22/3/13

Sứ giả của thần chết (C4-5)

Chương 4

- Tôi không đồng ý, thưa ngài giáo sư Ashley! - Barry, Dylan, sinh viên trẻ nhất và xuất sắc nhất của nhóm chuyên đề chính trị của Mary Ashley, nhìn quanh với vẻ thách thức - Alexandros Ionescu còn tệ hơn.
- Anh có thể cho chúng tôi vài yếu tố để làm yểm trợ cho câu nói ấy không? - Mary Ashley hỏi.
Có 12 sinh viên tốt nghiệp tại cuộc họp chuyên đề được tổ chức tại Giảng đường Dykstra thuộc Trường đại học Tiểu bang Kansas. Các sinh viên đang ngồi thành một vòng bán nguyệt đối diện với Mary.
Các danh sách chờ để vào các lớp học của cô dài hơn của bất kỳ giáo sư nào tại Trường đại học.
Cô là một giáo sư lỗi lạc có óc khôi hài dễ dãi và một sự ấm cúng bọc quanh người cô một cách thú vị. Mặt cô hình trái xoan biến chuyển từ ưa nhìn đến đẹp, tuỳ theo tâm trạng của cô. Đôi gò má cô cao, hình quả hạnh điển hình và đôi mắt màu nâu lục nhạt. Mái tóc cô đen và dày. Vóc người cô làm cho các nữ sinh viên của cô ganh tị và các nam sinh viên phải tưởng tượng, tuy nhiên cô không biết mình đẹp như thế nào.
Barry tự hỏi liệu cô có hạnh phúc với chồng không. Anh miễn cưỡng tập trung vào vấn đề đang tranh luận.
- Vâng, khi Ionescu lên cầm quyền ở Rumani, ông ta thẳng tay đàn áp tất cả những thành phần thân Groza và tái lập lại một địa vị thân Xô viết theo đường lối cứng rắn.
Một sinh viên khác lên tiếng.
- Vậy thì tại sao Tổng thống Ellison lại quan tâm thiết lập liên hệ ngoại giao với ông ta?
- Bởi vì chúng ta muốn nài nỉ ông ta vào quỹ đạo Tây Âu.
- Ta nói thế nào về sự liên hệ hiện nay của Rumani với các quốc gia khác trong Hiệp ước Warsawa và đặc biệt là Nga? - Mary hỏi.
- Tôi nói rằng bây giờ nó mạnh hơn.
Một giọng nói khác.
- Tôi không đồng ý. Rumani đã chỉ trích cuộc xâm lăng của Nga vào Afganixtan và họ đã chỉ trích thoả hiệp của người Nga với EEC. Cũng vậy, thưa giáo sư Ashley…
Chuông rung. Hết giờ.
Mary lên tiếng:
- Thứ hai, chúng ta sẽ bàn về những yếu tố cơ bản đã ảnh hưởng đến thái độ của Liên Xô đối với Đông Âu và chúng ta sẽ thảo luận đến những có thể xảy ra của kế hoạch xâm nhập vào khối Đông của Tổng thống Ellison. Chúc ngày cuối tuần tốt đẹp.
Mary nhìn các sinh viên đứng lên và đi ra cửa.
- Cô cũng thế, thưa giáo sư.
Mary Ashley yêu thích các cuộc trao đổi tại các cuộc hội nghị chuyên đề. Môn Sử Địa trở nên sinh động trong các cuộc thảo luận sôi nổi giữa các sinh viên tốt nghiệp trẻ và xuất sắc. Các tên người và tên đất ngoại quốc trở thành thực tế và các biến cố lịch sử trở thành sinh động. Đây là năm thứ năm của cô tại một phân khoa thuộc Trường đại học Tiểu bang Kansas, và việc giảng dạy vẫn còn kích thích cô. Cô dạy năm lớp khoa chính trị học mỗi năm, cộng thêm các cuộc hội nghị chuyên đề và mỗi cuộc hội nghị đều đề cập đến Liên Xô và các quốc gia anh em của họ. Đôi khi cô cảm thấy như một sự gian lận. - Mình chưa hề đến bất cứ quốc gia nào mình dậy cả, - cô nghĩ thế. - Mình chưa bao giờ ra ngoài Hoa Kỳ cả!
Mary Ashley sinh ra tại thị xã Junction, như cha mẹ cô. Phần tử duy nhất đã biết châu Âu là ông của cô, xuất thân từ một ngôi làng nhỏ Voronet thuộc Rumani. Mary đã định xuất ngoại một chuyến khi cô nhận bằng cử nhân, nhưng cô đã gặp Edward Ashley mùa hè năm ấy và chuyến đi châu Âu đã biến thành tuần trăng mật ba ngày tại Waterville, cách thị xã Junction 55 dặm, nơi mà Edward đang chăm sóc một bệnh nhân đau tim nguy kịch.
- Năm sau, chúng ta phải đi thật, - Mary nói với Edward ngay sau khi họ kết hôn với nhau. - Em muốn thăm Rome, Paris và Rumani, muốn chết đi được.
- Anh cũng vậy. Đây là một cuộc hẹn. Mùa hè sang năm.
Nhưng mùa hè sau, Beth sinh ra và Edward bận bịu công việc tại bệnh viện Cộng đồng Geary.
Hai năm sau, Tim được sinh ra. Mary đã lãnh bằng Tiến sĩ Triết học và trở về dạy tại Trường đại học Tiểu bang Kansas, và năm tháng trôi qua bằng một cách nào đấy. Ngoại trừ các chuyến đi Chicago. Atlanta và Denver ngắn ngủi, Mary chưa bao giờ rời khỏi Tiểu bang Kansas cả.
- Một ngày, - cô tự hứa với mình. - Một ngày…
***
Mary thu lại sổ sách của mình và liếc ra cửa sổ.
Sương giá đã phủ lên cửa sổ một màu xám mùa đông và tuyết lại bắt đầu rơi. Mary mặc chiếc áo khoác da và quàng chiếc khăn len đỏ rồi đi về lối phố Vather, nơi cô đậu xe.
Sân bãi rộng, 325 héc ta, rải rác với các toà nhà gồm các phòng thí nghiệm, hý viện, nhà nguyện giữa những hàng cây thôn dã. Từ xa, những toà nhà đá vôi nâu của Trường đại học giống như những lâu đài cổ có những tháp nhỏ trên đỉnh, sẵn sàng đánh đuổi quân thù.
Khi Mary đi ngang qua Giảng đường Denison, một gã lạ hoắc mang một chiếc máy ảnh Nikon đang đi về phía nàng. Hắn đưa máy ảnh lên định ngắm toà nhà và bấm. Mary ở vào cận cảnh của bức ảnh "Đáng lẽ mình nên tránh lối cho ông ta, - cô nghĩ thế. Mình đã làm hỏng bức ảnh của ông ta".
Một giờ sau, âm bản của bức ảnh đang trên đường đi Washington, D.C.
Mỗi thành phố đều có nhịp điệu riêng biệt của mình, một sức sống toát ra từ người dân và đất đai. Thị trấn Junction, tại lãnh địa Geary, là một cộng đồng nông trại, cách thành phố Kansas 130 dặm về phía Tây, tự hào là trung tâm địa dư của Hoa Kỳ đại lục. Nó có một tờ báo "Daily Union" - một đài phát thanh và một đài truyền hình. Khu vực kinh doanh ở phố gồm một loạt các cửa hiệu và các trạm xăng mọc rải rác dọc đường số 6 và tại Washington. Có một Penney, Ngân hàng quốc gia đầu tiên, một Domino Pizza, tiệm nữ trang và một cửa hàng len. Có những cửa hàng bán "món ăn nhanh", một trạm xe bus, một tiệm bán quần áo đàn ông và một tiệm rượu - loại cơ bản trong hàng trăm thành phố nhỏ khắp Hoa Kỳ. Nhưng người dân thị trấn Junction yêu nó vì vẻ thanh bình và yên tĩnh đồng quê của nó. Ít ra là trong những ngày làm việc trong tuần. Vào các dịp nghỉ cuối tuần, thị trấn Junction trở thành trung tâm nghỉ ngơi và giải trí cho các quân nhân ở Fork Riley gần đấy.
Mary Ashley dừng lại để mua thức ăn chiều tại chợ Dillon trên đường về nhà và rồi đi về hướng Bắc đến đường Old Milford, một khu vực nhà ở đáng yêu trông ra một cái hồ. Những cây sồi và cây du thẳng hàng dọc theo lề trái của con đường trong lúc bên phải là những ngôi nhà đẹp làm bằng đá, gạch hoặc gỗ.
Nhà Eshley là một ngôi nhà lầu hai tầng bằng đá toạ lạc giữa những ngọn đồi thoai thoải. Ngôi nhà đã được bác sĩ Edward Ashley và cô dâu của chàng mua 13 năm trước đây. Nó gồm một phòng khách rộng, một phòng ăn, thư viện, phòng ăn sáng và nhà bếp ở tầng dưới và một dãy phòng của chủ nhà và thêm hai phòng ngủ trên lầu.
- Nó rộng kinh khủng đối với chúng ta, chỉ có hai người, - Mary Ashley đã phản đối.
Edward đã ghì chặt nàng vào lòng:
- Ai bảo rằng nó chỉ cho hai người thôi?
Khi Mary từ Trường đại học trở về nhà, Tim và Beth đang đợi để đón nàng.
- Mẹ hãy đoán gì nào? - Tim lên tiếng. - Chúng ta sẽ được đăng ảnh lên báo?
- Hãy giúp mẹ cất những thứ linh tinh này, - Mary nói. - Báo nào thế?
- Người đó không nói, nhưng ông ấy chụp ảnh chúng con và bảo chúng ta sẽ được tin của ông ấy!
Mary dừng lại và quay sang nhìn con trai.
- Người đó có nói tại sao không?
- Không, - Tim nói, - nhưng điều chắc chắn là ông ấy có một cái máy Nikon rất sộp.
***
Ngày chủ nhật, Mary kỷ niệm - mặc dầu đấy không phải là từ đã nẩy ra trong đầu - ngày sinh nhật thứ 35 của nàng. Edward đã thu xếp một bữa tiệc bất ngờ tại câu lạc bộ của vùng quê. Những người láng giềng của họ, Florence và Douglas Schiffer và bốn đôi khách đang đợi nàng. Edward hài lòng như một đứa bé với vẻ ngạc nhiên trên mặt Mary khi nàng bước vào câu lạc bộ trông thấy bàn tiệc và hàng biểu ngữ mừng ngày sinh nhật hạnh phúc. Nàng chẳng có lòng dạ nào để bảo với chàng rằng nàng đã biết về bữa tiệc từ hai tuần trước. Nàng tôn thờ Edward. "Và tại sao không nhỉ? Ai không chịu nhỉ?". Chàng hấp dẫn, thông minh và chu đáo. Ông nội và bố chàng đã làm bác sĩ và Edward không bao giờ thoáng nghĩ rằng chàng sẽ làm khác đi. Chàng là một phẫu thuật gia giỏi nhất tại thị trấn Junction, một người cha tốt và một ông chồng tuyệt vời.
Trong lúc Mary thổi tắt những cây nến trên chiếc bánh sinh nhật của nàng, nàng nhìn qua Edward và nghĩ: Một cô gái có thể may mắn như thế nào nhỉ?
Sáng thứ hai, Mary thức giấc với một tâm trạng buồn nản. Đêm trước có nhiều ly Champagne chúc mừng và nàng uống rượu không quen. Nàng phải cố gắng để ra khỏi giường.
- Champegne đã làm mình kiệt sức. Mình sẽ không bao giờ uống nữa!
Nàng bước nhẹ xuống cầu thang và rón rén khởi sự chuẩn bị bữa ăn sáng cho con, cố gắng lờ đi tiếng đập trong đầu.
- Champagne, - Mary rên rỉ, - Là cuộc trả thù của Pháp đối với chúng ta.
Beth đi vào phòng mang theo một chồng sách dầy.
- Mẹ đang nói chuyện với ai thế?
- Với mẹ đấy.
- Lạ thật!
- Khi nào con đúng là con đúng. - Mary đặt lên bàn một hộp ngũ cốc. - Mẹ mua cho con một hộp ngũ cốc mới. Con sẽ thích nó!
Beth ngồi xuống bàn nhà bếp và chăm chú nhìn vào cái nhãn trên hộp ngũ cốc:
- Con không thể ăn cái này. Mẹ đang định giết con đấy.
- Đừng đặt ý kiến nào vào đầu mẹ, - mẹ nó gắt. - Làm ơn ăn sáng đi.
Tim, đứa con trai mười tuổi của nàng, chạy vào nhà bếp. Nó nhủi vào một chiếc ghế cạnh bàn và nói:
- Con sẽ ăn thịt mỡ và trứng.
- Chuyện gì đã xảy ra cho cái chào buổi sáng rồi? - Mary hỏi.
- Chào mẹ. Con sẽ ăn thịt mỡ và trứng.
- Nào xin mời.
- Nào nhanh lên, mẹ. Con trễ học mất.
- Mẹ hài lòng vì con đã nói điều ấy. Cô Reynolds đã gọi điện cho mẹ. Con kém toán. Con nói điều gì về điều ấy?
- Tưởng tượng thôi.
- Tim, việc ấy con cho là đùa à?
- Cá nhân con không nghĩ rằng nó buồn cười, - Beth khịt mũi.
Nó cau có với chị.
- Nếu chị muốn buồn cười, hãy soi gương đi!
- Đủ rồi - Mary nói. - Hãy cư xử cho phải phép!
Cơn nhức đầu của nàng trở nên tệ hơn.
Tim hỏi.
- Con có thể đi trượt băng sau khi con học xong được không mẹ?
- Con đã trượt trên lớp băng mỏng rồi đấy. Con phải về nhà ngay và học. Con nghĩ một giáo sư đại học trông như thế nào khi có một đứa con trai yếu môn toán!
- Họ nói về hai tên kinh khủng! - Mary suy nghĩ một cách buồn bã. - Và còn chuyện gì nữa nếu có đến chín, mười, mười một, mười hai tên khủng bố?
Beth nói:
- Tim có nói với mẹ rằng nó được một điểm "D" trong bài phát âm không?
Hắn trợn mắt nhìn chị hắn.
- Mẹ có bao giờ nghe về Mark Twain không?
- Mark Twain có liên quan gì với việc này? - Mary hỏi.
- Mark Twain nói rằng ông ta không phục một người đàn ông nào chỉ biết phát âm đơn điệu một từ.
- Mình thắng không được, - Mary nghĩ, - Chúng nó ranh hơn mình.
Nàng đã gói thức ăn trưa cho mỗi đứa, nhưng nàng lo cho Beth vì nó đang dùng chế độ ăn mới ngốc nghếch.
- Beth, làm ơn ăn hết cho mẹ bữa trưa của con ngày hôm nay nhé.
- Nếu nó không có thuộc phòng bệnh nhân tạo. Con sẽ không để cho tính tham lam của kỹ nghệ chế biến thức ăn làm hại sức khoẻ của con.
- Việc gì đã xảy ra cho những ngày xưa tốt đẹp với thức ăn ướp muối? - Mary tự hỏi.
Tim giật một mảnh giấy long ra từ một trong những quyển vở của Beth.
- Nhìn này, - hắn hét lên.
- Beth thân yêu, hãy cùng nhau ngồi chung trong suốt kỳ học. Anh đã nghĩ đến em suốt cả ngày hôm qua và…
- Trả lại tao! - Beth hét lên. - Của tao mà! - Nó chụp lấy Tim nhưng hắn đã nhảy khỏi tầm với của nó.
Hắn đọc chữ ký ở cuối bức thư.
- Này. Ký tên là Virgil. Em nghĩ rằng chị yêu Arnold chứ.
Beth giật lại bức thư trong tay hắn.
- Mày biết gì về tình yêu mà nói. - Đứa con gái 12 tuổi của Mary lên tiếng chất vấn. - Mày là thằng con nít.
Tiếng đập trong đầu Mary trở nên không chịu đựng nổi.
- Các con ơi, cho mẹ nghỉ một tí.
Nàng nghe tiếng còi xe bus của nhà trường bên ngoài. Tim và Beth đi ra cửa.
- Đợi đã! Các con chưa ăn sáng! - Mary nói.
Nàng theo chúng ra ngoài hành lang.
- Không có thì giờ, mẹ. Phải đi thôi.
- Tạm biệt. Mẹ!
- Trời rét bên ngoài đấy. Hãy mặc áo khoác và quàng khăn vào.
Và thế là chúng nó đi. Mary cảm thấy kiệt sửc.
- Tình mẹ đang ở trong mắt bão.
Nàng đưa mắt nhìn lên lúc Edward xuống cầu thang và nàng cảm thấy dễ chịu.
- Ngay cả sau tất cả những năm này, - Mary nghĩ, - Chàng vẫn còn là người đàn ông hấp dẫn nhất mà mình đã từng biết.
Chính sự dịu dàng của chàng làm Mary thích thú trước tiên. Đôi mắt chàng xám dịu phảng phất một trí thông minh ấm áp, nhưng chúng cũng có thể biến thành đỏ rực, khi chàng say sưa một điều gì đấy.
- Chào em, - chàng đặt lên trán nàng một nụ hôn. Họ cùng đi vào nhà bếp.
- Anh ơi - cho em một đặc ân nhé?
- Chắc chắn rồi, người đẹp. Bất cứ điều gì.
- Em muốn bán con đi!
- Cả hai à?
- Khi nào?
- Hôm nay.
- Ai mua chúng nó!
- Những người lạ mặt. Chúng nó đã đến tuổi mà em chẳng có thể làm điều gì đúng cả. Beth đã trở thành một đứa ăn uống quái đản và con trai của anh trở nên một tên đần độn tầm cỡ thế giới!
Edward nói một cách thận trọng:
- Có lẽ chúng không phải là con của chúng ta.
- Em hy vọng là không. Em đang nấu cháo yến mạch cho anh đây.
- Chàng nhìn đồng hồ đeo tay.
- Xin lỗi, em. Không có thì giờ. Anh phải đi giải phẫu trong nửa giờ nữa. Hank Cates bị vướng vào một cái máy nào đấy. Ông ấy có thể bị mất vài ngón tay đấy.
- Ông ấy già quá mà vẫn làm nghề nông à?
- Đừng để ông ấy nghe em nói điều ấy nhé.
Mary biết rằng Hank Cates đã ba năm rồi chưa thanh toán những phiếu tiền của chồng nàng. Như hầu hết các nông gia trong cộng đồng. Hank Cates phải chịu đựng giá thấp về hàng nông nghiệp và thái độ lãnh đạm của ban quản trị tín dụng nông nghiệp đối với các nông gia. Nhiều người đã mất các nông trại mà họ đã làm việc trên đó suốt cả đời. Edward không bao giờ ép bệnh nhân nào của chàng thanh toán tiền cả, và nhiều người trả chàng bằng hoa màu. Gia đình Eshley có một căn hầm chứa đầy bắp, khoai tây và lúa mì. Một nông gia đã đề nghị trả cho Edward một con bò cái, nhưng khi Edward kể điều ấy với Mary, nàng nói:
- Trời ơi, hãy bảo ông ta rằng việc trị liệu ở trong nhà cơ mà.
Bây giờ Mary nhìn chồng và lại nghĩ: Mình may mắn thật.
- Được rồi1 - nàng nói - Em có thể quyết định giữ con lại. Em yêu bố chúng nó nhiều.
- Nói thật với em nhé, anh hơi mê mệt mẹ chúng nó đấy! - Chàng đưa tay ôm nàng và ghì chặt vào lòng. - Sinh nhật hạnh phúc, thêm một lần nữa!
- Anh vẫn còn yêu em lúc em đã là một phụ nữ lớn tuổi hơn chứ?
- Anh thích những phụ nữ lớn hơn.
- Cám ơn! - Mary bỗng nhiên nhớ lại điều gì. - Hôm nay em phải về nhà sớm và sửa soạn bữa ăn chiều. Đến lượt chúng ta phải đi thăm gia đình Schiffer.
Cây cầu nối liền với những người láng giềng của họ là nghi thức đêm thứ hai. Việc Douglas Schiffer là một bác sĩ và cùng làm việc với Edward tại bệnh viện làm họ càng gần gũi hơn.
Mary và Edward cùng rời khỏi ngôi nhà, đầu cúi xuống vì cơn gió tàn nhẫn. Edward phóng mình vào trong chiếc Ford Cranada của chàng và đưa mắt nhìn Mary leo lên sau tay lái của chiếc xe Camionnette.
- Xa lộ có lẽ nhiều băng đấy, - Ellison gọi. - Hãy lái cẩn thận!
- Anh cũng thế nhé!
- Nàng gửi cho chồng một nụ hôn gió và hai chiếc xe chạy ra khỏi ngôi nhà. Edward hướng về bệnh viện và Mary về phố Manhattan nơi Trường đại học toạ lạc, cách đấy 16 dặm.
Hai người đàn ông trong một chiếc xe đậu cách nhà Ashley độ phân nửa khu nhà nhìn hai chiếc xe chạy đi. Họ đợi cho đến khi những chiếc xe khuất dạng.
- Đi thôi.
Họ lái đến ngôi nhà kế nhà Ashley. Rex Olds, người tài xế, ngồi trong xe trong lúc người bạn đồng hành bước đến cửa trước và bấm chuông.
Cánh cửa được một người phụ nữ nước da bánh mật khoảng 35 tuổi mở ra.
- Thưa ông. Tôi có thể giúp gì cho ông?
- Bà Douglas Schiffer?
- Vâng…
Người đàn ông đưa tay vì túi áo khoác và lấy ra một thẻ chứng minh.
- Tên tôi là Donald Zamlock. Tôi đang làm việc trong cơ quan an ninh Bộ Ngoại giao.
- Chúa ơi! Đừng bảo tôi rằng Doug đã cướp nhà băng!
Người nhân viên mỉm cười lịch sự.
- Không, thưa bà. Không phải chúng tôi muốn biết điều ấy. Tôi muốn hỏi bà một ít câu hỏi về người láng giềng của bà, bà Ashley ấy.
Bà ta bỗng nhìn ông lo ngại.
- Mary à? Bà ấy thể nào?
- Tôi có thể vào nhà không?
- Vâng. Dĩ nhiên! - Florence Schiffer đưa ông ta vào phòng khách.
- Mời ông ngồi. Ông thích dùng cà phê không?
- Không, cám ơn. Tôi chỉ làm tốn vài phút của bà thôi.
- Tại sao ông lại hỏi về Mary?
Ông ta mỉm cười trấn an.
- Đây chỉ là một cuộc điều tra thường lệ. Bà ấy không bị nghi ngờ làm điều gì sai quấy đâu.
- Tôi hy vọng là không! - Florence Schiffer phẫn nộ. - Mary Ashley là một trong những người tốt nhất mà ông đã từng gặp đấy. - Bà nói thêm. - Ông đã gặp bà ấy chưa?
- Không, thưa bà. Cuộc viếng thăm này có tính cách mật, và tôi sẽ cảm kích nếu bà giữ nó như thế. Bà đã biết bà Ashley được bao lâu rồi?
- Khoảng 13 năm. Kể từ ngày bà ấy dọn đến ở bên cạnh.
- Bà nói rằng bà biết rõ bà Ashley chứ?
- Dĩ nhiên rồi. Mary là bạn thân nhất của tôi.
- Bà ấy và chồng có hoà thuận với nhau không?
- Ngoài Douglas và tôi ra, họ là đôi vợ chồng hạnh phúc nhất mà tôi đã từng gặp. - Bà ta suy nghĩ một lúc. - Tôi nói lại. Họ là đôi vợ chồng hạnh phúc nhất mà tôi đã từng gặp.
- Tôi biết rằng bà Ashley có hai đứa con. Một đứa con gái 12 tuổi và một đứa con trai 10 tuổi phải không?
- Đúng đấy, Beth và Tim!
- Bà có cho rằng bà ấy là một người mẹ tốt không?
- Bà ấy là một bà mẹ vĩ đại. Cái gì…
- Bà Schiffer, theo ý kiến bà, bà Ashley có phải là một con người vững vàng về tình cảm không?
- Dĩ nhiên rồi!
- Bà ấy không có những vấn đề tình cảm mà bà biết được chứ?
- Chắc chắn là không!
- Bà ấy có uống rượu không?
- Không. Bà ấy không thích rượu.
- Còn về ma tuý thì sao?
- Thưa ông, ông đã đến nhầm thành phố rồi. Không có vấn đề ma tuý tại thị trấn Junction chúng tôi.
- Bà Ashley kết hôn với một bác sĩ à?
- Vâng!
- Nếu bà ấy muốn có ma tuý…
- Ông mất trí rồi. Bà ấy không dùng ma tuý. Bà ấy không khịt mũi và cũng chẳng lên cơn.
Ông ta dò xét bà một lúc.
- Hình như bà biết tất cả những từ chuyên môn.
- Tôi có xem Miami Vice, như mọi người khác. - Florence giận dữ - Ông còn câu hỏi nào khác nữa không.
- Ông của Mary Ashley sinh ra ở Rumani. Có bao giờ bà nghe bà ấy thảo luận về Rumani không?
- Ồ, có một lần bà ấy kể những câu chuyện mà ông của bà ấy kể cho bà ấy nghe về đất nước cũ. Ông của bà ấy sinh ra tại Rumani nhưng cụ đã đến đây lúc còn thanh xuân.
- Bà có bao giờ nghe bà Ashley bày tỏ một ý kiến tiêu cực về chính quyền Rumani hiện tại không?
- Không. Tôi không nhớ được.
- Một câu hỏi cuối cùng. Bà có bao giờ nghe bà Ashley hoặc bác sĩ Ashley nói điều gì chống lại chính phủ Hoa Kỳ không?
- Tuyệt đối là không?
- Vậy theo ước tính của bà, cả hai đều là những người Mỹ trung thành chứ?
- Ông muốn đánh cuộc không. Xin vui lòng cho tôi biết…
Người đàn ông đứng dậy.
- Tôi muốn cám ơn vì thời giờ của bà, bà Schiffer. Và tôi muốn khẳng định với bà rằng vấn đề này có độ mật khá cao. Tôi sẽ cảm kích nếu bà không thảo luận điều ấy với bất kỳ một ai - ngay cả chồng bà cũng thế!
Một lát sau, ông đi ra cửa. Florence Schiffer đứng dậy chăm chú nhìn theo ông ta.
- Tôi không tin rằng cả chuyện này cũng đã xảy ra. - Bà ta nói lớn.
Hai nhân viên lái xe xuống đường Washington và chạy về hướng Bắc. Họ đi ngang qua một bảng dán thông cáo có ghi "Hãy vui lên trên phần đất Ah!"
- Sắc sảo đấy - Rex Old lẩm bẩm.
Họ đi ngang qua phòng thương nghiệp và kiến trúc hoàng gia của toà nhà Elks, nhà nuôi các con vật cưng Irina và một quầy rượu mang tên "Fat chance". Các toà nhà kinh doanh chấm dứt đột ngột.
- Chúa ơi, con phố chính chỉ dài có hai khu nhà ở. Đây không phải là một thành phố. Đây là một cái bẫy! - Zamlock nói
- Đối với cậu nó là một cái bẫy, và đối với tớ nó cũng là một cái bẫy, nhưng đối với những người này nó là cả một thành phố. - Rex Old nói.
- Có lẽ đấy là một địa điểm tốt để sống, nhưng chắc chắn là tớ không muốn đến thăm nơi đây. - Zamlock lắc đầu.
Chiếc xe mui kín dừng lại trước mặt ngân hàng của tiểu bang và Rex Old bước vào bên trong.
Chàng trở lại hai mươi phút sau.
- Sạch sẽ, - chàng vừa nói, vừa bước vào trong xe. - Gia đình Ashley có 7.000 đô-la ở nhà băng, một văn tự cầm cố về ngôi nhà của họ và họ thanh toán những phiếu nợ của họ đúng kỳ hạn. Giám đốc ngân hàng cho rằng vị bác sĩ quá từ tâm để trở thành một thương gia giỏi, nhưng theo ông ta để ý, ông ấy có nguy cơ thiếu nợ cao nhất!
Zamlock nhìn vào cặp giấy tờ bên cạnh.
- Chúng ta hãy kiểm tra một vài người nữa và trở lại đất văn minh trước khi tôi bắt đầu chịu hết nổi.
Douglas Schiffer bình thường là một con người vui tính, dễ dãi, nhưng lúc này mặt chàng có vẻ dữ tợn. Gia đình Schiffer và Ashley đang chơi ván bài bridge hàng tuần của họ và gia đình Schiffer bị gác 10.000 điểm. Lần thứ tư buổi chiều hôm ấy, Florence Schiffer đã đánh con bài sai lầm.
Douglas Schiffer dằn mạnh tay bài của chàng xuống.
- Florence - Chàng la lớn, - Em đang chơi cho bên nào thế? Em không biết chúng ta bị gác thế nào à?
- Xin lỗi, - nàng khẩn trương nói. - Chỉ vì em không thể tập trung được thôi.
- Ra là thế, chồng nàng khịt mũi.
- Có gì quấy rầy chị không? - Edward Ashley hỏi Florence.
- Tôi không thể cho anh biết đâu.
Tất cả đều nhìn nàng ngạc nhiên.
- Thế nghĩa là gì? - Chồng nàng hỏi.
Florence Schiffer hít một hơi dài.
- Mary! Chuyện của chị đấy.
- Chuyện gì của tôi?
- Chị đang gặp một loại rắc rối nào đó chứ?
Mary nhìn nàng đăm đăm.
- Rắc rối à? Không. Sao chị lại nghĩ như thế?
- Người ta bảo tôi không được nói. Tôi đã hứa.
- Chị hứa với ai thế? - Edward hỏi.
- Một nhân viên Liên bang từ Washington. Ông ta đến nhà sáng nay hỏi tôi đủ thứ câu hỏi về Mary. Ông ta làm như chị là một loại gián điệp quốc tế ấy!
- Loại câu hỏi nào vậy - Edward chất vấn.
- Ồ anh biết đấy. Chị ấy có phải là một người Mỹ trung thành không? Chị ấy có phải là một người vợ và một người mẹ tốt không? Chị ấy có dùng ma tuý không?
- Tại sao họ lại hỏi bà những câu hỏi quỷ quái như thế nhỉ?
- Đợi một phút đã, - Mary lên tiếng một cách khích động. - Tôi nghĩ rằng tôi biết. Đấy là về nhiệm kỳ của tôi!
- Gì thế? - Florence hỏi.
- Tôi đang có nhiệm kỳ tại Trường đại học. Trường đại học làm một số công việc nghiên cứu bén nhạy của chính phủ trên khu đại học, do đó, tôi cho rằng họ phải kiểm tra mọi người thật kỹ.
- À Cám ơn Chúa vì chỉ có từng ấy! - Florence Schiffer thở một hơi nhẹ nhõm. - Tôi nghĩ rằng họ sẽ bắt giam chị đấy chứ!
- Tôi hy vọng họ làm thế, - Mary mỉm cười. - Tại tiểu bang Kansas.
- Nào, giờ thì việc ấy đã xong! - Douglas Schiffer lên tiếng, - ta có thể tiếp tục chơi nữa không? - Chàng quay sang vợ. - Nếu em còn nhầm thêm một con bài, anh sẽ đặt em lên đầu gối của anh đấy!
- Xin hứa. Xin hứa.


Chương 5



ABBEGOOD, ANH.


- Chúng ta họp theo những luật lệ thông thường, - vị chủ toạ loan báo. Chẳng có hồ sơ nào được giữ lại, cuộc họp này sẽ không bao giờ được mang ra thảo luận và chúng ta gọi nhau bằng những mật danh mà chúng ta đã đặt!
Có tám người đan ông trong thư viện của lâu đài Claymore thuộc thế kỷ 15. Hai người võ trang mặc thường phục, khoác lên người nước chiếc áo khoác dày, cảnh giới bên ngoài; trong lúc một người thứ ba canh tại cửa ra vào thư viện. Tám người bên trong căn phòng đã đến điểm họp riêng rẽ, sớm hơn một cuộc đảo chính chống lại Alexandros Ionescu. Một nhóm sĩ quan quân đội kỳ cựu tại Rumani đã quyết định ủng hộ Groza.
Lần này rất có thể ông ta sẽ thành công.
Odin lên tiếng.
- Việc ấy sẽ ảnh hưởng gì đến kế hoạch của chúng ta?
- Nó sẽ huỷ diệt kế hoạch của chúng ta. Nó sẽ mở ra quá nhiều chiếc cầu sang phương Tây.
Freyr nói:
- Vậy thì chúng ta phải ngăn chặn việc ấy xảy ra.
- Cách nào? - Balder hỏi.
- Chúng ta ám sát Groza, - chủ toạ đáp.
- Không thể được. Người của Ionescu đã nỗ lực nhiều!ần như chúng ta đã biết và họ đều thất bại. Biệt thự của ông ta hình như là bất khả xâm phạm. Dù sao thì chẳng có ai trong phòng này có thể chịu dính líu vào một nỗ lực ám sát cả.
- Chúng ta sẽ không trực tiếp can dự vào, - vị chủ toạ lên tiếng.
- Vậy làm cách nào?
- Ngài chủ sự phát hiện được một hồ sơ mật đề cập đến một kẻ khủng bố quốc tế để thuê.
- Abul Abbas, người đã tổ chức cướp chiếc Achille Lauro?
- Không. Thưa các ngài có một tay súng mới. Một tay súng hay hơn. Tên hắn là Agel.
- Chưa bao giờ nghe đến hắn, - Sigmund nói.
- Đúng. Uỷ nhiệm thư của hắn gợi cảm nhất. Theo hồ sơ của ngài chủ sự, Agel đã dính líu vào cuộc ám sát Sikh Khalistan Ấn Độ. Hắn đã giúp bọn khủng bố Macheteros tại Puerto Rico, và bọn Khmer đỏ tại Campuchia. Hắn đã đạo diễn cuộc ám sát nửa tá sĩ quan quân đội tại Isarel và người Isarel đã trao giải thưởng một triệu đô-la cho mạng hắn, chết hoặc bắt sống.
- Hắn có vẻ hứa hẹn đấy, - Thor nói. - Chúng ta có thể thuê được hắn không?
- Hắn đắt giá. Nếu hắn đồng ý hợp đồng, chúng ta sẽ phải tốn mất hai triệu đô-la.
Freyr huýt gió, rồi nhún vai.
- Việc ấy có thể thu xếp được. Chúng ta sẽ lấy số tiền ấy ở tổng quỹ mà chúng ta đã thiết lập.
- Làm sao chúng ta có thể tiếp xúc tay Angel này? - Sigmund lên tiếng hỏi.
- Mọi liên lạc với hắn đều được thực hiện qua trung gian bà chủ của hắn, một người phụ nữ tên là Neusa Munez.
- Chúng ta tìm mụ ấy ở đâu?
- Mụ sống tại Arhentina. Angel đã bố trí cho mụ ở một căn phòng tại Buenos Aires.
Thor lên tiếng:
- Bước kế tiếp sẽ là gì? Ai sẽ tiếp xúc mụ cho chúng ta?
Vị chủ toạ đáp:
- Ngài chủ sự đề nghị một người đàn ông tên là Harry Lantz.
- Tên ấy nghe quen đấy!
Vị chủ toạ lạnh lùng nói:
- Vâng, hắn có tên trên báo. Harry Lantz là một người hoạt động độc lập. Hắn đã bị loại khỏi CIA vì đã thiết lập việc buôn bán ma tuý riêng tại Việt Nam. Hắn là một kẻ móc nối tuyệt vời … - Ông dừng lại. - Tôi đề nghị chúng ta biểu quyết. Ai tán thành việc mướn Angel xin vui lòng giơ tay.
Tám cánh tay được chăm sóc kỹ lưỡng giơ lên không.
- Vậy là xong. - Vị chủ toạ đứng dậy. - Cuộc họp đình lại. Xin vui lòng thận trọng như thường lệ!
***
Vào một ngày thứ hai, cảnh sát Leslie Hanson đi cắm trại trong nhà kính trên khu đất của lâu đài nơi anh ta không có quyền có mặt. Anh ta không đi một mình, sau này, anh ta phải giải thích với thượng cấp. Thời tiết ấm áp trong nhà kính và bạn gái của anh ta, Annie, một cô gái quê tròn trĩnh, đã thuyết phục được tay cảnh sát tốt bụng mang theo hòm mây đựng đồ cắm trại.
- Anh mang thức ăn, - Annie cười rúc rích, - Và em sẽ mang đồ tráng miệng.
Đồ tráng miệng cao 1m70 với bộ ngực và đôi mông nẩy nở đẹp tuyệt mà một đàn ông có thể cắn vào. Không may, giữa khi dùng món tráng miệng, sự tập trung của cảnh sát Hanson bị xao lãng vì một chiếc xe hòm đang chạy ra cổng toà lâu đài.
- Địa điểm đẫm máu này lẽ ra phải đóng cửa vào những ngày thứ hai, - anh ta lẩm bẩm.
- Đừng rời vị trí của anh nhé, - Annie tán tỉnh.
- Không đâu, cưng.
Hai mươi phút sau, viên cảnh sát nghe một chiếc xe thứ hai ra đi. Lần này anh ta khá tò mò lên đứng dậy và lén nhìn ra cửa sổ tối để che giấu các hành khách bên trong.
- Nào, tỉnh lại chưa Leslie?
- Rồi. Có điều anh không thể đoán ra ai có thể ở trong lâu đài. Trừ những ngày tham quan, nó đóng cửa liên tục.
- Y như điều sẽ xảy ra cho em đây, cưng ơi, nếu anh không cỡi lên nó.
Hai mươi phút sau, khi viên cảnh sát nghe chiếc xe thứ ba ra đi, dục tình của anh ta đã nhường chỗ cho bản năng cảnh sát. Còn năm chiếc nữa, đều là xe hòm, tất cả đều cách nhau hai mươi phút. Vì một trong những chiếc xe dừng lại một lúc đủ cho một con nai băng qua nên cảnh sát Hanson có đủ thời gian để ghi số đăng ký xe.
- Lẽ ra ngày đẫm máu của anh, anh phải nghỉ chứ, - Annie than vãn.
- Việc này có thể quan trọng đấy, - viên cảnh sát nói. Và ngay cả lúc lão nói, lão băn khoăn có nên báo cáo không.
- Anh đang làm gì ở lâu đài Claymore? - Trung sĩ Twill lên tiếng hạch hỏi.
- Ngắm cảnh, thưa ngài!
- Lâu đài đóng cửa mà.
- Vâng, thưa ngài. Nhà kính mở cửa!
- Vậy là anh quyết định ngắm cảnh trong nhà kính à?
- Vâng, thưa ngài.
- Một mình, dĩ nhiên chứ?
- À, thực ra…!
- Hãy bỏ giùm tôi những chi tiết lố bịch đi, ông cảnh sát. Điều gì làm anh nghi ngờ những chiếc xe nào?
- Tư cách của họ, thưa ngài.
- Các chiếc xe không có tư cách, Hanson. Tài xế đấy!
- Dĩ nhiên, thưa ngài. Các tài xế có vẻ rất thận trọng. Các xe bỏ đi từng hai mươi phút một.
- Anh biết rằng, dĩ nhiên, có thể có cả nghìn lời giải thích ngây thơ. Thực ra, người duy nhất hình như không có một lời giải thích ngây thơ chính là anh đấy.
- Vâng thưa ngài. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi nên báo cáo việc này.
- Đúng. Đây có phải là số đăng ký mà anh có được không?
- Vâng, thưa ngài.
- Rất tốt. Cút đi. - Ông ta nghĩ đến một câu nhận xét tế nhị để thêm vào. - Hãy nhớ ném đá vào người ta là điều nguy hiểm nếu anh đang ở nhà kính đấy. - Ông ta cười khúc khích với trò chơi chữ của ông ta suốt buổi sáng.
Khi báo cáo về số đăng ký trở về, Trung sĩ Twill quyết định rằng Hanson đã phạm sai lầm.
Ông ta đưa bản tin lên lầu cho Thanh tra Pakula và giải thích về hậu trường.
- Lẽ ra tôi không nên làm ngài bận tâm đến việc này, thưa ngài thanh tra, nhưng số đăng ký xe…
- Vâng, tôi biết. Tôi sẽ lo việc ấy?
- Cám ơn ngài.
Tại tổng hành dinh, thanh tra Pakula có một cuộc họp ngắn ngủi với một trong những xếp kỳ cựu của Cơ quan tình báo mật Anh, một con người có khuôn mặt hồng hào, rắn chắc. Ngài Alex Hyde-White.
- Ông hoàn toàn có lý khi đưa việc này vào sự chú ý của tôi, - Ngài Alex mỉm cười, - Nhưng tôi e rằng chẳng có gì e ngại hơn bằng tìm cách thu xếp một chuyến nghỉ hè cho Hoàng gia mà không cho báo chí biết.
- Tôi tiếc là đã làm phiền ngài về chuyện này, thưa ngài. - Thanh tra Pakula đứng dậy.
- Chẳng phiền tí nào cả, thanh tra. Việc ấy tỏ ra là ngành của ông nhanh nhẹn đấy. Ông nói tên của tay cảnh sát trẻ ấy là gì?
- Hanson, thưa ngài. Leslie Hanson.
Khi cánh cửa đóng lại sau lưng thanh tra Pakula, ngài Alex Hyde-White nhấc điện thoại đỏ trên bàn giấy lên.
- Tôi có một công điện cho Balder. Chúng ta có một vấn đề nhỏ. Tôi sẽ giải thích vào cuộc họp kế tiếp. Đồng thời, tôi muốn ngài thu xếp ba cuộc thuyên chuyển. Trung sĩ Leslie Hanson. Hãy rải họ ra ít ngày. Tôi muốn đưa họ ra vị trí riêng rẽ, càng xa London càng tốt. Tôi sẽ báo cho ngài chủ sự và xem thử nếu ngài muốn hành động gì thêm không.
***
Trong phòng khách sạn của mình tại New York, Harry Lantz thức giấc nửa đêm vì chuông điện thoại reo.
- Ai mà biết được mình ở đây kìa? - hắn tự hỏi.
Hắn nhìn vào chiếc đồng hồ lờ mờ trên giường rồi chộp lấy điện thoại. - Mới bốn giờ sáng mà? Ai…?
Một giọng nói nhẹ nhàng ở đầu dây kia bắt đầu nói và Lantz ngồi đơ trên giường, tim hắn bắt đầu đập mạnh.
- Vâng thưa ngài, - hắn nói. - Vâng, thưa ngài… Không, thưa ngài, nhưng tôi có thể thu xếp để được rảnh. - Hắn lắng nghe một lúc lâu. Cuối cùng hắn nói, - Vâng, thưa ngài, tôi hiểu. Tôi sẽ đáp chuyến phi cơ thứ nhất đi Buenos Aires. Cám ơn ngài.
Hắn gác ống nghe, với tay đến chiếc bàn bên giường và đốt một điếu thuốc. Tay hắn run rẩy.
Người mà hắn vừa nói chuyện là một trong những người có thế lực nhất thế giới và điều ông ta đề nghị Harry làm…
- Việc quái quỷ gì đây? - Harry Lantz tự hỏi. - Một việc gì to lớn đây. Người đàn ông sẽ trả hắn một số tiền 50.000 đô-la để chuyển giao một bức điện. Trở lại Arhentina là một điều vui đây Harry Lantz thích phụ nữ Nam Mỹ.
Lúc 9 giờ sáng, Lantz nhấc điện thoại và quay số Hàng không Arhentina.
- Chuyến bay đầu tiên của các ông đến Buenos Aires mấy giờ?
Chiếc 747 đến sân bay Ezeiza, Buenos Aires lúc năm giờ chiều ngày hôm sau. Chuyến bay dài giờ nhưng Harry Lantz không quan tâm.
- 50.000 đô-la để chuyển một bức điện. - Hắn cảm thấy một sự hưng phấn nổi lên khi bánh máy bay nhẹ nhàng chạm đất. Hắn không đến Arhentina đã gần năm năm rồi. Gặp lại những người quen cũ thật là thú vị.
Trong lúc Lantz bước ra khỏi phi cơ, một luồng không khí nóng làm hắn giật mình mất một lúc. Dĩ nhiên ở đây là mùa hè.
Trên taxi vào thành phố, Lantz thích thú vì những hàng chữ graffito nguệch ngoạc trên tường các toà nhà và các vỉa hè đã không có gì thay đối.
Plebiscito las pelotas Phổ thông đầu phiếu, Militares Asesinos quân đội, bọn sát nhân, Tennemos hambre Chúng tôi đói, Marihuana na libre Cần sa giải thoát, Droga, sexo y muncho rock Ma tuý, dục tình và rock-and-roll, Juicio y castigo a los culpables Xét xử và trừng phạt bọn tội phạm.
Vâng, trở lại đây thật là hay.
Sau giấc ngủ trưa đường phố nhộn nhịp với những người uể oải bước đi tới lui các điểm hẹn.
Khi chiếc taxi đến khách sạn El Conquistador tại trung tâm khu vực Barrio Norte hợp thời trang, Lantz trả tài xế bằng một tờ bạc một triệu peso.
- Hãy giữ lại tiền thối, - hắn nói. Tiền của họ là một trò đùa.
Hắn đăng ký tại một bàn giấy trong một hành lang hiện đại, rộng lớn, nhặt một tờ Buenos Aires Herald và Lantz Prensa và để người phụ tá giám đốc chỉ cho hắn dãy phòng của mình. 60 đô-la một ngày cho một phòng ngủ, buồng tắm, phòng khách và nhà bếp có gắn điều hoà không khí và truyền hình. Tại Washington, cơ sở này phải tốn mất một cánh tay và một cái giò, Harry nghĩ thế. Cả ngày mai mình sẽ lo công chuyện Neusa này và ở lại ít ngày hưởng lạc.
Phải mất hơn hai tuần lễ, Harry Lantz mới có thể theo dõi tung tích của Neusa Munez.
Cuộc tìm kiếm của hắn bắt đầu với các sổ niên giám điện thoại của thành phố. Lantz bắt đầu với các địa điểm tại trung tâm thành phố: Khu vực Constitucion, Plaza San Martin, Barri Norte, Catalinas Norte. Chẳng nơi nào có tên Neusa Munez cả. Cũng chẳng có tên này tại những khu vực ven Bahia Blanca hoặc Mar del Plaza.
- Mụ ta ở đâu kìa? - Lantz tự hỏi. Hắn xuống phố, tìm những nơi liên lạc cũ.
Hắn đi vào Lantz Biela và người chủ quán rượu kêu to:
- Seno Lantz! Por dios. Tôi nghe ông đã chết rồi mà.
Lantz cười toe toét.
- Đúng đấy, nhưng tôi nhớ ông quá, Antonio, nên tôi trở lại.
- Ông định làm gì ở Buenos Aires thế?
Giọng của Lantz ra vẻ suy tư.
- Tôi đến đây tìm một người bạn gái cũ. Chúng tôi định lấy nhau, nhưng gia đình nàng đã chuyển đi và tôi mất dấu nàng. Tên nàng là Neusa Munez.
Người chủ quán rượu lắc đầu. - Chưa bao giờ nghe đến tên nàng ta. Lo siento 1.
Lần dừng chân của Lantz là chỗ một người bạn tại Bộ tư lệnh cảnh sát.
- Lantz! Harry Lantz! Dios! Qué pasa? 2
- Chào Jorge. Thật là hay được gặp lại cậu.
- Lần cuối cùng tôi nhận được tin cậu, CIA đã đuổi cậu đi!
Harry Lantz cười.
- Không phải thế, bạn tôi ơi. Họ năn nỉ tôi ở lại. Tôi bỏ đi để theo đuổi công việc cho riêng tôi đấy? - Tôi đã mở rộng văn phòng thám từ tư. Do vậy, việc ấy đã đưa tôi đến Buenos Aires. Một thân chủ của tôi chết ít tuần trước. Ông ta để lại cho con gái một số tiền và tôỉ đang tìm cách tìm ra chỗ ở của nàng. Tất cả tin tức tôi có được về nàng là nàng đang sống tại một căn phòng đâu đấy tại Buenos Aires.
- Tên nàng là gì?
- Neusa Munez.
Một lúc kéo dài đến nửa tiếng.
- Rất tiếc, anh bạn. Tôi chẳng giúp cậu được. Nàng không có tên trong máy điện toán của chúng tôi hoặc bất cứ hồ sơ nào của chúng tôi cả.
- Ồ, thôi. Nếu cậu có tin tức nào về nàng ta, báo cho tôi đang ở El Conquistador đấy.
- Được!
Kế tiếp là các quán rượu, các nơi lui tới quen thuộc cũ. Pepe gonzalez và Almeida, Café Tabac.
- Buenas tardes, amigo. Soy de los Estados Unidos. Estoy buscando una mujier. El nombre es neu Munez. Es una emergencia!3.
- Lo siento, senor. No Lantz conozco4.
Khắp nơi, câu trả lời cũng vậy thôi. Chẳng một ai từng nghe đến mụ khỉ gió ấy.
Harry Lantz lang thang quanh Lantz Boca, khu vực bến cảng màu sắc rực rỡ, nơi mà người ta có thể trông thấy những chiếc tàu cũ kỹ bỏ neo rỉ sét trên sông. Chẳng một ai quanh đấy biết về Neusa Munez. Lần đầu tiên, Harry Lantz bắt đầu cảm thấy mình có thể đang đi săn ngỗng hoang.
Chính tại Pilar, một quán rượu nhỏ trong những quán rượu vùng Flores, mà dịp may đột nhiên đến với hắn. Đấy là một đêm thứ sáu và quán rượu đông nghịt thợ thuyền. Lantz phải mất mười phút để gây sự chú ý cho chủ quán. Lantz vừa nói được một lúc bài diễn văn đã chuẩn bị sẵn thì người chủ quán lên tiếng
- Neusa Munez à? Có. Tôi biết mụ ta. Nếu mụ ta muốn nói chuyện với ông, mụ sẽ đến đây ngày mai, vào khoảng nửa đêm.
Chiều hôm sau, Harry Lantz quay trở lại Pilar lúc 11 giờ, thấy quán rượu dần dần đông nghịt người. Càng về nửa đêm, hắn càng cảm thấy bồn chồn. Nếu mụ không đến thì sao nhỉ?
Lantz quan sát lúc một nhóm phụ nữ trẻ cười rúc rích bước vào quán. Họ nhập bọn với một số đàn ông tại một chiếc bàn.
- Mụ phải lộ mặt ra, - Lantz nghĩ thế! - Nếu nàng ta không đến, mình có thể hôn từ giã món 50.000 ấy là vừa.
Hắn tự hỏi liệu mụ ta trông thấy như thế nào. Mụ phải là một con người kỳ quặc. Hắn được quyền đề nghị với bạn trai của mụ, Angel, một số tiền là hai triệu đô-la chẵn để ám sát một người nào đấy vậy là có lẽ Angel sẽ ngồi trên đống bạc triệu.
Hắn rất có thể sẽ kiếm được một bà chủ trẻ đẹp. Quả thật, có lẽ hắn có thể kiếm được cả tá. Mụ Neusa này phải là một cô đào hoặc một người mẫu.
- Ai biết được, có thể mình có thể đùa với nàng một tí trước khi mình rời thành phố. Chẳng có gì khoái bằng vừa làm việc vừa hưởng lạc, - Harry Lantz suy nghĩ khoái trá.
Cánh cửa mở ra và Lantz nhìn lên chờ đợi. Một người phụ nữ đang bước đi một mình. Nàng là một người trung niên và không hấp dẫn gì với một tấm thân phì nộn và bộ ngực to đùng lúc lắc theo mỗi bước đi. Mụ có cái mặt rỗ, mái tóc nhuộm hoe nhưng nước da đen của mụ chứng tỏ dòng máu lai thừa hưởng được của một tổ tiên người Indien đã ăn nằm với một người Tây Ban Nha. Mụ mặc một chiếc váy không thích hợp và một chiếc áo thun chỉ hợp với một phụ nữ trẻ hơn nhiều.
- Một kẻ móc câu vào sự may mắn của mụ! - Lantz quả quyết như thế.
Nhưng tên quái nào muốn "đi" với mụ thế?
Người phụ nữ nhìn quanh quán rượu bằng đôi mắt lờ đờ hoang vắng. Mụ gật đầu bơ thờ với nhiều người rồi chen qua đám đông. Mụ bước đến quầy rượu.
- Hắn mua cho tôi một cốc rượu chứ? - Mụ nói giọng Tây Ban Nha nặng và càng tới gần, mụ càng thiếu hấp dẫn hơn.
Mụ ta trông như một con bò cái mập ú, không được vắt sữa - Lantz nghĩ thế - và mụ đã xỉn.
- Chị nhầm rồi chị ơi.
- Esteban nói rằng ông đang tìm tôi, không phải à?
Hắn nhìn mụ chăm chú.
- Ai thế?
- Esteban. Chủ quán.
Harry Lantz vẫn không thể chấp nhận.
- Có lẽ ông ta đã lầm. Tôi đang tìm Neusa Munez.
- Đúng rồi. Tôi là Neusa Munez.
- Nhưng không đúng người này, - Harry Lantz nghĩ thế. Thây kệ - Bà là bạn của Angel à?
Mụ cười chếnh choáng.
- Đúng rồi.
Harry Lantz bình tĩnh lại nhanh chóng.
- Được rồi. - Hắn gượng gạo mỉm cười. - Chúng ta có thể tìm một chiếc bàn trong góc nói chuyện không?
Mụ gật đầu lãnh đạm.
- Được.
Họ rẽ lối qua quán rượu nồng nặc khói thuốc và khi họ ngồi xuống, Harry Lantz lên tiếng.
- Tôi thích nói chuyện về…
- Ông mua cho tôi một cốc rum chứ?
Lantz gật đầu.
- Hẳn rồi.
Một người hầu bàn xuất hiện, mặc một chiếc tạp dề bẩn thỉu. Lantz nói.
- Một cốc rum, một cốc Scotch pha soda.
Mubez nói:
- Làm cho tôi một cốc đúp, hả?
Khi người hầu bàn bỏ đi, Lantz quay sang người phụ nữ ngồi bên cạnh:
- Tôi muốn gặp Angel.
Mụ nhìn chăm chú bằng đôi mắt buồn ướt át.
- Để làm gì?
Lantz hạ thấp giọng.
- Tôi muốn có một món quà nhỏ cho ông ấy!
- Vậy à? Loại quà gì thế?
- Hai triệu đô-la!
Rượu được mang đến. Harry nâng ly nói:
- Khoái chứ?
- Vâng. - Mụ nốc cạn ly một hơi. - Ông muốn cho Angel hai triệu đô-la để làm gì?
- Đây là điều tôi thảo luận ngay với chính ông ấy.
- Không thể được. Angel, ông ấy không nói chuyện với ai cả.
- Bà ơi, vì hai triệu đô-la!
- Tôi muốn uống một ly rum nữa. Một ly đúp chứ?
Chúa ơi, mụ ta có vẻ như sắp ngất đi.
- Hẳn rồi! - Lantz gọi hầu bàn và gọi ly rượu. - Bà đã biết Angel lâu rồi chứ? - Giọng hắn ra vẻ vô tình.
Mụ nhún vai.
- Vâng!
- Hẳn ông ấy là một người thú vị.
Đôi mắt trống vắng của mụ chăm chú vào một điểm trên bàn đối diện.
- Chúa ơi! - Harry Lantz nghĩ - Coi bộ muốn nói chuyện với một bức tường quái quỷ đây.
Ly rượu của mụ đến và mụ uống cạn bằng một hơi dài.
Mụ có thân hình của một con bò cái và tư cách của một con heo.
- Làm thế nào tôi có thể nói chuyện sớm với Angel?
Neusa Munez cố gắng đứng dậy.
- Tôi đã bảo ông rồi, ông ta không nói chuyện với ai cả. Vĩnh biệt.
Harry Lantz đột nhiên tràn đầy kinh hãi:
- Này. Chờ một phút! Đừng đi.
Mụ dừng lại và nhìn xuống hắn bằng đôi mắt lờ đờ:
- Ông muốn gì?
- Ngồi xuống đi, - Lantz chậm rãi nói, - và tôi sẽ nói cho bà biết tôi muốn gì?
Mụ nặng nhọc ngồi xuống.
- Tôi cần một ly rum, hả?
Harry Lantz hoang mang:
- Tên Angel này là loại người quỷ gì thế? Bà chủ của hắn chẳng những là con đĩ xấu xí nhất cả Nam Mỹ mà còn là một con mẹ nát rượu nữa?
Lantz không thích giao dịch với những người say. Họ thật không dám tin tưởng. Mặt khác, hắn ghét ý nghĩ tuột mất sự mệnh giá 50.000 đô-la. Hắn nhìn Munez uống rượu. Hắn tự hỏi mụ đã uống bao nhiêu rồi trước khi đến gặp hắn.
Lantz mỉm cười, và nói lý lẽ:
- Neusa, nếu tôi không thể nói chuyện với Angel, làm sao tôi có thể giao dịch với ông ấy được?
- Đơn giản thôi. Ông bảo tôi ông cần gì. Tôi bảo lại Angel. Nếu ông ta bảo được, tôi bảo ông được. Nếu ông ta bảo không, tôi bảo ông không?
Harry Lantz không tin tưởng dùng mụ làm trung gian, nhưng hắn không còn cách lựa chọn nào khác.
- Bà có nghe về Marin Groza không?
- Không!
Dĩ nhiên là mụ không biết. Vì đấy không phải là tên một chai rượu rum. Con chó cái ngu xuẩn này sẽ nhận sai hoàn toàn bức điện và làm hại cả công việc cho hắn.
- Tôi cần một ly rượu, hả?
Hắn đập vào bàn tay mập của nàng.
- Hẳn rồi.
Hắn gọi một ly đúp nữa.
- Angel sẽ biết Groza là ai. Bà chỉ việc nói với Marin Groza. Ông ấy sẽ biết.
- Vâng. Rồi gì nữa?
Mụ còn ngốc nghếch hơn cả vẻ mặt của mụ. Mụ nghĩ rằng Angel sẽ phải làm cái quỷ quái gì vì hai triệu đô-la hả? Hôn người ấy à? Harry thận trọng lên tiếng.
- Những người đưa tôi đến đây muốn nhổ lão đi!
Mụ chớp mắt.
- Nhổ đi là gì?
- Chúa ơi! Giết!
- Ồ! Mụ gật đầu một cách lãnh đạm. - Tôi sẽ hỏi Angel - Giọng mụ bắt đầu còn líu lo hơn nữa. Ông nói tên người đàn ông là gì?
Hắn muốn lay người mụ.
- Groza. Marin Groza.
- Vâng. Chàng của tôi đã ra khỏi phố. Tối nay tôi sẽ gọi anh ấy và sẽ gặp ông ở đây ngày mai. Tôi có thể uống một ly rum nữa chứ?
Neusa Munez đã trở thành một cơn ác mộng.
***
Chiều hôm sau, Harry Lantz vẫn ngồi chiếc bàn ấy trong quán rượu từ nửa đêm đến bốn giờ sáng khi quán rượu đóng cửa. Munez không xuất hiện.
- Ông có biết bà ấy sống ở đâu không? Lantz hỏi chủ quán.
Người chủ quán nhìn hắn bằng đôi mắt ngây thơ.
- Quien sabe?5
Con chó cái đã làm rối tung mọi việc. Làm sao một người đàn ông được coi là tinh ranh như Angel có thể mắc câu vì một con ngốc nghếch uống rượu rum như thế nhỉ? Harry Lantz tự hào là một đấu thủ nhà nghề. Hắn đã quá khéo léo để bước vào một công việc như thế này mà không chịu kiểm tra trước. Hắn đã cẩn thận dò hoi và tin tức đã gây xúc động cho hắn nhất là người Isarel đã treo đầu của Angel với giá một triệu đô-la. Một triệu đô-la sẽ mua được một cuộc đời trị giá bằng những cuộc say sưa và những cô nàng cắn câu trẻ tuổi. Mà thôi, hắn có thể quên đi việc ấy và hắn có thể quên đi 50.000 đô-la của hắn. Sợi dây liên lạc duy nhất của hắn với Angel đã bị đứt. Có lẽ hắn phải gọi cho người ấy và bảo ngài rằng hắn đã thất bại.
Mình sẽ không gọi ông ấy vội, Harry Lantz quyết định. Có thể mụ sẽ trở lại đây. Có lẽ những quán rượu khác sẽ hết rượu rum. Có lẽ mình sẽ bị đá đít vì đã đồng ý với công tác quái quỷ này.

Chú thích:
1 Tiếng Tây Ban Nha: xin lỗi.
2 Tiếng Tây Ban Nha: Lạy chúa, chuyện gì vậy?
3 Tiếng Tây Ban Nha: Chào bạn. Tôi từ Mỹ đến. Tôi đang tìm một phụ nữ. Tên bà ta là Neusa Munez. Đây là một công việc đột xuất
4 Tiếng Tây Ban Nha: Thưa ông, rất tiếc, tôi không biết bà ta.
5 Tiếng Tây Ban Nha: Ai mà biết được?


Nguồn: http://www.sahara.com.vn/