17/4/13

Cô đơn trên mạng (C7-8)

Chương 7

ANH : Ngày cuối cùng của anh ở New Orleans đã kết thúc. Mai anh sẽ bay đi New York.
Ở đó sẽ chỉ còn một đêm và một ngày rưỡi nữa thôi. Hơn nữa, ở New York thời gian trôi nhanh hơn nhiều - anh nghĩ với tâm trạng tuyệt vời trong lúc ngồi đợi suất cà phê sáng bên chiếc bàn được đặt ngoài sân trời cạnh bể bơi của khách sạn.
Sau New York là Paris, còn ở Paris là cô. Cái mà anh cảm nhận lúc này khi nghĩ về cô là một nỗi buồn nhè nhẹ của nỗi nhớ, giống như sự căng thẳng và nóng lòng của đứa trẻ đang đợi cho bữa tối Giáng sinh kết thúc, để cuối cùng thì nó cũng được mở những gói quà dưới cây Noel kia. Chỉ cần phải làm sao để qua được bữa tối này và sau đó thì …
Hôm nay anh đã làm, không hề cảm thấy lương tâm bị cắn rứt, thậm chí còn với sự hài lòng thực thụ, hai việc, mà trong bất kỳ tình huống nào cũng không thích hợp với "một người làm khoa học" có trách nhiệm.
Thứ nhất, khoảng gần trưa, trước bữa cơm, anh đã chuồn khỏi phòng họp mờ tối nơi đang diễn ra phiên họp của anh mà không để ai biết để chạy sang tòa nhà cạnh trung tâm hội nghị. Anh nhất thiết phải được nghe bài thuyết trình của một nhà hóa-sinh học trẻ tuổi của viện nghiên cứu ở La Jolla gần San Diego. Anh đã gặp phải ý niệm trừu tượng của bài thuyết trình này một cách tình cờ trong khi nghiên cứu các tài liệu của hội nghị khi đang ngồi ăn sáng. Và nó lập tức khiến anh chú ý. Cái mà con người trẻ tuổi này với cái họ nghe rất điện ảnh Janda khẳng định, quả là một phát hiện đáng kinh ngạc. Bởi anh ta trình bày rằng, anh ta và Viện của anh ta đang đi trên con đường tốt nhất đến việc chế tạo ra vắc-xin phòng nghiện ma tay cho con người!
Janda không thể tìm cho mình một địa điểm tốt hơn để thông báo cho thế giới biết về phát minh của mình - anh nghĩ.
Ngoài ra thì những gì nhà khoa học trẻ này nói, quả là đẹp tuyệt vời trong sự giản dị của anh, đến mức anh thấy sởn cả gai ốc khi nghe anh ta trong cái phòng chật không còn một chỗ trống ấy. Mọi người cảm thấy đây thực sự là bài thuyết trình quan trọng nhất tại hội nghị này.
Anh không thể chờ để kể hoặc viết cho cô về điều này được nữa. Cô chia sẻ niềm say mê và nhiệt tình của anh bằng sự thông minh của mình như chưa một ai cho đến lúc này có thể. Ngoài ra, cô còn không xấu hổ vì mình không biết, sự tò mò và đòi hỏi bướng bỉnh của cô muốn hiểu tất cả đã khiến anh - vì buộc phải giải thích - nhìn rất nhiều vấn đề từ góc độ khác.
Cocain là một phân tử quá nhỏ để các bộ lọc của hệ miễn dịch của con người có thể ghi nhận nó và tống khứ như với một vị khách không mời. Không bị vào sổ, nó thâm nhập vào hệ thần kinh mà không gặp trở ngại gì. Hệ miễn dịch "không được thông báo" về cuộc đột nhập nên không cử bất cứ một kháng thể nào có thể chiến đấu với nó. Song nếu "treo" cocain lên những protein đủ lớn - và đây chính là ý tưởng thiên tài của Janda và nhóm của anh ta - thì hệ miễn dịch sẽ nhận biết được vật lai này như là kẻ thù và sẽ dùng kháng thể để tiêu diệt trước khi cocain đến được não. Janda khẳng định rằng hiện tại anh ta mới chỉ thành công việc này trên chuột và buộc hệ miễn dịch của chúng tạo ra kháng thể tiêu diệt cocain được định vào những protein lớn trước khi nó đến được các bộ thu nhận của nơtơron thần kinh trong não. Những kháng thể như vậy được tạo ra như một phản ứng của cơ thể đối với, ví dụ như sự có mặt của vắc-xin. Janda đã tiêm vắc-xin được chế tạo trong Viện của anh ta cho chuột rồi sau đó cho chúng cocain. Cocain không đến được các bộ thu nhận trên các nơtơron thần kinh trong não của các con chuột trong phòng thí nghiệm, và kết quả là chúng không cắn lẫn nhau. Đó là bằng chứng tốt nhất về tác dụng của vácxin, bởi những con chuột được tiêm cocain đều biến thành quái vật. Thực ra thì chả cứ gì chuột. Chó cũng hay bị kích động để đánh nhau bằng cocain.
Janda khẳng định rằng việc chế tạo ra loại vắc-xin như vậy đối với con người chỉ còn là vấn đề thời gian.
Vào thời điểm ấy anh không thể không nghĩ đến Jim. Và cả về mình và cuộc mạo hiểm với cocain. Khi ấy, hơn một chục năm trước đây, ở một khu vực khác của thành phố này, khi đã có cocain trong máu, đôi khi anh phân vân trước cơ chế hoạt động của nó. Cái mà nhà hóa học trẻ kia nghĩ ra, đặc biệt là các bộ thu nhận ở các tế bào thần kinh – các nơtơron thần kinh trong não, thỉnh thoảng cũng xuất hiện trong đầu anh. Những bộ thu nhận ấy ở các nơtơron - giống như là ổ khóa của não. Khi chìa không vừa, thì không gì có thể lọt vào trong được. Trừ khi dù nhỏ như phân tử cocain, là loại có thể đi qua bất cứ lỗ nào một cách dễ dàng. Khi ấy, ở Tulan, anh đã biết rõ cơ chế này. Nhưng chưa bao giờ anh có ý nghĩ là sẽ tăng kích cỡ của chìa khóa lên đến mức không vừa được với ổ khóa. Janda khôn ngoan đã nghĩ ra.
Ngoài ra, khi trong phòng hội nghị, "các bộ thu nhận ở các nơtơron" được trình bày rõ ràng, anh lại nhớ tới câu chuyện vô cùng buồn của nữ nghiên cứu sinh trẻ, Candace Pert ở Đại học Tổng họp Georgetown của Washington. Jim cũng biết chuyện này. Kể từ ngày anh kể cho gã nghe chuyện, bao giờ Jim cũng uống một lượt cho "Candace Pert, người phụ nữ biết rất rõ điều xảy ra phía sau màng nhầy".
Chính Candace Pert, trong những năm tám mươi khi nghiên cứu vế cơ chế hoạt động của morphin, rất có công trong cuộc chiến chống lại sự đau đớn, ngay khi còn là sinh viên đã phát hiện ra rằng, trên bề mặt của các notơron có những điểm, mà hình thù và kích cỡ của chúng phù hợp với phân tử morphin. Như thể chìa với ổ khóa. Morphin vào được tế bào chính là qua các điểm này. Và chính bằng cách này mà cơn đau dịu đi.
Từ đâu mà có vẻ như các nơron có cho riêng mình chìa khóa để đến một morphin nào đấy? Tại sao cơ thể lại chuẩn bị cho mình một ổ khóa, mà sự tồn tại chìa của nó lại không thể biết trước? Hay có thể tồn tại những hợp chất giống với morphin về mặt cấu trúc và hoạt động, được tạo nên bên trong cơ thể? Có. Đương nhiên là có. Cũng như morphin, chúng làm dịu cơn đau, tác động lên tâm trạng, tạo nên cảm giác dễ chịu, đôi khi thậm chí là phởn phơ. Chúng có tên là en-dorphin "nội morphin". Hiểu vấn đề này một cách tính ảnh, có thể nói rằng cực khoái, đó chính là sự nhấn chìm não trong các endorphin. Thực ra thì sự sợ hãi của kẻ tử tù ngay trước lúc thi hành án trên ghế điện cũng y như vậy. Trái với vẻ bên ngoài, trong cả hai trường hợp, thành phần hóa học của các hợp chất trong não là như nhau.
Ít người biết rằng, từ phát hiện của Candace Pert đã bắt đầu một câu chuyện hấp dẫn và liên tục cho đến nay về những phân tử xúc cảm. Thực ra là phát hiện của cô ấy đã cho phép nghĩ rằng, con người, đó là hỗn hợp của các nucle-otide, trí nhớ, khát khao và protein. Nếu không có các bộ thu nhận trên các nơron, chắc chắn sẽ không có thi ca.
Candace Pert, cô gái tóc nâu hấp dẫn của Đại học Tổng hợp Washington đã có ý tưởng về các bộ thu nhận như vậy ngay từ năm 1972. Câu chuyện tiếp theo về phát hiện của cô đó là bằng chứng tốt nhất cho thấy, thế giới khoa học có thể hão huyền, đố kị, tàn nhẫn và đầy rẫy âm mưu như thế nào. Anh biết điều này từ kinh nghiệm bản thân, nên câu chuyện của Candace không làm anh bị sốc.
Ngay trước phát hiện của mình, Pert đã bị sếp của dự án, với chức danh giáo sư, được thông báo đều đặn về công việc của cô, ra lệnh ngừng nghiên cứu vô điều kiện vì ông ta khẳng định rằng "những nghiên cứu đó là không có mục đích và dẫn đến con đường mù quáng". Tuy nhiên, chính vị giáo sư này cùng hai người bạn với chức danh không kém đã được đề cử cho giải Lasker danh giá của Mỹ - con đường đơn giản nhất dẫn đến giải Nobel - vì chính những nghiên cứu về các bộ thu nhận của các nơron. Nghiên cứu của cô! Ủy ban giải Lasker hoàn toàn bỏ qua sự có mặt của cô, thậm chí không hể nhắc đến tên cô.
Như chính Pert nhớ lại, cô có thể cho qua việc này và sống với sự hạ thấp đó trong im lặng, "biết rằng đằng nào thì vẫn là của mình", hoặc phản đối. Cô đã không cho qua việc đó. Cô nhớ quá rõ trường hợp của một phụ nữ khác, đã bị người ta ăn cướp kiến thức, uy tín và công lao. Và cô cũng nhớ quá rõ mọi việc đã kết thúc như thế nào.
Anh cũng biết rất chi tiết trường hợp bi thảm của Rosalind Franklin. Làm sao mà có thể không biết cho được. Bởi đó chính là cơ sở gien-sinh hóa của anh.
Rosalind Franklin, cử nhân của trường Cambridge nổi tiếng, đã sử dụng kỹ thuật tinh thể học siêu âm mà khi đó, vào đầu những năm năm mươi còn rất mới mẻ và phát hiện ra rằng ADN, đó là chuỗi xoắn kép giống như một chiếc thang và rằng hai thành của chiếc thang là phốt phát. Giám đốc viện cô, John Randall, đã trình bày kết quả nghiên cứu và cả những suy nghĩ chưa được công bố của người nữ cộng sự trẻ của mình trong một cuộc hội thảo nhỏ chỉ có ba người tham dự, trong đó có James Watson và Francis Crick. Không lâu sau đó, tháng ba năm 1953, Iames Watson và Francis Crick công bố một bài báo nổi tiếng mô tả chính xác cấu trúc của chuỗi xoắn kép ADN.
Tháng ba năm ấy, ngành gien học hiện đại bắt đầu được khởi xướng. Thế giới lặng đi vì ngỡ ngàng. Nhưng không phải tất cả. Khi Watson và Click trả lời phỏng vấn, kiêu hãnh đi vào lịch sử và giữ sẵn cho mình một chỗ trong bách khoa toàn thư thì Rosalind Franklin đau khổ trong im lặng. Không bao giờ cô phản đối và cũng không bao giờ nói trước công chúng về những gì mà cô đã cảm thấy.
Năm 1958, vốn luôn mạnh khỏe, không có bất cứ một xu thế mắc bệnh về gien nào, Franklin bỗng bị ung thư và qua đời sau mấy tuần.
Khi đó cô mới ba mươi bảy tuổi.
Năm 1962, Watson và Click nhận giải Nobel tại Stockholm.
Những phân tử xúc cảm? Những bộ thu nhận nỗi buồn dạng chuỗi mở đường đến đột biến tế bào ung thư? Theo Pert, và bây giờ thì cả các nhà miễn dịch học, thì nỗi buồn và nỗi đau có thể giết người chẳng khác gì virút.
Vậy là Candace Pert đã không bỏ qua được việc bị người ta ăn cướp mất những gặt hái của mình. Cô đã phản đối. Vị được gắn mác giáo sư đã không được giải Nobel và đã bị rơi vào quên lãng. Còn cô đã trở thành người có thẩm quyền.
Vừa nghe bài thuyết trình của Janda anh vừa nghĩ về chuyện ấy và phân vân, không biết Janda có biết rằng nếu không có Candace Pert thì cũng không có anh ở đây, trong phòng chật kín người này.
Ngoài việc trốn đi nghe bài thuyết trình về vắc-xin chống cocain, trong ngày cuối cùng của hội nghị ở New Orleans anh còn làm một việc nữa tồi tệ hơn nhiều: nói dối là bị ốm để không tham dự buổi dạ hội kết thúc hội nghị. Anh khống muốn lại thêm một lần phải nghe tất cả những bài phát biểu không thay đổi từ nhiều năm nay, rằng ai là người có nhiều công lao và ai đánh giá điều đó hoặc là "cuộc gặp gỡ đã thành công tốt đẹp" và "trước mắt chúng ta là những thách thức mới như thế nào". Hội nghị quốc tế về gien học ở New Orleans, về mặt này cũng chẳng khác gì một đại hội hợp tác xã địa phương ở Làng Mới.
Anh cũng không muốn một buổi tối với sự có mặt của những bà vợ khả kính và nhạt phèo của các vị giáo sư cũng chẳng khác gì các bà vợ của họ, đã từ lâu rỗi chẳng có gì để nói và họ cứ đi hết hội nghị này đến hội nghị khác và bằng cách đó cắt dần những ô phiếu vinh quang và huy hoàng của mình đã từ lâu vàng ố.
Anh muốn chia tay với New Orleans theo cách của mình. Ăn tối ở một nhà hàng nhỏ có tên Evelyn's Place ở chỗ cắt giữa phố Iberville và Charters Street. Đối với người hay lui tới thành phố này thì đây là một của hiếm thực thụ của ẩm thực địa phương. Chỉ có những người đặc biệt quan tâm mới biết. Ngoài ra, toàn bộ thời gian ở đó là Happy Hour. Gọi một tequille, sẽ được ba mà không phải trả cho hai chai còn lại. Điều này tác động tuyệt vời đến không khí của phần nội thất đúng ra là cáu bẩn. Sau lượt đầu tiên bạn sẽ không để ý đến điều đó nữa. Sau lượt thứ hai bạn bắt đầu thấy nó đẹp. Thỉnh thoảng ở Evelyn's Place xảy ra điều mà không xảy ra ở nơi nào khác của New Orleans, Evelyn kéo - chủ yếu là trước Mardi Gras - cô em của mình, là người duy nhất, theo như Evelyn, "rời bỏ gett bởi có não và không thích ẩm thực" đến. Sinh viên của nhạc viện Detroit, học lớp violin, đặc biệt tài năng, đã nhận nhiều giải thưởng trong các cuộc thi ở châu Mỹ. Khi đến cái câu lạc bộ đầy khói của bà chị, cô quên luôn các phòng hòa nhạc và Detroit. Cô tết tóc như một cô gái Rastaman (*) và chơi jazz và blues. Bằng violin! Nghe mà có cảm tưởng như Marvin Gaye hát blues.
Thực ra thì Evelyn, mà địa điểm này thuộc về cô, cũng là một hiện tượng. Một Phụ nữ Da đen đẫy đà với nụ cười của thiên thần chơi bộ gõ "ngoài giờ" trong nhóm nhạc jazz dixieland (thuộc về các bang miền Nam nước Mỹ). "Trong giờ" thì cô phải nấu nướng cho khách. "Phải" là một từ không hay. Bởi Evelyn cho rằng - anh biết điều này vì nghe lỏm được câu chuyện của Jim và Evelyn trong một lần họ cùng đến đây cách nay đã khá lâu - tốt hơn nghệ thuật nấu ăn chỉ còn có "nhạc jazz hay và những cuộc làm tình kéo dài". Ngoài ra, lần nào Evelyn cũng nhắc lại rằng thế giới có ý nghĩa kể từ khi có nhạc jazz, và đã trải qua ba cuộc cách mạng: Kopernik, Einstein và tìm ra gumbos, một loại súp rau cay từ rau có tên okra, được cho vào đậu đỏ cùng với gia vị cajun. Không đâu ở New Orleans nấu được món gumbos và đậu đỏ như ở Evelyn's Place. Tối đến, khi nhà hàng rộn ràng sống động và và quay cuồng trong tiếng cười, thỉnh thoảng có thể thuyết phục Evelyn chơi trống sớm. Khi ấy cô đeo găng tay trắng đến khuỷu, sửa lại trang điểm, ngồi trên ghế xoay cạnh lối vào bếp và đánh trống. Cô chơi cho đến khi có ai đó phải xin cô dừng lại. Khi Evelyn đánh trống, Jim thường hay ra sân phía sau nhà hàng. Gã không khoái jazz. Anh nhớ có lần gã đã nói đùa rằng "jazz là sự trả thù của những người da đen đối với người da trắng vì sự nô lệ". Mặc dâu vậy họ vẫn đến nơi này rất đều đặn.
Từ những ngày ấy, ở đây chẳng có thay đổi gì đặc biệt ngoài việc Evelyn béo hơn chừng mười lăm cân gì đó.
CÔ : Tiếng sột soạt ngoài cửa đã đánh thức cô dậy. Tiếng trẻ nô đùa ngoài vườn lọt qua cửa sổ để mở. Một ngày nắng.
Cô run vì lạnh. Cô nhận ra mình đã ngủ khỏa thân, không đắp gì trong khi điều hòa chạy suốt đêm. Chăn rơi trên sàn nhà cạnh cửa sổ. Cô dậy, đi ra cửa. Dưới khe cửa có một phong bì màu ô liu. Cô cúi người xuống nhặt. Cười, ép chiếc phong bì vào người và đi vội về giường. Khi cô vừa lôi ra bản in bức e-mail của anh thì có tiếng điện thoại. Asia.
- Như mình biết cậu thì vẫn nằm trên giường phải không? Tất nhiên là cậu không quên hôm này là ngày Renoir? – nó hỏi bằng một giọng rất lạ.
Tất nhiên là cô quên. Nhưng không tiết lộ và im lặng nghe Asia.
- Bây giờ thì cậu dậy đi, rồi ra ga Ecole Militaire và đi đến Solferino; cậu chuyển tàu ở Concorde. Khi nào xuống tàu và đi lên trên, cậu sẽ nhìn thấy trước mặt phòng đợi của nhà ga cũ ở đấy có bảo tàng d'Orsay. Cậu nhớ hết chưa? Ga Solferino. Mình đang xếp hàng mua vé ở đây từ năm giờ sáng và đã làm quen với một tay ngrười Venezuela, một cô gái người Birma và bốn người Czech, đứng ngay sau mình. Dân Czech đến đây với một thùng bia. Khoảng bảy giờ sáng họ đã bắt đầu mở chai. Lúc đầu mình không thể nhìn cảnh ấy. Brr… Bia trước bữa sáng. Nhưng khoảng tám giờ, mình đã uống cùng với họ mà chưa ăn sáng. Chắc cậu nhận thấy qua giọng mình chứ? Ôi, Chúa ơi, mới tuyệt làm sao. Renoir ở khắp sảnh đợi trong nhà ga của Paris, còn mình; sau năm chai vào chín giờ sáng. mình muốn giữ mãi trạng thái này. Nhưng cậu đừng có mang theo máy ảnh.. Vì đằng nào thì cũng không được chụp ảnh đâu. Chỉ có điều cậu nhất định phải đến, mình muốn cậu cũng được tận mắt nhìn thấy cảnh này. Tụi mình sẽ có cái để mà nhớ cho đến cuối thế kỷ. Mình đã cố túm Alicja. Đã mấy lần gọi đến phòng nó. Cho đến khi tay thường trực người Ba Lan tiết lộ rằng nó không có ở đấy. Từ hôm qua, sau bữa tối. Bến Solferino, nhớ nhé. Cậu phải đến ngay. Bây giờ thì mình quay lại với mấy ông người Czech đây. - trước khi cúp máy, nó còn nói thêm: - Cậu phải nghe mình. Đừng có dừng lại dưới bất cứ hình thức nào ở quán cà phê Internet cạnh Militarie đấy. Lần cuối cậu bảo ra đấy năm phút, mà ở lại đến hai tiếng. Cậu sẽ viết cho anh ta sau, bất kể đó là ai, khi chúng mình đi xem triển lãm về. Cậu hứa không? Hứa đi!
Lại thêm một lần cô nghĩ rằng Asia quả thật độc đáo. Về nguyên tắc thì cô không muốn để Jakub biết Asia. ở một mức độ nào đó họ hợp nhau một cách nguy hiểm.
Cô chạy vào phòng tắm. Tắm rất nhanh. Cô mặc một cái quần lửng trắng, bó sát và áo phông đỏ hở rốn. Không mặc nịt vú. Thấy trước một ngày nóng không kém gì hôm qua. Cô nhét vào ví xách tay tóm lại là tất cả số đồ trang điểm.
Mình sẽ trang điểm trên tàu điện ngầm - cô nghĩ.
Tay trực lễ tân không thề rời mắt khỏi ngực cô khi cố chạy, tóc vẫn còn ướt, xuống cầu thang đến Restaurant để ăn sáng. Anh ta rời quầy lễ tân, đi theo cô đến Restaurant. Trong một khách sạn nhỏ như ở đây thì người trực lễ tân cũng là chạy bàn. Ít nhất cũng trong giờ ăn sáng.
Anh ta đang cầm bút chì và sổ để chờ cô gọi món. Cô gọi cà phê và bánh croissaint (*) với mật ong. Khi anh ta đi ra, cô để tất cả lại và chạy lên phòng. Lấy cái máy nghe CD xách tay của mình để trên bàn ngủ, tìm thấy trong vali đĩa mới nhất của Van Morrison rồi quay lại bàn ăn. Cà phê đang chờ cô. Bên cạch tách cà phê là số International Herald Tribune mới nhất.
Không có tay trực lễ tân. Cô đẩy vội tờ báo ra xa để không nhìn ngay cả các tiêu đề.
Mình không tự phá hỏng tâm trạng bằng những thông tin về thế giới - cô nghĩ.
Cô đeo tai nghe. Chọn Have I told lately that I love You, một đoạn Morrison yêu thích của mình.
Không chỉ Asia mời có thể được chuẩn bị về nội tâm để đến với Renoir - cô nghĩ.
Cô cũng thế. Âm nhạc có rồi. Giờ thì lo đến hóa học.
Tay trực lễ tân xuất hiện với croissaint nóng còn đang bốc hơi. Cô tắt nhạc và tháo tai nghe. Cô nhận thấy anh ta vẫn nhìn trộm ngực cô.
- Anh có thể cho thêm một tách cà phê nữa được không? Nếu được, thì anh có thể rót vào đó một ly whisky Ireland được không?
Anh ta cười hỏi:
- Hai mươi nhăm, năm mươi hay một trăm mililít? Nếu một trăm thì chị sẽ có cà phê trong whisky chứ không phải là ngược lại.
- Thế còn anh thì nghĩ sao, bao nhiêu thì tốt hơn cho tôi?
- Theo tỷ lệ hai mươi nhăm mililít whisky trong cà phê và một trăm champagne trong ly với dâu tây. Champagne là tôi mời dự. Renoir cũng uống champagne. Và thường là trong bữa sáng. Hôm nay ở Orsay chị hãy để ý xem có bao nhiêu chai trên bàn trong bức tranh nổi tiếng Bữa sáng của những người chèo thuyền của ông ta.
- Thế cơ đấy. Anh biết hết về tôi còn gì. Anh đọc và viết e-mail của tôi, anh biết rằng tôi cần Internet còn bây giờ anh biết cả việc một lúc nữa tôi sẽ đi gặp Renoir. Từ đâu vậy, nếu anh có thể nói?
- E-mail là tôi có của chị gửi đi hoặc gửi đến cho chị, Internet thì từ mấy tháng nay tôi cần như oxy nên tôi suy ra chị, vì chị hợp với người mẫu, còn Renoir? Tôi biết được từ bạn gái của chị. Trước khi tôi nối máy của chị ấy với phòng chị, chị ấy đã kể cho tôi nghe gần như tất cả về cuộc triển lãm ở d'Orsay, sau đấy chị ấy còn dọa tôi rằng nếu chỉ không nhấc máy thì có thể chị bị xỉu ở trong phòng và tôi phải lập tức đến đấy. Chị ấy thật ngọt ngào khi nói dối. Chỉ có thể nói với chị ấy như vậy.
Nói xong anh ta ra quầy bar. Một lúc sau anh ta mang đến một tách cà phê, một ly với quả dâu tây bơi trong champagne sủi bọt và một đĩa thủy tinh dâu tây rắc bột dừa. Anh ta đặt tất cả trước mặt cô và nói:
- Chị có cả một ngày tuyệt đẹp ở phía trước. Hai hôm trước đây tôi đã nhìn thấy triển lãm này. Renoir là người theo trường phái ấn tượng duy nhất chỉ vẽ vì sự thích thú, vậy chị sẽ đặc biệt thích thú ở d'Orsay. Nếu hôm nay không phải làm việc, tôi sẽ hỏi xem có thể đi cùng dự được không. Nhưng hôm nay tôi sẽ hoàn toàn không ngắm các bức tranh.
Trước khi đi, anh ta lại gần chiếc ghế chị đang ngồi, sửa lại những bông cúc trong chiếc bình gốm nhỏ cạnh ly champagne trên bàn chị và nói:
- Hơn nữa, trông chị tuyệt đẹp với mái tóc ướt và không trang điểm.
Thật tốt biết bao khi anh ta nói lên điều đó - cô nghĩ với lòng biết ơn.
Bởi cô đang muốn "trông tuyệt đẹp" và cho cả thế giới biết điều đó. Đặc biệt là lúc này, ở đây, ở Paris này trong mấy ngày sắp tới. Việc này đáng giá cả một gia tài, nhưng cô đã đăng ký từ Warszawa, tất nhiên là qua Internet, giờ đến thợ làm tóc ở Paris. Chỉ cách khách sạn của họ vài con phố. Một ngày trước khi anh đến.
Cô ăn hết croissaint. Cà phê rất ngon với vị đăng đắng của whisky. Sau khi uống cạn champagne, cô dùng ngón tay lấy quả dâu tây trong cốc và chậm rãi cho vào miệng. Cô cảm thấy nhờ tách cà phê thứ hai và ly champagne mà cách nhìn nhận thế giới của cô bắt đầu gần với của Asia. Điều này thật tuyệt vời cô nghĩ. Bởi họ sẽ có những kỷ niệm chung từ cuộc triển lãm này cho phần còn lại của thế kỷ sắp kết thúc.
Ôi Chúa ơi, lúc này cô muốn được chạm vào môi anh biết bao. Chỉ chạm thôi - cô nghĩ. - Lại bắt đầu rỏi. Mình uống cái thứ cồn này để làm gì cơ chứ?!
Cô đứng dậy rất nhanh, đeo tai nghe và xoay núm âm lượng của máy nghe. Lúc này cô cần nhạc to và nhất thiết phải là Van Morrison. Đi qua phòng ăn ra cửa, cô giơ tay và không quay đầu lại, vẫy những ngón tay để tạm biệt. Cô cứ cho rằng tay trực lễ tân đang quan sát cô. Đến cửa, cô bất ngờ quay lại. Cô đã có lý! Anh ta nhìn theo cô.
ANH: Sau bữa tối anh bắt đầu lang thang qua các câu lạc bộ, các quán bia và nhà hàng thuộc khu Pháp của New Orleans. Như ngày nào. Nhưng không còn như những ngày xưa nữa. Giờ đây anh phải tìm lại niềm vui và sự vô tư ấy. Thời đó lúc nào anh cũng cảm nhận được chúng.
Như hồi ấy, đi qua đèn neon ở cửa vào một trong số các câu lạc bộ ban đêm, anh dừng lại mở chai bia đã được cơ thể làm ấm lên trong túi quần sau. Cuộc sống đó là khát khao. Những gì còn lại chỉ là chuyện nhỏ - dòng chữ nhấp nháy từ chiếc đèn neon cong cong.
Anh nghĩ rằng thành phố này có thể được định nghĩa chính xác bằng nội dung từ cái đèn neon ấy. Quả là mọi người đến đây để dù là chỉ trong vài ngày thực hiện khát khao của mình. Thậm chí cả khi họ không ý thức được hết điều này.
Những gì còn lại chỉ là chuyện nhỏ - anh nghĩ và cười thầm.
Anh về khách sạn vui vẻ và phấn chấn. Khoảng một giờ sáng anh ra khỏi câu lạc bộ Razoo có máy lạnh trên góc phố Bourbone và Vaness và rơi ngay vào màn đêm ẩm và ngột ngạt của New Orleans. Mặc dầu vào ban đêm, nhưng vẫn nóng khoảng 36 độ với độ ẩm lên đến 93 phần trăm. Phố nhộn nhịp. Đám đông sặc sỡ những du khách hò la bằng tất cả các thứ tiếng có thể, di chuyển như một đám diễu hành trên Bourbone Street, dừng lại bên cửa các câu lạc bộ và nhà hàng có tiếng nhạc lọt ra .
Thế giới thay đổi, nhưng may mắn thay Bourbone Street không thay đổi. Vẫn điên cuồng y như trước - anh nghĩ. Hẳn vì thế mà ở đây bao giờ cũng biết bao là người.
Anh đi qua hai ngã tư, rẽ sang Conti Street và đến Dau-phine Street. Chẳng mấy chốc anh đã đứng trước khách sạn, một tòa nhà hai tầng theo kiểu thuộc địa, có nho leo và được trang trí bằng mấy lá cờ Mỹ lớn được chiếu sáng bóng đèn pha đặt trên sân thượng của ngôi nhà bên kia đường. Những ngôi sao trên cờ nhấp nháy bởi những bóng điện màu xanh. Anh cười một mình, lại thêm một lần nghĩ rằng người Mỹ đôi khi vui nhộn và nhắng nhít một cách ngây thơ trong chủ nghĩa yêu nước của mình.
Đi qua quầy lễ tân trong sảnh lớn có máy lạnh, lấy chìa khóa từ người trực lễ tân đang ngái ngủ, anh đã định lên phòng, nhưng đột nhiên nghe thấy tiếng nhạc từ hiên phía nam của khách sạn. Anh do dự một lúc, không biết có nên đến đó không. Sáng sớm anh bay đi New York. Anh đã hình dung ra nỗi khổ sở khi chuông báo thức reo. Mặc dầu vậy anh vẫn nghĩ rằng hôm nay mình sẽ đi uống lần cuối và nghe loại blues ấy. Chỉ một lúc thôi. Anh quay lại ở giữa chừng cầu thang và đi ra hiên.
Đó là một sân trời điển hình của những gia đình thuộc địa giầu có trong Khu Pháp, có đài phun nước nhỏ bằng đá ở giữa bể bơi hình ô-van được phủ một lớp đầy huệ trắng, là thứ hoa chỉ có thể mọc to đến thế trong khí hậu này. Dưới chân tường nhà là một quầy bar nhỏ, được chiếu sáng chỉ bằng những chiếc đèn mô phỏng những ngọn nến, xung quanh có mấy cái bàn tròn mặt đá trắng và những cái ghế kim loại nhỏ có phần tựa rất vui mắt. Một cây cọ to, tán lá che cho chiếc đèn dùng để chiếu sáng, một sàn nhảy nhỏ ở phía sau đài phun nước. Một chiếc đàn piano trắng ở phía quầy bar. Một thanh niên da đen trong chiếc kimônô đen và chiếc sơ-mi trắng được trang trí hình con ruồi đen đệm đàn cho một phụ nữ da đen đứng tuổi, đẫy đà, mặc chiếc váy óng ánh dài chấm đất. Mặc dù trời tối, chị ta vẫn đeo cặp kính râm to. Chị ta hát blues.
Bên cạnh piano là những chiếc trống của bộ gõ, không có ai ngồi ở đó, nhưng ngay gần đấy là một thanh niên da trắng muốt ngồi trên sopha, ghi- ta để trên đùi và uống drink.
Ngoài hiên, bản blues mẫu mực Bring it home to me đã kết thúc. Im lặng một lúc. Jakub đến chỗ quầy bar, gọi whisky với soda và đá rồi ra ngồi bên chiếc bàn gần piano nhất. Người chơi ghi-ta đột ngột đứng dậy, ra hiệu cho nữ ca sĩ, chị này rút micrô ra khỏi giá. Anh ta bắt đầu chơi. Jakub hiểu ngay, đó là gì.
Anh chậm rãi nhấm nháp whisky, nghe và tự nhiên bắt đầu lắc lư theo nhịp điệu của âm nhạc. Bỗng một cô gái da trắng mặc chiếc chân váy nâu sát đất, áo đen hở bụng đi ra sân khấu. Cô ta đi giầy đen cao gót, tóc đen dài ngang vai. Tay trái cầm một cái cốc thủy tinh to đầy một nửa.
Anh đã để ý thấy cô ta từ trước, lúc gọi đồ uống ở quầy. Bụng và mặt cô ta, da trắng như thạch cao hoàn toàn không được tắm nắng, đôi môi đầy đặn ngăn cách với mặt bởi màu đỏ sẫm của cô ta đã khiến anh chú ý. Cô ta ngồi tư lự, không nói gì ở bàn bên với một thanh niên mặc complê mặc dù trời nóng, tay cầm điện thoại di động. Họ ngồi cùng với một đôi khác. Cô gái thứ hai có mái tóc nâu dài đến vai với những lọn tóc được tết lẫn với những sợi len đủ màu sắc. Cô này mặc quần ngắn, để lộ ra cặp chân dài khác thường. Chiếc áo phông đen bo chật, căng trên bộ ngực của cô ta và kết thúc cách rốn một đoạn xa. Anh bạn trai của cô ta cao, mảnh dẻ, tóc nâu sáng, mặc áo phông thể thao trắng để hở những bắp thịt rất ấn tượng và một hình xăm màu xanh - đỏ bên bắp tay trái. Họ cầm tay nhau, thầm thì điều gì đó vào tai nhau và cứ chốc chốc lại phá lên cười. Nhìn họ có vẻ là người châu Âu và rõ ràng là bộ tứ ấy đi cùng nhau.
Cô gái trên sàn gỗ bắt đầu chậm rãi nhún nhảy. Mắt nhắm và cái cốc lúc nào cũng ở trong tay.
Rock me baby, rock me all night long...
Blues càng lúc càng nhịp nhàng hơn. Bỗng nhiên cô ta đến chỗ Jakub, nhìn vào mắt anh, cười, không hề hỏi xem anh có đồng ý không, đặt cốc của mình cạnh cốc của anh, và những ngón tay cô chạm nhẹ vào cổ tay trái anh. Cô ta trở lại sàn gỗ.
Rock me baby, and I want you to rock me slow, I want you to rock me baby till I want no more...
Mông cô ta nâng lên, hạ xuống, xoay vòng và uốn lượn. Thỉnh thoảng, để làm cho chuyển động của mông mạnh hơn, cô ta đặt tay lên chúng rồi đẩy ra phía trước. Miệng hơi hé và lưỡi khẽ đẩy ra.
Rock me baby, like you roll the wagon whell, I want you to rock me, baby, you don't know how it makes me feel…
Cô ta lại đến gần bàn anh, đứng đối diện anh. Không rời khỏi chỗ cô ta chỉ nhịp nhàng lắc mông. Tay phải đặt lên ngực trái, giống như lính thủy đánh bộ Mỹ khi nghe quốc ca, còn tay trái đặt lên môi. Anh nhìn rất rõ ngón tay đeo nhẫn chầm chậm đưa vào miệng rồi lại đưa ra của cô ta như thế nào.
Anh bỗng cảm thấy xấu hổ và theo bản năng, ánh mắt trốn chạy sang bên cạnh. Anh để ý thấy cố gái tóc vàng ngồi lên đùi cậu bạn trai xăm tay; cả hai lắc người theo nhịp điệu của âm nhạc. Cô ta duỗi cặp chân dài, thả dọc theo chân anh bạn và cọ xát hông anh ta khi nhảy blues cùng anh ta ở tư thế ngồi. Anh ta ốm cô ta ở đoạn bo của cái áo phông ngắn, rìa bàn tay chạm vào bộ ngực không có nịt của cố ta, nhô lên rất rõ dưới lần áo. Chỉ có người đàn ông trong bộ complê xám là không chú ý đến ai khác, chỉ mải nói chuyện.
Want you to rock me baby till I want no more...
Anh say sưa nhìn cô gái đang nhảy. Không nghĩ rằng lại có thể nhảy blues đẹp đến thế. Anh nhìn quanh. Tất cả đều nhìn cô ta. Đàn bà cũng như đàn ông, đều tò mò và ngạc nhiên như nhau.
Thông thường thì đàn bà rất ghét những phụ nữ gây sự chú ý của đàn ông bằng sự gợi tình rẻ tiền và dung tục. Họ cho rằng sự rẻ tiền và dung tục ấy sẽ dẫn tới việc thối phồng sự ganh đua chung đối với tất cả phụ nữ trong các mối quan hệ với đàn ông. Mặt khác, họ lại cực kỳ thống nhất trong sự ngạc nhiên, khi sự gợi tình ấy đạt được mức tinh xảo thực sự. Với cô gái nhảy với trí tưởng tượng như vậy thì không thể không nói đến sự tinh xảo ấy. Thậm chí cả khi phải ghen với cô ta vì sự chú ý, vì sự tưởng tượng mà cô ta tạo ra, dù có thể ngạc nhiên về cô ta mà thôi.
Anh nghĩ rằng những người đàn ông có mặt ngoài hiên không nghĩ đến việc cô ta có khiến họ ngạc nhiên hay không. Anh cho rằng nói chung họ chẳng nghĩ gì hết. Tối đa thì họ cũng chỉ tha hồ mà tưởng tượng. Và chủ yếu là về một chủ đề.
Bỗng nhiên cả anh nữa, cũng nghĩ về tình dục.
Với một ngoại lệ duy nhất - khi "dụ dỗ" cô trên mạng trong quán bar đêm của cái khách sạn ở Warszawa ấy - những buổi trò chuyện với cô chưa bao giờ đề cập trực tiếp đến tình dục. Cô đã có chồng - do đó mà anh không thể nói về đế tài này mà không cảm thấy có lỗi hoặc một sự bất an trong lòng. Anh không muốn rơi vào cái bẫy tầm thường của tam giác hôn nhân. Trên mạng, nơi không phải chịu những cám dỗ của sự gần gũi như mùi nước hoa, một bàn tay ấm áp hay giọng nói run rẩy, thì điều này dễ thực hiện hơn nhiều. Rất dễ để giữ mối quen biết ở mức độ một tình bạn đầy ắp thân thiện với những câu tán tỉnh mập mờ. Cô không cần phải tuyên bố gì hết trong khi vẫn giữ được, ít ra thì cũng về mặt hình thức, thân phận của một người bạn ảo "không làm điều gì xấu". Vế mặt hình thức, anh không có lý do để thất vọng vì không có ngoại lệ, khi kể về những sự kiện trong cuộc sống của mình, cô thường dùng số nhiều. Họ quan hệ với nhau theo một phương thức được kiểm soát sao cho có thể biểu thị sự sẵn sàng đi đến một tuyên bố, nhưng đã không có bất kỳ một tuyên bố nào cả. Vì sự thanh thản của lương tâm.
Nhưng trong mối quan hệ của họ, nhục thể xuất hiện hầu như trong mỗi câu chuyện trên ICQ và hầu như trong mỗi bức e-mail. Trong những đoạn viết về những sự kiện hay tình huống mang ý nghĩa kép, họ lén lồng vào những khát khao và mong ước rất đơn nghĩa của mình. Anh tin chắc rằng những cuộc gặp gỡ trên mạng của họ còn có nhiều những đụng chạm tình cảm hơn là những cuộc gặp gỡ của nhiều đôi gọi là bình thường trong những tối tháng năm trên ghế đá công viên. Họ nói về tình dục nhưng chưa bao giờ gọi theo tên của nó.
Bây giờ ở Paris, tất cả những điều này - cuối cùng - phải thuộc về quá khứ Một mặt, ý nghĩ về cuộc gặp, mà nó phải đến, kích thích như đoạn đầu của một giấc mơ tình ái, mặt khác nó lại, sinh ra cảm giác căng thẳng và bất an. Ở Paris, sau cánh cổng của sân bay, tưỏng tượng là có thể qua đi cùng với hiện thực. Những gì đã có giữa họ, phát triển trên cơ sở của sự mê hoặc bằng lời nói hoặc ý nghĩ được thể hiện qua những con chữ. Do đó mà hẳn nó luôn luôn mãnh liệt dữ dội đến thế là bởi không có cơ hội đề được thỏa mãn một cách thật sự.
Anh cảm nhận sự quyến rũ của cô mà không nhìn thấy cô. Không chỉ một lần anh đã hưng phấn đến mức độ bị cương cứng khi đọc những dòng cô viết. Tình ái đó luôn là tác phẩm của trí tưởng tượng, song với phần lớn mọi người thì là trí tưởng tượng được thôi thúc bởi nhục dục nào đó. Trong trường hợp của anh, phần nhục thể trong cô giống như những bài thơ tình ái của một tập thơ. Thêm vào đó, có một ai đó vẫn luôn viết tập thơ này.
Bao giờ anh cũng thích những bài thơ tình ái. Anh thích cả học thuộc chúng nữa. Từ thời học phổ thông trung học, anh đã nhớ hàng chục bài thơ Ba Lan, cộng thêm vài bài của Rilky. Bằng tiếng Đức! Những đấy là mãi gần đây, khi anh bắt đầu "cảm nhận" được tiếng Đức, thậm chí anh còn mơ bằng tiếng Đức. Trước đây anh cứ tưởng rằng tiếng Đức là để dành cho la ó hơn là cho thơ ca. Đó chắc là một hànhtrang lịch sử thừa của Ba Lan.
Anh nghĩ vậy khi uống những cốc whisky tiếp theo và nhìn cô gái nhảy trên hiên của Dauphine Hotel ở New Orleans. Anh hơi nhầm lẫn giữa tình ái và tình dục. Đấy chắc là bởi thứ rượu này, bởi cô gái này và bởi âm nhạc này.
- Đúng thế, cơ bản là bởi âm nhạc này! - anh nghĩ.
Từ hơn chục năm nay, âm nhạc, không nhất thiết phải là blues, thường khiến anh liên tưởng đến tình dục. Có một phụ nữ đã dạy anh điều này, lâu lắm rồi.
Thậm chí có khi còn trước cả khi anh đến New Orleans. Anh nhận được học bổng của Bộ cho các nghiên cứu trong khuôn khổ dự án chung của trường Wroclaw của anh với Đại học Tổng hợp Dublin ở Ireland.
Khi anh đến, đang là mùa xuân xám, lạnh và mưa ở Dublin. Anh làm việc trong trung tâm máy tính của khoa Gien học tại khu vực phía đông của trường, năm gần như giữa trung tâm Dublin. Anh ở phòng khách trong khu vực trường nó khiến anh nhớ đến một mê cung gớm guốc của những tòa nhà bằng gạch đỏ nối với nhau. Người ta bảo anh rằng từ phòng anh, có thể đi theo các hành lang để đến phòng thí nghiệm máy tính mà không cần phải ra ngoài. Một lần, vào buổi tối, anh thử làm điều đó, nhưng khi rơi vào phòng giải phẫu hôi mùi naptalin và ẩm ướt với những cái xác trần truồng trên những chiếc bàn kim loại của khoa y, thì anh quyết định sẽ để cho mình được yên thân.
Suốt tháng đầu, anh làm không kịp thở. Anh bị rơi vào trạng thái thôi miên đầy hưng phấn. Trong ba tháng, nhờ có tiền của ONZ, anh. để lại "bảo tàng" của mình ở Ba Lan, nơi mà muốn sử dụng máy photocopy phải viết đơn lên trưởng khoa, và đến với thế giới mà ở đó những chiếc máy photocopy có mặt trong sảnh của nhà ăn của trường. Làm sao mà có thể không hưng phấn cho được?
Về nguyên tấc, anh chỉ di chuyển theo một lộ trình, từ phòng làm việc của anh trong trung tâm máy tính, qua nhà ăn, ở đó anh ăn vội bữa trưa, đến phòng anh, nơi anh đi ngủ vào hai giờ đêm, mệt bã và hưng phấn vì ngây vừa qua, để rồi bảy giờ sáng đã dậy. Mãi sau một tháng, anh mới nhận thấy ngày càng có nhiều hơn những lúc mà anh cảm thấy cô đơn đến khổ sở. Anh cần phải thoát khỏi cái vòng sống khép kín và chỉ có công việc ở Dublin này.
Vào một kỳ nghỉ cuối tuần kéo dài nào đó, anh đi tàu đến bờ biển phía tây-nam của đảo, thành phố nhỏ Limerick, nằm trên một vịnh cách biệt, ăn sâu vào đất liền giống như vịnh Fio của Nauy. Suốt ngày anh lang thang ngoài bờ biển, chỉ dừng lại trong những quán rượu nhỏ Ireland, uống guinness và nghe rởm những câu chuyện của dân địa phương và cố hiểu lấy một chút gì đấy. Thực ra thì anh chẳng hiểu được tí gì và kể cả những cốc guinness tiếp theo cũng không làm thay đổi được tình hình. Dân Ireland không chỉ nói khác. Dân Ireland đơn giản là khác. Hiếu khách, bướng bỉnh, giấu sự nhạy cảm của mình sau những nụ cười. Trong cách nhìn nhận thế giới của mình, họ rất Ba Lan.
Anh dự tính chuyến đi sao cho được ngồi ngắm hoàng hôn trên một điểm nhô ra nhất phía dưới chân Chffs of Moher nổi tiếng. Bức tường đá lởm chởm trên hai trăm mét, lốm đốm những đám cỏ xanh và dốc thẳng xuống dưới. Mặt trời lặn theo nhịp của những con sóng biển đập vào bờ đá. Anh nhớ là khi đó ở đấy trên tảng đá ấy, bỗng nhiên anh thấy buồn vô cùng. Nhìn những đôi ôm nhau tựa vào vách đá, những ông bố bà mẹ dắt tay con, những toán bạn bè uống bia và trao đổi to với nhau những ấn tượng, anh chợt cảm thấy mình thực sự bị bỏ rơi và không cần thiết cho ai. Anh đi tàu về Dublin vào tối khuya. Ngoài anh, trong khoang còn có một phụ nữ đứng tuổi ăn vận lịch sự. Bà ta ngồi ở chỗ cạnh cửa sổ. Trong chiếc váy đen dài chấm đất, giầy buộc dây, cặp kính trễ xuống gần mũi và chiếc mũ che đi búi tóc muối tiêu được cài bằng những cái trâm bạc, trông bà ta như một hành khách đi tàu của thế kỷ mười chín. Nhìn bà ta đoan trang, khó gần và đẹp theo kiểu của mình. Bà ta cười khi anh hỏi liệu có thể ngồi trong khoang của bà được không. Sau mấy phút, anh lấy Playboy đã mua trong quầy báo ở nhà ga Limerick để trong ba-lô ra. Được một lúc, anh thấy mệt vì đọc nên để cuốn tạp chí sang bên cạnh. Anh định ngủ thì bà già hỏi có thể xem qua "Tạp Trí này" được không. Câu hỏi làm anh ngạc nhiên. Mặc dù đánh giá Playboy – anh có một bộ sưu tập không tồi ở tất cả các thứ tiếng được phát hành - là một tạp chí hấp dẫn, được làm có đẳng cấp, nhưng bà già này vẫn không hợp với nó thế nào ấy. Anh đưa cho bà ta không một lời bình luận. Bà già thong thả lật các trang, thỉnh thoảng dừng lại và đọc một vài đoạn.
Im lặng. Anh nhìn qua cửa sổ. Cảm nhận sự qua đi của cái mệt sau một ngày đầy ắp ấn tượng. Anh nghĩ rằng khi về đến Dublin, anh sẽ ngồi trước máy tính với cảm giác thoải mái. Sau nửa tiếng họ đi đến Port Laoise, một địa danh nhỏ nằm ở khoảng giữa Limerick và Dublin. Bà già đứng dậy chuẩn bị xuống. Khi tàu dừng, bà trả anh tờ Playboy và điềm đạm nói:
- Anh biết không, thậm chí **** (sự giao cấu) giờ đây cũng không còn mang ý nghĩa như ngày xưa nữa. Đúng là tiếc thật . Bà ta cười với anh và đóng cửa khoang.
Anh cười một mình, ngạc nhiên và buồn cười vì lời bình luận kia. Bà ta hoàn toàn có lý với cái sự **** ấy - một lát sau anh nghĩ.
Ngoài ra, khi bà ta xuống tàu, một cảm giác nuối tiếc lạ lùng ùa vào anh... Sẽ không bao giờ còn được gặp bà già ấy nữa. Bà xuất hiện trong cuộc đời anh trong vài khoảnh khắc và không bao giờ còn quay trở lại. Mà anh thì muốn gặp lại bà một lần nữa. Mọi người chuyển động theo những lộ trình đã được vạch sẵn bởi số phận hay định mệnh - tên gọi không quan trọng. Chúng giao cắt với lộ trình của chúng ta trong chớp mắt rồi lại đi tiếp. Còn hơn cả hiếm và chỉ rất ít ở lại lâu hơn và muốn đi trên con đường của chúng ta. Tuy nhiên cũng có những người xuất hiện đủ lâu, để người ta muốn giữ họ lại. Nhưng họ vẫn đi tiếp. Như bà già vừa xuống tàu ban nãy, hay như cô gái xinh đẹp mà anh say sưa ngắm nhìn lúc xếp hàng trong nhà băng. Bao giờ anh cũng buồn khi một điều gì đó như vậy xảy ra. Anh rất tò mò không hiểu những người khác có cảm nhận nỗi buồn như vậy không?
Ở Port Laoise, một người đàn ông thân hình cân đối, trạc tuổi anh tươi cười bước vào khoang. Ngay lập tức anh nhận thấy anh ta nói hơi nặng và sau vài phút trò chuyện anh nhìn anh ta chăm chú hơn. Một cái gì đó chạm vào anh và anh đột ngột mạo hiểm hỏi:
- Anh có nói được tiếng Ba Lan không?
Người này chỉ cười và trả lời ngay:
(*) Tộc người Rastaman ở Trung Mỹ. Phần lớn có tóc xoăn, hút cần sa và rất thân thiện, cởi mở với mọi người.
(*)Bánh sừng bò
- Tất nhiên... đúng rồi... đúng là anh! Đã có lần tôi nhìn thấy anh trong nhà ăn của đại học tổng hợp.
Thì ra anh ta tên là Zbyszek, đã ở đây được một năm, làm tiến sĩ và đi từ Warszawa. Họ chuyển ngay sang gọi ông tôi. Thì ra anh ta làm tin học, viết phần mềm thiết kế bán dẫn công suất lớn. Họ đang chọn trong câu chuyện về máy tính, điện tử và các kế hoạch của mình thì anh bắt buộc phải xuống Dublin.
Tình bạn của họ đã bắt đầu như vậy, và hai tháng sau đã chấm dứt một cách đột ngột và vô nghĩa.
Kể từ cuộc gặp gỡ trên tàu lần ấy, anh ta thường hay đến chỗ anh. Thực ra là họ gặp nhau hàng ngày. Họ quí mến nhau và cùng nhau suốt cả ngày. Một tối, họ đến quán rượu gần phòng thí nghiệm của anh. Đang ngồi thì Zbyszek đứng dậy và hôn chào một cô gái tươi cười. Họ trao đổi với nhau mấy câu bằng tiếng Anh và quay lại chỗ anh. Zbyszek giới thiệu cô ta:
- Cho phép tôi giới thiệu với ông cô bạn của tôi, Jennifer. Jennifer là người Anh và học kinh tế ở đây. - Anh ta cười nói thêm: - Cô ta thích tôi chắc là vì Chopin cũng là người Ba Lan.
Cho tới lúc ấy anh chưa bao giờ gặp người phụ nữ nào có hàng mi dài đến thế. Chúng phải là thật vì không có một loại trang điểm nào có thể kéo dài mi được đến như vậy. Đôi lúc anh cứ tưởng như cô ta nghe mà mắt thì nhắm lại. Lúc đầu trước khi quen với hình ảnh của chúng, anh không thể không tập trung nhìn vào mắt cô ta. Với hàng mi ấy, với mái tóc sẫm gần như đen dài ngang vai ấy, thì đôi mắt xanh thẫm của cô hoàn toàn không phù hợp vời khuôn mặt. Đã thế nhìn chúng lúc nào cũng như hơi thấm nước mắt. Người không quen biết có thể tưởng là cô đang khóc. Khi cô cười đầy thân thiện và những giọt nước mắt kia luôn long lanh trong mắt, trông cô tuyệt đẹp.
Cô ta mặc quần đen bó sát và áo len casmia cổ nhọn khoét sâu. Bộ tai nghe lớn, đương nhiên cũng màu đen của chiếc walkman được cài vào chiếc thắt lưng quần ôm sát vòng hông rộng, bao quanh cổ cô. Người mảnh dẻ, nên với chiều cao khiêm tốn của mình, cô tạo ấn tượng là một người rất mong manh. Thậm chí là dễ vỡ. Do đó mà phần hông rộng và bộ ngực to, nặng một cách không cân đối nhô cao dưới lần áo rất thu hút sự chú ý. Jennifer biết là bộ ngực của cô không để cho cánh đàn ông "được yên". Hầu như bao giờ cô cũng mặc đồ chật.
Cô ta chìa tay cho anh, đưa sát miệng anh. Nhìn vào mắt anh cô thầm thì:
- Anh hôn đi. Em rất ngưỡng mộ nhìn các anh, những người Ba Lan hôn tay phụ nữ khi gặp mặt.
Bàn tay cô thơm mùi hoa nhài pha một chút vani. Thật kích thích: sự thầm thì ấy, mùi thơm ấy. Và bộ mông ấy. Ngoài ra anh rất ngưỡng mộ những bộ ngực to và nặng của những phụ nữ mong manh.
Anh tự giới thiệu. Cô hỏi anh chữ viết tắt tên thứ hai của anh là gì và khi biết đó là "L" thì cô ta nói điếu gì đó mà lúc ấy anh hoàn toàn không hiểu.
- JL, giống như là Joni và Lingam. Chữ viết tắt của anh là hờn dỗi. Điều này hứa hẹn sự sung sướng.
Và khi anh phân vân, cô ta nghĩ gì với cái sự hờn dỗi kia, thì cô ta hỏi liệu có thể đổi lại và nối các chữ viết tắt lại và gọi anh là Eljot. Anh cười ngạc nhiên, nhưng đồng ý vì cho rằng nó rất thuần phác.
Anh đã làm quen với Jennifer người đảo Wight như vậy.
Kể từ lần ấy anh rất hay gặp gỡ với cô. Hầu như bao giờ cô cũng mặc màu đen và hầu như bao giờ cũng đeo tai nghe walkman quanh cổ. Bởi Jennifer, trên tất cả, có lẽ trừ tình dục, yêu âm nhạc và bất cứ lúc nào rảnh rỗi cũng nghe nhạc. Như về sau anh thấy, cô nghe nhạc cả vào những lúc mà bình thường không có cách gì để xác định là "rảnh rỗi" được.
Hơn nữa, Jennifer chỉ nghe nhạc cổ điển. Cô biết tất cả về Bach, cô có thể kể ngày này sang ngày khác về Mozart, vừa ngâm nga những đoạn menuet, concerto hoặc opera của ông ta, cô biết lời của hầu như tất cả các vở nhạc kịch, mà anh thậm chí đến tên của chúng cũng không biết. Cô là người nước ngoài duy nhất anh biết có thể đọc và viết họ của Chopin như người Ba Lan, là "Sz". Cô hỏi anh về Chopin và khi biết là anh không thể nói cho cô nhiều hơn những gì chính cô biết, thì cô thất vọng. Sau một thời gian, anh không thể không nhận thấy càng ngày Jennifer càng hay xuất hiện ở những nơi mà anh lui tới.
Có một cái gì đó rất kích thích trong bản thân cô. Hiểu biết một cách khác thường - tự cô khẳng định là "rất đáng ghét:. Điều này đã đẩy nhiều đàn ông ra xa cô, những người bị cô hấp dẫn bằng hình thức và sự gợi tình đầy khiêu khích, nhưng chỉ sau vài phút nói chuyện, những người ấy biết rằng, họ không đặc biệt có ý muốn vắt óc "đến vậy" để kéo cô ta lên giương. Phần lớn trong số họ thì đàng nào cũng không có một cơ may nào, còn những người có được cơ may thì lại mắc phải sai lầm lớn khi bỏ cuộc, bởi Jennifer là một phần thưởng lớn cho sự vắt óc ấy.
Cô thật bí ẩn. Cô đã gây ấn tượng mạnh đối với anh. Ngay từ giây phút đầu tiên. Cô biết lắng nghe, rất thẳng thắng có trí nhớ về hình ảnh. Có những khi cô đa cảm, nhút nhát và hay xấu hổ để rồi chỉ trong chốc lát đã trở thành thô tục hết cỡ. Trong vòng vài giây cô có thể chuyển từ phân tích các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán London - là một khách từ Ba Lan "cộng sản và bị đàn áp" bao giờ vấn đề này cũng khiến anh thích thú - sang câu chuyện thầm thì về việc tại sao cô lại khóc mỗi khi nghe Aida của Verdi. Cô cũng đã khóc thật bên bàn ăn trong nhà hàng, khi kể với anh về chuyện này. Anh còn nhớ là những người phục vụ bàn đã nhìn anh căm thù như thế nào vì họ nghi là anh đã xúc phạm cô ghê gớm lắm.
Cô là người khó gần. Anh thích cô, nhưng chưa đến mức để bỏ bê môn gien học của mình và "đầu tư" thời gian để chiếm được cô và kiểm tra xem thực sự cô khó gần đến đâu. Anh chấp nhận để Jeunifer khơi dậy trong anh những xao động và sự quyến rũ được giấu kỹ, chúng khiến anh muốn thử còn anh thì đơn giản là không cưỡng lại điều đó. Cho khoa học và Ba Lan - anh cười trong tâm tưởng.
Hôm ấy là ngày lễ đặt tên của anh. Cho dù không phải lịch nào cũng ghi tên Jakub vào hôm ấy, anh vẫn tổ chức lễ đặt tên của mình đúng vào 30 tháng tư. Như mẹ anh muốn. Vì rơi vào giữa tuần nên anh mời mọi người đến phòng mình vào thứ bảy gần nhất. Đã gần nửa đêm, nhưng anh vẫn làm việc không nghỉ trong phòng làm việc cửa mình. Bỗng anh nghe thấy tiếng gõ cửa rất khẽ.
Jennifer
Hoàn toàn khác. Không đeo tai nghe ở cổ và không mặc màu đen!
Cô mặc quần bó màu tím nhạt và chiếc áo hồng nhạt không cài cúc buông xuống quần. Không mặc nịt vú, điều này thì có thể thấy rõ với bộ ngực của cô qua lớp vải áo. Tóc buộc thành lọn rất nghịch bằng khăn lụa cùng màu với quần. Cặp mắt ướt long lanh được cô nhấn bằng màu tím nhẹ và môi được tô cũng màu ấy. Viền môi được cô vẽ bằng gam màu tím đậm hơn, cho ta cảm giác là miệng cô đặc biệt rộng. Anh nhìn cô như bị bỏ bùa mê, không giấu nổi sự ngạc nhiên.
- Anh có nghĩ là Chopin cũng tổ chức mừng lễ đặt tên không? Em không thể biết được điều này ở bất cứ nơi nào. Em muốn kịp chúc anh trước nửa đêm. Và đã kịp. Bây giờ mới là mười hai giờ kém tám phút.
Cô đến gần anh, đưa những ngón tay lên và lướt môi mình lên miệng anh. Cô ôm anh. Anh quyết định hỏi cô xem hãng nào trộn hương nhài với vani trong loại nước hoa cô dùng mà tuyệt vời đến thế. Cô thơm y hệt như lần đầu tiên anh gặp cô.
Nhìn thấy anh đứng, không biết làm gì với tay, cô lùi lại và nhìn vào mắt anh, đưa cho anh một con hổ nhỏ bằng nhung vàng, trên bụng có thêu dòng chữ bằng tiếng Anh màu đen Get physical . Cô nói:
- Đây là quà cho anh nhân ngày lễ đặt tên. Còn bây giờ thì anh thôi không làm việc nữa. Em mời anh sang bên em. Em hứa là sẽ không kiểm tra anh vế Chopin nữa đâu.
Anh cười, ngạc nhiên và cứ nghĩ mãi, không biết Get physical có chắc chắn có nghĩa là anh được chạm vào cô không. Anh muốn rằng nó đúng là có nghĩa như vậy. Hôm nay trông cô không bình thường. Nữ tính, bí ẩn, rất khác mọi khi. Cái mùi ấy, giọng nói ấy, bộ mông ấy. Và con hổ nhỏ này nữa. Anh quyết định từ bây giờ sẽ bắt đầu học các đặc ngữ trong tiếng Anh. Anh muốn đi ngay với cô, nhưng chợt nhớ là phải đóng chương trình mà anh khởi động lúc cô gõ cửa phòng làm việc của anh và tắt máy tính. Anh hôn lòng bàn tay phải của cô và quay lại bàn làm việc. Khi gõ các lệnh, anh bỗng cảm thấy cô đang đứng sau lưng, ngực chạm vào tóc anh, nghiêng người và bắt đầu thở nhẹ sau tai anh. Anh dừng tay trên bàn phím. Không biết phải làm gì. Tức là anh biết, nhưng không dám quyết định phải bắt đầu như thế nào. Tình huống thật lạ lùng. Anh ngồi bất động, như bị liệt, hai bàn tay đặt trên bàn phím, còn cô đứng sau anh và hôn tóc anh. Rồi cô lùi ra một lúc. Anh không động đậy. Anh nghe thấy tiếng vải sột soạt và sau đó cái áo hồng phủ lên hai bàn tay anh đang nằm im trên bàn phím máy tính. Anh từ từ xoay cái ghế xoay mà anh đang ngồi. Cô dịch ra để lấy chỗ cho anh. Ngực cô ở đúng tầm mắt anh. Cô đứng giữa hai đùi anh vị từ từ đưa sát ngực vào miệng anh. Chúng to hơn là anh vẫn hình dung. Anh bắt đầu khẽ chúm miệng.
Rồi anh đứng dậy và ôm cô sát vào mình. Anh run. Bao giờ anh cũng run trong những khoảnh khắc như thế này. Giống như người ta run vì lạnh. Đôi khi đến mức răng va vào nhau lập cập. Anh hơi xấu hổ vì điều đó nhưng không biết kiềm chế. Anh lùa lưỡi vào miệng cô đã mở rộng. Anh hôn. Đột nhiên cô lùi ra xa, lấy áo khoác lên người, không cài lại cúc cô nắm tay anh và dắt anh ra hành lang.
- Thôi sang phòng em - cô thì thầm.
Cô gần như chạy, kéo anh qua những hành lang của Viện anh đủ được chiếu sáng bởi những đèn chỉ dẫn lối thoát hiểm màu xanh. Chắc chắn là cô nhận thấy anh vẫn run. Rồi cô đi chậm lại, nắm cả hai tay anh kẻo vào giảng đường tối om. Cô vừa hôn vừa đẩy anh cho tới khi cô tựa người vào cửa. Cô quỳ xuống trước mặt anh. Anh để cả hai tay lên đầu cô khi cô làm việc đó. Tựa người vào tường, anh thả người theo những chuyển động của cô, lưng anh lúc ấn vào lúc thả ra cái công tắc điện ở phía sau. Những dãy đèn neon treo trên trần của giảng đường rộng mênh mông lách cách bật tắt. Những lúc đèn sáng, anh nhìn thấy cô quỳ trước anh. Hình ảnh ấy cũng kích thích anh mạnh hơn. Nhưng anh không còn run nữa. Chỉ thấy thật tuyệt vời.
Tuy nhiên chuyện ấy không thể diễn ra lâu được. Anh hoàn toàn không được chuẩn bị...
Jennifer biết rằng rồi việc này sẽ đến. Hai tay cô túm lấy hông anh và không cho phép anh rút lui. Anh rên lên. Anh đưa tay cô lên miệng mình và bắt đầu cắn nhẹ và hôn. Cô vẫn quỳ trước anh. Họ cứ như vậy trong một khoảng thời gian nào đấy. Không nói. Rồi cô đứng dậy, ôm lấy anh, gục đầu lên vai anh và thầm thì:
- Eljot, thế là anh không có lễ đặt tên rồi. Nhưng không sao. Em vẫn muốn anh đến chỗ em. Thậm chí lúc này còn hơn cả hôm qua, trước đây vài phút. Em muốn bây giờ chúng mình sẽ làm một cái gì đó cho em. Chúng mình sẽ làm chứ?
Cô lùi lại cài một cúc áo, nắm tay anh và kéo anh theo mình chạy ra khỏi giảng đường. Anh nhắm mắt chạy theo cô qua mê cung tối om của những hành lang và nghĩ rằng việc anh làm trước tiên, là hút thuốc lá. Hít khói thật sâu, nhắm mắt và nhớ lại, tuyệt vời biết bao. Thiếu thuốc lá "ngay sau" chuyện đó thật chẳng khác gì "chưa hoàn thành". Ngoài ra điếu thuốc này sẽ là điếu đặc biệt, bởi nó còn là điếu thuốc "ngay trước khi". Một lúc sau họ đã đứng trước cửa phòng cô ở phía đông của khu vực trường. Họ không bật đèn. Anh không còn muốn hút thuốc nữa. Anh chỉ muốn được cho vào càng nhanh càng tốt.
Họ thiếp đi, mệt rã rời khi bình minh ló dạng.
Hôm ấy mãi gần trưa anh mới đến phòng thí ngthiệm. Cô thư ký reo lên vì mừng khi nhìn thấy anh.
- Chúng tôi tìm anh đã mấy tiếng - cô ta nói. - Thậm chí chúng tôi đã định báo cảnh sát. Kể từ ngày anh từ Ba Lan sang, bao giờ anh cũng có mặt ở đây trước bảy giờ sáng. Tôi sẽ gọi ngay cho giáo sư, báo rằng anh đã có mặt. Chúng tôi lo cho anh quá. Không có gì xảy ra cho anh, thế là tốt rồi - cô ta nói thêm, rõ ràng là như vừa trút được gánh nặng.
Anh cảm thấy hơi ngượng vì đã làm cho mọi chuyện rối tung lên như vậy. Nhưng anh đã không thể biết trước được kịch bản của đêm qua. Hơn nữa - anh nghĩ, vừa cười thầm- đã chẳng xảy ra đấy thôi. Và những sáu lần không thể quên, không tính đến sự kiện trong giảng đường.
Với sự kiện trong giảng đường, anh không thể quên được. Gần về sáng, khi họ nằm ôm nhau, hút thuốc lá, uống trà xanh với nước bưởi vắt và đá - Jeunifer cho rằng trà xanh không chỉ làm sạch cơ thể mà còn làm sạch cả tâm hồn". - và nghe các bản noctunrne của Chopin, anh hỏi thẳng cô về sự kiện trong giảng đường. Câu trả lời của cô khiến anh không bao giờ quên. Cô vùng ra khỏi vòng tay anh, ngồi xổm trên giương trước mặt anh - cặp đùi mở ra của cô ở đúng trước mắt anh - cô chuyển từ thì thầm sang nói bình thường:
- Anh ngại về tinh dịch của mình phải không? Eliot, anh hãy nhìn nhận vấn đề như thế này. Tinh dịch bao gồm bạch cầu, đường trái cây, chất điện phân, axit chanh, hydrat cácbon và axit amin. Nó chỉ có từ năm đến bốn mươi calo và không gây nên bệnh mục xương. Bao giờ cũng có nhiệt độ bằng nhiệt độ cơ thể anh. Ngoài ra nó luôn luôn tươi, bởi tinh dịch cũ sẽ chết đi. Về nguyên tắc là không vị... Nếu anh uống nước dứa và không hút quá nhiều thuốc, nó sẽ có vị ngọt. Ngoài ra, nhờ có năm mươi đến ba trăm triệu tinh trùng mà nó được coi là thuốc tiên cho cuộc sống. Ít nhất thì cũng trong văn hóa phương Đông. Người Ấn Độ cho là như vậy. Em biết điều này không chỉ từ sách. Thầy dạy nhạc gần đây nhất của em, hồi còn ở đảo, trước khi em đến đây, đến Dublin này, là người Ấn Độ. Họ đã biến tình dục thành một nghệ thuật. Nghệ thuật này là tantra. Đối với tantra, tình yêu thể xác là lễ ban thánh thể. Trong tantra người ta không giao cấu với nhau. Trong tantra, Lingam, nghĩa là vương trượng sáng chói hay theo tiếng Anh là dương vật nó làm đầy Joni, nghĩa là khoảng không thần thánh của đàn bà, trong tiếng Anh tức là âm đạo. Những chữ đầu của tên anh, "IL", đó là viết tắt của tantra. Qua cái này, anh đã hứa hẹn sự sung sướng ngay từ đầu rồi.
Cô cười cúi xuống anh và hôn mắt anh...
Cô lại năm xuống, quay lưng sát vào anh nhất mà cô có thể rồi cầm tay phải anh đặt lên ngực mình. Họ nằm im lặng một lúc. Cô không thể không nhận thấy là của anh lại bị cương cứng. Cô gầm gừ khe khẽ vì hài lòng và nói:
- Ngoài ra đàn ông các anh rất thích khi người ta làm thế với các anh, đúng không?
Và không đợi anh trả lời, cô nói thêm, cười khúc khích:
- Em dám chắc là nếu các anh luyện tập được, thì các anh sẽ tự đưa nó lên miệng hàng ngày, đúng không?
Anh cười phá lên sau sự lưu ý cuối cùng ấy, quay mặt cô về phía mình và trước khi hôn, anh thầm thì:
- Từ hôm nay anh sẽ hút ít đi và sẽ ăn chủ yếu là dứa.
Kể từ cái đêm đáng nhớ đó, anh từ phòng thí nghiệm về phòng Jennifer hầu như hàng ngày. Một phần các phòng sinh viên, giống như phòng anh được gọi là phòng khách, là một căn hộ đơn có bếp và buồng tắm riêng.
"Nhỏ" là theo Jennifer. Phòng khách của anh còn lớn hơn toàn bộ căn hộ của bố mẹ anh ở Ba Lan nhiều.
Tất nhiên, những phòng như phòng của Jeumfer đang ở đắt hơn hẳn những phòng bình thường khác. Tuy nhiên việc này đối với cô không có ý nghĩa gì hết. Mặc dù chưa bao giờ họ nói chuyện về đề tài này, nhưng Jennifer có tất cả, trừ những khó khăn về tài chính. Một lần nhân thể anh gợi chuyện để Zbyszek nói về đề tài tài chính của Jennifer. Anh ta chỉ biết rằng bố Jennifer là chủ của mạng lưới phà nối đảo Wight, nằm gần Kornwalia trên kênh La Manche với Ports-mouth và Southampton. Có lần anh đủ can đảm để gợi chuyện về bố mẹ cô với cả cô. Jennifer nói giọng buồn buồn:
- Bố em là người Mỹ, xuất thân từ một vùng của Conneticut, nơi mà những người đàn ông ra đồng làm việc cũng đeo cravát, còn mẹ em là người Anh, xuất thân từ một gia tộc mà các bà mẹ khuyên các cô con gái của mình phải nhắm mắt và nghĩ về Anh quốc trong đêm tân hôn. Việc họ cho em, nếu đó thực sự là họ, cuộc sống, gần như là một phép màu. Em chưa từng bao giờ nhìn thấy bố em hôn hay động tới mẹ em. Bố cần phải giầu có, còn mẹ cần phải kiêu hãnh. Em có mặt trên cuộc đời này có vẻ như là do họ cần phải có người thừa kế. Đó không phải là một lý do lãng mạn, nhưng cũng có mặt tốt của nó. Nếu em đã không thể có được tình yêu của họ, thì ít ra cũng được thoải mái.
Cô kết thúc dứt khoát:
- Anh đừng bao giờ hỏi thêm về họ nữa. Nhớ chưa.
Cô chưa bao giờ nói chuyện với anh về tiền bạc. Đơn giản là cô có. Riêng bộ hi-fi đã đắt hơn cả chiếc Suzuki nhỏ mui trần màu bạc của cô, cái xe mà cô vẫn đỗ ở trước nhà sinh viên và thỉnh thoảng cô vẫn dùng nó đưa anh đi chơi. Chẳng có gì lạ: những sợi cáp dài mấy mét của các thùng loa của bộ dàn của cô được làm bằng hợp kim vàng. Mà vàng là chính.
Phòng của Jennifer có thể mò mẫm cũng tìm thấy. Anh rất hay phân vân, làm thế nào mà hàng xóm của cô có thể chịu nổi. Từ phòng cô, lúc nào cũng phát ra tiếng nhạc thật to. Thậm chí nếu đó có là Bach, Mozart, Chaikovsky hay Brahms thì anh cũng không thể chịu đựng được lâu. Họ là những người độ lượng thế nào đấy. Có thể phải là người Anh để có thể làm được vậy. Như đã thấy, sống trong những phòng bên cạnh, toàn là người Anh.
Thỉnh thoảng anh đến phòng cô từ sớm, họ cùng ăn tối và trò chuyện. Tiếng Anh của anh không ngừng tiến bộ. Cả hiểu biết về nhạc cổ điển cũng vậy. Sau mấy tuần anh đã khá đến mức có thể phân biệt được nhạc của Bach với nhạc của Beethoven, thậm chí cả Opera của Rossini với Opera của Prokofiev.
Ngoài ra, thế giới của nhạc cổ điển và các nhạc sĩ được Jennifer khám phá trước mắt anh, giống như một cuốn tiểu thuyết đầy tính dữ dội về tất cả những tội lỗi của thế giới này. Trước đây anh tưởng rằng thực sự phạm tội trong âm nhạc chỉ có thể là Mick Jagger hoặc tay trống Keith Richard, người lúc nào cũng đờ đẫn vì tất cả những gì có thể mút, uống hoặc chích. Không còn gì nhầm lẫn hơn! Đây hoàn toàn không phải bắt đầu từ rock and roll. Những tội lỗi trong âm nhạc còn xa xưa hơn cả những vở opera của Monteverdi, mà ông này đã soạn nhạc từ gần 300 năm trước đây. Tội lỗi chủ yếu là rượu chè và ngoại tình. Từ muôn đời nay. Mà nếu không phải từ muôn đời nay thì ít nhất cũng từ thời mà opera được chuyển từ lâu đài đến nhà hát và bắt đầu được bán vé và cần phải làm cho đám thường dân quan tâm đến một cái gì đó. Phần lớn những nhạc sĩ lớn của những thời kỳ ấy không chỉ bị nghiện âm nhạc, mà còn nghiện rượu, nghiện sự cô đơn vô tận và nghiện những người đàn bà của mình.
Ví dụ, Beethoven đã chết vì xơ gan. Ông uống bởi ông quá nhạy cảm, lúc nào cũng túng quẫn và thêm vào đó, ông còn bị điếc. Năm 1818 - cũng vào năm này, cậu bé Chopin tám tuổi đã chơi trước công chúng bản concerto đầu tiên của mình - ông bị điếc hoàn toàn, mặc dầu vậy ông vẫn tiếp tục sáng tác. Khi biết anh bị xơ gan, ông đã thôi không uống cô-nhắc và chuyển sang rượu vang sông Ranh vì cho rằng loại này có tính chữa bệnh đặc biệt. Tuy nhiên, ở Beethoveen, đây có lẽ mang tính di truyền. Bởi chromosom 21 ứng với chứng nghiện rượu là chromosom nhỏ nhất, có tính di truyền rất cao. Ông là đứa con thứ tám của mẹ ông, trong số đó có ba bị điếc, hai bị mù và một bị mắc bệnh tâm thần. Khi mang thai lần thứ tám, bà bị bệnh giang mai và nghiện rượu. Bà uống vì buồn, thì cũng như Ludvig thôi. Jennifer kể với anh với tình cảm như kề về tật nghiện rượu của chính cha mình. Thật may mắn vì hồi đó chưa có những phụ nữ đòi bình quyền, đấu tranh cho quyền được nạo thai của phụ nữ! Bởi chắc chắn họ sẽ khuyên mẹ của Beethoven nạo thai và nhân loại sẽ không có Bản giao hưởng số VII!!!
- Anh có hình dung được không, thế giới không có Bản giao hưởng số VII??? - cô hỏi đầy hưng phấn.
Anh hình dung ra rất rõ ấy chứ. Thế giới không có bản thứ nhất, cả từ bản thứ hai đến thứ sáu chứ chưa nói gì đến bản thứ bảy, anh cũng hình dung ra chẳng khó khăn gì. Nhưng anh không muốn chọc tức cô. Còn cô lại tiếp tục:
- Mà bản giao hưởng này cũng vĩ đại và quan trọng đối với nhân loại như Kim tự tháp, Vạn lý trường thành, bộ não của Einstein, chiếc bóng bán dẫn đầu tiên hay việc phát hiện ra ADN của anh. Nó thiên tài đến mức như một bản ký hiệu số bên cạnh ảnh của con người và hình vẽ sơ đồ hệ mặt trời nó đã bay vào Vũ trụ bằng một trong những đầu dò của Mỹ, và sau vài năm nữa sẽ tách khỏi hệ thiên hà của chúng ta và rất có thể sẽ được những nền văn minh khác nhận được. Còn trước hết nó đơn giản là đẹp: Anh có biết là chỉ vì một bản giao hưởng ấy mà người ta đã xây dựng ở Paris và Viên những phòng hòa nhạc lớn hơn?!
Jennifer còn biết nhiều chuyện hay ho khác của cái thế giới hư hỏng của những nhạc sĩ hàng đầu của thế kỷ trước. Ví dụ như về Brahms, bên cạnh Beethoven, là người hay có tên trong bảng xếp hạng của thời kỳ đó nhất.
Brahms, cũng như Beethoven, uống rất nhiều. Tuy nhiên ông không bao giờ uống cô-nhắc, bao giờ ông chỉ uống vang. Nhưng thay vì thế, ông chuyên đi ngoại tình. Một trong số người tình của ông là vợ của người bạn thân của ông, một mạnh thường quân của âm nhạc. Chuyện ngoại tình của ông đi vào lịch sử chủ yếu là do việc ông ngủ với Clara Vieck, vợ của Robert Schumann, một nhà soạn nhạc vĩ đại khác của thế kỷ XIX. Thế giới không bao giờ tha thứ cho ông về chuyện đó. Không phải vì ông đã ngủ với Clara. Điều này thậm chí còn tuyệt hợp với nghệ sĩ. Mà chủ yếu là vì bối cảnh đã dẫn tới chuyện đó. Vào năm 1854, Schumann bị đưa vào bệnh viện tâm thần sau một lần tự sát không thành, Brahms chuyển hẳn đến Dusseldorf, nơi có ngôi nhà của ông bà Schumann, để "an ủi" người vợ của kẻ tự sát không thành, Clara xinh đẹp. Từ kẻ an ủi ông đã trở thành người tình và thậm chí đã sống với cô ta hai năm. Và thời gian đó ông đã sáng tác được tác phẩm thực sự thành công của mình, Concerto số 1 cung rê thứ dành cho piano. Bản concerto này đã nằm trong bảng xếp hạng của các phòng hòa nhạc châu Âu suốt một năm dài. Khi Schumann qua đời trong trại tâm thần năm 1856, Brahms đã bỏ Clara và đi Dusseldorf. Ngay sau đấy ông bắt đầu uống. Thỉnh thoảng ông uống với cả Wagner, một nhạc sĩ nổi tiếng khác, người mà ông căm thù, người luôn ghen với ông không phải vì vinh quang, mà là sự thành công đối với phụ nữ.
Thực ra thì nói chung, thế giới của các nhạc sĩ kiểu Brahms và Liszt là thế giới của lòng hận thù, ghen ghét, trống rỗng và đủ các trò dan díu. Chỉ một người trong số họ được tất cả kính trọng và ngưỡng mộ vô điều kiện. Người mà Mozart và Beethoven đã chơi những tác phẩm của ông. Chopin đã học nhạc qua ông.
Nhạc sĩ này luôn luôn là en vogue (mốt) - trước đây cũng như bây giờ. Đó là Bach. Tuyệt đối evergreen. Nếu thời đó có MTV, thì chắc chắn họ sẽ mở những chủ của Bach như giờ đây mở nhạc của Pink Floyd hoặc Genesis.
- Eljot, anh về nguyên tắc, phải yêu ông ta hơn tất cả những người khác - Jennifer nói giọng xúc động. - âm nhạc của ông ấy là sự chính xác của toán học. Giống như những chương trình của anh ấy. Mặc dầu vậy, cả những người theo chủ nghĩa duy lý lạnh lùng và những kẻ lãng mạn tinh tế đều thích ông ta. Ngoài ra, không có ai ghét ông ta như những tay chơi nhạc jazz. ở Bach, có drive and swing. Thậm chí trong Bản ca ngợi Thánh Giăng và Bài kinh nguyện h-moll cũng có swing. Ngoài ra, Bach cũng như Chúa Trời. Người ta không thể yêu hay ghét Bach. Người ta chỉ có thể tin hoặc không tin Bach mà thôi. Hẳn Bach đã được lập trình trong thời điềm khởi đầu của vũ trụ. Có thể chơi Bach trên bất cứ một loại nhạc cụ nào và bao giờ cũng vẫn vang lên như Bach. Thậm chí trên ghita điện hay trên đàn organ điện tử.
Anh biết được tất cả những điều đó trong bữa tối ở chỗ Jennifer. Cô mở chai vang của anh mang đến, ngâm nga lời những vở nhạc kịch hoặc kể những câu chuyện lý thú về thế giới âm nhạc, cô đặt đĩa vào mâm của cái máy quay đĩa, ngồi lên đùi anh trong chiếc sô pha thoải mái và họ nghe nhạc trong im lặng. Thỉnh thoảng anh hút thuốc, xì-gà mà cô mua trong một cửa hàng đặc biệt ở Dublin. Thỉnh thoảng họ cùng hút. Iennifer thích xì-gà. Cô càng thích hơn khi nhận thấy hình ảnh điếu xi- gà trong miệng cô tác động đến anh như thế nào, nhất là sau khi đã uống vài ly vang.
Mọi cái với họ thật dễ chịu. Nếu giờ đây phải gọi tên cái giai đoạn cùng với Jennifer ở Dublin ấy, thì anh sẽ nói rằng họ hạnh phúc như một cặp uyên ương ngay sau ngày cưới. Song họ đã không bao giờ được gọi là một cặp và họ cũng chưa bao giờ nói về tương lai của mình. Đơn giản là họ cùng nhau tiêu thời gian. Anh không yêu cô: Chỉ rất thích cô. Và rất đòi hỏi. Có thể vì vậy mà họ đã cùng nhau tốt đến vậy.
Hôn nhân không nhất thiết phải được thiết lập trong trạng thái bệnh tật, là trạng thái được gọi là yêu này. Điều này đúng hơn phải bị cấm. Nếu không cả năm, thì ít nhất cũng từ tháng ba đến tháng năm, khi trạng thái này vì lý do nhiễu loạn của cơ chế tạo hoóc môn, trở nên phổ biến và những biểu hiện đặc biệt mãnh liệt. Trước hết cần phải loại bỏ thói quen, giải độc nghiêm chỉnh và sau đấy mới quay lại với ý nghĩ về hôn nhân. Trong trạng thái khi mà người ta yêu nhau, dopamina tràn qua các kênh suy nghĩ có lý trí và nhấn chìm não. Đặc biệt là bán cầu trái. Điều này đã được chứng minh đầu tiên là trên chuột sau đó trên tinh tinh và cuối cùng là trên người. Nếu trạng thái yêu kẻo quá dài, con người sẽ chết vì kiệt sức, rối loạn nhịp tim hoặc tán đập nhanh, vì đói hoặc hội chứng mất ngủ. Những người dù sao cũng không bị chết, thì trong trường hợp khá nhất cũng phải vào bệnh viện tâm thần.
Với Jenmfer, anh hoàn toàn kiểm soát được dopamina của mình, mặc dầu vậy, họ vẫn có bao nhiêu trải nghiệm không thể nào quên. Mối quan hệ của họ, cái mà sau này anh không thể có lại được với bất cứ người phụ nữ nào khác, là minh chứng cho sự chiến thắng của những ý nghĩ trong sáng thuần khiết tinh thần trước ý nghĩ được thể hiện trong hóa học của những hoóc- môn hoặc nơron vận chuyển nào đó.
Bởi âm nhạc là một đam mê lớn đến như vậy của Jennifer, nên từ ý thức về tình bạn, anh buộc phải, ít nhất cũng là giai đoạn đầu, củng nghe và thắp lên trong tình dù chỉ là chút ít lòng nhiệt tình. Suốt hai tuần đầu tiên là như vậy. Sau đó tự anh bắt đầu nhận ra rằng, sau cà ngày phân tích các chương trình của các bản sao gien, làm việc với các nucleosom và histonam thì những đĩa nhạc của Bizet, Ravel hay Wagner được thu thật tốt sẽ khiến anh dịu đi và thư giãn. Hoàn toàn ngược lại với Jennifer. Cô trải qua mỗi concerto như chính đám cưới của mình. Xúc động và bao giờ cũng hết sức hưng phấn. Đó quả là một chòm sao tuyệt vời cho cả hai. Khi đó họ lên giường, hoặc yêu nhau trên đi-văng hoặc trên sàn nhà. Với sự hưng phấn của cô và sự yên ả nơi anh, không có gì xảy ra quá sớm. Nhờ có âm nhạc mà họ đạt được đỉnh điểm gần như là đồng thời.
Ngoài ra, anh còn nhận thấy, tốt nhất đối với họ là sau khi nghe opera của Puccini. Do đó mà Turando, Tosca, Madame Buttterfly với anh không chỉ là tên của các vở opera, mà còn là bản ghi chép câu chuyện tình thầm kín của đời anh. Có hai vở opera của Puccini đặc biệt ghi sâu trong trí nhớ anh. Với Jennifer, Tosca là một sự trình diễn có thể được gọi là nỗi kinh hoàng về chính trị hoặc như cô tự gọi, "mối tương quan giữa opera với những phòng tra tấn". Cô cho rằng nếu nó được sáng tác vào giai đoạn hiện tại, thì chắc chắn phải ở Hollywood và chắc chắn sẽ được gọi như bộ phim với Schwarzenegger - Hãy chết từ từ. Jennifer có mấy đĩa Tosca, mỗi đĩa với một nữ diễn viên chính khác. Mặc dù anh chỉ biết mỗi tên Mang Callas, cô vẫn giải thích cho anh, rằng cô Renata Tebaldi nào đó hát mới thực sự tuyệt trần. Anh thì chẳng nhìn thấy sự khác nhau nào, nhưng Jennifer vô cùng ngưỡng mộ Tebaldi.
- Cô ấy hát như thể đang có mặt ở đây, trong phòng này, và nhìn vào mắt chúng ta. Anh có cảm thấy thế không? – cô hỏi.
Anh không cảm thấy. Với lại, anh không muốn cảm thấy có bất cứ ai khác trong phòng này ngoài Jennifer. Cavaradossi đã thực sự bị đội thi hành án bắn, Jennifer bắt đầu run. Một lát sau, khi Tosca thất vọng ngã xuống, Jennifer nép vào anh như một đứa trẻ đang sợ bão. Mấy phút sau, ở trên giường, cô đặc biệt tình cảm, nhẹ nhàng và im lặng. Sự im lặng này là bất thường. Bình thường, Jennifer đặc biệt ồn ào, điều mà anh rất thích.
Tiếp theo, Cyganeria của Puccini đã đưa Jennifer đến trạng thái gần như là mê đi. Cô đặc biệt hay nghe đĩa này. Chuẩn bị cho bữa tối, cô mặc hết sức trang trọng, lấy champagne, từ chối vang của anh, cô để điếu xì-gà Cuba loại ngon nhất cạnh đĩa trái cây tráng miệng và sau đó, khi đã ăn xong, cô đi đến chỗ anh trên đi-văng, không mặc đồ lót. Sau Cyganeria không bao giờ họ kịp vào được đến giường. Sau đó, khi tất cả đã xong xuôi, cô thích nói về vở opera này. Có lần cố nói với anh rằng, cô mơ ước viết phần hai cho Cyganeria. Một Cyganeria II như vậy thì chỉ có Jennifer mới có thể nghĩ ra. Ngoài ra cô còn nhận thấy rằng khi người đàn ông gặp người đàn bà thì mọi cái đều có thề xảy ra. Và Cyganeria là bằng chứng tốt nhất nói lên ràng đó là sự thật.
Những ngày anh làm việc đến khuya và họ không thể cùng nhau vào buổi tối được, Jennifer không khóa cửa phòng mình. Anh vào thẳng phòng tắm và cứ khỏa thân lên giường cô. Cô rất thích anh chui vào chăn, đánh thức cô dậy và chậm rãi hôn khắp người cô, đầu và miệng anh hạ cánh xuống giữa hai đùi cô.
Quãng thời gian cùng với Jennifer giống như một bộ phim truyền hình nhiều tập mà người ta sẵn lòng xem hàng ngày và trong đó không có nỗi buồn và sự nhàm chán, tình dục và nhạc thường chiếm ưu thế. Ngoài ra anh chăm chút cô như chăm chút người đàn bà của anh. Anh mua hoa, xoa bóp bàn chân sưng khi cô đi tập aerobic về, chịu đựng những cơn cáu giận vô cớ vào những ngày khó chịu trước kỳ kinh của cô, anh vặn lại vòi nước bị rò rỉ, hôn tay cô lúc tạm biệt để đi làm vào buổi sáng, cùng cô đi Dublin và đi hàng giờ với cô khắp các cửa hàng không một lời phản đối, uống trà xanh với cô và nói chuyện về âm nhạc, cũng học thi với cô, gọi điện để hỏi cô đã án trưa chưa. Ngoài ra, mặc dù không thành công lắm trong việc giảm hút thuốc lá, anh ăn dứa hoặc uống nước ép dứa đều đặn.
Và mặc dù không hứa cũng không đòi hỏi gì về lòng chung thủy, họ không thể hình dung được lại có thể khác đi. Anh nhớ chỉ có một lần Jennifer nói đến chuyện này. Và không phải là trực tiếp. Một cuối tuần nào đó cô bay về nhà trên đảo Wight qua London.
Anh nhớ cô. Anh cảm nhận một nỗi buồn thực sự, u uất vì thiếu vắng và xa cách cô. Hai ngay sau anh thấy một bưu thiếp trong hộp thư của mình. Ngoài năm dòng kẻ với mấy nốt nhạc bao giờ cũng có, và luôn luôn khác nhau mà bao giờ cô cũng thêm vào tất cả các thư hoặc bưu thiếp của mình còn có dòng chữ:
Eljot, em muốn anh biết (mặc dù em qua thật không biết sự hiểu biết này có ích gì cho anh không), rằng anh là người đàn ông duy nhất chạm vào em. Cả trong ý nghĩ của em nữa. Có thể em không muốn anh biết điều này nhưng đơn giản là em muốn nói với anh .
Jennifer
Khi đó lần đầu tiên anh hiểu rằng, cái đang có giữa họ không phải là bất cứ một bộ phim truyền hình nhiều tập nào đối với Jennifer. Sau khi quay lại, không bao giờ cô trở lại lời thú nhận này nữa và không bao giờ bình luận về tấm bưu thiếp kia. Ở bên Jennifer, anh biết thêm nhiều vở opera mới của nhiều nhạc sĩ, phân biệt được ngày càng nhiều các bản giao hưởng, hút loại xì-gà càng ngày càng ngon hơn, nói tiếng Anh ngày một tốt hơn và trải qua những sáng tạo tình dục ngày càng đáng mơ ước hơn. Bên cô anh thôi không còn ngạc nhiên trước bất cứ điều gì nữa. Cho tới tận buổi sáng hôm ấy, ba tuần trước khi anh trở về Ba Lan.
Thời gian ở Dublin đã sắp hết. Anh làm việc nhiều đến nỗi rất hiếm khi được ăn tối cùng với Jennifer. Đôi lần muộn đến mức nói chung anh không về phòng cô: Anh về phòng mình mệt rã rời và để nguyên quần áo đi ngủ. Song đêm hôm ấy anh đã về phòng cô. Lần ấy anh không phải mặc dù anh rất thích điều này, đánh thức cô bằng nhũng nụ hôn. Cô chưa ngủ khi anh rón rén chui vào chăn. Cô khỏa thân. Chờ anh.
Cả hai đều cảm thấy mọi chuyện sẽ kết thúc. Bây giờ họ yêu nhau khác hơn. Không còn sự hoang dại ấy, từ tốn và với đôi chút suy nghĩ. Như thể họ muốn trải qua tất cả thật chính xác, có ý thức và làm sao để nhớ nhiều nhất và lâu nhất Những kỷ niệm ấy phải đủ cho một thời gian dài. Thậm chí là cho suốt cuộc đời. Jennifer cũng trải qua đỉnh điểm khác hơn. Cô đã khóc vào một lúc ngay sau đó. Khi anh hỏi tại sao, cô không trả lời, chỉ dùng hết sức đề ôm anh thật chặt.
Sáng hôm sau thức dậy, anh cảm thấy có cái gì nằng nặng đè lên người mình. Thoạt đầu anh nghĩ là đang mơ. Anh từ từ mở mắt. Jennifer, hoàn toàn khỏa thân đang ngồi dạng chân lên người anh, hai tay xoa và nắn đầu vú mình, đầu ngửa ra phía sau và cô nhịp nhàng nhấc người lên. Cô thở mạnh. Của anh đang ở trong cô!
Một lát sau, khi cô thẳng đầu lại, anh nhìn thấy cô đeo bộ tai nghe to màu đen. Cô nghe nhạc. Anh không để cho cô biết là mình đang nhìn cô một lúc. Anh khép hờ mắt và quan sát cô. Cô nhấc người lên, nhanh hơn hoặc chậm lại, thở chậm hơn hoặc gấp hơn, thỉnh thoảng lại phát ra tiếng rên. Đó là một hình ảnh thật đặc biệt. Hai bầu vú nặng của cô nẩy lên rơi xuống. Miệng hé mở, thỉnh thoảng lại liếm môi. Rồi chắc cô phải cảm thấy sự cương cứng của anh dữ dội hơn. Cô mở mắt tìm anh. Cười. Cô đặt tay lên miệng, ra hiệu cho anh im lặng. Cô nghiêng người - vẫn liên tục nhún trên anh - để lấy cặp tai nghe nữa dưới gối. Cô nhấc tay anh ra khỏi ngực mình và đặt vào đó cặp tai nghe. Anh nhấc đầu, đeo tai nghe.
Nhà triết học Colline đã hát đúng aria nổi tiếng Vecchia zimarra. Rudolf tưởng là Mimi đã ngủ nên đi ra để kẻo rèm cửa sổ Jennifer không chỉ nhún. Lúc này cô còn chuyển mông dữ dội theo chiều ngang, khiến vùng hông làm thành những đường tròn nhỏ. Cô đưa tay Jakub lên miệng và cắn. Khi Rudolf quay lại với Schaunard, Colline và Musseta, nhìn ánh mắt của họ anh biết ràng Mimi đã chết. Jennifer khóc to. Cô kẹp đùi lại. Rudolf đến chỗ Mimi. Jennifer đột nhiên quay lưng lại Jakub, vẫn không ngừng nhún. Jakub nắm ngang hông Jennifer, nhịp nhàng ấn về phía anh. Rudolf quỳ xuống bên giường Mimi. Jennifer rú lên, vứt tai nghe.
Cyganeria kết thúc. Jennifer nghiêng rất nhanh người ra trước, những móng tay cô cắm vào đùi anh. Khi cô nhấc người lên, anh nhìn thấy trên mỗi bên chân anh ba rãnh sâu dài chừng mười centimét đang rớm máu.
Những vết sẹo sau Cyganeria "lúc gần sáng" sâu đến mức sau đó anh đã mang chúng theo về Ba Lan. Ngoài ra, lúc còn ở Dublin, chúng đã khiến anh bị lúng túng khi cởi quần áo trong các buổi tập squash hàng tuần với Zbyszek. Kể từ khi anh lui tới phòng Jennifer, Zbyszek lảng tránh anh. Đến giai đoạn cuối của anh ở Dublin, họ chỉ còn gặp nhau ở chỗ tập squash.
Những gì liên quan đến Jennifer, mãi cho tới buổi liên hoan chia tay do anh tổ chức vào rước ngày anh về nước, mới được bộc lộ rõ. Anh mời vài người quen ở viện, Zbyszek và đương nhiên là cả Jennifer. Cô dẫn theo cô bạn Madelaine, người Pháp, học cùng năm.
Không khí tối hôm đó thật khó để nắm bắt được. Nỗi buồn chia tay xen lẫn với niềm vui vì cuối cùng mình đã được về Ba Lan. Ngoài ra anh còn vô cùng hưng phấn vì những gì mình sẽ làm với những tài liệu khoa học mà anh thu thập được ở đây. Chỉ có một điều anh biết chắc chắn: sẽ nhớ Jennifer vô cùng.
Jennifer đã mua cho buổi tối hôm đó một chiếc váy trắng với những bông hoa to màu xanh thẫm. Cô khiến tất cả mọi người phải ngạc nhiên. Đó là lần đầu tiên một người nhìn thấy Jennifer mặc váy, mà cô đã học ở Dublin được bốn năm. Trông cô thật khác thường. Anh rất thích cô buộc tóc thành lọn để hở cổ. Cô đến hơi muộn, hút một điếu xì-gà không lồ, và tất nhiên là một người đều nhận thấy ràng bên dưới chiếc váy hơi trong, mỏng cô không mặc nịt vú, nhưng lại mặc chiếc quẩn lót đen khoét cao. Cô đã hơi ngà ngà say. Kẹp dưới nách mấy chiếc đĩa hát. Khi có một ai đó nói đùa với cô về chiếc quần lót không hợp với váy, cô trả lời:
- Hôm nay là ngày tang lễ đầu tiên sau Jakub. Mai tôi sẽ mặc nịt vú đen và bỏ quần lót..
Bữa tiệc sôi động dần. Cô gái người Pháp rô ràng là rất quan tâm đến Zbyszek, người đã hôn cô ta một cách phô trương khi đang nhảy, đặc biệt là khi Jennifer nhìn họ. Những lúc không nhảy, họ ngồi bên chiếc bàn đầy những vỏ chai phản chiếu ánh sáng từ những ngọn nến. Anh ta đã thuyết phục được Jennifer từ bỏ việc "tra tấn" mọi người bằng những opera mà cô mang đến. Họ ngồi nói chuyện bên bàn. Jennifer thỉnh thoảng chạm vào anh, lặng lẽ nghe lỏm câu chuyện của họ và nhặt những mẩu sáp nóng chảy xuống đế đựng nến để trên bàn.
Chợt có tiếng cười khúc khích. Jennifer đặt cạnh ly martini một chiếc dương vật kích cỡ bình thường đang cương cứng, được cô nặn từ sáp nến mà cô nhặt từ tất cả các đế đựng nến trên bàn.
Khi tiếng cười nhỏ đi, cô cầm chiếc dương vật bằng tay phải và đưa vào khe giữa hai bầu vú, nói với giọng mơ màng:
- Vật kỳ diệu này đã được nặn một cách hoàn toàn vô thức trong tay tôi. Nếu không phải là ý thức, thì chắc chắn tiếm thức sẽ phải lãnh trách nhiệm này. Bây giờ thì các bạn đã biết, tiềm thức của tôi quan tâm đến cái gì.
Cô nói và nép sát vào anh. Zbyszek bất thình lình rời khỏi bàn một cách rất khoa trương. Rõ ràng là anh ta cú. Thêm vào đó cô gái người Pháp hoàn toàn bỏ qua anh ta và vẫn ngồi lại. Jennifer làm như không nhận thấy tất cả những chuyện đó. Cô im lặng. Rồi cô nắm tay anh dưới gầm bàn và nói: - Mình đi đi. Hãy quay lại với ngày đầu tiên của chúng mình trong ngày cuối cùng này của chúng mình.
Cô lôi anh ra khỏi phòng và bắt đầu chạy dọc hành lang về hướng Viện anh. Khi họ đến trước giảng đường mà anh nhớ rất rõ kể từ lễ đặt tên anh ấy, cô dừng lại, và như lần ấy cô đưa anh vào phòng. Khi giống như lần ấy, cô quỳ trước mặt anh và như lần ấy, họ lách cách bật tắt đèn neon, anh nghĩ rằng tuy nhiên, đây không phải là deja vu, không phải là ảo giác. Lúc này, đây là Jennifer của anh. Sau đấy, khi họ đang ép sát vào nhau và khóc trong giảng đường tối om ấy, cô thì thầm:
- Jakub, em yêu anh vô cùng, em không thể hình dung ra ngày mai sẽ ra sao.
Một cái lắc vai kéo anh ra khỏi dòng suy nghĩ. Blues kết thúc. Cô gái nhảy ngồi trước mặt anh.
- Anh uống drink của tôi và ở chỗ ly mà tôi để lại dấu son môi.
Đó không phải là Jennifer.
- Xin lỗi. Tôi mải nghĩ quá. Rất xin lỗi. Tôi sẽ mua đền chị drink ngay. Tại tôi sơ ý. Tôi lơ đễnh như vậy đấy. Mong chị thứ lỗi.
- Có gì đâu. Anh không cần phải xin lỗi. Được quan sát anh, quả là điều đặc biệt. Anh ngồi, nhắm mắt và mút chiếc ly này.
Cô lấy chiếc ly ra khỏi tay anh và đi về phía quầy bar, cạnh đó dàn nhạc đang thu dọn nhạc cụ.
- Chị nhảy đẹp lắm. Có thể chị là người đảo Wight? – anh gào lên theo cô ta.
- Không phải đâu! - cô ta trả lời, mất hút sau cánh cửa dẫn ra khách sạn. Anh đứng lên và đuổi kịp cô ta.
CÔ :
Paris, ngày 16 tháng bảy 1996
Em thích anh. Rất thích. Và em còn mừng nhiều hơn vì em có thể thích anh. Mặc dù đó chỉ gần như là toàn bộ sự thật (hiện tại em không muốn đẩy vấn đề đi quá xa). Hôm nay anh đừng coi em quá nghiêm túc.
Chắc chắn trong em đang xảy ra một phản ứng sinh- hóa nào đấy. Em đã dùng một loại chất lỏng tuyệt vời có tên brandy Am, cô-nhắc Armenia, hình như đó là loại đồ uống duy nhất mà Churchill sử dụng. Em đã biết tại sao ông ta chọn chính loại đó. Em chỉ không hiểu, tại sao ông ta tại luôn luôn bị stress. Hẳn đó phải là lỗi của sương mù liên tục ở London.
Giờ đây em vô cùng biết ơn thế giới vì nó hiện hữu, và em hiện hữu. Em thích trạng thái này. Càng thích hơn vì sau 52 giờ và 36 phút nữa anh sẽ hạ cánh ở Paris. Ngoài ra hôm nay em hơi buông thả một chút. Và chắc chắn đây không phải vì Renoir. Cơ bản là vì Asia. Chính nó xui em đi thẳng từ d'Orsay đến Bảo tàng ái tình ở gần quảng trường Pigalle. Đầu tiên một người của trường phải ấn tượng đã lên dây cho em, sau đó em bị hưng phấn bởi tất cả các thể loại nghệ thuật. Một bảo tàng như vậy không ở đâu có. Anh thử đoán xem, em nhớ cái gì hơn : Renoir hay tình ái?
Có xấu không, nếu là tình ái? Asia nói rằng không, vì thỉnh thoảng cũng cần phải cảm thấy sexy. Em hỏi nó phải làm gì để cảm thấy sexy, nếu không phải đang ở đúng Paris. Anh có biết Joanna Magdalena cực kỳ nhạy cảm một cách trí tuệ trả lời như thế nào không? Nó trả lời em chính xác như thế này :
"Mình mặc một chiếc váy chật và không mặc quần lót".
Ai mà có thể nghĩ được lại đơn giản đến thế.
Anh có biết em đã nhận thấy gì ở Asia khi đi thăm bảo tàng ấy không? Nó bị quyến rũ bởi tính nữ trong một tác phẩm. Theo em gần đây Asia bị đàn bà lôi cuốn. Từ những gì mà thỉnh thoảng nó kể, thì thấy rằng không có người đàn ông nào thực sự lọt vào được óc tưởng tượng của nó. Em biết từ chính nó rằng, nó có thể sung sướng với tình dục, nhưng em cũng biết rằng để có điều đó, nó không cần đến đàn ông.
Khi tụi em ra khỏi bảo tàng ấy, em muốn được một mình. Rất muốn. Tốt nhất là trong phòng mình ở khách sạn. Có thể có một lúc nào đó em sẽ nói cho anh biết, tại sao lại là chính ở đó. Em có mức oxytocin tương đối cao để có thể chịu đựng được bất cứ cái gì, trừ anh, ở gần. Như một đệ tử của thuyết hoóc- môn, tiện thể em chỉ thông báo để anh biết vậy thôi. Và đây chỉ để "cho vào cặp", như anh gọi thế. Có thể nó sẽ có ích cho anh trong nghiên cứu".
Em bảo Asia để em lại một mình. Nói chung nó không phản đối. Như em biết nó, thì nó cũng muốn được một mình. Em đến quán Café de Flore. Chủ yếu là để viết e-mail cho anh. Em chưa bao giờ viết gì cho anh trên giấy. Em nghĩ rằng trong Café de Flore em có thể thử. Camus, Satre và Prévert từng viết tại đây. Em đã thử. Một cảm giác rất lạ. Một bức thư bình thường, có thề có mùi và vết loang của rượu vang hoặc dấu môi ở mặt sau. Internet không thể thay thế cho những thứ đó được. Khó có thể nhay e-mail, mà em lại muốn nhay cái khăn giấy mà em dùng để viết cho anh trong Café de Flore ấy. Ngoài ra, sẽ rất nguy hiểm nếu viết e-mail cho anh khi đang nằm khỏa thân trong bồn tắm. Gần đây, đó là mơ ước lớn nhất của em. Viết e-mail cho anh trong bồn tắm. Có rượu vang trong máu, toàn thân được phủ một lớp bọt tắm thơm mùi lê, bách, mùi quýt và nghe và cảm nhận độ rung trong giọng ca của Morrison. Điều này chỉ có thể làm với sự hứng khởi mãnh liệt. Nhưng chắc chắn không phải là dòng điện. Do đó mà không thể mang Internet vào bồn tắm, tuy thế, em vẫn yêu quí nó.
Một nửa bức thư này được viết ở đó. Trong Café de Flore. Nửa kia ở cách đó rất gần. Trong một quán cafe khác, mốt hơn của Paris, quán Les Deux Magots. Em không biết tất cả các trí thức nhìn thấy gì trong quán cafe này. Cà phê thì thật kinh khủng. Sô-cô-la nóng thì có vị giống như zurek trong quán bar ở Plock. Đó là món zurek tuyệt hảo, nhưng nếu là sô-cô-la thì thật kinh khủng. Chỉ duy nhất có nội thất và rượu vang là có tác động. Nhưng từ mấy ngày nay, rượu vang ở đâu cũng tác động đến em. Em viết thêm mấy dòng của thư này ở đó, bức thư mà lúc này em đang gõ lại trong một phòng nhỏ ở phía sau quầy lễ tân của khách sạn. Đã gần nửa đêm. Người trực lễ tân đang đùa với Asia và Alicja, còn em thì được phép thoải mái trên ổ cứng máy tính của cậu ấy. Vì thế mà em hơi không nghiêm chỉnh và em nghĩ liệu tay lễ tân kia có nhận thấy Asia đúng là hôm nay không mặc quần lót bên trong chiếc váy bó sót kia không. Em thì thấy là không. Ngoài ra em cảm thấy an toàn vì không có ai, ngoài anh, đọc được thư nậy. Em sẽ gửi rồi xóa ngay. Chủ yếu là vì em chỉ muốn hư hỏng và buông thả với riêng anh thôi.
Em nhớ anh.
Em cảm thấy, biết gọi thế nào nhỉ, "dễ bốc cháy". Hôm nay trong bảo tàng tình ái ấy em đã nhận ra một qui tắc rất đặc trưng. Ở đó có rất nhiều tranh và tượng của các mụ phù thủy. Đó là điều lạ lùng và đặc trưng trong bảo tàng này. Anh nhất định phải đến đó nếu anh có ít nhất là 90 phút rảnh rỗi trong dịp đến Paris lần tới. Tức là em nhận thấy vô số các mụ phù thủy khỏa thân. Chính họ rất "dễ bốc cháy". Ví dụ như khi người ta thiêu sống họ trên đống lửa. Mặc dù đã rất xa xưa rồi, nhưng em vẫn tưởng như phù thủy, thật thà mà nói, đó chỉ là những phụ nữ vô tội bị trừng phạt một cách không thương tiếc. Bị trừng phạt bởi những người đàn ông không thể tha thứ cho sự phản bội của vợ mình, vậy là để giải tỏa mặc cảm, họ đã ra lệnh thiêu những người đàn bà lạ, mà thường họ phản bội vợ mình với chính những người đàn bà đó, và gọi họ là những mụ phù thủy. Anh có biết em nhận thấy điều gì trên những bức tranh đó, trên nhũng bức tượng đó? Những mụ phù thủy bốc cháy đang cười.
Những người đàn bà phản bội và bị thế mạng thường thoạt đầu là hóa đá, còn sau đó bị thiêu, họ bốc cháy và cười sung sướng...
Lúc này em thấy buồn bởi nghĩ đến những mụ phù thủy ấy trong bối cảnh. Nếu mà anh nghe thấy tiếng em trên mạng, thì lúc này anh sẽ nghe thấy bài thơ đã khiến em xúc động từ mấy tuân nay. Đã có lần em đọc nó, em không biết chính xác ở đâu, ở Warszawa. Em đã nhớ lại nó khi nhìn những mụ phù thủy bốc cháy trong bảo tàng gần quảng trường Pigall ở Paris:
Anh mơ thấy chúng ta cùng nhau, lạy Chúa
Trên rìa những chiếc đĩa khi em dọn bữa
Và trên mép của bộ ga hôn nhân đã nguội lạnh
Trong những nếp lằn sâu quanh mắt
Anh còn mơ thấy chúng ta ngoan cố cùng nhau
Và anh bện những bàn tay của chúng ta lại
Để không thể rời xa
Còn nếu không
Hãy đừng đưa chúng ta đến những cám dỗ
Cứ để cho mì sợi dành cho ngày chủ nhật
Quấn lên tôi
Hãy để tôi được thiếp đi
Và mỗi chúng ta -
Hãy chơi riêng
Amen
(Tác giả của bài thơ là Dorota Kiersztejn Pakulska)
Hẳn một mụ phù thủy hiện đại nào đó đã viết nó. Em không thể nhớ thậm chí là tên của bà ta. Em ngưỡng mộ bà ta, kể cả một bà không tên như vậy. Bài thơ này khiến em cảm động và buồn. Em biết là anh cũng thế. Em không biết tại sạo mình lại nhớ nó nữa. Em hoàn toàn không cho rằng Mười điều răn của Chúa là cuốn hướng dẫn tốt nhất trong cuộc sống. Bao giờ anh đến đây, em sẽ cho anh biết điều răn thứ mười một của em là gì.
TB: Anh có nghĩ rằng quá trình chờ đợi sẽ kéo dài bản thân sự chờ đợi. Em thì không nghĩ thế. Em đã cảm thấy rất chắc chắn.
Rốt cuộc, anh hãy đến đi.


Chương 8

ANH: Đã ba giờ, khi cuối cùng thì anh cũng được ở trong phòng mình. Máy bay của anh cất cánh đi New York vào chín giờ sáng.
Mình hy vọng rằng ít nhất cũng có một phi công của chuyến bay đi New York này uống ít hơn mình đêm nay - anh nghĩ lúc đánh răng trong phòng tắm. Ngược lại với phần đông mọi người, anh thích tắm sau khi đã chải răng sạch sẽ.
Anh đứng dưới vòi tắm và nghĩ đến cô. Da thịt cô có hương vị như thế nào nhỉ? Khi cô gọi tên anh, nó sẽ vang lên ra sao? Họ sẽ nói gì với nhau trong những câu đầu tiên ở sân bay? Anh sẽ phải ôm cô như thế nào lúc gặp mặt? Bỗng nhiên qua tiếng nước chảy, anh nghe như có tiếng chuông điện thoại. Anh thả vòi tắm. Đúng là có điện thoại. Anh đẩy cánh cửa kính của ca bin tắm và không lau chùi gì, đi thẳng vào phòng ngủ. Christiane. Cô thư ký của Viện anh ở Munich.
- Jakub, anh đi đâu vào đêm hôm thế? Tôi gọi cho anh đã hai tiếng nay! Anh có thể ghi lại những điều tôi sẽ nói không? Okay, anh có thể. Vậy thì anh hãy nghe thật kỹ này. Hôm nay anh sẽ không bay đi New York nữa. Mà sẽ bay đi Filadelfia. Ở đó anh sẽ đi taxi đến Princeton. Chỉ mất bốn mươi nhăm phút, nếu không bị tắc đường. Ông giáo sư sinh học phân tử sẽ chờ anh Ở Princeton. Anh sẽ nhận vé điện tử cho chuyến bay đi Filadetha ở phòng chỉ dẫn cho hành khách. Số hiệu vé tôi đã fax đến lễ tân khách sạn. Chuyến bay từ New Orleans đi Filadelfia của anh khởi hành vào mười một giờ sáng giờ chỗ anh. Tất cả các chuyến bay tôi đã giải quyết đúng như anh muốn, ở Delta. Anh vui chứ? Sẽ được ngủ thêm hai tiếng nữa cơ mà! Tại Pricenton, anh sẽ cài đặt chương trình cho họ. Nhớ là chỉ demo (*) thôi đấy. Không được cài bất cứ một phiên bản hoàn chỉnh nào. Hợp đồng là như vậy. Demo sẽ kích thích đủ để họ mua phiên bản hoàn chỉnh của chúng ta. Anh sẽ chỉ cài đặt cho họ trong các máy tính của bệnh viện chuyên khoa. Hay nói thật hay vào, như anh vẫn nói ấy. Họ sẽ phải thấy là cái này là cực kỳ cần thiết. Tôi đã đặt phòng ở Hyatt tại Priceton cho anh. Đây là khách sạn ở ngay cạnh bệnh viện. Số đăng ký cũng ở trong fax. Jakub, thậm chí anh đừng có nghĩ đến việc để lại tôi ở Munich này và chuyển đến Priceton. Tôi biết là trong đầu anh vẫn lởn vởn ý đồ chuyển sang Mỹ, nhưng vì tôi, hãy đừng làm điều đó. Đừng để tôi lại đây, thật đấy, một mình với đám người Đức này!
Anh cười. Và mặc dù đó chỉ là câu đùa, nhưng trong đó có biết bao nhiêu là sự thật. Christiane là một phụ nữ Đức cực kỳ không điển hình. Thoải mái, không ngăn nắp, không kỷ luật, nhạy cảm, mãnh liệt và không giấu được tình cảm. Cô luôn chỉ trích anh rằng chính cô đã học được ở anh tính Đức khi anh bảo cô sao mà "bừa bãi" một cách Slavơ đến thế và cô cứ luôn để cho thời gian trôi qua kẽ tay. Anh biết mình là người bạn tốt nhất của cô. Anh khiến cô cảm động bằng đĩa dâu tây vào tháng hai, bằng những bông hoa trong ngày 8 tháng ba mặc dù chẳng có ai ở Đức tổ chức Ngày Phụ nữ, bằng bức e-mail trong ngày sinh của cô, mà nhất là bằng việc khuân cho cô những thùng giấy nặng ra chỗ máy in. Anh, một giáo sư, khuân giấy ra máy in cho cô thư ký. Một số bạn bè làm khoa học cảm thấy tức tối với hành động khoe mẽ của "sự phá vỡ cơ cấu quan hệ một cách thô bạo" này. "Thế đấy. Đó là một tên Ba Lan. Bọn chúng bao giờ cũng phải phá hoại một cái gì đấy và phá vỡ những nguyên tắc nào đấy" - hẳn họ nghĩ vậy. Chỉ có thời gian đầu là Christiane cảm thấy lúng túng. Sau đó cô vui sướng trong cái ngày mà người ta mang giấy đến máy in cho họ. Cô thích thể hiện một cách phô trương "cho những người Đức ấy biết, cần phải thực sự đối xử với phụ nữ như thế nào". Còn anh? Mặc dù hoàn toàn không muốn "phá vỡ các nguyên tắc", nhưng đơn giản là anh không thể làm khác.
Anh chú ý để trong các mối quan hệ vời Christiane không đi quá khuôn khổ của tình bạn. Anh biết là anh có thể đi xa hơn nhiều. Nhưng anh không muốn. Trước hết là vì Christiane đã có gia đình khi anh xuất hiện ở Viện này. Cô hấp dẫn anh. Thời gian đầu, cô là người gần gũi với anh nhất ở đất Đức này. Có rất nhiều khi, với cách sống của anh, với những phản ứng của mình, thậm chí cô đã khiến anh nhớ tới Natalia. Có thể chính vì thế mà anh không muốn vừa qua ranh giới ấy. Anh không muốn phá đi một cái gì đấy và anh không thể xây bất cứ cái gì mới lên chính chỗ đó. Anh coi quãng thời gian ở Đức như một cái gì đó chuyền tiếp. Một "phòng chờ" trên con đường đi đến đích. Đích của anh là Mỹ. Anh cho rằng trong phòng chờ - Christian đã cười vì tính cường điệu của nhận định này - không nên trong bất cứ cây gì. Anh đã có mấy năm đẹp đẽ trong phòng chờ ấy và đôi khi anh có cảm giác là Christiane chờ đợi ở đấy một điều gì đó cùng anh.
Thoạt đầu khi nghe về kế hoạch ở Princeton, anh đã định phản đối. Song nghĩ đến hai tiếng được ngủ thêm ấy anh trả lời:
- Chrissie - cô thích anh gọi tên cô âu yếm như vậy – anh có để em lại một mình với đám người Đức ấy đâu. Bây giờ, khi anh đã dạy em uống vodka như một người Ba Lan chính hiệu thì tiếc lắm. Anh hiểu. Hôm nay anh sẽ bay đi Filadelfia lúc mười một giờ. Em đưa lên máy chủ FTP dữ liệu cho Princeton cho anh nhé. Anh không có trong laptop đâu, vì anh tuyệt nhiên không ngờ tới chuyến đó lịch này. Em sẽ tìm thấy nó trong máy tính trong phòng làm việc của anh. Máy lúc nào cũng bật đấy. Chrissie, khi đã ở trong phòng làm việc của anh rồi, thì tưới hoa hộ anh với nhé. Em không quên chứ? Em sẽ cố để không vào ICQ của anh khi đã mở máy của anh chứ? Bởi đằng nào những gì em thấy ở đấy cũng sẽ bằng tiếng Ba Lan. Và em chớ có học tiếng Ba Lan chỉ vì thế.
Anh cười trong ống nghe. Mặc dù Christiane hứa là "sẽ cố gắng", nhưng anh biết rằng kiểu gì thì những cố gắng ấy cũng chẳng có kết quả gì. Chắc chắn cô sẽ xem tất cả nội dung trên ICQ của anh. Christiane thích biết tất cả về mọi người. Bao giờ cô cũng quan tâm đến anh nhất. Anh là người ở độ tuổi sinh sản tốt nhất, là giáo sư trẻ nhất của viện, anh hôn tay phụ nữ, còn cô thì thậm chí không thể xác định được anh ngủ với những ai hoặc với ai. Mặc dù Christiane khó có thề tin được nhưng từ lâu lắm rồi, anh chưa làm chuyện đó.
Khi anh đứng dậy, trên giương, chỗ anh ngồi nói chuyện với Christiane, có một đám to ướt sẫm. Ừ, anh đã chạy thẳng từ phòng tắm đến điện thoại. Bây giờ thì người anh đã khô. Anh ra phòng tắm để tắt điện. Lúc quay lại, anh thấy trên sàn nhà, gần cửa có một mảnh giấy. Anh cúi xuống nhặt. Fax của Christiane. Anh gọi xuống lễ tân và vặn báo thức thêm hai tiếng nữa.
Đi taxi từ khách sạn ra sân bay, anh đã tự hứa là sẽ không bao giờ uống nữa. Anh vẫn khó chịu khủng khiếp sau trận rượu. Anh đã không kịp cả nhấp một ngụm cà phê vì ngủ quên, radio trong taxi lại thông báo có một cơn bão sắp vào Bắc Carolina. Đến Filadelfia, bao giờ máy bay cũng bay qua Bắc Carolina!
Còn tồi tệ hơn là anh tưởng. Vừa qua New Orleans, sự nhộn nhạo đã bắt đầu. Anh nắm chặt thành ghế, như thể làm thế sẽ đỡ hơn. Mà đấy mới chỉ là bắt đầu. Bay được một giờ, khi họ rơi vào vùng lặng gió sau cơn bão ở Bắc Carolina, anh đã tự hứa thật to rằng sẽ kiêng tuyệt đối. Chỉ cần họ hạ cánh an toàn, anh sẽ không bao giờ đưa rượu lên miệng nữa. Anh nhớ lại những chuyến đi biển của họ ở trường trung cấp. Ruột gan cũng lộn ngược cả lên đến đau đớn. Không bao giờ anh quên được cảnh ánh mặt tái xanh như tàu lá cùng với mấy người khác nữa vắt người qua mạn tàu Ở Vịnh Biscayan, dừng nôn để trong sự đau đớn cùng cực ấy cười ông phụ trách neo tàu đang la hét ầm ĩ cố để át tiếng sóng:
- Anh em thủy thủ có biết cái gì là tốt nhất cho thời tiết như thế này không? Các anh em thủy thủ, mẹ kiếp, không biết! Tốt nhất cho thời tiết như thế này là nước ép anh đào, vì ở hai đầu nó đều có mùi vị như nhau. Các anh em thủy thủ hãy nhớ lấy điều đó. Hơn nữa, nôn mửa không phải là làm tình. Cần phải biết. Thằng thổ tả nào lại đi nôn ngược gió như vậy hả???
Chắc anh phải tái xanh như hồi ở trên tàu lần ấy, vì cô tiếp viên cứ chốc chốc lại đến chỗ anh và hỏi anh có cần gì không. Người ngồi ghế cạnh anh, một lão người Texas khổng lồ không lúc nào rời chiếc mũ cao bồi đội trên đầu đã tận dụng cơ hội đó. Trong khi anh đang chết dở sống dở thì lão hàng xóm ấy, như thể không có chuyện gì xảy ra, cứ mỗi lần cô tiếp viên đến là lại gọi rượu. Thỉnh thoảng lão thử mời anh. Anh từ chối với ánh mắt sợ hãi và ác cảm. Anh không thể tưởng tượng nổi một sự tra tấn ghê gớm hơn cái mùi whisky trong tình huống này.
Sự nhộn nhạo kéo dài cho đến phút cuối, và lúc máy bay hạ cánh cũng thật là khủng khiếp. Những bánh của máy bay va vào đường băng mạnh đến nỗi cả lão ngồi bên vốn dửng dưng với tất cả và đã say khướt cũng phải vừa hỏi vừa lúng búng:
- Chúng ta hạ cánh hay là bị người ta bắn đấy?
Lái xe của Đại học Tổng hợp Princeton do trường cử đi đang đợi anh ngoài cổng. Họ đi chừng một tiếng. Khi đã ở trong phòng mình, anh gọi điện ngay cho giáo sư xin hoãn cuộc gặp ba giờ. Anh đặt báo thức, đăng ký báo thức với lễ tân và đặt báo thức qua TV. Anh để tiếng cỡ to nhất. Anh không còn đủ sức để cởi quần áo nữa.
Anh tỉnh dậy ba lần, nhưng phải đến TV mới lôi được anh ra phòng tắm. Anh có mặt ở phòng của giáo sư trước giờ hẹn mấy phút. Anh biết ông khá rõ từ những cuộc gặp gỡ và hội nghị trước đây. Một ông già lập dị với mái tóc trắng. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Zurich - là điều mà ông nhấn mạnh đầy tự hào và nhắc đến Einstein một cách nồng nàn, bởi Einstein cũng tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Zurich - độ lượng với tất cả trừ việc không đúng giờ, hút thuốc lá và đàn bà làm khoa học. Chính xác theo thứ tự này.
Với anh bao giờ ông cũng nói tiếng Đức, hoàn toàn không đếm xỉa đến việc các cộng sự hay học trò của ông chẳng hiểu gì. Trong mỗi lần gặp gỡ ông đều khẳng định rằng viện của ông không hợp tác "với những nhà siêu sinh học ở Harvard, những kẻ vẫn không chịu biết rằng cá voi là động vật có vú". Sau mỗi lần - rất tiếc là đúng với sự thật - ông lại khẳng định với anh rằng chắc chắn họ không hợp tác với Đại học Tổng hợp Harvard. Tuy nhiên ông không nói thêm rằng đó là mục đích của họ từ mấy năm nay.
Sếp của khoa sinh học phân tử của Harvard, về điều này thì anh biết được trong một buổi dạ tiệc tại một cuộc hội nghị nào đó - là vợ cũ của giáo sư của Princeton. Vì môi trường của các nhà khoa học nói chung là một trong những môi trường lắm chuyện ngồi lê đôi mách nhất, nên anh được nói nhỏ rằng hôn nhân của giáo sư và vợ cũ của ông chỉ tồn tại, chính xác bốn mươi bảy giờ. Từ mười một giờ sáng thứ bảy đến mười giờ sáng thứ hai, vì rằng phải đến giờ này các tòa án ở Massachusetts mới mở cửa. Hình như chính xác bốn mươi bảy tiếng sau hôn lễ, vợ giáo sư, tiến sĩ khoa học về sinh học, tốt nghiệp Đại học Sorbone ở Paris, đã đệ đơn ly hôn. Bản thân anh chưa bao giờ tiếp xúc riêng với giáo sư nhiều hơn một tiếng, nhưng như thế cũng đủ để anh hiểu được vợ cũ của ông.
Việc giới thiệu trong phòng làm việc của giáo sư – đương nhiên là bằng tiếng Đức - kéo dài hơn một tiếng một chút. Khoảng mười bảy giờ họ chở anh đến trung tâm máy tính của bệnh viện thuộc Đại học Tổng hợp Princeton, nơi anh phải cài đặt và chạy thử phiên bản quảng cáo cho chương trình của họ. Sau ba giờ làm việc, khi đã gần xong, anh ra khỏi trung tâm máy tính để đi tìm máy bán coca lon tự động. Nhất định gần đấy phải có. Trong các trường đại học của Mỹ, có thể không có thư viện, nhưng máy bán coca tự động thì phải có. Từ trung tâm máy tính sáng ánh đèn neon, anh bước ra hành lang tối.
- Ôi anh làm tôi giật cả mình! Tôi cứ nghĩ là ma cơ đấy. Anh đi giống hệt Thommy. Anh làm tôi giật thót cả mình. Anh ta cũng hay làm tôi giật mình.
Anh quay đầu về phía có tiếng nói phát ra. Chị tạp vụ da đen hiện ra lờ mờ ở đằng xa trong hành lang tối. Trông chị ta giống như người nô lệ trong tranh của Teodore Davis đang lượm bông trên đồn điền gần New Orleans. Cũng những nếp nhăn sâu ở nửa phân dưới mắt ấy. Cũng những con ngươi mắt trắng, to, bị những lằn máu cắt ngang ấy.
- Tôi không muốn làm chị giật mình. Tôi đang tìm automat bán coca. Thommy là ai vậy chị?
- Thommy cũng hay đi tìm coca. Anh ta làm việc ở đây nhiều năm thế mà chẳng bao giờ nhớ automat ở đâu - chị ta trả lời.
- Hôm nay chắc chắn tôi cũng sẽ không nhớ. Chị dẫn tôi ra chỗ automat và trên đường đi chị sẽ cho tôi biết Thommy là ai chứ?
- Anh không biết Thommy là ai? Thommy làm việc cách đây bốn hành lang. Ai cũng biết anh ta sau cái vụ anh ta lấy trộm não của Einstein. Anh biết ông Einstein, cái ông người Mỹ Do Thái ở Thụy Sĩ ấy chứ?
Lúc này thì anh quan sát chị ta kỹ hơn. Chưa hề có ai gọi Einstein là "người Mỹ Do Thái ở Thụy Sĩ" cả. Anh không thể đoán được tuổi của chị ta. Thỉnh thoảng anh phân vân, có phải những người da đen cũng không thể đoán được tuổi của người da trắng, vì họ thấy ai cũng giống ai. Chị ta nhắc anh nhớ đến Evelyn trong nhà hàng ở New Orleans. Đồ sộ, vuông từ vai đến đất, chắc nịch, với bộ ngực như hai cái gối, che lấp toàn bộ lồng ngực từ xương đòn đến bụng.
- Sao anh ta lại lấy cắp não Einstein? Thommy là ai? - anh tò mò hỏi thêm.
Người phụ nữ da đen đặt cái xô xuống làm bột trào cả ra ngoài và ngồi lên cái ghế dài gần lối vào toilet.
- Thommy là bác sĩ. Nhưng chẳng chữa bệnh cho ai. Cho nên không một ai kính nể anh ta. Đã thế buổi sáng anh ta lại không chào hỏi ai. Liệu sáng ra anh có chào hỏi ai vui vẻ khi mà anh phải mổ xẻ hai cái xác trước bữa sáng và bốn cái sau đấy? Tôi thì tôi kính trọng anh ấy. Cả Marilyn cũng thế. Thommy yêu Marilyn. Vào cái thời ấy, đàn ông và đàn bà vẫn còn yêu nhau lắm. Marilyn là bác sĩ trên tầng ba. Tôi không quét dọn trên ấy. Cố ấy xinh lắm. Tôi có thể hút thuốc được không?
Chị ta lấy cái hộp đựng thuốc sợi ra và bắt đầu quấn thành điếu.
-Tất nhiên rồi, chị cứ hút đi. Mà chị có thể quấn luôn cho tôi một điếu được không? Ở automat bán coca có bia không?
Anh lại quên lời thề trên máy bay. Chị ta cười.
- Bia á? Không có. Không bao giờ có. Ở đây, trong khu vực trường này, mua cocain còn dễ hơn cả mua bia.
- Thommy là ai và Marilyn là ai? - anh hỏi và ngồi xuống ghế cạnh chị ta.
Vì chị ta to đến nỗi ngồi gần kín cả cái ghế dài nên anh phải ngồi sát vào chị. Chị ta đưa cho anh một điếu thuốc cuốn. Họ ngồi hút thuốc trong hành lang tối. Hai đốm sáng. Yên tĩnh, chỉ có giọng nói trầm trầm của chị ta vang kinh khủng trong bóng tối ấy và trong cái hành lang dội âm ấy.
- Đúng ra là Marilyn làm ở khoa nhi. Bọn trẻ yêu cô ấy lắm vì cô ấy lúc nào cũng cười. Chỉ khi nào có một đứa nào chết, mới thấy trong mắt cô ấy có nước mắt. Bao giờ cô ấy cũng khóc trong toilet. Để bọn trẻ không nhìn thấy Thommy nghiên cứu về bệnh học. Anh ấy mổ xẻ tử thi để tìm trong đó cái gì đấy quan trọng. Nhờ những cái mà anh ấy tìm thấy có thể cứu được mạng sống cho những người khác. Mặc dù anh ấy cần thiết như thế, nhưng không ai khâm phục anh ấy Ngoài Marilyn. Có lẽ anh ấy cảm nhận được như thế nào đấy. Chuyện đã lâu lắm rồi, nhưng tôi nhớ ôư2ng chi tiết. Người ta chở Einstein đến vào trước nửa đêm. Ông bị bất tỉnh. Và mất ngay sau nửa đêm. Hôm ấy là thứ hai, ngày mười tám tháng tư năm năm nhăm. Hồi ấy tôi là người thực tập trẻ nhất. Ở đây tôi cứ tưởng như chỉ vừa mới hôm qua. Dạo ấy tôi quét dọn tầng một, tầng trệt và tầng hầm. Tất nhiên là Thommy biết và rất ngưỡng mộ Einstein. Với anh ấy, ông ta là sự thông minh không thể với tới được. Ai ở Princeton cũng biết Einstem. Cho dù đấy chỉ là vì tất cả cái đám nhà báo cứ bám theo Einstein ở khu vực trường này như một bầy sói.
Khi Thommy đến trực thì Einstein đã nằm trên bàn. Đầu tiên Thommy không muốn làm cái việc cắt xén ấy. Anh ta lên chỗ Marilyn để nói cho cô biết, tỏ vẻ rất bực bội. Sau mấy phút thì anh xuôi xuôi và quay xuống tầng hầm. Những gì xảy ra sau đó dưới tầng hầm, tôi biết rất rõ từ Marilyn. Tôi nghĩ rằng Thommy đã làm như vậy là vì Marilyn. Đề cô khâm phục anh ta và tự hào về anh ta. Ai cũng bảo là không thể thế được nhưng tôi biết chứ. Tôi đã nhìn thấy anh ta nhìn Marilyn như thế nào. Thommy đã làm một việc khủng khiếp. Đầu tiên anh chỉ khám nghiệm tử thi bình thường và sau đó bỗng nhiên tình cảm ấy đến. Đây là cơ hội có một, duy nhất, không thể lặp lại trong đời. Anh ta lấy cưa, cưa sọ Einstein và moi não ra. Anh ta dùng dao mổ chia cái não ra thành hai trăm bốn mươi miếng bằng nhau, cho vào hai hộp loại ba lít có ghi chữ Costa Cider rỗi đổ fomanlin vào. Một cái anh ta đậy kín bằng nắp gỗ, còn hộp kia bằng nắp thủy tinh. Anh ta đưa cả hai hộp ra khỏi tầng hầm. Anh ta quyết định sẽ không trao chúng cho bất kỳ ai. Rồi anh ta nhét báo bọc nilon vào hộp sọ rỗng của Einstein và đóng lại sao cho không ai nhận ra. Anh có tưởng tượng được không? Thay vì não là những tờ báo nhàu nát trong sọ Einstein??? Khi Marilyn kể chuyện này cho tôi nghe, tôi không muốn tin. Làm sao mà anh ta có thể làm như vậy được?
Chị ta thở dài rồi im lặng một lúc,
Hình ảnh hộp sọ của Einstein bị nhét đềy báo như cảnh trong một bộ phim kinh dị. Anh đờ người ra vì sợ hãi và vì sự vô lý. Cho tới lúc ấy, Einstein với anh như một tượng đài. Tinh hoa của tri thức. Einstein không có não, với hộp sọ đầy giấy bỗng dưng như không còn quan trọng và bị hạ thấp. Không, đó không phải là phim! Điều ấy thì không một đạo diễn nào có thể nghĩ ra. Trong cái hành lang tối, ở ngay trên tầng hầm, nơi đã diễn ra nghi lễ cắt não Einstein của quỉ satăng ấy, anh cứ cảm thấy thế nào ấy. Anh thấy mừng vì cái ghế lại ngắn thế mà chị da đen lại to thế. Nhờ thế mà anh được ngồi sát vào chị ta.
- Tôi dừng lại ở đoạn nào ấy nhỉ? À, tôi nhớ rồi. Thommy biết về ý nguyện cuối cùng của Einstein, ông muốn sau khi mình chết sẽ thiêu xác và rải tro ở một nơi mà chỉ gia đình ông biết. Einstein không muốn có bất cứ một ngôi mộ nào hết... Anh có biết gì không? Tôi phải cuốn cho mình một điếu nữa. Dạo này tôi hút nhiều quá. Thật không tốt tị nào ở đây, trong cái nước Mỹ này.
Im lặng bao trùm. Chị ta lấy hộp đựng thuốc lá sợi từ cái túi tạp dề sâu thẳm ra và thoáng một cái chị đã nhấp nước bọt để dán điếu thuốc. Trong ánh sáng của ngọn lửa từ chiếc bật lửa, hai con ngươi trắng trên nền khuôn mặt đen như hắc ín của chị có vẻ như to một cách kỳ dị.
Những gì người phụ nữ da đen ấy kể thật bất ngờ. Anh không hề nghi ngờ một chút nào. Rất lâu rồi, hồi còn học đại học, anh đã có một giai đoạn say mê Einstein. Sự thật đúng là ông không có mộ. Điều này rất phù hợp với Einstein. Các vị thần không có mộ mà. Não của Einstein không bị thiêu cùng với phần còn lại của thi thể ông, cũng là sự thật, nhờ thế mà các nhà thần kinh học có thể nghiên cứu nó nhiều lần. Các nghiên cứu giải phẫu thần kinh đã khẳng định sự đặc biệt của nó. Tất cả những điều này anh đã biết từ lâu. Song anh tuyệt nhiên không có khái niệm, rằng phía sau đó lại ẩn chứa một câu chuyện ly kỳ đến vậy. Lần này thì người phụ nữ da đen nói:
- Việc mà Thommy làm không được ai ra lệnh, cũng không một ai cho phép. Anh ta cho rằng mình phải được phép, bởi như anh ta nói, "Einstein thuộc về tất cả mọi người". Thậm chí khi mọi việc đã rõ, anh ta vẫn không muốn trả lại bộ não ấy. Marilyn nói với tôi rằng Thommy làm việc đó vì mọi người chứ không phải vì tiếng tăm. Anh ta tin rằng có cái quan trọng nhất trong con người Einstein là bộ não của ông, thì có thể đến một lúc nào đó sẽ tạo được một Einstein nguyên vẹn. Anh ta là một kẻ gàn dở lập dị như vậy đấy. Ngày ngày mổ tử thi nhưng mặc dầu vậy, anh ta vẫn là một người lãng mạn nhất trong khu nhà này. Cho nên Marilyn mới thích anh ta đến thế. Nhưng điều mà anh ta làm với Einstein thì cô ấy không bao giờ tha thứ cho anh ta. Thommy rất đau khổ vì chuyện này.
Người phụ nữ da đen rít một hơi sâu và không nói nữa. Thommy bí ẩn đã rất có lý. Nhưng hồi ấy, vào năm 1955, cả anh ta, cả bất kỳ người nào khác đều không biết rằng để nhân bản người không cần phải moi nảo của bất cứ ai ra khỏi hộp sọ. Chỉ cần một chút máu, tóc hay da được bảo quản thích hợp là hoàn toàn đủ. Toàn bộ chất liệu gien của con người nắm trong nhân của mỗi tế bào riêng lẻ. Dưới góc độ này, các nơron của não không khác của các tế bào khác, "tầm thường" hơn. Có lẽ đơn giản là Thommy muốn chắc chắn và vì sự chắc chắn anh ta đã bảo vệ trên một kilôgam chất liệu cho nhân bản trong fomanlin. Và chắc anh ta cũng biết rằng trong tất cả các tế bào của Einstein, thì quan trọng nhất là những tế bào não.
- Thommy phải rời khỏi Princeton - người phụ nữ da đen tiếp tục câu chuyện của mình. - Nhưng kể cả thế anh ta vẫn không chịu trả những cái hộp đựng não Einstein trong fomanlin. Nửa năm sau khi anh ta đi, Marilyn lấy chồng và chuyển sang Canada. Tôi không biết rõ mọi chuyện với Thommy như thế nào. Có ai đó nói với tôi là mới gặp anh ta ở Đại học Tổng hợp Kansas.
Đúng lúc ấy một ai đó mở mạnh cửa phía cuối hành lang. Chùm sáng của chiếc đèn pin di chuyển chậm dọc theo tường. Chắc là ngrười bảo vệ. Người phụ nữ da đen đứng dậy rất nhanh và mất hút sau cửa toilet. Một lát sau ánh sáng đèn pin của người bảo vệ chiếu đến cái ghế Jakub đang ngồi. Người bảo vệ đứng đối diện anh và chiếu đèn pin thẳng vào mắt anh.
- Anh có biết là hút thuốc lá ở đây là một sự vi phạm nghiêm trọng không? Tôi có thể phạt anh đến một ngàn đôla - giọng nói phát ra từ phía sau luồng sáng của chiếc đèn pin và người kia cười, nói thêm: - Nhưng tôi sẽ không phạt, vì tôi thừa biết rằng Virginia đã xui anh hút. Chỉ có thuốc sợi của chị ta mới hôi kinh khủng như vậy. Khi nào chị ta ra khỏi toilet, nơi mà chị ta hiện đang trốn, anh hãy bảo chị ta ràng đây là lần cuối cùng đấy nhé, lần sau thì đừng có trách. - Anh ta cười oang oang và đi về phía cầu thang dẫn xuống tầng hầm.
Anh vẫn im lặng, hơi choáng váng vì câu chuyện của Virginia. Còn chị ta vẫn chưa ra khỏi nơi ẩn náu trong toilet. Mãi sau chị ta mới hé cửa hỏi nhỏ:
- Lão ta đi rồi à?
Khi anh bảo đi rồi, chị nhanh nhẹn ra khỏi toilet và túm lấy cái xô của mình.
- Tôi cũng phải đi đây. Mười lăm phút nữa lão ta sẽ quay lại để đóng cửa toàn bộ khu nhà. Mà hôm nay tôi lại quên chìa khóa. Anh biết không? Anh không chỉ đi giống Thommy mà giọng nói cũng giống - chị ta nói và khuất sau chỗ ngoặt hành lang.
Khi chị ta đã đi khỏi rỏi anh mới nhớ ra là chị ta chưa chỉ cho anh chỗ có automat bán coca. Anh gọi. Không thấy chị ta trả lời Anh vào toilet, nhìn thấy một vòi nước uống được bèn nghiêng đầu để cho dòng nước chảy lên mặt. Anh cứ đứng nghiêng người như vậy một lúc. Rồi không lau mặt, anh quay lại trung tâm máy tính. Anh kết thúc cài đặt chương trình, chuẩn bị bản hướng dẫn ngắn các bước khởi động chương trình gửi e-mail thông báo về những việc anh đã làm cho giáo sư và đặt taxi qua mạng. Anh tắt máy tính rỏi ra ngoài hành lang. Đi qua cái ghế dài cạnh lối vào toilet, anh cảm thấy bất an. Anh không thể gạt bỏ khỏi trí nhớ hình ảnh thi thể của Einstein với hộp sọ mở chứa đầy báo. Anh chạy đến cửa ra. Taxi đang đợi.
- Anh cứ đưa tôi đến một chỗ nào đó có thể uống bia được - anh bảo người lái taxi.
Quãng gần nửa đêm anh mới về đến khách sạn. Đêm ấy anh mơ thấy Thommy, Virginia, Marilyn bí ẩn và thuyết tương đối. Hôm sau ăn sáng xong, anh đi bằng chiếc Limousine của khách sạn ra ga, khi đi qua khu vực trường, anh nhớ lại sự kiện tối qua và quyết định sẽ tồn hiểu tất cả mọi điều có thể về con người đã cứu bộ não của Einstein khỏi bị thiêu. Anh sẽ bắt đầu ngay hôm nay, ở New York, nơi anh sẽ đến sau một tiếng nữa. Chuyến tàu của anh từ Penn Station đến Manhattanie có lẽ mất đúng chừng ấy.
Hơn nữa, anh không thể chờ thêm được nữa, phải kể cho cô nghe câu chuyện về bộ não của Einstein này sớm nhất. Kể từ ngày biết cô, anh nhận thấy là những sự kiện, cảm xúc và suy nghĩ chỉ có ý nghĩa khi anh chia sẻ thông tin về chúng với chính cô. Với Natalia cũng y như vậy.
Anh không viết cho cô về chuyện này. Anh sẽ kể. Chính thế. Anh sẽ ngồi trước mặt cô, nhìn vào mắt cô và kể. Chỉ còn một đêm và một ngày nữa. Sẽ qua nhanh thôi mà. Ngoài ra ở New York thời gian trôi nhanh hơn. Đây đương nhiên không phải là sự thật tuyệt đối, mà chỉ là tương đối. Rất tương đối và Einstein. Anh biết điều này từ thời gian của New Orleans, cũng lười biếng và lề mề hệt như của Texas. Khi ở New York bản tin đã sắp đến phần dự báo thời tiết, thì ở Texas mục quảng cáo đầu tiên sau lời chào của phát thanh viên còn chưa kịp kết thúc.
Đường chân trời của Manhattan hiện ra mờ mờ phía xa khi tàu của anh đi vào đường hầm dưới Hudson River. Chiều tối mai anh sẽ bay đi Paris, để gặp cô. N-G-À-Y M-A-I – anh đánh vần chầm chậm từ này trong ý nghĩ và nhâm nhi nó và sung sướng như một đứa trẻ.
CÔ : Jakub, đã có lần nào em nói với anh rằng em rất thích nghĩ về anh chưa? Chắc là rồi, nhưng em cũng thích nghĩ là em chưa nói. Hôm nay, em đã nghĩ về anh rất nhiều lần. Em nhất định phải kể với anh một điều gì đấy. Có lẽ Asia sẽ giết em mất, vì em bảo nó là em chỉ về phòng để sửa lại trang điểm, nhưng thực ra là em chạy đến quán Internet Cafe ở ga tàu điện ngầm này để viết cho anh. Asia, kể từ ngày bọn em quen nhau, đã giết em không biết bao nhiêu lần rồi, cho nên chắc chắn em sẽ có cách qua được.
Anh mê những chuyện như thế này, vì anh thích sự ngạc nhiên. Và xúc động. Hôm nay em rất ngạc nhiên. Cả xúc động nữa. Thật không thể tin được. Nhưng ngay từ đầu.
Anh chàng sinh viên xinh xắn ấy của Alicja (đây là em nói thêm, Alicja như thường lệ, cho rằng nó rất và "dứt khoát", cho dù điều này có ý nghĩa như thế nào cũng được, phải yêu sinh viên) có lần đã làm việc trong dịp nghỉ hè cho một phụ nữ Đức góa chồng, một nhà công nghiệp người Pháp đã đưa chị ta từ Đức sang và nhốt sau những song sắt bằng vàng của một ngôi nhà khổng lồ ở phần tây-nam của Paris. Anh nghĩ sao, một sinh viên xinh xắn từ Ba Lan sang có thể làm gì cho một phụ nữ góa chồng đã trên dưới bốn mươi tuổi, nhạy cảm, có ba đầu bếp, một lô một lốc tạp vụ, hai thợ làm vườn, lái xe và bác sĩ thú y "thường trực"? Alicja khi đã yêu thì không bao giờ đưa ra những câu hỏi vô nghĩa như vậy.
Chị góa mời chàng sinh viên, chàng sinh viên mời Alicja (bởi cậu ta có thể làm gì được khi Alicja không chịu rời cậu ta lấy nửa bước), còn Alicja thì mời tụi em. Với chị góa thì thế nào cũng được, vì điều chị ta muốn nhất là gặp lại chàng sinh viên của mình sau bao nhiêu năm.
Chị góa gọi hai xe Limousine đến khách sạn, vì chì ta tưởng rằng chàng sinh viên có đến cả tá bạn bè chứ không phải chỉ có ba cô bạn gái. Mặc dù chàng sinh viên đọc cho Alicja nghe thơ bằng tiếng Pháp, song tiếng Pháp của cậu ta hoàn toàn không ghê gớm gì. Chí ít thì cũng là nói. Ngôi nhà, nơi mà chị góa đang ngụ cư - bởi chính chị ta nói rằng chị ở Mauritius, còn ở Paris, chị chỉ ngụ cư - rất giống với Belweder, chỉ có điều to hơn. Chị góa là một phụ nữ tóc nâu với đôi mắt buồn, chúng có, cơ bản vì phải trải qua nhiều cuộc phẫu thuật, hình dạng không xác định. Chị góa mắc hai thứ bệnh, trong đó bệnh thứ hai đơn giản là dễ xúc động. Bệnh thứ nhất là cảm giác đến bệnh hoạn nhất thiết phải "chung sống với thế giới". Tự chị ta nói, nhưng phải sau chai vang thứ ba, rằng đó là một kiểu thôi thúc và mang ý nghĩa tinh thần. Trong mỗi phòng của chị (kề cả ở trại ngựa) đều có tivi. Chị cho rằng trên thế giới xảy ra biết bao nhiêu là vấn đề quan trọng và chị cần phải được thông tin về chúng. Do đó mà chị ta dậy từ năm giờ sáng để xem bản tin trên tất cả các kênh có thể và bằng tất cả các thứ tiếng có thể. Lúc tụi em đến, chị ta cũng đang xem một bản tin nào đấy và mãi ba mươi phút sau tụi em mới vinh hạnh được gặp chị ta. Đơn giản là chị góa lo lắng về thế giới và chị muốn biết chính xác nguyên nhân của những nỗi lo ấy.
Ngoài ra chị còn cho rằng, trên thế giới, loài vật chịu đau đớn nhiều nhất. Vì vậy mà chị có mấy con chó, mấy con mèo, hơn một chục con chim hoàng yến, mấy con chuột đồng và chỉ có một con lợn đen giống Việt Nam. Con lợn quả thực rất đen, to đùng như một tay đấm bốc có tiếng sống ở Mỹ, chỉ có điều đẹp hơn. Khi mọi người ngồi trong khu vườn mênh mông, con lợn chạy quanh như phát rồ, thỉnh thoảng lại chạy đến cho chị góa, dụi mõm vào chị, với làn môi hé mở, chị hôn vào cái mõm ấy rất tình cảm. Một hình ảnh không thể quên được. Con lợn vừa rít vừa chạy như điên, dụi mõm vào những đám cỏ được chăm chút cẩn thận, giẫm nát những bồn hoa hồng tuyệt đẹp, chạy đến chỗ chị góa như một đứa trẻ chạy đến chỗ mẹ nó để hưởng phần tình cảm và âu yếm của mình.
Con lợn đặc biệt quen với chàng sinh viên xinh xắn và cũng chạm cái mồm ướt của mình vào chàng. Alicja thì sợ hãi và không mấy thiện cảm nhìn những tình cảm ấy của con lợn.
Còn Asia lại thích thú vuốt ve con lợn chạy qua chạy lại giữa một người, câu chuyện của chị góa về loài vật bị "con người bắt chước" thì nó nghe như thể nghe dự báo về sự xuất hiện của một thế giới mới, tốt đẹp hơn, chủ yếu là dành cho loài vật. Trong mắt nó, em nhìn thấy, nếu có thề, thì nó đã ôm lấy chị góa.
Sau mấy lượt chạy như điên, con lợn biến mất vào trong nhà và không nhìn thấy nó thêm nữa. Việc ấy có vẻ khiến chị góa không yên tâm, những chị vẫn không rời khỏi chỗ.
Chị góa tỏ ra là một phụ nữ đặc biệt. Tất cả những gì tụi em nói, chị đều coi như những tin tức của dịch vụ chỉ dẫn và chị phản ứng bằng sự tức giận, hay nụ cười, hay sự cảm thông thực sự. Mọi người uống hết mấy chai bordeaux mà người đầu bếp mang ra, anh này bị giục giã đều đặn qua điện thoại để trên bàn ngoài vườn. Khi mọi người rời bàn, em ở trong tâm trạng hết sức hưng phấn. Đó là tại bordeaux Pháp, nó tác động đến em như một chất kích dục (anh hãyliên tưởng như thế nào thì tùy), và bởi vì rằng ngày mai anh sẽ bay từ New York đến Paris.
Khi ngoài vườn đã khá lạnh, mọi người chuyển vào trong nhà chị góa. Alicja quan sát chàng sinh viên giúp chị góa đứng dậy khỏi ghế và tựa vào vai cậu ta, sát vào người cậu ta, ôm ngang lưng cậu ta để đi vào nhà như thế nào với vẻ không yên và tức tối.
Sau khi vào phòng khách rộng mênh mông, mọi người nhìn thấy một cảnh tượng không thể tin nổi. Con lợn nằm duỗi người trên chiếc đi-văng trắng (làm từ da lợn, chắc thế) đặt cạnh tường được phủ gần kín bằng một bức tranh thủy mặc xám-đen với kích cỡ không lồ. Những mảnh báo đôi chỗ bị ngâm trong những vũng nước gì đó hôi mùi amôniắc phủ lên nền đá của phòng khách. Đi trên nền nhà, mọi người giẫm nát các hạt nâu-đen vương vãi rung tung. Bên được đi văng bằng da trắng có một chiếc rỗng nhỏ, cửa mở, xung quanh đặc biệt có rất nhiều hạt. Đó chắc phải là cái lồng chuột mà chi góa đã từng kể. Nó hoàn toàn méo mó và không có con chuột nào bên trong. Không để ý gì đến tất cả cái đám lộn xộn ấy trong phòng khách, chị góa đến chỗ điện thoại và với giọng rất điềm đạm, đặt một xe Limousine để đưa tụi em về khách sạn ở Paris. Tụi em đứng ở đó như trời trồng và nhìn con lợn đang nằm trên đi-văng. Nó thở khò khè và co giật, từ mõm nó một thứ nước vàng nhỏ giọt, và có thể nhìn thấy rất rõ, chảy thành dòng theo đi-văng bằng da trắng xuống nền đá. Chị góa chợt nhận ra chuyện gì đang xảy ra. Chị hét lên, bỏ ống nghe và lao ra để cứu con lợn. Em lùi lại s át tường. Anh chàng sinh viên chạy ra ngoài, còn Asia cùng với chị góa chạy ra đi-văng.
Jakub, nếu không nhìn thấy chuyện này, thì em không bao giờ tin. Nhưng em đế nhìn thấy đúng như Alicja, mà trong suốt quá trình m ọi việc diễn ra, đã cấu vào tay em và run như cầy sấy. Chị góa chạy đến đi-văng và làm hô hấp nhân tạo cho con lợn bằng phương pháp miệng-mõm. Chị ta xoa bóp và ấn vào vùng tim của nó, dùng sức để cậy mõm nó ra rồi bằng miệng mình bơm không khí vào phổi nó. Con lợn vẫn thở khò khè. Một lát sau nó phun ra một mảng lông mâu nâu lẫn với một mớ bao vụn đỏ những máu. Alicja chạy ra ngoài. Asia quay lưng lại đi-văng, chỗ con lợn đang nằm. Chị góa vẫn không ngừng dùng miệng bơm không khí qua mồm con lợn. Em không dám nhìn cành đó, phải nhấm mắt lại. Một lúc sau, con lợn hết khò khè. Nó trượt khỏi đi văng và chạy ra ngoài. Chi góa mệt lả, ngồi bệt trên nền đá, đầu tựa vào đi-văng với đám n ôn vàng vàng và một góc con chuột đỏ máu vừa được con lợn khạc ra. Asia đi đến chỗ em. Nó cầm tay em và hai đứa không nói gì bỏ ra ngoài. Chiếc Limousine đang đợi Alicja ngồi cạnh người lái xe, anh chàng sinh viên ở ghế sau. Em với Asia lặng lẽ chui vào. Taxi lăn bánh. Suốt đường đi, không một ai lên tiếng. Khi chiếc Limousine dừng lại trước khách sạn, tất cả xuống xe trong im lặng. Alicja cũng vậy. Thậm chí không cả chia tay với anh chàng sinh viên của mình. Lần đầu tiên kể từ hôm đến Paris, nó ngủ cùng với Asia.
Khi đã ở một mình trong phòng, em mở một chai vang, ngồi bên cửa sổ, nhìn ra mảnh vườn trước phòng và thật sự ngạc nhiên vì chị góa ấy. Vì sự trung thành với niềm tin của mình. Vì có vẻ như em đã không thể tin rằng chị ấy thực sự có thể yêu con lợn giống Việt Nam ấy. Nhất là sau khi nó đã nhai con chuột của chị ta.
Sau một lát, rượu vang mới đã làm mạnh thêm bordeaux của sáu tiếng trước đó. Em rời xa Paris để trở về với hàng trăm vấn đề. Em nghĩ về anh. Em nhớ anh.
Đã có lần nào đó anh hỏi, "nhớ anh" có nghĩa là gì.
Nói một cách gần đúng, thì đó là một kiểu lai giữa suy nghĩ, mong ước, âm nhạc, lòng biết ơn vì em cảm nhận được điều đó, niềm vui vì có anh hiện hữu và làn sóng ấm áp nơi tim.
Em sẽ chạm vào anh. Chỉ mai thôi. Em sẽ chạm...

Nguồn: http://vnthuquan.net/