- Đúng, em khóc đấy, anh ngốc ạ! Em mừng là anh không chứng kiến mặt em nước mắt đầm đìa. Ôi, anh Larry… Larry…
- Anh nhớ em lắm, cưng ạ! - Chàng bảo.
Catherine nghĩ lại những đêm dài đằng đẵng, cô đơn kéo hết tuần này qua tháng nọ, năm kia mà vắng bóng chàng, không có vòng tay của chàng, không được gần kề tấm thân khoẻ mạnh, tuyệt vời cửa chàng, thiếu sự vuốt ve, mơn trớn, yêu đương của chàng. Nàng bảo:
- Em nhớ anh vô cùng.
Một giọng đàn ông xen vào đường dây:
- Xin lỗi đại tá. Chúng tôi sắp phải cắt máy bây giờ.
- Đại tá ư?
- Thế mà anh không cho em biết là anh đã được vinh thăng.
- Anh ngại em sẽ băn khoăn lo lắng cho anh.
- Trời, anh yêu, em mà…
Tiếng gào của biển cả mỗi lúc một to hơn rồi đột nhiên im lặng, đường dây đã ngưng hoạt động. Catherine ngồi ở bàn, trừng trừng ngó nhìn vào máy điện thoại. Sau đó nàng gục xuống cánh tay, bật khóc nức nở.
Mười phút sau, giọng Fraser vang lên trong máy nội đàm.
- Cathy, tôi đã chuẩn bị xong rồi, đang đợi cô đây - Ông nói.
- Giờ thì em rất sẵn sàng - Nàng vui vẻ đáp - Cho em mười phút chuẩn bị nhé.
Nàng mỉm cười nồng nhiệt khi nghĩ đến việc Fraser vừa mới thực hiện và chắc hẳn ông đã tốn rất nhiều công sức mới làm được như vậy. Ông là người thân yêu nhất trên đời mà nàng từng biết. Tất nhiên là phải xếp sau Larry rồi.
Catherine thường tưởng tượng quá nhiều đến ngày về của Larry cho nên chính cái ngày về đó lại trở nên quá bình thường. Bill Fraser giải thích cho nàng hay rằng Larry có thể trở về trên một chuyến máy bay vận tải hàng không hoặc cũng có thể là một máy bay MATS mà những chuyến bay này không có giờ giấc cố định như lịch bay của hãng hàng không thương mại. Chàng có thể cứ lên phắt một chuyến máy bay nào đó, rồi bất chấp sự việc gì xảy ra, không cần biết đường bay sẽ đi tới đâu miễn là bay đúng theo hướng chính đã định.
Catherine ngồi ở nhà suốt cả ngày để đợi chờ Larry. Nàng cố đọc sách song hồi hộp quá không đọc nổi. Nàng ngồi lại, nghe tin tức qua đài phát thanh và nghĩ đến việc Larry trở về, lần này chàng sẽ về vĩnh viễn. Tới nửa đêm vẫn chưa thấy tăm hơi chàng đâu. Đến hai giờ sáng, Catherine không còn căng mắt được nữa, nàng đã ngủ thiếp đi.
Nàng bị một bàn tay nắm lấy cánh tay nàng, lay nàng dậy và khi nàng mở mắt ra thì chàng đang đứng đó. Larry của nàng đang đứng đó, cúi xuống nhìn nàng, bộ mặt đen xạm, gầy guộc nở toét một nụ cười và như một tia chớp Catherine lao ngay vào vòng tay chàng. Mọi lo âu, cô đơn, buồn phiền của bốn năm trời đã tan hết sạch trơn giữa niềm vui tràn trề như sóng lớn, dường như thấm đến từng đường gân thớ thịt trên cơ thể nàng. Nàng ghì chặt lấy chàng cho đến khi nàng có thể làm gẫy xương nàng mới thôi. Nàng muốn cứ như thế này mãi không bao giờ cho chàng ra đi lần nữa.
- Nghỉ chút đã, em nhé - Cuối cùng Larry bảo. Chàng đẩy nàng ra xa nụ cười vẫn còn tươi rói trên môi.
- Báo chí mà viết như thế này thì nghe ra ngộ thật đấy chứ: "Phi công chiến đấu trở về nhà an toàn, song lại bị vợ ôm ghì đến chết ngạt".
Catherine bật hết đèn lên, không sót một ngọn nào, làm cho căn phòng sáng trưng để nàng có dịp nhìn ngắm chiêm ngưỡng nuốt chửng lấy chàng. Khuôn mặt chàng lại có thêm một vẻ trưởng thành mới. Quanh khóe mắt và miệng chàng đã xuất hiện những đường nhăn mà trước đây không hề có. Ấn tượng này lại khiến chàng thêm đẹp trai hơn.
Catherine lắp bắp nói:
- Em muốn đi đón anh quá, song không biết đón ở đâu. Em có gọi cho Phi đoàn song họ không cho em biết một tin tức gì vì vậy em phải ngồi đợi ở nhà và thế là…
Larry tiến đến sát nàng và chặn lời nói giữa chừng của nàng bằng một chiếc hôn. Chiếc hôn mạnh mẽ về thể xác đối với chàng song nàng ngạc nhiên vì nhận ra việc làm này không phải như vậy. Nàng rất yêu Larry song nếu nàng chỉ ngồi đó chuyện trò với chàng nàng thấy càng hài lòng hơn chứ không phải làm chuyện ân ái như nàng đang háo hức đòi hỏi. Nàng đã chôn vùi những cảm xúc tình dục lâu quá rồi đến mức chúng bị chôn chặt quá sâu và phải mất một số thời gian mới có thể khơi dậy và lôi chúng ra được. Song Larry không cho nàng có đủ thì giờ làm việc đó. Chàng giật phăng quần áo nàng ra, mà bảo:
- Cathy, lạy Chúa, em không biết là anh mong chờ giây phút này như thế nào. Anh phát điên lên được. Bây giờ gặp lại em, anh thấy em còn xinh đẹp hơn hình ảnh anh ghi nhớ rất nhiều.
Nàng có cảm giác như một kẻ xa lạ đẩy nàng lăn ra giường, và thật đáng tiếc là Larry không cho nàng đủ thì giờ để làm quen với cảnh chàng có mặt trong nhà. Còn Larry không qua những động tác chuẩn bị trước, cứ xấn xổ làm tới mà nàng biết là nàng chưa chuẩn bị gì cho chàng, nàng cắn tay để khỏi bật lên tiếng khóc.
- Thế là chồng nàng đã về nhà.
Một tháng liền sau đó, do ân sủng của Fraser, Catherine đã được vắng sở để ở nhà. Nàng cùng Larry hầu như lúc nào cũng cặp kè bên nhau. Nàng nấu cho chàng ăn tất cả những món chàng thích, họ cùng nhau nghe đĩa hát rồi ngồi trò chuyện liên miên không dứt cố để bù đắp những khoảng trống của những năm họ đã bị mất mát.
Tối tối họ đi dự tiệc tùng, đi nhà hát và khi về đến nhà, họ lại cho nhau những ân ái vợ chồng. Bây giờ thân xác nàng đã sẵn sàng dành cho chàng và nàng lại phát hiện ở chàng một người tình đầy hấp dẫn như ngày xưa. Song vẫn gần như xưa thôi.
Nàng không dám thừa nhận dù chỉ là với bản thân nàng, song nàng thấy Larry đã có thay đổi thế nào đó, khó xác định nổi. Chàng chỉ đòi hỏi nhiều mà ít chiều chuộng nàng. Trước khi ân ái vẫn có những chuẩn bị, song chàng làm như một cái máy, tuồng như đó là nghĩa vụ phải làm trước khi chàng lao vào cuộc tấn công. Và đó là một cuộc tấn công man thú, một cuộc chiếm đoạt dữ dội, như cơ thể chàng tìm đến sự trả thù về một chuyện gì đó, trừng phạt việc gì đó. Cứ mỗi lần họ làm xong thì Catherine cảm thấy thâm tím, đau nhừ người như nàng vừa qua một trận đòn. Nàng biện hộ cho chàng rằng có lẽ nguyên nhân là vì đã lâu chàng không đi lại với một người đàn bà nào.
Ngày trôi qua, chuyện ân ái của chàng vẫn thế và cũng chính vì vậy mà cuối cùng Catherine chỉ mong mỏi có những sự thay đổi ở Larry. Nàng cố tìm hiểu chàng một cách bình tĩnh, cố quên đi một sự kiện rằng chàng là người chồng mà nàng vẫn yêu quý. Nàng nhận thấy đây là một người đàn ông cao lớn, vững chãi, tóc đen với đôi mắt đen và sâu, một khuôn mặt đẹp đáng sợ. Song có lẽ không nên dùng chữ "đẹp" vào chỗ này. Những đường hằn quanh miệng đã làm cho vẻ mặt của chàng thêm thô ráp. Khi nhìn con người xa lạ này, Catherine thường nghĩ. Đây có thể là một con người ích kỷ, tàn nhẫn, lạnh lùng. Tuy nhiên nàng lại tự nhủ rằng nàng đang có một nhận định lố bịch. Đây là chàng Larry đáng yêu tốt bụng và sâu sắc cơ mà.
Nàng rất hãnh diện khi giới thiệu chàng với tất cả các bạn bè của nàng và những người cùng làm với nàng, tuy nhiên họ có vẻ chỉ quấy rầy chàng mà thôi. Trong các buổi tiệc chàng thường lẩn tránh ra xa một góc và cả buổi tối chỉ uống rượu. Catherine có cảm giác rằng chàng không muốn cố gắng thân mật chan hoà với mọi người. Một buổi tối nàng cố tranh cãi với chàng về chuyện này thì bị chàng quật lại:
- Việc gì phải như vậy. Lúc anh phải giơ "gáo" ra cho chúng phạt thì tất cả cái lũ béo ú này đang chui lẩn ở đâu vậy.
Đôi ba lần Catherine có đề cập đến việc Larry dự định sẽ làm gì trong tương lai. Nàng tưởng rằng chàng muốn ở lại trong Phi đoàn Không quân, song không ngờ việc làm đầu tiên của Larry sau khi chàng trở về là chàng xin được giải ngũ.
- Quân đội là nơi dành cho bọn nịnh bợ. Người ta chỉ có mỗi một lối thoát là đi xuống - Chàng nói.
Hầu như vẫn cái phong cách nhạo đời như trong lần đầu tiên nàng nói chuyện với chàng tại Hollywood. Chỉ khác là lúc đó chàng nói bông đùa.
Catherine phải tìm cách trao đổi việc này với ai đó, và cuối cùng nàng quyết định nói chuyện với Bill Fraser.
Nàng thuật lại cho ông nghe những sự việc đang làm nàng băn khoăn, tất nhiên không đề cập đến những chuyện riêng tư kia. Fraser động viên:
- Nếu như em coi đây là một điều an ủi, thì em cần nhớ rằng trên khắp thế giới này có hàng triệu phụ nữ cũng đang trải qua những điều như em trải qua lúc này. Chuyện này cũng đơn giản thôi, Catherine ạ. Em đang có một người chồng xa lạ đó thôi.
Catherine nhìn ông, không nói gì cả.
Fraser ngừng lại để nhồi thuốc vào tẩu rồi châm lửa hút.
- Em sẽ không thể hy vọng lấy lại được những gì em đã bỏ dở khi Larry ra đi cách đây bốn năm. Cái khoảng trống đó không còn tồn tại nữa. Em đi qua rồi mà Larry cũng qua rồi. Sự thành công của một cuộc hôn nhân một phần chính là do ở chỗ người chồng và người vợ có những kinh nghiệm chung với nhau. Họ trưởng thành bên nhau và cuộc hôn nhân của họ cũng trưởng thành. Em sẽ phải tìm kiếm lại mảnh đất chung cho cuộc tái ngộ này.
- Anh Bill ạ, ngay cả khi thảo luận chuyện đó em cũng cảm thấy không tự tin ở mình.
Fraser mỉm cười, nhắc nàng:
- Anh biết em trước nhất. Em có nhớ không nhỉ?
- Em nhớ.
- Anh tin rằng Larry cũng có cách riêng của anh ấy. Anh ấy đã sống chung với hàng ngàn đàn ông trong bốn năm trời và bây giờ lại phải tập làm quen với việc sống bên một người phụ nữ.
Nàng mỉm cười:
- Những điều anh nói ra đều đúng cả. Lẽ ra em phải được nghe người khác góp ý cho như vậy.
Fraser nhận xét:
- Ai cũng có những lời khuyên hữu ích để chăm sóc cho người bị thương tổn, song có những vết thương không bộc lộ ra ngoài. Đôi khi nó lắng vào trong. - Ông nhìn thẳng vào mắt Catherine, rồi nói thêm rất nhanh - Tôi không có ý ám chỉ chuyện gì nghiêm trọng đâu mà chỉ muốn nói về những nỗi kinh hoàng mà những người lính chiến đấu thường trải qua. Trừ phi con người ta hoàn toàn điên khùng không nói làm gì, còn thì nhất định sự kinh hoàng để lại một hiệu quả to lớn đối với thế giới quan của người ta. Cô có hiểu tôi định nói gì không?
Catherine đáp:
- Em hiểu. Song vấn đề ở đây là ảnh hưởng như thế nào?
Cuối cùng Catherine trở lại sở làm việc, mọi người ở công ty gặp lại nàng đều hết sức mừng rỡ. Trong ba ngày đầu trở lại làm việc nàng hầu như chỉ rà soát lại các chương trình vận động, mở những tài khoản mới và nắm lại các tài khoản cũ. Nàng làm việc từ sáng sớm tới khuya để bù lại những thời gian đã mất, sách nhiễu những người viết quảng cáo và các hoạ sĩ phác thảo và thuyết phục các khách hàng dao động. Nàng rất có khiếu trong công tác bởi nàng cũng yêu thích công việc này.
Tối tối Larry thường đợi Catherine trở về nhà. Lúc đầu nàng còn hỏi han xem lúc nàng đi vắng chàng làm những công việc gì, song dần dần câu trả lời của chàng lúc nào cũng chung chung và cuối cùng nàng cũng thôi không hỏi nữa. Chàng dựng nên một bức tường và nàng không biết làm cách nào để xuyên qua được. Chàng lấy làm phật ý hầu như với bất kỳ chuyện gì mà Catherine nói ra, thế rồi họ thường xuyên cãi vã vì những chuyện không đâu vào đâu. Thỉnh thoảng họ ăn tối với Fraser và nàng luôn luôn cố hết sức mình để làm sao những buổi tối này được thú vị và vui vẻ khiến cho Fraser khỏi nghĩ đến việc gia đình nàng đang có gì không ổn.
Song Catherine phải đối diện với một sự thật là đang có chuyện gì đó rất phiền toái. Nàng cảm thấy một phần là do nàng đã thất bại. Nàng vẫn còn yêu Larry. Nàng yêu hình dáng của chàng, yêu cái cảm giác về chàng và cả những hồi ức cũ về chàng song nàng nhận thấy rằng nếu như chàng cứ tiếp tục nhù vậy tình hình sẽ đưa cả hai người đến chỗ tan vỡ.
Lúc này nàng đang ngồi ăn trưa với William Fraser:
- Larry thế nào? - Ông hỏi.
Phản xạ không điều kiện kiểu Pavlov thúc đẩy nàng trả lời liền là "tốt", sau đó nàng ngừng lại và đáp hững hờ:
- Anh ấy cần một việc làm.
Fraser ngả người ra sau, gật đầu:
- Anh ấy có thấy buồn bực khi không có việc gì làm không?
Nàng ngập ngừng, song không muốn nói dối ông.
- Anh ấy chẳng thích làm gì cả - Sau đó thận trọng nói thêm - Cần phải tìm một việc thích hợp.
Fraser chăm chú quan sát nàng, cố tìm ra ý nghĩa thực sự đằng sau những lời nàng nói.
- Cậu ấy có thích làm phi công không?
- Anh ấy không muốn trở lại không quân nữa.
- Tôi đã nghĩ đến khả năng làm cho một hãng hàng không. Tôi hiện có một người bạn đang điều hành hãng Pan American. Được một phi công giàu kinh nghiệm như cậu ấy thì họ may mắn lắm đấy.
Catherine ngồi ngẩn người ra suy nghĩ về chuyện này, nàng cố đặt mình vào địa vị Larry. Chàng yêu nghề lái máy bay hơn bất cứ chuyện gì trên đời. Nàng đáp thận trọng:
- Nghe ra… cũng hay đấy. Liệu anh có thể kiếm việc đó cho anh ấy không, anh Bill?
- Để tôi cố thử xem. Nhưng trước hết cô hây thăm dò Larry đi để xem cậu ấy phản ứng ra sao.
- Vâng, em sẽ làm - Catherine nắm lấy tay ông, tỏ vẻ biết ơn - Cảm ơn anh rất nhiều.
- Về chuyện gì? - Fraser hỏi lại, hững hờ.
- Về chuyện anh luôn luôn có mặt mỗi khi em cần đến anh.
Ông đặt tay lên bàn tay nàng:
- Trong phạm vi của anh mà thôi.
Tối hôm đó, khi Catherine thuật lại cho Larry về điều Bill Fraser gợi ý, chàng bảo:
- Từ hôm anh về đến giờ mới được nghe một ý kiến hay như vậy.
Và hai ngày sau chàng có cuộc tiếp kiến với Carl Eastman tại trụ sở của hãng Pan American ở Manhattan.
Catherine đã là lại một bộ com lê cho Larry, chọn một chiếc sơ mi, một chiếc cà vạt và đánh bóng đôi giày của chàng cho đến khi gần như soi gương được trên lớp da giày mới thôi.
- Anh sẽ gọi điện thoại cho em ngay để cho em biết tình hình ra sao.
Chàng hôn nàng, nở một nụ cười ngây thơ kiểu cười của chàng rồi bỏ đi.
Catherine nghĩ: Larry vẫn giống như một đứa trẻ. Chàng có thể hay nóng nảy, cáu bẳn, song chàng vẫn là người đáng yêu và hào hiệp. Mình thật là hên - Catherine thở phào - Mình đáng ra phải là một người hoàn hảo nhất trên đời.
Trước mắt nàng đang có một chương trình làm việc bận rộn, song nàng không hề nghĩ được gì khác ngoài Larry và cuộc gặp gỡ của chàng. Đây không chỉ đơn thuần là một công việc. Nàng có cảm giác rằng toàn bộ cuộc hôn nhân của nàng phụ thuộc vào những gì sắp xảy ra.
Ngay hôm đó là một ngày dài nhất trong cuộc đời nàng.
***
Trụ sở của Pan American đặt trong một cao ốc hiện đại ở Đại lộ số Năm và Phố số Năm mươi ba. Văn phòng của Carl Eastman rộng rãi, với đồ đạc tiện nghi. Rõ ràng ông ta giữ một địa vị quan trọng trong hãng:
Khi Larry bước vào phòng, ông ta chào hỏi:
- Xin mời vào, mời ông ngồi.
Eastman khoảng ba mươi lăm tuổi, đầu cắt gọn, má hõm, đôi mắt xanh xoi mói không bỏ qua chi tiết nào. Ông ta đưa Larry tới một chiếc tràng kỷ sau đó ngồi xuống chiếc ghế tựa đối diện với chàng.
- Ông dùng cà phê?
- Không, xin cảm ơn - Larry đáp.
- Tôi biết là ông muốn làm việc cho hãng chúng tôi.
- Vâng, nếu ở đây có chỗ trống.
- Hiện đang có chỗ khuyết - Eastman đáp - Nhưng có đến một ngàn chàng dô kề cao ngỏng đâm đơn vào - Ông lắc đầu ảo não - Thật khó mà tin được. Ngành Không quân đào tạo ra hàng ngàn thanh niên thông minh để đi lái những loại máy bay hết sức phức tạp từ trước đến nay. Rồi đến khi họ làm được việc, mà làm rất tốt nữa kia thì Không quân lại sa thải họ, không tạo cho họ việc gì để làm nữa - Ông ta thở dài - Khó mà tin được những người lũ lượt kéo tới đây suốt một ngày. Không thiếu gì những phi công cự phách, loại "át chủ" như ông. Chỉ có một chỗ khuyết mà có một ngàn đơn đâm vào… và tất cả các hãng hàng không khác cũng đang diễn ra một tình trạng như vậy.
Larry cảm thấy thất vọng tràn trề:
- Thế tại sao ông còn hẹn gặp tôi? - Chàng hỏi xẵng.
- Vì hai lý do. Một là cái ông ở trên kia bảo tôi phải làm.
Larry thấy giận bừng bừng.
- Tôi không cần…
Eastman ngả người về phía trước:
- Thứ hai là vì ông có thành tích bay rất cừ.
- Cảm ơn - Larry đáp hờ hững.
Eastman quan sát kỹ chàng:
- Ông sẽ qua một chương trình đào tạo tại đây. Sự thể cũng giống như trở lại nhà trường ấy.
Larry lưỡng lự, không biết là câu chuyện đang đi về đâu.
- Xem chừng cũng được - Chàng thận trọng đáp.
- Ông sẽ dự lớp huấn luyện ở New York, ngoại ô La Guardia.
Larry gật đầu, chờ đợi.
- Sẽ có bốn tuần học ở trường dưới đất, sau đó một tháng huấn luyện bay.
- Vậy là lái loại DC-4 sao? - Larry hỏi.
- Chính thế. Bao giờ xong lớp huấn luyện, chúng tôi sẽ trả cho ông ba trăm năm mươi đô-la hàng tháng.
Thế là chàng đã có việc làm. Gã khốn nạn này đã đưa ra hàng ngàn phi công xếp hàng sau chàng để doạ chàng. Nhưng chàng vẫn có việc làm rồi? Chàng lo lắng về chuyện gì kia chứ? Không một phi công nào trong cái binh chủng Không quân khốn khiếp kia có được một thành tích cao hơn chàng cơ mà.
Larry cười ngượng:
- Ông Eastman, tôi bắt đầu bằng công việc hoa tiêu cũng không sao, song nên nhớ tôi là phi công. Thế bao giờ thì bắt đầu.
Eastman thở dài:
- Các hãng máy bay đang được hợp nhất. Cách duy nhất để cho người ta tiến lên là phải có nhiều thâm niên. Phía trước anh còn rất nhiều người. Anh có muốn thử không?
Larry gật đầu:
- Tôi có gì để mất đâu?
- Đúng thế - Eastman nói - Tôi sẽ thu xếp mọi thủ tục cho anh. Tất nhiên anh sẽ phải qua kiểm tra sức khoẻ.
- Còn vấn đề gì nữa không?
Larry cười:
- Bọn Nhật không phát hiện ra ở tôi một thiếu sót nào.
- Sớm nhất thì đến bao giờ anh có thể đi làm?
- Ngay chiều nay có sớm quá không?
- Thôi để thứ hai nhé - Eastman viết cái tên lên một tấm thiếp rồi trao cho Larry - Đây. Họ sẽ đợi anh vào lúc chín giờ sáng thứ hai tới.
Larry gọi điện cho Catherine kể lại cho nàng về cái tin vừa qua, song giọng nói của chàng quá xúc động khiến Catherine không hiểu gì một hồi lâu. Nàng nhận thấy rằng mọi chuyện sẽ đâu vào đó.
Chương 13
NOELLEAthens, 1946
Constantin Demiris có cả một máy bay để sử dụng riêng song niềm tự hào của ông đặt vào chiếc Hawker Siddeley có thể chở được mười sáu hành khách với những tiện nghi sang trọng, bay với tốc độ ba trăm dặm một giờ và có một đội bay bốn người. Có thể gọi đó là một toà lâu đài bay cũng đúng, Ferderick Sawrin đã phụ trách việc trang trí nội thất, còn Chagall vẽ những tranh trang trí trên tường. Thay vào chỗ những chiếc ghế máy bay thông thường là những ghế bành và những divan tiện lợi đặt khắp trong ca bin. Ngăn phía sau được biến đổi thành một phòng ngủ sang trọng. Phía trước, ngay sau buồng lái là một căn bếp hiện đại. Mỗi khi Demiris hoặc Noelle đi trên máy bay đều có một đầu bếp đi theo.
Demiris đã chọn tuyển những phi công riêng của ông trong đó có một người Hy Lạp tên là Paul Metaxas và một cựu phi công chiến đấu trong không quân Hoàng gia người Anh tên là Ian Whitestone. Metaxas là một người lùn mập dễ thương, trên môi luôn luôn nở một nụ cười cởi mở, dễ lây sang người khác. Anh vốn là một thợ máy rồi bằng con đường tự học đã biết lái máy bay và phục vụ trong không quân Hoàng gia Anh, chiến đấu trên đất Anh, tại đây anh đã gặp Ian Whitestone. Whitestone người cao, tóc đỏ hoe, gầy gò đến thảm hại, tính tình khó khăn như một ông hiệu trưởng bước vào ngày đầu tiên của học kỳ mà lại ở một trường học hạng hai cho những học trò con trai cứng đầu cứng cổ. Song khi lên trời, Whitestone là một người khác hẳn. Anh có một kỹ năng tự nhiên hiếm có của một người phi công bẩm sinh, một giác quan mà không bao giờ có thể ai dậy hoặc học được. Whitestone và Metaxas đã bay cùng nhau ba năm trời chiến đấu với Không quân Đức Luffwaffe và người nọ đều trân trọng đánh giá cao người kia.
Noelle thường đi những chuyến đi trên chiếc phi cơ lớn này, đôi khi đi công chuyện với Demiris, cũng có khi chỉ để du hý. Nàng đã làm quen với phi công song không hề chú ý đặc biệt đến họ.
Thế rồi một hôm nàng nghe lỏm được câu chuyện họ ôn lại một việc đã xảy ra hồi họ trong không quân Hoàng gia.
Từ phút đó trở đi Noelle bỏ ra một phần thời gian trên một chuyến bay để vào trong buồng lái trò chuyện với hai phi công hoặc mời một trong hai người ra ngồi với nàng trong ca bin. Nàng gợi cho họ kể lại những chuyện chiến đấu cũ, và tuy không bao giờ trực tiếp đặt ra câu hỏi song dần dần nàng biết được Whitestone đã từng là sĩ quan liên lạc trong phi đội của Larry Douglas trước khi chàng từ biệt không quân Hoàng gia, còn Metaxas mãi sau này mới gia nhập phi đoàn nên không gặp Larry. Noelle bắt đầu tập trung vào viên phi công người Anh.
Thấy cô bồ của ông chủ quan tâm động viên, khuyến khích và tâng bốc, Whitestone kể lể thoải mái về quãng đời trước đây và những dự kiến trong tương lai. Anh ta kể với Noelle rằng anh ta thường quan tâm đến ngành điện tử. Người anh rể của anh ta mở một hãng điện tử nhỏ ở Úc và muốn Whitestone sang tham gia, song Whitestone thiếu vốn liếng.
Anh ta vừa nói vừa cười với Noelle:
- Cứ như cách sống của tôi bây giờ, thì đến mạt kiếp tôi cũng không có tiền.
Noelle vẫn tiếp tục viếng thăm Paris mỗi tháng một lần để gặp Christian Barbet. Barbet đã thiết lập quan hệ với những hãng thám tử tư ở Washington, cho nên những bản tường trình về Larry Douglas đổ về liên tục. Để thử Noelle, gã thám tử người nhỏ con đề nghị được gửi các bản tường trình cho nàng tại Athens, song nàng bảo là nàng thích đến tận nơi để nhận. Barbet gật đầu ranh mãnh, rồi nói bằng giọng của kẻ đồng loã.
- Tôi hiểu, thưa cô Page.
Vậy là nàng không muốn cho Constantin Demiris biết rằng nàng quan tâm tới gã Larry Douglas. Những khả năng tống tiền chập chờn trong đầu óc Barbet.
Noelle bảo:
- Ông Barbet, ông là người rất đắc lực. Và cũng rất kín đáo.
Y cười toe toét:
- Cảm ơn cô Page. Nghề của tôi là phải kín đáo mà.
- Đúng thế - Noelle đáp - Tôi biết rằng ông rất kín đáo bởi Constantin Demiris chưa hề bao giờ nhắc đến tên ông cho tôi biết. Chừng nào ông ta nhắc tới ông thì tôi cũng sẽ lập tức yêu cầu ông ta tiêu diệt ông ngay.
Giọng của nàng vẫn bình thản, dễ thương, song hiệu quả của nó mạnh như một trái bom nổ.
Ông Barbet choáng váng trợn tròn mắt nhìn nàng một lúc lâu liếm đôi môi. Ông ta lo lắng lấy tay gãi bụng rồi lắp bắp:
- Tôi… tôi xin đảm bảo với tiểu thư rằng tôi… tôi sẽ không… không bao giờ.
- Tôi tin là ông sẽ không làm như thế - Noelle đáp xong, bỏ ra về.
Trên chuyến bay thương mại đưa nàng trở lại Hy Lạp, Noelle đọc bản tường trình mật đặt trong chiếc phong bì bằng giấy gai có gắn xi:
"HÃNG AN NINH TUYỆT ĐỐI
1402 phố "D"
Washington, D.C.
Về việc: 2-179-210 ngày 2 tháng Hai 1946
Ông Barbet kính mến
Một trong số các cộng tác viên của hãng chúng tôi đã nói chuyện với một nhân viên mới ở phòng nhân sự của hãng Pan American, được biết: Đối tượng được coi là một phi công chiến đấu tài nghệ, tuy nhiên họ đang thắc mắc liệu anh ta có đủ tính kỷ luật để làm việc tốt trong một hãng lớn có tổ chức chặt chẽ hay không.
Cách sống trong đời tư của đối tượng vẫn giống như tình hình chúng tôi đã tường thuật trước đây. Chúng tôi đã theo y đến những ngôi nhà của nhiều người đàn bà khác nhau mà y cặp bồ. Tại đó y thường dừng lại từ một giờ đến lâu nhất là năm giờ, và chúng tôi giả định rằng y có hàng loạt quan hệ tính giao với những người phụ nữ đó Nếu ông cần biết thì tên và địa chỉ của họ có trong hồ sơ.
Về vấn đề công việc mới của đối tượng, có thể lối sống này sẽ phải thay đổi. Chúng tôi sẽ theo dõi nếu phía ông có yêu cầu.
Chúng tôi xin gửi kèm theo đây giấy thanh toán.
Rất trân trọng.
R. Ruttengerg Giám đôc quản trị".
Noelle đặt bản tường trình trở lại phong bì, rồi ngả người về phía sau ghế, nhắm mắt lại. Nàng hình dung ra Larry, một cơn người hoạt động, không lúc nào chịu ngồi yên, lấy phải một phụ nữ mà chàng không yêu và bị kẹt trong cái bẫy mà miếng mồi chính là nhược điểm của chàng.
Công việc mới của chàng ở hãng máy bay kia có thể làm trì hoãn kế hoạch của nàng một chút, song nàng biết kiên nhẫn chờ đợi. Sẽ đến lúc nàng đem Larry trở lại với nàng. Trong lúc này có những bước đi mà nàng phải tiến hành dần dần.
Ian Whitestone rất thích thú khi được mời ăn trưa với Noelle Page. Lúc đầu anh ta lấy làm đắc ý vì cho rằng nàng đã say anh ta, thế nhưng tất cả những cuộc gặp gỡ của họ đều diễn ra một cách dễ chịu song rất nghiêm túc khiến anh ta hiểu rằng thân phận anh chỉ là kẻ làm thuê, còn nàng là một tiểu thư khuê các không đụng tới được. Anh thường băn khoăn không rõ Noelle cần gì ở mình. Whitestone là một người thông minh cho nên anh có một cảm giác kỳ lạ rằng những cuộc chuyện trò bâng quơ giữa họ hình như có ý nghĩa nhiều đối với nàng hơn là đối với anh.
Trong cái ngày đặc biệt này, Whitestone và Noelle đã đi ô tô tới một thị trấn nhỏ bên bờ biển gần Cafe Sumon.
Họ ăn trưa tại đây, Noelle mặc một chiếc áo trắng mùa hè và đi dép. Mái tóc vàng hoe mềm mại của nàng bay phất phơ, nàng đẹp hơn bất kỳ lúc nào. Ian Whitestone đã đính hôn với một cô người mẫu ở London, cô khá xinh, song vẫn không thể sánh với Noelle được. Whitestone chưa từng gặp một cô gái nào xinh đẹp bằng nàng, anh thấy ghen với Constantin Demiris, song dường như Noelle chỉ gợi lên ở anh những thèm muốn ngày trước mà thôi. Khi Whitestone đi cùng với nàng, anh cảm thấy hơi ngại ngùng. Bây giờ Noelle quay lại với đề tài về những dự định tương lai của anh và đây không phải là lần đầu tiên, anh thắc mắc không biết có phải là theo lệnh của Demiris mà nàng đi sâu tìm hiểu để phát hiệu xem anh có trung thành với ông chủ của mình hay không.
- Tôi yêu thích công việc của tôi lắm - Người phi công già khẳng định một cách nhiệt thành với Noelle - Tôi muốn giữ công việc này cho đến chừng nào tôi già quá không còn biết mình bay đi đâu nữa.
Noelle quan sát anh một lúc và nhận ra những điều anh đang nghi hoặc.
- Tôi thật thất vọng - Nàng buồn bã bảo - Tôi tưởng anh có những hoài bão lớn hơn kia.
Whitestone đăm đăm nhìn nàng:
- Tôi không hiểu.
- Anh chẳng đã từng nói với tôi rằng một ngày nào đó anh muốn có riêng một công ty điện tử cơ mà?
Anh đã tình cờ nhắc đến chuyện đó với nàng, thật không ngờ nàng vẫn nhớ mãi.
- Đó cũng chỉ là một giấc mơ viển vông - Anh đáp - Phải có nhiều tiền lắm mới nổi.
Noelle đáp:
- Một người với khả năng như anh không nên để cho tình trạng túng quẫn chặn đứng sự nghiệp.
Whitestone ngồi ngây người, băn khoăn không biết Noelle Page đang chờ đợi anh phát biểu gì đây. Anh không thích công việc của mình. Anh đang kiếm được nhiều tiền hơn bất kỳ lúc nào trong cuộc đời, giờ giấc làm việc thuận lợi, công việc rất thú vị. Song mặt khác, anh lại phải ngồi ở một xó nhà mà chờ đợi gã tỉ phú tính tình kỳ cục đòi tới. Gã ta lúc nào cũng bắt anh phải sẵn sàng có mặt bất kể giờ giấc nào, bất kể ban ngày hay ban đêm. Đời sống cá nhân của anh coi như địa ngục rồi còn gì. Và người vợ chưa cưới của anh chẳng thích thú gì với công việc anh làm, dù lương bổng có hậu hĩnh hay không.
- Tôi đã nói chuyện với một người bạn tôi về anh. Ông ta thích đầu tư vào các công ty mới.
Nàng cố kiềm chế giọng nói không tỏ ra vồ vập. Nàng quá hồi hộp trước điều nàng sắp nói ra, nhưng lại phải thận trọng để khỏi đẩy anh ra quá xa. Whitestone ngước mắt lên, bắt gặp cái nhìn của nàng.
- Ông ấy rất quan tâm đến anh - Nàng nói tiếp.
Whitestone nuốt nước bọt.
- Tôi… tôi không biết nói sao đây, thưa cô Page.
- Tôi không trông chờ anh phải nói điều gì lúc này - Noelle khẳng định với anh như vậy - Tôi chỉ mong anh suy nghĩ về việc đó.
Anh ta ngồi lặng một lúc, suy tính, cuối cùng hỏi:
- Thế ông Demiris có biết chuyện này không?
Noelle mỉm cười đồng loã:
- Tôi e rằng ông Demiris sẽ không bao giờ tán thành. Ông ấy không muốn bị mất những người làm, đặc biệt là những người làm đắc lực. Tuy nhiên… - Nàng ngừng một chút - … theo tôi thì một người như anh sẽ phải toàn tâm toàn ý cả một đời với công việc. Tất nhiên phải trừ trường hợp anh muốn tiếp tục làm việc với một ai khác trong phần còn lại của đời mình.
- Tôi không thể.
Whitestone nói rất nhanh rồi bất ngờ anh nhận ra rằng mình đã để lộ ý nghĩ của mình. Anh lại quan sát kỹ nét mặt Noelle để xem có biểu hiện gì tỏ ra đây là một cái bẫy hay không, song anh chỉ nhận thấy một sự hiểu biết đầy thông cảm.
- Bất kỳ người nào có bản lĩnh đều muốn làm chủ công việc của mình - Anh chống chế như vậy.
- Tất nhiên - Noelle tán thành - Anh cứ suy nghĩ thêm đi chúng ta sẽ trao đổi lại sau - Rồi nàng cảnh cáo thêm - Chuyện này chỉ giữa chúng ta thôi đấy.
- Được thôi - Whitestone đáp - Xin cảm ơn cô. Nếu sự việc tiến triển tốt thì thật thú vị.
Noelle gật đầu:
- Tôi có cảm giác là mọi việc sẽ tiến triển tốt.
Nguồn: http://www.sahara.com.vn/