Phần 8
Trái với những điều Grigori chờ đợi, mười ngày sau lại có chừng bốn mươi tên Cô-dắc đến nhập bọn. Đó là những tên còn sót lại của nhiều toán thổ phỉ đã bị đánh tan qua các trận chiến đấu. Sau khi mất ataman, chúng hoạt động lang thang trong khu nên rất vui lòng đi theo Fomin. Đối với chúng thì dứt khoát đằng nào cũng thế: làm tay sai cho kẻ nào cũng được, giết ai cũng được, miễn là có khả năng sống cuộc đời lang bạt, tự do và cướp bóc tất cả những người nào rơi vào tay chúng. Chúng thuộc về một hạng người hoàn toàn không còn thuốc nào cứu chữa. Có lần Fomin đã nhìn chúng và nói với Grigori giọng khinh bỉ: "Chà cậu Melekhov ạ, đó là rác rưởi dạt tới chỗ chúng ta chứ không phải là những con người… Toàn những thằng đáng bị treo cổ, chẳng đứa nào kém đứa nào?" Trong thâm tâm Fomin vẫn còn tự coi mình là "một người chiến đấu cho nhân dân lao động", và tuy không còn nói luôn miệng như trước nữa, song hắn vẫn còn nói: "Chúng mình là những người giải phóng dân Cô-dắc…" Hắn vẫn mang dai dẳng những hy vọng ngu xuẩn… Hắn lại bắt đầu nhắm mắt làm ngơ trước các hành động cướp bóc của các bạn chiến đấu, vì hắn cho rằng tất cả các chuyện đó chỉ là một điều xấu không thể nào tránh được, cần phải nhân nhượng chịu đựng, và chờ ít lâu nữa hắn sẽ có thể trừ khử đước những thằng cướp bóc và sớm hay muộn dù sao hắn cũng sẽ trở thành chủ tướng chân chính của những đơn vị khởi nghĩa, chứ không chỉ là tên ataman của một bầy thổ phỉ nhỏ xíu…
Nhưng Trumakov thì không gượng nhẹ chút nào, cứ gọi toạc móng heo tất cả những tên theo Fomin là "những thằng cướp". Hắn còn tranh cãi đến khản cổ, cố thuyết phục Fomin rằng chính hắn, Fomin nầy, cũng chỉ là một thằng cướp đường không hơn không kém. Khi không có mằt những kẻ khác, giữa hai tên thường nổ ra những cuộc cãi vã sôi nổi.
- Mình là một người chiến đấu có lý tưởng chống Chính quyền Xô viết! - Fomin đỏ mặt tía tai vì tức tối, hắn quát lên - Thế mà cậu lại dùng cái tên quỉ quái gì ấy để gọi mình! Đồ ngu, cậu có hiểu rằng mình đang chiến đấu cho một lý tưởng không?
- Thôi anh đừng loè bịp tôi nữa? - Trumakov cãi lại. - Anh đừng hòng làm ngu muội đầu óc tôi. Tôi không còn là một thằng nhãi ranh nữa đâu? Lại kiếm được một ông có lý tưởng như thế nầy! Anh chính cống là một thằng ăn cướp, và chẳng có gì hơn đâu! Nhưng tại sao anh lại sợ cái tên gọi ấy nhỉ? Tôi chẳng làm thế nào hiểu được!
- Tại sao cậu lại làm nhục mình như thế? Tại sao mồm miệng của cậu lại nói ra những chuyện chết người ấy? Mình chống lại chính quyền, mình đã khởi nghĩa và cầm vũ khí đánh nhau với nó. Như vậy thì mình là thằng ăn cướp cái kiểu gì?
- Anh là một thằng ăn cướp chính vì anh chống lại chính quyền đấy. Những thằng ăn cướp, bao giờ chúng nó cũng chống lại chính quyền, tự cổ chí kim đều như thế cả. Cái Chính quyền Xô viết ấy, dù nó có thế nào, song nó vẫn là một chính quyền, trụ được từ năm Một nghìn chín trăm mười bảy đến nay, và kẻ nào chống lại nó thì kẻ ấy là thằng ăn cướp.
- Cái đầu óc của cậu thật là rỗng tuếch? Thế các ông tướng Krasnov hay Denikin, các ông ấy cũng là những thằng ăn cướp à?
- Nếu không thì là gì? Chỉ khác một điều có đeo lon thôi…
- Nhưng lon chỉ là chuyện vặt. Tôi và anh cũng có thể đeo lon được.
Fomin đấm tay xuống bàn, nhổ toẹt bãi nước bọt, nhưng không tìm đâu ra lý lẽ có sức thuyết phục, đành chấm dứt cuộc tranh cãi chẳng đi đến đâu. Thuyết phục Trumakov về điều gì thường là việc không ai làm nổi.
Phần lớn những tên mới đi theo bầy thổ phỉ đều có vũ khí và quần áo đầy đủ. Hầu hết đều cưỡi những con ngựa tốt, đã quen với những chặng hành quân liên miên và có thể dễ dàng chạy mỗi ngày hàng trăm vec-xta. Một số tên còn có hai con ngựa: một con để cưỡi, còn một con gọi là ngựa dự phòng thì chạy không bên cạnh chủ. Những khi cần thiết, chúng có thể chuyển từ con nầy sang con khác, cho hai con ngựa thay nhau nghỉ. Một tên có hai con ngựa có thể vượt chừng hai trăm vec-xta trong một ngày đêm.
Một hôm Fomin nói với Grigori:
- Nếu ngay từ đầu bọn mình có mỗi thằng hai con ngựa thì quỉ dữ cũng chẳng làm thế nào đuổi nổi chúng mình? Bọn dân cảnh và các đơn vị Hồng quân thì không lấy ngựa của dân chúng được vì chúng ngại không dám làm như thế, còn anh em mình thì tất cả mọi việc đều có thể làm được! Mỗi thằng chúng mình phải kiếm thêm một con ngựa mới được, khi đó chúng nó sẽ đừng hòng đùổi bắt! Các cụ có kể lại rằng lời xưa có quân Tarta, những khi chúng nó đi tập kích, mỗi thằng thường có hai, có khi ba con ngựa đem theo. Những thằng như thế thì ai mà đuổi theo được? Chúng ta cũng phải làm theo kiểu ấy. Mình rất thích cái mẹo khôn ngoan của bọn Tarta.
Chẳng bao lâu bọn chúng đã kiếm được ngựa, vì thế trong thời gian đầu, điều kiện ấy đúng là đã làm đối phương không tài nào đuổi theo được chúng. Một đội dân cảnh cưỡi ngựa mới thành lập lại ở Vosenskaia đã cố truy đuổi chúng mà không được. Tuy bầy thổ phỉ của Fomin ít người, song những con ngựa dự bị đã giúp chúng dễ dàng bỏ rơi quân địch và bứt lên phía trước đến mấy chặng đường, tránh được những cuộc chạm trán mạo hiểm.
Nhưng đến trung tuần tháng Năm, đội dân cảnh trên, với quân số gần gấp bốn bầy thổ phỉ, đã dùng mưu dồn được Fomin tới sát sông Đông ở thôn Bobrovsky thuộc trấn Ust-Khopeskaia. Tuy vậy, sau một trận chiến đấu ngắn ngủi, bọn thổ phỉ vẫn chọc thủng được vòng vây và tháo chạy theo bờ sông, chết và bị thương mất tám tên.
Sau lần đó ít lâu Fomin đề nghị Grigori làm tham mưu trưởng.
- Chúng ta cần có một người hiểu biết để hành động theo kế hoạch, theo bản đồ, nếu không sẽ có lúc bị chúng nó dồn vào thế bí và bị ăn đòn thôi. Anh Grigori Pantelevich ạ, anh hãy nhận lấy công việc ấy đi.
- Muốn tóm cổ bọn dân cảnh và chém đầu chúng nó thì không cần phải có tham mưu tham miếc gì đâu. - Grigori trả lời với vẻ mặt âm thầm.
- Bất kỳ đội quân nào cũng cần phải có ban tham mưu của mình, cậu đừng nói lung tung.
- Nếu cậu không thể sống mà không có ban tham mưu thì cứ lấy Trumakov làm việc ấy cũng được.
- Nhưng tại sao cậu lại không muốn?
- Mình chẳng hiểu gì về công việc nầy đâu.
- Còn Trumakov thì hiểu hay sao?
- Cả Trumakov cũng chẳng hiểu gì.
- Nếu vậy thì cậu nhét thằng ấy cho mình làm cái của nợ gì? Cậu là sĩ quan thì phải có kiến thức, phải biết chiến thuật và mọi trò khác chứ?
- Mình mà là sĩ quan thì cũng như cậu bây giờ làm chỉ huy đội thôi? Còn chiến thuật thì chúng ta chỉ có một chiến thuật duy nhất: chạy quanh chạy quẩn khắp đồng cỏ và ngoái đầu lại cho nhiều… - Grigori nói giọng châm biếm.
Fomin nháy mắt với Grigori và giơ ngón tay đe doạ:
- Mình đi guốc trong bụng cậu rồi? Cậu muốn lẩn tránh cho yên thân phải không? Cậu muốn lui vào trong bóng tối có phải không? Người anh em ạ, cái trò ấy cũng không cứu được cậu đâu! Trung đội trưởng hay tham mưu trưởng thì cũng một giuộc. Cậu tưởng nếu thế sau nầy bị chúng nó bắt thì sẽ được nhẹ tội có phải không? Cứ chờ đấy mà xem.
- Mình không nghĩ gì về chuyện ấy, cậu đoán già đoán non như thế không đúng đâu. - Grigori nói nhưng mắt cứ dán xuống cái dây ngù của thanh gươm. - Còn việc gì mà mình không biết thì mình không nhận làm.
- Cũng được thôi, cậu không muốn cũng chẳng sao, không có cậu bọn mình vẫn có cách giải quyết. - Fomin bực bội đồng ý.
Hồi nầy tình hình trong khu đã thay đổi hẳn: trước kia Fomin đến nhà những tên Cô-dắc có của ăn của để thì ở đâu hắn cũng được tiếp đón rất hậu hĩ, nhưng bây giờ bọn kia đã cài chặt then cửa, và hễ thấy bầy thổ phỉ xuất hiện trong thôn là các chủ nhà đều bỏ chạy và trốn trong các mảnh vườn hay các cánh rừng chung quanh thôn.
Toà án cách mạng lưu động dến Vosenskaia lập phiên toà đã kết án nghiêm khắc nhiều tên Cô-dắc trước kia ân cần tiếp đón Fomin. Tin ấy được truyền đi rộng rãi ra các trấn và đã có tác động thích dáng tới đầu óc của những kẻ công khai tỏ thái độ đồng tình với bọn thổ phỉ.
Trong hai tuần Fomin đã chu du một vòng rất rộng qua tất cả các trấn của vùng Đông Thượng. Bầy thổ phỉ đã có gần một trăm ba mươi tay gươm. Song đuổi sát gót chúng không còn là một nhóm kỵ binh tổ chức vội vã mà là nhiều đại đội thuộc trung đoàn kỵ binh Mười ba điều từ miền Nam lên.
Những ngày gần đây, những tên mới chạy theo Fomin phần lớn đều có nguyên quán ở những nơi xa. Chúng đã mò tới vùng sông Đông bằng nhiều con đường khác nhau: một số tên đã lẻ tẻ bỏ chạy trong khi bị áp giải hoặc trốn khỏi những nhà tù, trại tập trung, nhưng phần chủ yếu của nhóm nầy gồm những toán chừng vài chục tay gươm mới tách ra khỏi bầy thổ phỉ Maxlak và cũng có những tên sống sót của toán thổ phỉ Kurotkin vừa bị đánh tan. Những tên thuộc toán Maxlak cũ sẵn sàng chịu để phân tán và có mặt ở tất cả các trung đội, còn những tên trước kia theo Kurotkin thì không muốn bị xé lẻ. Cả bọn chúng đã được biên chế thành một trung đội riêng, có tổ chức rất chặt chẽ và có phần tách biệt với tất cả những tên khác. Cả trong chiến đấu lẫn trong lúc nghỉ ngơi, chúng đều hành động rất đoàn kết, đứa nọ dựa vào đứa kia. Mỗi khỉ cướp một cửa hiệu của hợp tác xã cung tiêu thống nhất hay một cái kho nào, chúng kiếm chác được gì đều đổ tất cả vào cái nồi chung của trung đội và chia rất đều các của cướp được, hết sức giữ đúng nguyên tắc bình quân.
Vài tên Cô-dắc vùng sông Cherek và sông Kôban với những chiếc áo trec-ket rách tả tơi, hai thằng Kalmys người trấn Velikoniazirskaia, một gã Ladvia với đôi ủng thợ săn ống cao đến đùi và năm thằng thuỷ binh vô Chính phủ mặc áo lót vằn và những cái áo vải buồm bạc phếch vì dãi nắng càng tăng thêm cái vẻ linh tinh bát nháo của bầy thổ phỉ Fomin vốn dĩ đã có một thành phần phức tạp, ăn mặc lung tung đủ mọi kiểu.
- Nào, bây giờ thì anh còn cãi rằng những thằng theo anh không phải là những thằng cướp nữa hay thôi? Thế những thằng nầy, chúng nó… là những chiến sỹ có lý tưởng phải không? - Một hôm Trumakov nói với Fomin vừa đưa mắt chỉ các đội hình hành quân hàng dọc kéo dài lê thê. - Chỉ còn thiếu một thằng thầy tu phá giới và một con lợn mặc quần là đủ nhân vật cho một đoàn phường tuồng rồi còn gì…
Fomin lặng thinh. Nguyện vọng duy nhất của hắn là tập hợp chung quanh hắn càng nhiều quân càng hay. Trong lúc nhận những tên tình nguyện, hắn không cần tính toán một hai gì cả. Hễ có kẻ nào tỏ ý muốn chịu quyền chỉ huy của hắn, hắn đều đích thân hỏi han rồi nói gọn lỏn:
- Anh có đủ điều kiện đi lính đấy. Tôi đồng ý nhận anh. Anh hãy đến gặp tham mưu trưởng của tôi là Trumakov. Ông ấy sẽ cho anh biết anh được phân vào trung đội nào và sẽ phát vũ khí cho anh.
Tại một thôn của trấn Migulinskaia, bọn thổ phỉ dẫn tới trước mặt Fomin một thằng thanh niên tóc xoăn, da ngăm ngăm, ăn vận rất diện. Tên nầy tỏ ý muốn đi theo bầy thổ phỉ. Sau khi hỏi han, Fomin được biết rằng gã nầy là dân Rostov, gần đây bị kết án vì tội ăn cướp có vũ khí, nhưng nó đã trốn khỏi nhà tù Rostov và sau khi nghe tiếng Fomin nó đã mò đến vùng thượng lưu sông Đông.
- Anh là người dân tộc gì thế? Armeni hay Bungari? - Fomin hỏi.
- Không, tôi là người Do thái. - Thằng kia ngập ngừng một lát rồi trả lời.
Vấn đề nẩy ra quá đột ngột làm Fomin luống cuống đứng đực ra giờ lâu, không hiểu trong trường hợp bất ngờ như thế nầy thì nên giải quyết ra sao. Hắn nặn óc mãi rồi thở dài thườn thượn và nói:
- Thôi cũng được, không sao cả. Do thái thì Do thái. Chúng tôi không chê… Dù sao thêm một người cũng là đông hơn một chút. Nhưng anh có biết cưỡi ngựa không? Không biết à? Tập thì sẽ biết? Đầu tiên chúng tôi sẽ phát cho anh một con ngựa cái dễ cưỡi một chút, rồi anh sẽ cưỡi được. Anh hãy lại chỗ Trumakov, ông ấy sẽ phân cho anh về đơn vị.
Chỉ vài phút sau Trumakov đã phi ngựa tới chỗ Fomin. Hắn tức như điên:
- Anh đã biến thành một thằng dở hơi hay muốn giở trò đùa đấy hử? - Hắn ghìm ngựa, quát lên. - Anh tống một thằng Do thái đến chỗ tôi làm cái quái gì thế? Tôi không nhận đâu? Hãy tống cố mẹ nó đi đâu thì đi!
- Cậu cứ nhận lấy, cứ nhận lấy nó, dù sao cũng làm tăng quân số. - Fomin nói giọng thản nhiên.
Nhưng Trumakov gầm lên, sùi cả bọt mép:
- Tôi không nhận! Tôi sẽ giết nó, chứ không nhận đâu! Bọn Cô-dắc đã làm ầm lên rồi kia kìa, anh hãy ra mà lấy lại trật tự cho chúng nó!
Trong lúc hai tên còn đang tranh cãi giằng co với nhau, thì bên cạnh chiếc xe bốn bánh chở đồ, thằng thanh niên Do thái đã bị lột mất cái áo sơ-mi thêu và chiếc quần nỉ ống loe. Một gã Cô-dắc vừa ướm thử chiếc sơ-mi vừa nói:
- Kia kìa, mày có trông thấy bên ngoài thôn có bụi ngải cứu già kia không? Mày hãy quàng chân lên cổ chạy ra đấy và nằm xuống. Mày sẽ nằm đấy cho đến khi chúng ông rời khỏi chỗ nầy. Chúng ông đi rồi thì mày sẽ được đứng dậy và xéo đi đâu thì xéo. Đừng bao giờ vác mặt đến chỗ chúng ông nữa, chúng ông thì giết. Cút ngay về Rostov với mẹ thì tốt hơn. Đánh đấm không phải là việc của bọn Do thái chúng mày. Đức Chúa trời chỉ dạy chúng mầy buôn bán chứ chưa dạy chúng mầy đánh nhau. Không có chúng mầy, tự chúng ông cũng làm xong mọi việc, cũng sẽ gỡ xong cái mớ bòng bong nầy.
Thằng Do thái không được nhận, nhưng ngay hôm ấy trong những tiếng cười và những lời pha trò, bọn thổ phỉ đã ghép thằng dở người Pasa nổi tiếng khắp các thôn của trấn Vosenskaia vào quân số của trung đội hai. Bọn chúng bắt được nó trên đồng cỏ bèn giải về thôn rồi long trọng mặc cho nó tất cả những thứ lột trên xác một chiến sỹ Hồng quân bị giết, lại còn bày cho nó cách bắn súng trường và dạy nó rất lâu cách sử dụng thanh gươm.
Grigori đang đi tới chỗ hai con ngựa của chàng buộc ở cọc buộc ngựa thì thấy ngay cạnh đấy có một đám xúm đông xúm đỏ bèn bước tới. Những tiếng cười rộ lên từng đợt bắt chàng phải rảo bước, nhưng khi tất cả đã lặng đi, chàng nghe thấy cái giọng căn dặn cặn kẽ, từ tốn của không biết tên nào:
- Không phải như thế đâu, Pasa ạ! Ai lại chém như thế? Bổ củi thì có thể làm như thế được, chứ chém người thì không thế được đâu.
Phải làm như thế nầy nầy, đã hiểu chưa? Hễ cậu tóm cổ được đứa nào thì phải lập tức ra lệnh cho nó quì xuống, vì để nó đứng mà chém thì không tiện… Khi nó đã quì xuống rồi, cậu sẽ đứng sau lưng nó mà chém vào cổ nó như thế nầy nầy. Cố đừng chém thẳng, mà phải giật một cái về phía mình, để lưỡi gươm chếch xuống.
Giữa những tên thổ phỉ vây vòng trong vòng ngoài, thằng dở người đứng thẳng đườn đưỡn, hai tay nắm khư khư cái cán thanh gươm tuốt trần. Nó mỉm cười nghe những lời chỉ bảo của gã Cô-dắc, cặp mắt xám hum húp nheo lại sung sướng. Hai bên mép nó sủi trắng như mõm ngựa, nước rớt nước rãi chảy ròng ròng từ bộ râu đỏ như màu đồng xuống ngực nó… Nó liếm cặp môi nhớp nhúa rồi chít chớt nói ngọng nghịu:
- Tôi hiểu hết rồi, người anh em thân mến ạ, hiểu tất cả rồi… Tôi sẽ làm đúng như thế… Tôi sẽ bắt thằng nô lệ của Thượng đế quì xuống rồi thiến cổ nó đi… tức là sẽ thiến cổ nó đi! Các anh đã cho tôi nào quần, nào áo sơ-mi, nào ủng. Nhưng tôi cần có áo bành-tô… Nếu các anh cho tôi một cái áo bành-tô, tôi sẽ làm vừa ý các anh! Tôi sẽ đem hết sức phục vụ!
- Cậu hãy khử một thằng chính uỷ nào đó rồi sẽ có áo bành-tô. Nhưng bây giờ cậu hãy kể chuyện năm ngoái người ta lấy vợ cho cậu như thế nào đã. - Một gã Cô-dắc bảo nó.
Một vẻ hoảng hốt như của loài thú vật bỗng hiện lên trong cặp mắt của chàng dở hơi, hai con mắt mở trừng trừng như phủ một lớp màng vẩn đục. Nó văng tục một thôi một hồi rồi bắt đầu nói không biết những gì giữa tiếng cười rộ của cả bọn. Tất cả cái cảnh tượng ấy đáng tởm đến nỗi Grigori run lên, vội vã bỏ đi.
"Mình đã đem vận mệnh của mình gắn liền với những thằng như thế nầy đây!" - Chàng nghĩ thầm, trong lòng tràn ngập một nỗi buồn bực, đau khổ và phẫn uất với chính mình, đối với toàn bộ cuộc sống ô nhục nầy…
Chàng nằm xuống bên cạnh những cái cọc buộc ngựa, cố tránh không muốn nghe những tiếng kêu của thằng ngớ ngẩn và tiếng cười ầm ĩ của bọn Cô-dắc. "Ngày mai mình sẽ bỏ đi. Đã đến lúc rồi?" - Chàng vừa quyết định như thế vừa ngắm hai con ngựa béo tốt, đã hoàn toàn lại sức của mình. Chàng chuẩn bị rời bỏ bày thổ phỉ một cách tỉ mỉ, có tính toán kỹ càng. Trên xác một người dân cảnh bị chém chết, chàng lấy được những tờ giấy chứng minh mang cái tên là Usakov rồi đem khâu vào trong lần lót áo ca-pốt. Từ hai tuần trước chàng đã bắt đầu sửa soạn cho hai con ngựa chạy được một chặng ngắn hết sức nhanh. Chàng cho chúng uống nước đúng giờ, tắm chải cho chúng cẩn thận hơn cả hồi đi lính trong quân đội thường trực, và hễ đến chỗ nghỉ đêm là dùng đủ mọi cách chính đáng cũng như không chính đáng để kiếm cho ra thóc. Vì thế cặp ngựa của chàng nom đẹp hơn tất cả những con khác, đặc biệt là con ngựa xám đốm tròn giống Tavria. Toàn thân nó bóng nhẫy, lông nó nhoáng lên dưới nắng như thứ bạc đen của vùng Kavkaz.
Cưỡi những con ngựa như thế nầy thì có thể can đảm tháo chạy trước mọi cuộc truy bắt. Grigori đứng dậy bước tới căn nhà gần đấy.
Chàng lễ phép hỏi bà già ngồi trên ngưỡng cửa nhà thóc.
- Cụ có cái hái không thưa cụ?
- Cũng có đấy. Nhưng ôn dịch nào biết được nó ở đâu rồi. Nhưng anh hỏi làm gì thế?
- Cháu muốn cắt ít cỏ trong vườn quả nhà cụ cho hai con ngựa. Có được không cụ?
Bà già ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Thế bao giờ các anh mới thôi không ngồi lên đầu lên cổ chúng tôi nữa? Lúc thì đòi cái nầy, lúc thì đòi cái kia… Bọn nầy kéo đến đòi thóc, bọn kia kéo đến lại vơ vét tất cả những thứ gì nhòm ngó thấy. Tôi không cho anh mượn cái hái đâu! Anh muốn thế nào thì muốn, chứ tôi không cho mượn đâu.
- Sao lại thế, bà cụ của Thượng đế chỉ có ít cỏ mà cụ cũng tiếc hay sao?
- Thế chẳng nhẽ theo anh thì cỏ nó từ chỗ vô thiên vô địa mọc lên đấy chắc? Rồi tôi sẽ lấy gì cho bò ăn bây giờ?
- Trên đồng cỏ thì thiếu gì cỏ?
- Vậy thì anh cứ ra ngoài ấy mà lấy con chim ưng nầy. Ngoài đồng cỏ nhiều lắm.
Grigori nói giọng bực bội:
- Bà cụ ạ, tốt nhất cụ hãy cho tôi mượn cái hái thì hơn. Tôi chỉ cắt một ít thôi, còn thì để cho cụ, nếu không tôi mà cho mấy con ngựa vào thì chúng nó sẽ dẫm nát hết cho mà xem?
Bà già nhìn Grigori với ánh mắt rất gay gắt rồi quay đi.
- Anh tự vào trong ấy mà lấy, hình như dưới nhà kho ấy.
Grigori xuống nhà kho tìm thấy dưới mái hiên một cái hái cũ đã hoen rỉ và đến khi qua chỗ bà lão ngồi, chàng nghe rất rõ thấy cụ nói: "Cái bọn đáng nguyền rủa, sao chúng mày chẳng chết tử chết tiệt cả đi!". Grigori vẫn chưa quen với những chuyện như thế nầy. Từ lâu chàng đã nhận thấy rằng dân chúng các thôn đón tiếp bầy thổ phỉ của chàng với tinh thần như thế nào: "Kể ra họ nghĩ cũng đúng. - Chàng vừa nghĩ thầm vừa vung cái hái rất cẩn thận, cố cắt thật gọn không để sót chỗ nào. - Họ cấn đến bọn mình làm quái gì? Chẳng có ai cần đến bọn mình. Bọn mình quấy nhiễu tất cả mọi người, không để cho họ yên ổn sinh sống làm ăn. Phải chấm dứt cái trò nầy thôi, đủ lắm rồi!"
Đầu óc chìm trong những ý nghĩ của mình, chàng đứng bên cạnh hai con ngựa, nhìn chúng đưa những cặp môi đen mịn như nhung ngốn lấy ngốn để những nắm cỏ non mịn màng. Một giọng trầm trầm đang vỡ tiếng của một thằng chưa thành niên bỗng kéo chàng ra khỏi những phút trầm ngâm.
- Con ngựa đẹp ra đẹp, thật y như con thiên nga!
Grigori nhìn về phía có tiếng nói. Một thằng Cô-dắc còn trẻ. Dân Alekseevkaia vừa đi theo bầy thổ phỉ chưa được bao lâu đang ngắm con ngựa xám, đầu lắc lắc một cách thán phục. Nó chặc chặc lưỡi đi quanh con ngựa như bị lấy hết hồn vía.
- Của bác đấy à?
- Nhưng việc gì đến mày? - Grigori trả lời một cách thô bạo.
- Bác đổi cho cháu nhé! Cháu có một con hạt dẻ, thuần giống sông Đông. Vật chướng ngại nào nó cũng vượt qua được, mà chạy thì rất nhanh, nhanh ra nhanh! Cứ như tia chớp ấy.
- Cút mẹ mày đi! - Gìọng Grigori lạnh như tiền.
Thằng kia nín lặng một lát, thở dài đau khổ ra ngồi gần đấy. Nó ngắm con ngựa xám rất lâu rồi nói:
- Con ngựa của bác thở to quá. Nghe cứ vương vướng thế nào đấy.
Grigori lặng thinh cầm một cuộng cỏ xỉa răng. Chàng bắt đầu thấy thích thằng thiếu niên ngây thơ nầy.
- Bác không muốn đổi hả bác? - Nó nhìn Grigori bằng cặp mắt van lơn, khẽ hỏi.
- Không đổi đâu. Đem cả mày ra cược thêm tao cũng không đổi.
- Nhưng bác kiếm đâu ra con ngựa nầy thế?
- Tự tao làm ra nó đấy.
- Không, nhất định không phải thế!
- Tất cả mọi thứ đều chui từ cái cửa ấy ra hết: ngựa mẹ lại đẻ ra ngựa con.
- Tự nhiên lại thừa hơi nói chuyện với một thằng ngu xuẩn như thế nầy. - Thằng thiếu niên bực mình bỏ đi chỗ khác.
Cái thôn nằm dài trước mặt Grigori, vắng ngắt và như đã chết rét.
Ngoài bọn lâu la của Fomin, bốn bề chẳng thấy một ma nào. Chiếc xe bò nằm chỏng gọng trong ngõ, cái bệ bổ củi giữa sân với chiếc rìu cắm vội trên đó và vài tấm ván đẽo dở nằm dài bên cạnh, vài con bò mộng không có người chăn lười nhác rứt những đám cỏ thấp lè tè mọc giữa đường phố, chiếc thùng lật ngược bên cạnh khung thành giếng, tất cả đều nói lên rằng cuộc sống hoà bình trong thôn đang trôi như một dòng nước thì bất thần bị phá rối và những người chủ nhà đã vứt bỏ công việc đang làm dở để lẩn trốn vào nơi nào đó.
Cái cảnh thê lương nầy, Grigori đã từng thấy hồi các trung đoàn Cô-dắc tiến qua miền Đông Phổ. Nhưng bây giờ chàng lại chứng kiến cái cảnh ấy ngay trên mảnh đất thân yêu… Hồi ấy người dân Đức đã đón tiếp chàng với những cặp mắt âm thầm và căm hờn như thế nào thì dân Cô-dắc vùng thượng lưu sông Đông cũng nhìn chàng với những cặp mắt như thế. Nhớ lại chuyện vừa nói với bà già, Grigori cởi khuy cổ chiếc áo sơ-mi, buồn rầu đưa mắt nhìn quanh. Và tim chàng lại bị một cơn đau nhói đáng nguyền rủa.
Mặt đất bị rang bỏng dưới nắng. Trong ngõ nồng nặc mùi bụi nhạt thếch, mùi tân lê và mùi mồ hôi ngựa. Trong những vườn quả bên cạnh thôn, có tiếng quạ kêu quang quác trên những cây liễu cao đầy những tổ chim lờm xờm. Con sông nhỏ trên đồng cỏ được tiếp nhận những luồng nước nguón ở nơi nào đó trên thượng lưu, từ từ chảy qua thôn, cắt cái thôn làm hai. Những ngôi nhà Cô-dắc rộng thênh thang như trườn tới hai bên bờ, nhà nào nhà nấy đều có những mảnh vườn rậm rạp với những cây anh đào che các cửa sổ, những cây táo cành đâm ngang dọc, vươn lên ánh sáng những đám lá xanh rờn và lớp quả non mới nhú.
Grigori đưa cặp mắt như phủ một lớp mù nhìn cái sân mọc đầy cỏ dại loăn xoăn, căn nhà mái rơm với những cửa chớp sơn vàng, cái cần kéo nước giếng cao ngất… Bên cạnh sân đập lúa có một cái sọ ngựa cắm trên cái cọc của dãy hàng rào cũ. Cái sọ được nước mưa rửa trắng bong, với hai hố con mắt sâu hoắm đen ngòm. Một dây bí ngô leo trôn ốc lên đúng cái cọc ấy, cố vươn lên ánh sáng. Dây lá leo lên tới đầu cọc, vươn những cái tay lồm xồm bám vào những chỗ xương lồi ra, vào những cái răng của con ngựa chết, ngọn bí quá dài thòng xuống tìm chỗ bám và vươn tới một bụi tuyết cầu mọc ở gần đấy.
Tất cả những cái ấy Grigori đã từng nhìn thấy, trong giấc mơ hay hồi còn thơ ấu? Bất thần bị tràn ngập bởi một cơn đau khổ buồn nhớ, chàng phải nằm sấp xuống dưới chân dãy hàng rào, đưa hai tay úp lên mặt và chỉ đứng dậy khi từ xa có tiếng hô kéo dài: "Thắng ngư-ư-ựa!". Đến đêm, trong khi hành quân, chàng ra khỏi hàng, dừng lại như để sửa lại cái yên cho con ngựa. Chàng lắng nghe những tiếng vó ngựa rầm rập xa dần, nhỏ dần rồi nhảy phắt lên yên cho con ngựa phóng nước đại sang bên cạnh con đường.
Chàng thúc ngựa chạy một mạch chừng năm vec-xta rồi cho nó chuyển sang bước một, lắng nghe xem phía sau có ai đuổi theo không? Đồng cỏ vẫn lặng tờ. Chỉ có vài con dẽ giun gọi nhau ai oán trên những cồn cát và ở chỗ nào xa lắm, xa lắm vẳng có tiếng chó sủa.
Bầu trời đen kịt lấm tấm những ngôi sao nhấp nhánh vàng óng. Trên đồng cỏ chỉ có bầu không khí tĩnh mịch và làn gió nặc mùi ngải cứu hắc hắc thân yêu… Grigori rướn người trên bàn đạp, hít một hơi đầy lồng ngực, nhẹ nhõm cả người…
Chương 231
Phần 8
Trời còn lâu mới hửng chàng đã phi ngựa về bãi cỏ trước mặt thôn Tatarsky. Ở một chỗ phía dưới thôn, nơi sông Đông chảy nông nhất, chàng cởi hết quần áo, buộc quần áo, ủng, vũ khí vào đầu ngựa rồi cắn giữ bao đạn và lội xuống bơi cùng với hai con ngựa. Nước lạnh không chịu được làm da chàng như phải bỏng để cho ấm người, chàng cố bơi thật nhanh bằng tay phải còn tay trái thì nắm thật chắc hai bộ dây cương buộc lại với nhau, vừa bơi vừa khuyến khích hai con ngựa vừa ngụp, vừa thở phì phì.
Lên đến trên bờ, chàng vội vã mặc quần áo, buộc chặt đai bụng của hai bộ yên rồi phi thật nhanh về thôn cho cặp ngựa khỏi bị lạnh.
Grigori cảm thấy mình lạnh buốl vì áo ca-pốt ướt, má yên ướt, cả áo sơ-mi cũng ướt. Hai hàm răng chàng thi nhau tranh trưởng, một cơn gió lạnh truyền đi rân rân trên sống lưng, toàn thân chàng run bần bật, nhưng chẳng mấy chốc chặng đường phi nhanh đã làm chàng nóng lên và khi gần về đến thôn, chàng cho ngựa chuyển sang bước một để quan sát chung quanh và chú ý nghe ngóng. Chàng quyết định để hai con ngựa ở lại dưới một cái khe, bèn lần xuống dưới lòng khe theo sườn dốc đá. Vó ngựa dẫm lên đá vang lên những tiếng lộp cộp khô khan, móng sắt đập xuống làm bắn ra những tia lửa.
Grigori buộc ngựa vào cây ca-ra-it khô mà chàng đã quen từ thời thơ ấu rồi về thôn. Kia là ngôi nhà cổ của họ Melekhov, những vòm đen ngòm của mấy cây táo, cái cần kéo nước giếng dưới chòm sao Đại hùng tinh…
Xúc động đến khó thở, Grigori lần xuống sông Đông, rón rén leo qua hàng rào của sân nhà Astakhov, bước tới một khung cửa sổ không đóng cửa chớp. Chàng chỉ nghe thấy những tiếng tim mình đập dồn dập và tiếng những mạch máu giật giật trong đầu. Chàng gõ rất khẽ vào khung cửa sổ, khẽ đến nỗi chính chàng cũng gần như không nghe thấy. Acxinhia lặng lẽ bước ra cửa sổ, chăm chú nhìn ra.
Chàng nhìn thấy nàng áp hai tay lên ngực và nghe thấy tiếng rên không rõ ràng buột khỏi miệng nàng. Grigori ra hiệu cho nàng mở cửa sổ rồi gỡ cây súng trường trên lưng xuống. Acxinhia mở toang cánh cửa sổ.
- Khẽ chứ? Chào em? Đừng mở cửa ra vào, để anh leo qua cửa sổ. - Grigori nói thầm thì.
Chàng leo lên bục đất đắp quanh nhà. Hai cánh tay trần của Acxinhia ôm ghì lấy cổ chàng. Hai cánh tay yêu dấu ấy run lên ghê quá đập đập mãi vào vai chàng, làm Grigori cũng run lây.
- Acxiutka… hượm đã nào… cầm hộ anh khẩu súng. - Chàng nói lắp bắp, giọng chỉ nghe hơi rõ.
Grigori dùng một tay đỡ thanh gươm, leo qua bậu cửa sổ, rồi đóng cửa lại.
Chàng định ôm Acxinhia, nhưng nàng nặng nề quị xuống trước mặt chàng, ôm lấy hai chân chàng, úp mặt vào chiếc ca-pốt ướt đẫm của chàng, khắp người run bắn lên vì cố nén cơn nức nở. Grigori bế nàng lên, đặt cho nàng ngồi trên chiếc ghế dài. Acxinhia ngả đầu vào người chàng, giấu mặt trên ngực chàng. Nàng không nói gì cả, mà chỉ chốc chốc lại run lên một cơn và cắn vào cổ áo ca-pốt của chàng để ghìm những tiếng nức nở và khỏi làm hai đứa trẻ thức giấc.
Xem ra thì một người đàn bà cứng cỏi như Acxinhia cũng đã bị những điều đau khổ đánh quị thế nầy rồi. Đúng là mấy tháng nay nàng đã phải chịu một cuộc sống đắng cay hết mực… Grigori vuốt những đám tóc loã xoã trên lưng nàng và vừng trán nóng bừng bừng, đẫm mồ hôi của nàng. Chàng chờ nàng khóc cho thoả rồi mới hỏi:
- Hai con còn sống khoẻ mạnh không?
- Còn.
Thế Dunhiaska?
- Cả Dunhiaska nữa… Còn sống… và vẫn khoẻ.
- Thằng Miska có nhà không? Nhưng hượm đã nào? Em nín đi chứ, sơ-mi của anh ướt đẫm vì nước mắt em rồi đây nầy… Acxiutka, em yêu của anh, thôi đủ rồi? Không còn lúc nào mà khóc lóc nữa đâu thì giờ đang gấp lắm… Miska có nhà không?
Acxinhia lau nước mắt rồi đưa hai bàn tay ướt đẫm lên áp chặt vào hai bên má Grigori. Nàng mỉm cười qua hàng nước mắt và mắt không lúc nào rời người yêu, nàng khẽ nói:
- Em sẽ không khóc nữa… Em không khóc nữa rồi… Miska không còn ở đây nữa, đi Vosenskaia đã hơn một tháng rồi, đóng ở một trung đoàn nào ấy. Thôi anh vào thăm hai con đi! Chao ôi, ba cô cháu chúng em trông anh mòn con mắt và chẳng dám ngờ!
Thằng Misatka và con Poliuska đang dang chân dang tay nằm ngủ trên giường. Grigori cúi xuống với chúng nó, đứng lại một lát rồi rón rén bước ra và lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh Acxinhia.
- Anh bây giờ như thế nào? - Nàng thầm thì bằng một giọng sôi nổi. - Anh về bằng cách nào thế? Dạo vừa qua anh ở đâu? Nhưng nếu họ bắt được anh thì sao?
Anh về đón em đây. Có lẽ chúng nó sẽ không bắt được đâu. Anh đã ở chỗ Fomin. Em có nghe nói không?
- Có Nhưng em đi đâu với anh bây giờ?
- Xuống miền Nam. Đi Kuban hoặc xa hơn nữa. Chúng ta sẽ sống ở đấy ít lâu, đại khái sẽ có cách kiếm ăn. Như thế có được không?
Anh sẽ không ngại làm công việc gì cả. Hai bàn tay anh cần làm việc chứ không cần đánh nhau. Mấy tháng nay trong lòng anh đau đớn ghê gớm… Thôi chuyện ấy sau nầy hãy nói?
- Nhưng còn hai con?
- Chúng ta sẽ để lại cho Dunhiaska nuôi. Rồi sau sẽ xem sao. Sau nầy chúng mình sẽ đón chúng nó đi. Thế nào? Em đi chứ?
- Griska… Anh Griska yêu quý…
- Không nên thế! Đừng khóc lóc nữa nhé. Đủ quá rồi đấy! Sau nầy anh sẽ cùng khóc với em, sẽ còn chán thì giờ… Em sửa soạn đi, hai con ngựa của anh đang chờ dưới khe. Thế nào? Em đi chứ?
- Thế anh nghĩ rằng sẽ thế nào? - Acxinhia bỗng nhiên nói to nhưng nàng lại hốt hoảng áp bàn tay lên môi và liếc nhìn hai đứa trẻ.
- Anh tưởng còn thế nào nữa? - Giọng nàng đã chuyển sang thầm thì. - Em sống một thân một mình sung sướng lắm hay sao? Em sẽ đi, anh Griska, anh yêu của em? Đi bộ em cũng đi, bò lê theo anh em cũng đi, em không ở lại một mình nữa đâu! Không có anh, em không thể nào sống được… Anh giết em còn hơn bỏ em lần nữa…
Nàng ra sức ôm chặt lấy Grigori. Chàng hôn nàng rồi đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Đêm mùa hè chưa nằm đã sáng. Phải nhanh lên mới được - Hay anh nằm xuống một lát nhé! -Acxinhia hỏi.
- Em nói gì lạ vậy? - Chàng hoảng sợ kêu lên. - Trời sắp hửng đến nơi rồi, phải đi đi thôi. Em mặc áo vào rồi sang gọi Dunhiaska cho anh. Trong lúc trời còn tối chúng ta phải tới cái khe Xukhôi rồi. Ở đấy chúng ta sẽ vào rừng nghỉ ban ngày, rồi đến đêm lại đi, em có đi ngựa được không?
- Lạy Chúa tôi, thế nào còn đi được nữa là di ngựa! Em vẫn cứ nghĩ bây giờ có phải đang trong giấc mơ hay không? Trong khi nằm mơ em vẫn thường thấy anh luôn… mà mỗi lần một khác… - Acxinhia dùng răng cắn giữ mấy cái kẹp tóc, vừa chải đầu vừa lúng búng rất khẽ. Nàng mặc áo xống rất nhanh rồi bước ra cửa.
- Gọi hai đứa bé dậy nhé! Anh cũng nhìn chúng nó một cái chứ?
- Không, không cần. - Grigori kiên quyết nói.
Chàng móc lấy túi thuốc trong cái mũ, bắt đầu cuốn một điếu, nhưng Acxinhia vừa ra ngoài, chàng vội bước tới men cái giường, hôn hít hai con rất lâu. Sau đó chàng nhớ tới Natalia và cũng hồi tưởng rất nhiều chuyện trong cuộc đời gian truân của mình rồi chàng khóc.
Dunhiaska bước qua ngưỡng cửa nói:
- Ôi chào anh, anh trai của em? Anh về nhà rời à? Anh đã lang thang bao nhiêu lâu trên đồng cỏ… - Rồi cô chuyển sang khóc than kể lể. - Hai đứa bé thế là đã chờ được bố về… Bố còn sống sờ sờ mà đã thành côi cút…
Grigori ôm lấy Dunhiaska, nói một cách nghiêm khắc:
- Khẽ chứ, làm hai đứa bé thức dậy bây giờ? Em thôi cái trò nầy được rồi đấy em ạ! Điệu nhạc nầy anh đã nghe mãi rồi! Phần nước mắt và khổ não của anh đã quá đủ… Anh bảo gọi em sang không phải để thấy em làm thế nầy đâu. Em đem hai cháu về nuôi nhé!
- Nhưng anh sẽ đi đâu?
Anh sẽ ra đi và đưa cả chị Acxinhia cùng đi. Em đưa hai cháu về với em chứ? Anh thu xếp có công ăn việc làm rồi sẽ đưa hai cháu - Phải thế chứ còn sao nữa? Vì cả hai anh chị cùng đi, em sẽ nhận hai cháu. Không thể để chúng nó lang thang ngoài phố, cũng không thể để cho ở nhà người khác được.
Grigori lặng lẽ hôn Dunhiaska rồi nói:
- Cám ơn em lắm, em gái anh! Anh cũng biết rằng em sẽ không từ chối.
Dunhiaska lặng thinh ngồi lên nắp cái rương rồi hỏi:
- Bao giờ anh chị đi! Đi ngay à?
- Phải.
Nhưng còn nhà cửa thì sao? Còn công việc làm ăn?
Acxinhia trả lời ngập ngừng:
- Cô trông nom hộ cả vậy. Cô cho người ở thuê hay làm thế nào tuỳ ý. Quần áo, đồ đạc còn lại những gì cô cứ chuyển cả sang bên nhà…
- Em sẽ nói với bà con chung quanh thế nào bây giờ? Nếu người ta hỏi chị đi đâu thì bảo sao? - Dunhiaska hỏi.
- Em cứ bảo chẳng ai biết gì hết, có thế thôi. - Grigori quay sang bảo Acxinhia. - Acxiutka, em quàng quàng lên một chút, sửa soạn đi. Đừng mang theo nhiều. Cứ đem đi một cái áo ấm, hai ba cái váy, đồ lót có bao nhiêu thì mang, các thức ăn cho mấy ngày đầu, chỉ ngần ấy thôi.
Trời vừa hửng sáng một chút, Grigori và Acxinhia đã bước ra thềm sau khi từ biệt Dunhiaska và hôn hai đứa trẻ vẫn chưa thức giấc. Hai người xuống dốc ra sông Đông rồi men theo bờ sông đi tới cái khe.
- Xưa kia anh và em đã đi Yagonoie như thế nầy. - Grigori nói. - Nhưng hôm ấy cái tay nải của em to hơn, mà hai chúng mình thì trẻ hơn…
Trong lòng tràn ngập niềm hân hoan và xúc động. Acxinhia liếc nghiêng nhìn Grigori.
- Thế mà em vẫn còn sợ không biết có phải là đang trong giấc mơ hay không đấy? Anh đưa tay cho em sờ cái, nếu không cứ không tin.
Nàng khẽ cười, vừa đi vừa nép sát vào vai Grigori.
Chàng nhìn thấy hai con mắt sưng húp vì nước mắt, long lanh sung sướng của Acxinhia và hai làn má trắng nhợt trong cảnh tranh tối tranh sáng trước lúc trời rạng. Với nụ cười vừa âu yếm vừa chế nhạo, chàng nghĩ thầm: "Sửa soạn qua quít là đi luôn, cứ như đi chơi thăm ai đấy… Chẳng có gì làm Acxinhia sợ, quả là một tay đàn bà gan góc!".
Tựa như để trả lời các câu hỏi của chàng. Acxinhia nói:
- Anh thấy chưa, em như thế đấy… thế là em chạy theo anh ngay như con chó con. Anh Griska ạ, vì yêu anh, nhớ anh nên em mới như thế nầy đấy… Chỉ thương hai đứa trẻ chứ về em thì em chẳng kêu trời một tiếng nào. Em sẽ đi theo anh đến tất cả mọi nơi, dù đi đến cái chết!
Hai con ngựa nghe thấy tiếng bước chân hai người, khẽ hí lên.
Trời sáng ra rất nhanh. Một dải sát chân trời đằng đông đã hơi ửng hồng. Trên sông Đông, sương mù bốc lên ngùn ngụt từ mặt nước.
Grigori tháo hai con ngựa, đỡ Acxinhia ngồi lên yên. Đối với chân Acxinhia dây bàn đạp có phần quá dài. Chàng bực mình nghĩ rằng mình chưa sửa soạn chu đáo, bèn buộc ngắn bót hai đoạn dây da rồi ngồi lên con ngựa thứ hai:
- Bám sát lấy anh nhé, Acxiút ca! Chúng mình lên khỏi cái khe rồi sẽ chuyển sang nước đại. Lúc ấy em sẽ đỡ bị lắc. Đừng thả lỏng dây cương. Con ngựa nhỏ em cưỡi nó không thích như thế. Nhưng cẩn thận hai bên đầu gối. Có khi nó nghịch tinh tìm cách cắn đầu gối đấy. Bây giờ thì đi thôi!
Phải vượt tám vec-xta mới tới được khe Xukhoi. Hai người cưỡi ngựa loáng cái đã qua được chặng đường. Đến khi mặt trời mọc, ngựa đã tới cạnh khu rừng. Đến cửa rừng, Grigori xuống ngựa, giúp Acxinhia tụt xuống.
- Thế nào, em thấy thế nào? Chưa quen đi ngựa, cũng vất vả phải không? - Chàng mỉm cười hỏi.
Mặt Acxinhia đỏ ửng sau chặng đường đi ngựa, hai con mắt đen láy của nàng long lanh.
Tốt lắm! Còn hơn đi bộ. Nhưng chỉ có hai chân… - Rồi nàng ngượng ngùng mỉm cười. - Anh quay mặt đi một lát, anh Griska ạ, để em xem hai chân bị làm sao. Da cứ ngứa ngứa thế nào ấy… Hình như bị sướt thì phải.
- Mới một tí, sẽ khỏi thôi. - Grigori an ủi. - Em duỗi ra co vào một chút, kẻo chân em cứ run lên thế nào ấy… - Rồi chàng nheo mắt âu yếm nói giễu. - Chà, đàn bà Cô-dắc như em!
Chàng chọn một khoảng rừng trống nhỏ ngay dưới đáy khe rồi nói:
- Chúng mình sẽ đóng trại ở đây, em sắp xếp đi, Acxiutka!
Grigori tháo yên ngựa, buộc chân sau của chúng rồi giấu yên ngựa và vũ khí xuống dưới một bụi cây. Sương rơi tràn trề làm lớp cỏ như mang màu xám xanh, nhưng trên sườn khe, nơi vẫn còn lưu cái tranh tối tranh sáng lúc ban mai, cỏ lại màu xanh da trời bệch bệch. Vài con ong bò vẽ màu da cam mơ màng trong những đài hoa vừa hé nở. Sơn ca cất tiếng ngân lanh lảnh trên đồng cỏ, trong khi trên những đám lúa, trong những khoảng đủ mọi thứ thơm phức của đồng cỏ, cun cút cứ luôn miệng nhắc đều đều: "Đi ngủ đi! Đi ngủ đi! Đi ngủ đi!" Grigori gối đầu lên cái yên, nằm xuống làm nát cả đám cỏ bên cạnh cụm sồi. Cả những tiếng cun cút đánh nhau kêu ríu rít, tiếng sơn ca hót như ru ngủ lẫn làn gió ấm áp thổi từ bên kia sông Đông sang qua những khoảng cát chưa nguội sau một đêm, tất cả đều ru chàng ngủ. Đối với người khác thế nào không biết, chứ đối với Grigori, một anh chàng đã nhiều đêm liền không ngủ thì đúng là đã đến lúc phải ngủ rồi. Những con cun cút khuyên chàng nhắm mắt lại và Grigori bị cái ngủ đánh bại, bắt đầu thiu thiu. Acxinhia ngồi xuống bên cạnh chàng, chẳng nói chẳng rằng. Nàng mơ màng dùng môi rứt những cánh màu tím của bông cỏ mật thơm phức.
- Anh Griska nầy, ở đây không có ai đến bắt chúng ta chứ? - Nàng đưa cuống hoa sát vào cái má râu ria xồm xoàm của Grigori và khẽ hỏi.
Grigori phải vất vả lắm mới tỉnh lại giữa lúc đã mơ mơ màng màng. Chàng trả lời khàn khàn:
- Trên đồng cỏ chẳng có ma nào đâu. Bây giờ đúng là lúc vắng người nhất đấy. Anh ngủ đây, Acxiutka ạ, còn em thì coi hai con ngựa một lát. Sau đó em sẽ ngủ. Anh đã buồn ngủ rũ ra rồi… anh ngủ đây… Bốn ngày bốn đêm liền… Lát nữa sẽ nói chuyện…
Acxinhia cúi xuống với Grigori, gạt lại cho chàng món tóc xoã xuống trán, và khẽ ghé môi lên hai bên má chàng:
- Griska yêu quí, anh yêu của em, đầu anh đã có bao nhiêu tóc bạc… - Nàng khẽ thầm thì. Anh già mất rồi phải không? Mới gần đây anh còn là một chàng trai trẻ… - Rồi với nụ cười âu sầu he hé trên môi, nàng lại buồn rầu ngắm khuôn mặt của Grigori.
Chàng đang ngủ, miệng không mím chặt, hơi thở đều đặn. Hai hàng mi đen rung rung với những đầu lông mi cháy nắng, môi trên hơi động đậy, đề hở những cái răng trắng, sát sin sít. Acxinhia nhìn chàng kỹ hơn và mãi đến lúc nầy nàng mới nhận thấy rằng chỉ trong mấy tháng xa cách, chàng đã thay đổi đến bao nhiêu. Có một cái gì khắc nghiệt, gần như tàn bạo hiện lên trên những nếp nhăn sâu nằm ngang giữa hai hàng lông mày, trên đường môi và trên hai gò má gồ nhọn của con người mà nàng yêu say đắm… Và lần đầu tiên nàng nghĩ rằng trong chiến trận, những khi chàng ngồi trên ngựa với thanh gươm tuốt trần trong tay thì nom chàng đáng sợ biết chừng nào. Nàng đưa mắt xuống dưới, nhìn hai bàn tay xù xì rất to của chàng và không hiểu sao tự nhiên rùng mình.
Một lát sau, Acxinhia nhẹ nhàng đứng lên, đi qua khoảng rừng trống. Nàng vén cao vạt váy, cố giữ cho khỏi ướt vì lớp cỏ đẫm sương mai. Ở một chỗ nào đó đằng xa có con suối chảy róc rách trên đá. Nàng đi xuống chỗ có dòng nước chảy dưới lòng khe lót bằng những phiến đá đầy rêu và những đám cỏ xanh rờn. Nàng uống ít nước nguồn mát rượi, lau rửa rồi dùng chiếc khăn lau thật khô khuôn mặt đỏ bừng lên. Một nụ cười lặng lẽ không lúc nào rời khỏi môi nàng, hai con mắt long lanh tràn trề hạnh phúc. Grigori đã lại về với nàng rồi? Những điều sẽ xẩy ra nhưng còn chưa biết rõ lại vẫy gọi nàng với ảo ảnh của hạnh phúc… Trong những đêm không ngủ, Acxinhia đã khóc mất nhiều nước mắt, và nàng đã phải chịu đựng bao nhiêu đau khổ trong mấy tháng gần đây. Mới hôm qua thôi, trong vườn rau, khi mấy người đàn bà trong thôn vừa xới khoai tây trong mảnh vườn bên cạnh, vừa hát một bài sầu thảm của cánh đàn bà, tim nàng đã đau nhói, se lại, và nàng đã bất giác lắng nghe.
Ngỗng xám ơi, ngỗng xám ơi.
Phải chăng đến lúc ngỗng bơi về nhà?
Ngỗng về còn lại mình ta,
Đêm ngày nước mắt chan hoà ngỗng ơi…
Một giọng nữ cao cất lên, than thở về số phận đắng cay của một người đàn bà, Acxinhia không sao nén được lòng mình, hai hàng nước mắt cứ tuôn lã chã! Nàng muốn làm việc để quên hết mọi điều, muốn chèn át nỗi buồn nhớ nhức nhối trong lòng, nhưng nước mắt cứ làm mờ hai con mắt, rơi lã chã từng giọt to xuống cụm khoai tây xanh rờn, xuống hai bàn tay rã rời, và nàng không còn nhìn thấy gì nữa; không làm gì được nữa. Nàng ném cái cuốc bàn đấy, nằm xuống đất, úp mặt vào lòng bàn tay, mặc cho nước mắt chảy tràn trề.
Mới hôm qua nàng còn nguyền rủa cuộc đời mình, mọi vật chung quanh còn xám xịt và rầu rĩ như trong một ngày mưa dầm. Nhưng hôm nay toàn thế giới lại hiện ra trước mắt nàng, vui vẻ và tười sáng như sau một trận mưa thuận ngày hè. "Cả chúng mình cũng sẽ tìm thấy phần hạnh phúc của mình" - Nàng nghĩ thầm và thẫn thờ nhìn những đám lá sồi tinh vi như đồ chạm trổ đang sáng bừng lên dưới những tia nắng nhạt thếch của vừng mặt trời mới mọc.
Về phía nắng dãi, những đoá hoa thơm ngào ngạt nở rực rỡ muôn màu trên những bụi cây. Acxinhia ngắt lấy một bó to rồi nhẹ nhàng ngồi xuống gần chỗ Grigori đang ngủ. Nhớ lại thời thanh xuân, nàng bắt đầu lết một vành hoa. Vành hoa rất đẹp, nàng ngắm nghía giờ lâu rồi cắm thêm vào vài bông tầm xuân hồng hồng và đặt lên phía trên đầu Grigori.
Đến khoảng chín giờ thì tiếng ngựa hí làm Grigori thức giấc. Chàng hốt hoảng ngồi chồm dậy, đưa hai tay sờ chung quanh tìm vũ khí.
- Không có ai đâu. - Acxinhia khẽ nói. - Có gì mà anh sợ thế?
Grigori dụi mắt, mỉm nụ cười ngái ngủ.
- Anh đã quen sống theo loài thỏ rồi. Ngay trong khi ngủ cũng vẫn phải hé một mắt ra nhìn, hơi có tiếng động là run bắn người… Cái trò ấy, cô nàng ạ, không chóng mất thói quen được đâu. Anh ngủ đã được lâu chưa?
- Chưa. Hay là anh ngủ nữa đi!
- Anh thì phải ngủ một ngày một đêm liền mới đã mắt. Chúng ta ăn sáng thì hơn. Bánh mì và con dao anh bỏ trong những túi yên. Em ra mà lấy, còn anh đi cho ngựa uống nước đây.
Chàng đứng dậy, cởi áo ca-pốt, ngọ nguậy hai vai. Mặt trời chiếu rất nóng. Gió lay động những đám lá cây và qua tiếng lá xào xạc, không còn nghe thấy tiếng con suối róc rách như hát nữa.
Grigori lội xuống nước, lấy những tảng đá và cành cây chất thành một cái đập rồi dùng gươm đào đất ném vào các kẽ đá. Khi nước đã lên cao sau cái đê mà chàng vừa đáp, chàng dắt hai con ngựa tới cho uống nước. Sau đó chàng tháo hàm thiếc và lại thả cho chúng ăn cỏ.
Trong khi ăn sáng Acxinhia hỏi:
- Đến đây rồi chúng mình sẽ đi đâu?
Đi Morozovskaia. Chúng ta sẽ đến Platov rồi từ đấy sẽ đi bộ.
- Nhưng còn ngựa?
- Chúng mình sẽ bỏ lại.
- Tiếc quá, anh Griska ạ! Hai con ngựa tốt tốt là, con xám thì đúng là nhìn không chán mắt, thế mà bỏ à? Anh đã lấy được nó ở đâu thế?
- Kiếm được đấy… - Grigori cười nhạt chẳng có gì là vui vẻ. - Cướp được của một gã người Tavria.
Chàng nín lặng một lát rồi nói:
- Tiếc hay không tiếc cũng phải bỏ… Chúng mình không thể bán ngựa được đâu?
- Nhưng tại sao anh lại mang vũ khí? Chúng mình cần đến vũ khí làm gì? Cầu Chúa che chở, nếu có ai trông thấy thì lại mang vạ vào thân.
- Đi đêm thì ai trông thấy chúng mình? Anh còn giữ lại để cho đỡ sợ. Không có thì cứ ngay ngáy thế nào ấy… Chúng mình bỏ hai con ngựa rồi vũ khí cũng bỏ nốt. Đến lúc ấy sẽ không cần nó nữa.
Ăn sáng xong, hai người nằm trên chiếc áo ca-pốt trải dưới đất.
Grigori cố cưỡng lại cái buồn ngủ nhưng vô ích. Acxinhia chống khuỷu tay kể cho chàng nghe mình đã sống như thế nào trong khi không có chàng đã phải chịu bao nhiêu đau khổ trong thời gian đó.
Grigori nghe tiếng nàng nói đều đều trong cơn buồn ngủ không sao chống lại được và không đủ sức giương hai hàng mi nặng chình chịch. Có lúc chàng hoàn toàn không nghe thấy Acxinhia nói gì.
Tiếng nàng nói cứ xa dần, trầm xuống rồi lắng hẳn. Grigori rùng mình tỉnh lại, nhưng chỉ vài phút sau đã lại nhắm mắt. Cái mệt mỏi rã rời còn mạnh hơn nguyện vọng và ý chí của chàng.
- Hai đứa nhớ quá, cứ hỏi bố đâu? Em đã tìm mọi cách dỗ chúng nó, đặc biệt cố âu yếm gần gụi. Rồi chúng nó quen dần, cứ bám lấy em và bắt đầu ít về với Dunhiaska. Con Poliuska thì dịu dàng và ngoan lắm. Em lấy cái giẻ rách khâu cho nó vài con búp bê, thế là nó chỉ loay hoay chơi búp bê dưới gầm bàn. Một hôm thằng Misatka chạy từ ngoài phố về, người nó run bần bật. Em hỏi nó: "Con làm sao thế?" Nó khóc nghe đến là thương: "Bọn chúng nó không chơi với con nữa. Chúng nó bảo bố mày là thằng thổ phỉ. Mẹ ơi có thật bố là thằng thổ phỉ không? Thổ phỉ là như thế nào hả mẹ? Em bèn bảo nó: "Bố con chẳng phải là thổ phỉ đâu. Bố con… chỉ là một người bất hạnh thôi". Thế là nó quấn lấy em với những câu hỏi: tại sao lại bất hạnh và bất hạnh là như thế nào? Chẳng còn làm thế nào nói cho rõ được nữa… Anh Griska ạ, chính chúng nó đã bắt đầu gọi em là mẹ, nhưng anh đừng nghĩ rằng em dạy chúng nó như thế đấy Còn Miska thì đối với chúng nó rất tốt, rất âu yếm. Nó không chào hỏi em, cứ quay mặt đi qua, nhưng có hai lần ở trên trấn về có mang đường cho hai con. Prokho thì lúc nào cũng đau khổ buồn nhớ anh. Hắn cứ bảo thế là hết đời một con người. Tuần trước hắn tạt vào nói chuyện về anh, khóc khóc là… Chúng nó có đến khám xét bên em, chỉ cố tìm vũ khí, cả dưới nóc nhà, dưới hầm nhà, chẳng thiếu chỗ nào…
Grigori thiếp đi, không nghe được hết câu chuyện. Ngay bên trên đầu chàng, những đám lá của một cây dâu da non cứ rủ rỉ dưới làn gió. Những dé nắng vàng vàng lướt qua trên mặt chàng. Acxinhia hôn rất lâu hai con mắt nhắm nghiền của chàng, rồi chính nàng cũng áp má vào tay Grigori, thiếp đi, mắt ngủ mà miệng vẫn cười.
Mãi đêm khuya, khi trăng đã lặn, hai người mới rời khỏi khe khô. Sau hai tiếng đồng hồ cưỡi ngựa đã xuống tới bờ sông Tria. Tiếng cuốc cuốc râm ran trên bãi cỏ ven sông, ếch nhái gân cổ kêu ộp oạp trên khúc sông mọc đầy lau sậy và xa xa, không biết ở chỗ nào có con quạ đang rên rỉ khàn khàn.
Những mảnh vườn kéo dài san sát trên bờ sông, với một màu đen bạc bẽo qua làn sương mù.
Lúc sắp đến đầu cầu Grigori dừng ngựa. Cái thôn hoàn toàn chìm trong bầu không khí trầm lặng của lúc nửa đêm. Grigori đưa gót ủng thúc ngựa rẽ sang bên cạnh. Chàng không muốn cưỡi ngựa qua cầu vì không tin tưởng gì cái cảnh lặng tờ nầy và còn thấy sợ nó. Tới lề thôn chàng cho ngựa lội qua sông, và vừa rẽ vào một ngõ hẹp thì từ dưới cái rãnh có một người nhô lên, sau lưng hắn còn ba người nữa.
- Đứng lại! Ai?
Nghe tiếng quát, Grigori giật bắn người như bị đánh bất ngờ, chàng kéo cương. Chỉ trong nháy mắt chàng đã tự nhủ được rồi lớn tiếng trả lời:
- Người mình đây! Nói xong chàng quay ngoắt con ngựa và chỉ kịp rỉ tai Acxinhia - Lùi lại! Theo sau anh!
Bốn người trong vọng gác của đội trưng thu lương thực vừa tới đây nghỉ đêm lặng lẽ lững thững bước tới gần chàng. Một người đứng lại, quệt que diêm châm thuốc. Grigori quật mạnh cho con ngựa của Acxinhia một roi. Nó vùng lên và lập tức phi nước đại.
Grigori áp sát người xuống cổ ngựa, phi theo. Lặng đi vài giây nặng nề rồi một loạt đạn nổ như sấm, những ánh lửa loé lên rạch qua đêm tối Grigori nghe thấy một tiếng đạn rít gay gắt và một tiếng hô kéo dài:
- Báo đô-ô-ộng!
Khi tới cách bờ sông chừng trăm xa-gien, Grigori đuổi kịp con ngựa xám đang phi những sải rất dài. Lên đến ngang nó, chàng kêu to:
- Cúi xuống, Acxiutka. Cúi thấp xuống nữa?
Acxinhia kéo cương rồi ngửa người ra sau, ngã vật sang bên cạnh. Grigori kịp dỡ được nàng, nếu không nàng đã ngã.
- Em bị thương à? Trúng vào đâu?! Em nói đi chứ! - Grigori hỏi, giọng khàn hẳn đi.
Nàng cứ nín thinh và mỗi lúc một ngã nặng thêm xuống tay chàng. Vẫn cho ngựa chạy, Grigori kéo nàng sát vào với mình.
Chàng thở hổn hển, khẽ nói:
- Lạy Chúa tôi! Em cũng nói lấy một tiếng chứ! Em làm sao thế nầy?!
Nhưng Acxinhia vẫn im thin thít. Chàng không nghe thấy nàng rên một tiếng nào hay nói một lời.
Sau khi chạy tới cái thôn được chừng hai vec-xta, Grigori kéo ngựa rẽ ngoặt ra khỏi con đường, xuống một cái khe. Chàng xuống ngựa, bếAcxinhia trên tay, nhẹ nhàng đặt nàng xuống đất.
Chàng cởi áo ấm nàng đang mặc, xé rách trên ngực nàng chiếc sơ-mi vải hoa và áo lót, mò mẫm sờ thấy vết thương. Viên đạn xuyên vào xương bả vai bên trái của Acxinhia, phá vỡ cái xừơng và xuyên chéo qua phía dưới xương đòn gánh bên phải. Grigori run rẩy dùng hai bàn tay đẫm máu móc trong túi yên lấy ra chiếc sơ-mi lót sạch của chàng và một gói băng cá nhân. Chàng khẽ nâng Acxinhia dậy, kê đầu gối xuống dưới lưng nàng, bắt đầu băng vết thương và cố ngăn những tia máu phụt ra từ phía dưới xương đòn gánh. Chẳng mấy chốc những mảnh áo sơ-mi và đoạn băng đã đen ngòm, ướt đẫm. Miệng Acxinhia he hé, máu cũng ứa ra miệng nàng, kêu lọc ọc trong họng nàng. Grigori sợ tưởng chết đi được, chàng hiểu rằng thế là hết, rằng điều khủng khiếp nhất có thể xảy ra trong đời chàng đã xảy ra…
Với Acxinhia trên tay, chàng bước rất cẩn thận xuống dưới khe theo con đường hẻm đầy phân cừu len lỏi giữa những đám cỏ theo sườn dốc đứng. Đầu nàng oặt xuống vai chàng, không còn một chút khí lực gì nữa. Chàng nghe thấy tiếng Acxinhia thở lẫn với nhưng tiếng sặc và một thứ tiếng như huýt sáo, chàng cảm thấy dòng máu ấm tuôn ra khỏi người nàng, trào ra từ miệng nàng xuống ngực mình. Cả hai con ngựa đều lần theo chàng xuống dưới khe. Chúng thở phì phì, bắt đầu nhai những túm cỏ mọng nước, hàm thiếc kêu lách cách.
Acxinhia tắt thở trên tay Grigori lúc trời sắp rạng. Nàng vẫn không tỉnh lại một lúc nào. Chàng lặng lẽ hôn cặp môi lạnh buốt, mặn mặn vị máu của nàng, nhẹ nhàng đặt nàng xuống cỏ rồi đứng dậy. Một sức mạnh không biết từ đâu bỗng xô vào ngực chàng, đẩy chàng lùi lại, rồi ngả ngửa ra, nhưng chàng lại hốt hoảng đứng chồm dậy. Rồi chàng lại ngã lần nữa, cái đầu không đội mũ đập xuống đá rất đau. Sau đó chàng cứ quỳ một chỗ, rút thanh gươm ra khỏi vỏ và bắt đầu đào huyệt. Chàng đào vội vã, nhưng trong họng cứ ngột ngạt và để cho dễ thở một chút, chàng xé toạc chiếc áo sơ-mi đang mặc.
Không khí mát rượi lúc trời sắp sáng làm ngực chàng đang đẫm mồ hôi bỗng lạnh đi và chàng bắt đầu thấy đào không khó khăn lắm nữa. Không nghỉ một phút nào, chàng bới đất bằng hai tay và bằng thanh gươm, nhưng khi cái huyệt đào sâu được tới ngang thắt lưng thì đã mất nhiều thì giờ.
Grigori chôn Acxinhia của chàng dưới ánh sáng rực rỡ lúc sớm mai. Sau khi đã đặt nàng xuống huyệt, chàng để hai cẳng tay ngăm ngăm đã nhợt nhạt sau khi chết bắt chéo trên ngực, lấy chiếc khăn bịt đầu phủ lên mặt nàng để đất khỏi lọt vào mắt nàng, cặp mắt he hé nhìn đăm đăm lên trời và đã bắt đầu mờ đục. Chàng từ biệt nàng và tin chắc rằng mình sẽ không rời xa nàng lâu lắm…
Chàng dùng hai tay vỗ rất kỹ chất đất sét vàng ẩm ướt trên nấm mồ và quì rất lâu bên cạnh, đầu gục xuống, khẽ lắc lư.
Bây giờ chàng không có gì phải vội vã nữa rồi. Tất cả thế là hết. Mặt trời đã lên khỏi miệng khe qua lớp sương mù mung lung như khói mà làn gió hanh lùa tới. Những tia nắng chiếu vào làm những đám tóc trắng trên cái đầu trần của Grigori óng ánh như bạc, và trườn lên khuôn mặt nhợt nhạt, nom rất khủng khiếp trong cái vẻ bất động hoàn toàn của nó. Như tỉnh dậy sau một cơn ác mộng, chàng ngẩng đầu, nhìn thấy bầu trời đen ngò chụp lên đầu mình cùng với vầng mặt trời đen sáng loá mắt.
Chương 232
Phần 8
Trong những ngày đầu xuân, khi tuyết đã tan và lớp cỏ nằm rạp xuống trong mùa đông khô dần thì trên đồng cỏ bắt đầu có những chỗ bị đốt cháy. Lửa bị gió lùa, chảy cuồn cuộn từng dòng, đốt lem lém những đám cỏ thê mục khô, leo lên những bụi cỏ tác-ta cao, lướt trên những khoảng ngải cứu đen nâu xịt, trườn xuống những chỗ đất thấp… Và sau đó, trên đồng cỏ còn lưu rất lâu mùi đất cháy nứt khét lẹt và đắng hắc. Chỗ nào cỏ non cũng xanh rờn và rất vui mắt. Bên trên, vô số những con sơn ca bay chập chờn trên bầu trời xanh ngắt.
Ngỗng trời di cư bay về kiếm ăn trong lớp cỏ. Gà nước sà xuống làm tổ để qua mùa hạ. Nhưng ở các nơi lửa lan qua, đất bị cháy thui không còn sức sống đen lại như một điềm chẳng lành. Chim chóc không đến đấy làm tổ, thú rừng lảng tránh ra nơi khác, chỉ có làn gió nhanh như có cánh hoành hành bên trên, lùa than xám và bụi hắc đi rất xa.
Cuộc đời Grigori cũng đã đen lại, hệt như một khoảng đồng cỏ bị lửa đốt trụi. Chàng đã mất hết mọi thứ gì mà trong thâm tâm chàng coi là quí nhất. Cái chết tàn khốc đã lấy đi tất cả của chàng, đã phá hoại tất cả. Chỉ còn lại hai đứa con. Nhưng bản thân chàng vẫn cố sống cố chết bám lấy mảnh đất, tựa như cuộc đời đã đổ vỡ tan tành của chàng đích thật vẫn còn có một giá trị gì đó đối với chàng và đối với người khác…
Sau khi chôn cất Acxinhia, chàng đi lang thang không mục đích ba ngày liền trên đồng cỏ, nhưng không về nhà mà cũng không lên Vosenskaia đầu thú. Đến ngày thứ tư, chàng bỏ hai con ngựa tại một thôn thuộc trấn Ust-Khopeskaia rồi vượt qua sông Đông, đi bộ đến rừng sồi Slasevskaia. Hồi tháng Tư bầy thổ phỉ của Fomin đã bị đánh tan lần đầu tiên ở cửa khu rừng nầy. Ngay từ hồi ấy, hồi tháng Tư, chàng đã nghe nói rằng có những tên đào ngũ đến ở hẳn trong rừng sồi. Vì không muốn quay về với Fomin, Grigori đã lần đến chỗ bọn đào ngũ.
Chàng lang thang vài ngày trong khu rừng bát ngát. Tuy đói khổ đói sở nhưng chàng không quyết định đến một nơi nào có người ở.
Cùng với cái chết của Acxinhia, chàng đã mất cả lý trí lẫn lòng dũng cảm xưa kia. Một cành cây gãy, một tiếng xào xạc trong rừng rậm, tiếng kêu của một con chim đêm, cái gì cũng làm chàng sợ hãi, luống cuống. Grigori phải ăn những quả dâu xanh, những thứ nấm nhỏ gì đó, ăn cả lá phi tử, người gầy rộc. Đến cuối ngày thứ năm có những tên đào ngũ bắt gặp chàng trong rừng, đưa chàng về hầm của chúng.
Chúng có bảy tên. Cả bọn đều là dân những thôn chung quanh đấy Chúng đã đến ở trong rừng từ mùa thu năm ngoái, khi bắt đầu có lệnh động viên. Chúng sống một cách cần kiệm tháo vát trong, một cái hầm rất rộng và gần như không thiếu thốn gì cả. Đêm đêm chúng thường trở về thăm gia đình và khi quay về hầm, chúng mang theo bánh mì, bánh khô, lúa mạch, bột mì, khoai tây, còn thịt để nấu súp thì chúng có thể kiếm rất dễ dàng trong những thôn khác, bằng cách thỉnh thoảng lại đánh cắp một con gia súc.
Một tên đào ngũ trước kia đi lính ở trung đoàn Cô-dắc số Mười hai nhận ra Grigori, vì thế cả bọn đã nhận cho Grigori ở lại, không có tranh cãi gì đặc biệt.
Ngày tháng nặng nề trôi qua, Grigori không còn nhớ được hôm nào là ngày nào nữa. Chàng sống lần hồi trong rừng đến tháng Mười, nhưng từ đó bắt đầu có những trận mưa thu rồi trời trở rét. Lòng nhớ con, nhớ nơi thôn xóm thân yêu bất thần thức tỉnh trong lòng chàng với một sức mạnh bất ngờ…
Để có việc gì đó giết thì giờ, chàng thường ngồi suốt ngày trên chiếc giường ván, lấy gỗ gọt những chiếc muỗng, khoét những cái bát hoặc làm những hình người, hình súc vật bằng đá mềm. Chàng cố hết sức không nghĩ ngợi gì cả, không để cho chất độc của sự thương nhớ thấm vào trong lòng mình. Ban ngày thì chàng còn có thể làm như thế, nhưng trong những đêm đông dài đằng đẵng, chàng lại bị nỗi buồn nhớ và các hồi ức hoàn toàn làm chủ. Chàng thường trằn trọc rất lâu trên giường, không sao ngủ được. Ban ngày tốp người ở trong hầm không ai nghe thấy chàng hé răng nửa lời than vãn, nhưng đêm đêm chàng thường thức giấc, run run đưa tay sờ lên mặt thì thấy hai bên má cũng như bộ râu xồm xoàm để nửa năm không cạo đều đầm đìa nước mắt.
Chàng thường nằm mơ thấy hai con, Acxinhia, mẹ cùng tất cả những người thân thuộc ngày nay không còn sống nữa. Toàn bộ sự sống của Grigori đều dồn cả về quá khứ, nhưng cái quá khứ ấy có vẻ như một giấc mơ ngắn ngủi mà nặng nề. "Thể nào cũng phải trở về thôn xóm thân yêu một lần nữa, thăm lại đứa nhỏ rồi chết cũng được, - Chàng thường có ý nghĩ như thế.
Đến đầu mùa xuân, một hôm bỗng nhiên thấy Trumakov mò đến.
Hắn ướt đầm đìa đến ngang thắt lưng, nhưng nom vẫn tràn trề sức sống và hăng hái hoạt bát như xưa. Hắn hong khô quần áo bên cạnh cái bếp lò, sưởi cho ấm người rồi ghé ngồi lên cái giường ván của Grigori.
- Cậu Melekhov ạ, sau hồi cậu bỏ đi, không ở với bọn mình nữa ấy, bọn mình đã qua rất nhiều nơi! Tới cả vùng Astrakhan lẫn vùng đồng cỏ Kalmys… Bọn mình đã nghênh ngáo đi khắp gầm trời! Còn cái chuyện đã làm đổ máu bao nhiêu người thì không tài nào tính được. Bọn chúng nó bắt vợ của Yakov Efilmovich làm con tin, tịch thu hết tài sản, vì thế ông ấy tức điên lên, ra lệnh chém tất cả những thằng nào làm việc cho Chính quyền Xô viết. Thế là bọn mình bắt đầu chém tuốt tuồn tuột: cả những thằng giáo viên lẫn đủ mọi hạng y sĩ, kỹ sư nông học… Chẳng có đứa quỉ quái nào không bị chém! Nhưng bây giờ bọn mình không còn nữa rồi, hoàn toàn không còn nữa rồi. - Hắn thở dài nói và vẫn còn co ro vì rét. - Lần đầu chúng bị đánh tan nát ở gần Chisanskaia và trước đây một tuần ở gần Xolomnyi. Nhân lúc đêm tối chúng nó bao vây bọn mình từ ba phía, chỉ để một lối lên gò, nhưng phía đó toàn là tuyết, ngựa đị sụt đến bụng… Đến lúc trời rạng chúng nó nổ súng máy bắn chết sạch. Chỉ sống sót có hai mống là mình và thằng bé, con của Fomin. Cả Yakov Efilmovich cũng chết trận… Chết ngay trước mắt mình. Viên đạn thứ nhất bắn vào chân ông ấy, phá vỡ xương bánh chè, viên đạn thứ hai trúng đầu nhưng chỉ sượt qua thôi. Ông ấy ngã ngựa đến ba lần. Chúng mình đứng lại, xốc dậy, đỡ lên yên nhưng ông ấy chỉ cho ngựa chạy thêm được vài bước là lại ngã. Một viên thứ ba lại tìm thấy ông ấy, trúng sườn… Đến lúc ấy chúng mình đành phải bỏ ông ấy lại. Mình phóng ngựa đi chừng trăm bước, quay đầu nhìn lại thì thấy ông ấy đã nằm gục xuống rồi mà còn bị hai thằng cưỡi ngựa vung gươm xả thêm…
- Còn sao nữa, câu chuyện đúng là phải đi đến kết cục như thế. - Grigori nói thản nhiên.
Trumakov ngủ lại một đêm trong hầm. Sáng hôm sau hắn từ biệt ra đi.
- Cậu đi đâu bây giờ? - Grigori hỏi.
Trumakov mỉm cười trả lời:
- Đi kiếm một cuộc sống đỡ nhọc nhằn. Hay là cậu cùng đi với mình nhé!
- Không, cậu đi một mình đi.
- Phải, mình với cậu không thể cùng sống với nhau được… Cậu Melekhov ạ, cái nghề thủ công gọt muỗng khoét bát của cậu không hợp với mình đâu. - Trumakov nói giọng châm biếm rồi bỏ mũ chào - Lạy Chúa tôi, xin cám ơn các ông cướp hiền lành đã cho ăn cho ngủ. Cầu Chúa ban cho các cậu một cuộc sống vui nhộn, nếu không ở chỗ các cậu đây buồn chết được. Các cậu sống lẩn lút trong rừng, cầu nguyện cái bánh xe gãy, chẳng nhẽ như thế cũng là sống hay sao?
Sau khi hắn đi rồi, Grigori còn ở lại thêm trong rừng sồi một tuần nữa, rồi chàng sửa soạn lên đường.
- Về nhà à? - Một tên đào ngũ hỏi chàng?
Lần đầu tiên từ khi đến ở trong rừng, Grigori hơi nhếch mép cười:
- Về nhà.
Có lẽ cứ nán lại đến mùa xuân đã. Đến mồng một tháng Năm họ ban lệnh ân xá cho chúng mình, lúc ấy hãy phân tán.
- Không, mình không chờ được. - Grigori nói rồi từ biệt cả bọn.
Sáng hôm sau chàng ra tới sông Đông, chỗ trước mặt thôn Tatarsky. Chàng đứng nhìn rất lâu ngôi nhà thân yêu, mặt tái đi vì xúc động và sung sướng. Rồi chàng gỡ cây súng trường, bỏ túi dết xuống, móc trong đó ra ít kim chỉ, nắm bùi nhùi bằng sợi gai, cái lọ đựng dầu lau rồi không hiểu sao đếm số đạn. Tất cả còn mười hai kẹp đạn và hai mươi sáu viên rời.
Ở đoạn dốc đứng, tuyết đã trôi từ trên bờ xuống, nước sông trong vắt màu xanh lá cây đập bì bõm liếm vào những mép băng đâm ra tua tủa như những mũi kim. Grigori ném xuống nước cây súng trường, khẩu Nagan, sau đó chàng dốc hết những viên đạn xuống và chùi tay rất cẩn thận vào vạt áo ca-pốt.
Chàng qua sông Đông ở phía dưới thôn, trên lớp băng tháng Ba đã bị tiết trời trở ấm làm mỏng yếu rồi bước những bước rất dài về nhà. Ngay từ xa chàng đã trông thấy thằng Misatka đang đứng ở chỗ xuống bến đò. Chàng phải cố hết sức tự chủ mới không chạy xổ tới với nó.
Thằng Misatka đang bẻ những thỏi băng nhỏ bám trên một tảng đá ném đi và chăm chú nhìn theo những thỏi băng xanh xanh lăn xuống dốc.
Grigori bước tới bờ dốc, thở hổn hển gọi con, giọng khản đi:
- Misatka? Con trai yêu của bố?
Thằng Misatka hốt hoảng nhìn chàng rồi lại đưa mắt nhìn xuống. Nó đã nhận ra bố nó trong con người râu ria xồm xoàm nom rất đáng sợ nầy…
Tất cả những lời âu yếm nựng nịu mà đêm đêm chàng thường khẽ lẩm bẩm mỗi khi nhớ tới hai đứa con của chàng ở đấy, trong khu rừng sồi, đến lúc nầy đã trôi hết khỏi trí nhớ của chàng. Chàng quỳ xuống, hôn hai bàn tay hồng hồng, lạnh buốt của con, rồi nghẹn ngào chỉ nói được mấy tiếng:
- Con… con…
Rồi Grigori bế thằng con trai của chàng lên. Hai con mắt ráo hoảnh, sáng rực như điên dại của chàng cứ nhìn chằm chằm vào mặt nó như muốn nuốt lấy. Chàng hỏi:
- Ở nhà như thế nào hả con? Cô và Poliuska có còn sống, còn khoẻ không?
Vẫn không nhìn bố, thằng Misatka khẽ trả lời:
- Cô Dunhiaska vẫn khoẻ, nhưng Poliuska đã chết dạo mùa thu… Vì bệnh yết hầu. Còn chú Miska thì đi bộ đội…
Chà, thế là ước mơ nhỏ nhoi của Grigori trong bao nhiêu đêm không ngủ đã được thực hiện. Chàng đã đứng bên cạnh cổng ngôi nhà thân yêu, thằng con bồng trên tay.
Đây là tất cả những gì trong đời còn lại được cho chàng, nó tạm thời còn gắn bó chàng với mảnh đất, với toàn bộ cái thế giới bao la đang hiện lên rạng rỡ dưới vừng mặt trời lạnh lẽo.
Nguồn: http://www.sahara.com.vn/