“Tệ quá đi mất,” Mae lẩm bẩm khi đưa cốc Kahluá 1 và kem lên miệng rồi nhấp một ngụm. Chiếc giày mềm đen bóng chấp chới bám nơi ngón chân khi cô rung rung chân phải. Cô chăm chú nhìn qua miệng ly chiếc Chevy đang lề rề chạy qua, kêu ầm ầm và xả khói độc. Cô phẩy phẩy tay trước mặt, tự hỏi có phải cô đã sai lầm khi chọn ngồi bên ngoài trước quán không. Từ chỗ ngồi bên chiếc bàn nhỏ giống như trong các hộp đêm, cô nhìn rõ mọi người đang bước thẳng tới quán bar cũ chơi nhạc jazz sành điệu này. Tiếng saxo-phone du dương tràn qua những cánh cửa bỏ ngỏ rồi hoà vào hoàng hôn chạng vạng của thị trấn. Xung quanhh cô, các cặp đôi bên nhau đang nói về những thứ người ta quan tâm đến nhất ở Seattle: mưa, cà phê, và Microsoft.
Cô để lại đồ uống lên bàn và liếc nhìn đồng hồ. “Anh ta sẽ không đến,” cô tự nhủ, và xỏ chân lại vào trong chiếc giày. Đó là tối thứ Sáu. Khác với mọi ngày, tối nay cô không phải làm việc, cô tô son và đánh macara chẳng vì lý do gì. Cô đang tê người vì lạnh mà Ted, tay người yêu mới đây nhất của cô, lại lỡ hẹn.
Chắc có lẽ anh ta bị mụ vợ cầm chân ỏ nhà rồi, cô nghĩ, và với lấy ví. Thường thì Mae ít khi mang ví theo, nhưng tối nay cô chẳng có chỗ nào mà cất tiền, ngay cả đồ lót cũng không. Cô rút ra một tờ hai mươi đô và để lên bàn. Cô sẽ không chờ anh ta thêm nữa. Cô đâu tuyệt vọng đến thế.
“Này, một cô gái như em sẽ làm gì một mình đây?”
Mae ngước lên và mở mồm định bảo gã kia biến đi. Nhưng thay vì thế cô chỉ nhíu mày nói, “Đúng lúc mình nghĩ đêm nay không thể tồi tệ hơn.”
Hugh Miner cười và quay sang mấy gã đi cùng. “Các cậu vào trước đi,” anh ta vừa nói vừa kéo ra một chiếc ghế đối diện với Mae. “Tôi sẽ vào ngay đây.”
Mae nhìn họ bước vào trong rồi chộp lấy ví. “Tôi thì đang định đi.”
“Em không thể ở lại làm một ly à?”
“Không.”
“Sao lại không?”
Vì tôi đang chết cóng đây, cô nghĩ. “Sao tôi lại phải muốn uống chứ?”
“Vì tôi sẽ mua cho em.”
Một trận tuý luý miễn phí chưa bao giờ là thứ Mae thích thú cả, nhưng ngay lúc ấy, cô hầu bàn tóc đỏ bước tới rồi bắt đầu làm trò. Cô ta thì thầm rồi lân la ngược lên vai Hugh, và giở mọi ngón nghề với anh, chỉ thiếu mỗi nước là quỳ thụp xuống mà tặng anh một màn thổi kèn mê tơi. Cô ta xinh đẹp với đôi mắt màu lam mở lớn và một thân hình quyến rũ muốn Hugh ký tên lên cơ thể, nhưng thật đáng khen, anh đã từ chối.
“Nhưng tôi bảo này, Mandy,” anh ta nói với cô hầu bàn. “Nếu cô mang cho tôi một chai Beck”s và…” Anh dừng lại rồi quay sang nhìn Mae. “Em uống gì?” anh ta hỏi cô.
Cô không thể bỏ đi. Không phải lúc này. Không phải khi Mandy đang hằm hằm nhìn cô đầy ghen tị. Những phụ nữ khác chẳng mấy khi ghen với Mae Heron. “Kahluá và kem.”
“Tôi sẽ thực lòng biết ơn nếu cô mang cho tôi một chai Beck”s cùng với Kahluá và kem,” anh nói nốt.
“Biết ơn thế nào?” Cô ta nhìn quanh, rồi cúi xuống to nhỏ vào tai anh.
Hugh khẽ bật cười. “Mandy,” anh nói, “thực sự thì tôi không hứng thú lắm đâu, bởi lẽ điều cô nhờ tôi đang phạm vào luật pháp ở một số bang. Nhưng nghe này, tối nay tôi đến đây với Dmitri Ulanov. Anh ta là một tay ngoại quốc nên không hề biết mình có thể bị bỏ tù vì chuyện cô đang tỉ tê đâu. Cô có thể tóm lấy anh ta.”
Khi cô ta cười và quay bước đi, Hugh ngồi lùi lại, mê mẩn ngắm nghía những đường cong phía sau của Mandy đang đập vào mắt mình.
“Tôi cứ ngỡ anh không quan tâm cơ đấy,” Mae nhắc nhở anh.
“Ngắm nhìn thì có gì sai trái đâu nào,” anh nói, rồi quay lại nhìn Mae. “Nhưng cô ta không xinh bằng em.”
Mae tin anh ta nói câu đó với tất thảy đám phụ nữ anh ta gặp, tin chắc đến nỗi cô không mảy may rung động. “Cô ta muốn gì vậy?”
Hugh lắc đầu và đôi mắt màu hổ phách sáng lên. “Chắc cô ta đang kể lể chuyện đó đấy.”
“Còn anh thì sẽ không ư?”
“Không.” Anh ta nhún vai cởi chiếc áo khoác da và đưa nó qua bàn cho cô. Bờ vai anh hiện ra lực lưỡng dưới chiếc sơ mi màu kem.
“Chỗ anh ngồi có thể nhìn rõ những nốt da gà đến thế sao?”
Anh mỉm cười với cô. “Phải, những chỗ phồng lên của em nhìn rất rõ.”
Mae không cần phải hỏi chỗ phồng lên nào, và cô đã quá quen với chuyện này để cảm thấy ngượng ngùng hay bối rối.
“Em sẽ trả lời câu hỏi của tôi chứ?” anh hỏi cô.
“Câu hỏi nào?”
“Một cô gái như em đang làm gì một mình thế nào?”
“Như tôi?”
“Ừ,” anh cười vang. “Ngọt ngào. Quyến rũ. Tôi cho rằng rất nhiều đàn ông bị hấp dẫn trước tính cách sôi nổi của em.”
Cô không nghĩ anh đang đùa, “Anh thực lòng muốn biết tại sao tôi ở đây ư?”
“Tôi đã hỏi mà.”
Cô có thể nói dối hoặc bịa ra chuyện gì đó. Thay vì thế cô quyết định làm anh sốc bằng cách nói thật. Cô nhét nắm tay vào áo khoác của anh và nhoài người sang đầu bàn bên kia. “Tôi đang hẹn hò với một gã đã kết hôn, và chúng tôi sẽ dành cả một đêm để hoan lạc mê dại tại Marriott.”
“Thật thế?”
Cô đã làm anh sốc, đúng vậy. Và bây giờ cô chờ đợi cơn phẫn nộ đầy đạo đức từ một người đàn ông mà cô ngờ rằng cũng chẳng đạo đức gì cho lắm.
“Cả đêm sao?”
Thất vọng trước phản ứng của anh, cô ngồi lùi lại. “Ồ, chúng tôi đã định sẽ dành cả đêm cho những màn yêu đương cuồng nhiệt, nhưng đến giờ vẫn chẳng thấy tăm hơi anh ấy đâu cả. Tôi đoán là anh ấy không trốn đi được.”
Cô phục vụ quay trở lại, đặt đồ uống của họ lên bàn. Khi để chai bia của Hugh trước mặt anh, cô ta rỉ tai anh điều gì đó. Anh lắc đầu và thọc tay vào túi sau lấy ví, rồi đưa cho cô ta hai tờ năm đô la.
Cô ta chỉ vừa bỏ đi thì Mae hỏi, “Lần này thì cô ta muốn gì?”
Hugh đưa chai bia lên miệng và nốc một hơi dài trước khi bỏ xuống bàn. “Muốn biết John có đến đây tối nay không?”
“Anh ta có đến không?”
“Không, nhưng ngay cả nếu anh ấy có đến thì cô ta cũng không phải là típ người John thích.”
Mae nhấp một ngụm đồ uống. “Anh ta thích típ người như thế nào?”
Hugh mỉm cười. “Bạn cô.”
Khi anh mỉm cười và đôi mắt sáng bừng lên như thế, Mae có thể hiểu tại sao nhiều phụ nữ lại thấy anh rất bảnh trai. “Georgeanne ư?”
“Ừ.” Anh xoay xoay cổ chai bia xanh giữa ngón cái và những ngón còn lại. “Anh ấy thích những phụ nữ có vóc dáng như cô ấy. Luôn thích thế. Nếu không, anh ấy đã chẳng mắc vào mớ hổ lốn hiện tại. Bạn cô đã hành hạ anh ấy khá tệ.”
Suýt nữa thì Mae sặc đồ uống. Cô liếm giọt rượu hương cà phê khỏi môi trên rồi phì phì nói, “Hành hạ anh ta? Georgeanne là một người tuyệt vời, chính anh ta mới là kẻ biến cuộc đời cô ấy trở thành địa ngục.”
“Chuyện đó thì tôi không rõ lắm. Tôi chỉ nghe chuyện từ phía John, và anh ấy không hay tâm sự về cuộc sống riêng tư của mình với bất cứ ai. Nhưng tôi biết rõ chuyện đó khi anh ấy phát hiện ra sự tồn tại của Lexie, anh ấy rất hay bị kích động. Có lúc anh ấy căng thẳng và cáu kỉnh cực độ. Cô bé là tất cả những gì John nói tới. Anh đã huỷ chuyến đi tới Cancuns dù đã lên kế hoạch suốt nhiều tháng trời, hơn nữa còn xin rút khỏi Cup Thế giới. Thay vào đó, John mời Lexie và Georgeanne tới ngôi nhà ở Oregon.”
“Chỉ bởi vì anh ta muốn lừa Georgeanne tin mình trong khi tìm mọi cách lợi dụng cô ấy.”
Anh nhún vai. “Tôi không rõ lắm chuyện gì đã xảy ra ở Oregon, nhưng có vẻ như cô biết khá nhiều chuyện nhỉ.”
“Tôi biết là anh ta làm tổn thương…”
“Mae?” một giọng đàn ông cắt ngang. Cô quay sang trái và ngước lên nhìn Ted, người đang đứng cạnh bàn. “Anh xin lỗi vì đến muộn, nhưng anh gặp chút rắc rối khi trốn khỏi nhà.”
Ted thấp và còm nhom, và lần đầu tiên Mae nhận thấy anh ta mặc quần có phần hơi quá cao trên thắt lưng. Anh ta trông như một gã yếu đuối nhát sợ bên cạnh người đàn ông khoẻ mạnh vạm vỡ bên kia bàn. “Chào, Ted,” Mae hồ hởi, và chỉ về phía Hugh. “Đây là Hugh Miner.”
Ted mỉm cười và chìa tay ra với anh chàng thủ môn nổi tiếng.
Hugh không cười, và cũng không bắt tay Ted. Thay vì thế anh đứng dậy, chằm chằm nhìn xuống người đàn ông nhỏ thó. “Tôi sẽ chỉ nói với anh điều này một lần duy nhất,” anh nói với giọng trầm tĩnh. “Quỷ tha ma bắt, hãy tránh xa khỏi đây hoặc tôi sẽ đánh anh phọt cả ra quần đấy.”
Nụ cười và bàn tay của Ted cùng chưng hửng. “Cái gì?”
“Nếu anh còn đến gần Mae nữa, tôi sẽ bẻ gãy chân tay anh.”
“Hugh!” Mae há hốc kinh ngạc.
“Rồi khi vợ anh tới bệnh viện nhận xác anh,” anh nói tiếp, “tôi sẽ cho cô ấy biết tại sao tôi lại đánh anh ra nông nỗi ấy.”
“Ted!” Mae đứng bật dậy và chen vào giữa hai người đàn ông. “Anh ta khoác lác đấy. Anh ta sẽ không làm anh đau đâu”.
Ted hết nhìn Hugh rồi lại nhìn Mae, rồi chẳng nói chẳng rằng, anh ta quay gót chạy một mạch về cuối phố. Mae quay ngoắt lại, ném chiếc áo khoác của Hugh lên bàn. Cô nắm tay lại thành nắm đấm rồi thụi mạnh vào ngực anh: "Đồ bất hảo to xác!” Mọi người ngồi ở các bàn khác bên ngoài tiệm quay sang nhìn cô, nhưng cô không quan tâm.
“Oái.” Anh giơ tay lên xoa xoa vào thân trước áo sơ mi. “Vì cái chuyện nhỏ nhặt vớ vẩn ấy mà cô nện tôi ra trò đấy nhỉ.”
“Khốn khiếp, anh làm quái sao vậy? Đó là cuộc hẹn hò của tôi,” Mae kích động.
“À, phải rồi, và cô nên cảm ơn tôi chứ. Đúng là đồ con chồn.”
Cô biết Ted trông có phần giống một con chồn, nhưng là một con chồn điển trai. Cô đã mất ba tháng mới chăn được anh ta, mà cô còn chưa thử anh ta nữa. Cô chộp lấy chiếc ví khỏi bàn và nhìn về cuối phố. Có lẽ nếu nhanh chân, cô có thể đuổi kịp được anh ta. Cô quay người định bỏ đi thì cảm thấy những ngón tay chắc nịch đang tóm lấy cánh tay mình.
“Cứ để anh ta đi.”
“Không.” Mae cố giật tay mình ra nhưng không được. “Đồ trời đánh thánh vật,” cô chửi thề khi bắt gặp cái liếc nhìn lần cuối của Ted khi gã bỏ chạy. “Có lẽ anh ta sẽ không bao giờ gọi lại cho tôi nữa.”
“Có lẽ là không.”
Cô nhíu mày nhìn hằm hằm vào khuôn mặt cười nhăn nhở của Hugh. “Sao anh làm thế?”
Anh nhún vai. “Tôi không thích anh ta.”
“Gì cơ?” Mae cười khô khốc. “Ai thèm quan tâm xem anh có thích anh ta hay không chứ?” Tôi đâu cần sự phê chuẩn của anh.”
“Anh ta không phải là người đàn ông dành cho em.”
“Làm quái nào anh biết chứ?”
Anh mỉm cười với cô. “Vì anh nghĩ mình là người đàn ông dành cho em.”
Lần này tiếng cười của cô mang chút bỡn cợt. “Anh đang chơi tôi đấy hả?”
“Tôi đang nghiêm túc đấy”.
Cô không tin anh. “Anh chính xác là loại đàn ông tôi không bao giờ hẹn hò.”
“Loại đàn ông nào?”
Cô nhìn chòng chọc vào bàn tay đang tóm chặt lấy cánh tay mình. “Hiếu chiến, đầu óc ngu si tứ chi phát triển, và ích kỷ. Những gã đàn ông vỗ ngực tự cho mình cái quyền ức hiếp những kẻ thấp bé và yếu đuối hơn mình.”
Anh buông tay cô ra rồi lấy chiếc áo trên bàn. “Tôi không phải là kẻ ích kỷ, và tôi cũng không ức hiếp người khác.”
“Thật vậy ư? Còn Ted thì sao?”
“Ted không tính.” Anh quành chiếc áo khoác quanh vai. “Tôi có thể nói rằng anh ta mắc phải hội chứng vẫn thường gặp ở những gã đàn ông nhỏ thó. Có lẽ anh ta hay đánh vợ.”
Mae nhíu mày trước giả định táo bạo của anh. “Còn tôi?”
“Em thì sao?”
“Anh đang ức hiếp tôi.”
“Em yêu, em yếu ớt như quả cầu thép ấy.”
Anh xốc cổ áo khoác lên quanh hàm rồi đặt tay lên vai cô. “Và tôi nghĩ em thích tôi hơn là em sẵn sàng thừa nhận đấy.”
Mae cúi xuống và nhắm mắt. Chuyện này không phải đang xảy ra chứ. “Anh thậm chí còn không hề biết tôi.”
“Tôi biết em xinh đẹp và tôi đã luôn nghĩ về em. Tôi đã bị em mê hoặc, Mae ạ.”
Mắt cô đột nhiên mở lớn. “Tôi?” Những người đàn ông như Hugh không thể bị hấp dẫn bởi những người đàn bà như cô. Anh ta là một cầu thủ nổi tiếng. còn cô là loại gái gầy tong teo, ngực lép kẹp, người chưa bao giờ có lấy nổi một cuộc hẹn cho tới tận tốt nghiệp trung học. “Chuyện này không đáng cười đâu.”
“Tôi cũng đâu nghĩ thế. Tôi thích em ngay từ lần đầu gặp em trong công viên. Chứ em nghĩ sao tôi lại gọi cho em?”
“Tôi chỉ nghĩ anh thích quấy rối phụ nữ.”
Anh cười. “Không. Chỉ em thôi. Em thật đặc biệt.”
Cô tự cho phép mình tin anh trong khoảnh khắc. Một khoảnh khắc cảm thấy mình được tán dương nhờ sự chú ý của một gã cầu thủ nổi tiếng mà cô không có ý định hẹn hò. Khoảnh khắc ấy kéo dài không lâu trước khi cô nhớ ra anh ta đã chòng ghẹo mình như thế nào trong buổi đầu gặp gỡ. “Anh đích thi là một gã mất trí,” cô nói.
“Tôi mong em sẽ cho tôi một cơ hội để làm em nghĩ lại.”
Cô chộp lấy cổ tay anh. “Chuyện này không còn đáng cười tí nào đâu.”
“Tôi chưa bao giờ nghĩ chuyện này đáng cười cả. Tôi thường chỉ thích những cô gái thích lại tôi. Tôi chưa bao giờ yêu cô nào ghét tôi.”
Trông anh nghiêm túc đến mức cô gần như đã tin anh. “Tôi không ghét anh,” cô thú nhận.
“Chà, chà, đó là điểm khởi đầu, tôi cho là thế.” Anh đưa tay lên cổ cô và dùng ngón cái nâng cằm cô lên. “Em có còn lạnh không?”
“Một chút.” Hơi ấm của bàn tay anh đặt nơi cổ họng cô lan ra ấm nóng. Cô choáng váng, thoáng hoang mang trước phản ứng của mình.
“Cô có muốn mình mang đồ uống vào trong không?”
Cú choáng dịu lại thành cơn bối rối. “Tôi muốn về nhà.”
Nỗi thất vọng khiến một bên khoé môi anh cong xuống, và anh đưa tay tới cánh tay cô. “Tôi sẽ chở em về bằng xe của em.”
“Tôi đi taxi.”
“Thế thì tôi sẽ đưa em về.”
“Được rồi, nhưng tôi sẽ không mời anh vào nhà đâu đấy,” cô nói. Một vài phụ nữ có thể nghĩ cô lang chạ bừa bãi, nhưng cô có tiêu chuẩn của riêng mình. Hugh Miner bảnh bao và thành công, và anh ta cư xử như một quý ông lịch thiệp. Anh ta chỉ không phải là típ người của cô.
“Tuỳ em thôi.”
“Tôi nói thật đấy. Anh không thể vào trong.”
“Tôi tin em. Nếu làm thế khiến em cảm thấy khá hơn, thì tôi hứa sẽ không nhấc mông khỏi chiếc mô tô nữa kìa.”
“Mô tô ư?”
“Ừm, tôi lái chiếc Harley đến đây. Cô sẽ yêu nó cho mà xem.” Anh quàng một tay quanh vai cô rồi họ đi thẳng về phía cửa ra của quán. “Tôi phải tìm Dmitri và Stuart để bảo họ là tôi về đã.”
“Tôi không thể đi mô tô với anh được đâu.”
Họ dừng lại khi tới lối ra và nhường đường cho một nhóm người đi trước. “Chắc chắn là em có thể mà. Tôi sẽ không làm em đau đâu.”
“Tôi không lo lắng về cái đó.” Cô ngước mắt lên nhìn thẳng vào khuôn mặt anh lung linh trong ánh đèn Miller màu cam bên trên khung cửa. “Lúc này tôi không mặc đồ lót.”
Anh cứng người trong vài giây, rồi mỉm cười. “Chà, được đấy. Chúng ta có điểm giống nhau rồi đây. Lúc này tôi cũng không mặc đồ lót.”
John theo Caroline Foster-Duffy qua sảnh vào dinh thự Bainbridge của Virgil. Mái tóc vàng của bà điểm xuyết những sợi tóc muối tiêu, và vài vết chân chim đã thoáng đậu nơi khoé mắt. Bà là một trong những người phụ nữ may mắn có được sự khôn ngoan và nét duyên dáng. Bà có sự khôn ngoan để không tìm cách chiến đấu với tuổi già bằng cách nhuộm tóc thành máu đồng hoặc phẫu thuật thẫm mỹ khuôn mặt, và sự duyên dáng để trông xinh đẹp dù đã bước sang tuổi sáu mươi lăm.
“Ông ấy đang mong anh đấy,” bà nói khi họ đi qua phòng ăn sang trọng. Bà dừng lại nơi khung cửa hai cánh lật màu gụ và ngước nhìn John với vẻ chăm chú ánh lên trong đôi mắt màu lam nhạt. “Tôi buộc phải nhắc anh là chỉ nên chuyện trò ngắn gọn thôi. Tôi biết Virgil gọi anh tới gặp tối nay, nhưng mấy ngày nay ông ấy đã phải làm việc rất vất vả. Ông ấy mệt mỏi, nhưng không chịu nghỉ ngơi. Tôi biết có chuyện gì đó không ổn, nhưng ông ấy không kể cho tôi biết. Anh có biết chuyện gì làm ông ấy phiền lòng thế không? Có phải do công việc kinh doanh không?”
“Tôi không biết,” John trả lời. Anh mới bước vào năm thứ hai trong hợp đồng chơi ba năm nên không phải lo lắng về chuyện đám phán điều khoản cho một năm nữa, nên anh ngờ rằng Virgil chỉ gọi anh đến để bàn bạc thôi. Hơn nữa, anh không tự đứng ra đàm phán, anh đã thuê một tập đoàn quản lý thể thao để họ quan tâm đến những lợi ích nghề nghiệp của anh. “Tôi đoán là ông ấy muốn nói về những chọn lựa sơ bộ,” anh nói, dù thực sự nghĩ thật kỳ lạ khi Virgil yêu cầu anh tới gặp riêng, nhất là vào lúc chín giờ tối thứ Sáu thế này.
Caroline nhíu mày trước khi quay người mở cánh cứa phía sau lưng. “John đến rồi,” bà thông báo khi bước vào phòng làm việc của Virgil. John theo bà đi vào căn phòng ốp gỗ đào với những tác phẩm điêu khắc thọ đánh cá Nhật Bản và mấy bức tranh bản thạch của Currier & Ives. Những đường nét khác nhau hoà trộn và mang lại ấn tượng về sự giàu có và gu thẩm mỹ. “Nhưng tôi sẽ chỉ để cậu ấy ở đây nửa giờ thôi,” bà nói tiếp. “Rồi tôi buộc phải để cậu ấy ra về để ông có thể nghỉ ngơi.”
Virgil ngước lên từ đống giấy tờ xếp rải rác trên bàn làm việc trước mặt. “Đóng cửa khi em quay ra nhé,” là lời đáp của ông với vợ.
Môi bà mím lại thành một đường kẻ chỉ, nhưng bà không nói gì mà lùi ra khỏi phòng.
“Sao anh không ngồi xuống nhỉ?” Virgil chỉ vào chiếc ghế đối diện với bàn làm việc của ông.
“Hôm trước anh có vẻ thực sự ngạc nhiên khi thấy Georgeanne Howard trên ti vi nhỉ?”
“Đúng vậy.”
“Anh có biết cô ta có một chương trình riêng ở đây, ở Seattle này?”
“Không.”
“Sao có thể thế chứ, John? Hai người gần gũi lắm kia mà.”
“Cố nhiên chúng tôi chưa gần gũi đến thế,” John đáp, tự hỏi chính xác thì Virgil đã biết được những gì.
Virgil cầm một tờ giấy lên rồi đưa qua mép bàn bên kia. “Cái này cho thấy anh là đồ dối trá.”
John nhận lấy tờ giấy, và mắt anh lướt nhanh tới bản sao giấy khai sinh của Lexie. Tên anh được khai ở mục người cha, mà nếu bình thường thì chắc hẳn anh đã hạnh phúc lắm, nhưng anh không lấy làm cảm kích khi ai đó đào sâu vào cuộc sống riêng tư của anh. Anh thảy lại tờ giấy lên mặt bàn và nhìn thẳng vào cái nhìn trừng trừng của Virgil. “Ông kiếm được thứ này ở đâu?”
Virgil xua tay không trả lời câu hỏi của John. “Có đúng thế không?”
“Đúng. Ông lấy cái này ở đâu?”
Virgin nhún vai. “Tôi cho người làm một cuộc điều tra nho nhỏ về Georgenne, và hãy tưởng tượng xem tôi đã kinh ngạc đến mức nào khi nhìn thấy tên anh.” Ông ta giở lên xấp giấy tờ của toà án cùng giấy xác nhận tư cách làm cha hợp pháp của John. Virgil không đưa chúng cho anh, nhưng anh không cần. John đã có bản sao ở nhà. “Có vẻ như anh đúng là cha của con gái Georgeanne.”
“Ông biết tôi là cha nó, vậy sao không cắt bớt mấy đoạn vớ vẩn đi mà vào thẳng điểm chính nhỉ.”
Virgil để lại giấy tờ xuống bàn. “Đó là điểm tôi luôn thích ở anh, John ạ. Anh không vòng vo né tránh bất cứ chuyện gì.” Ánh mắt ông ta không mảy may nhìn ra chỗ khác khi hỏi, “Anh đã quan hệ với hôn thê của tôi trước hay sau khi cô ấy bỏ mặc tôi đứng trong sân sau như một gã ngỡ ngẩn già nua lố bịch?”
Dù John không thích bất cứ kẻ nào đào bới quá khứ của anh, cũng không đánh giá cao những câu hỏi phạm vào đời tư, thì anh vẫn thực lòng nghĩ điều này là công bằng. Anh tôn trọng Virgil đủ để tin rằng ông ta xứng đáng nhận được một lời giải thích. “Lầu đầu tôi gặp Georgeanne là sau khi cô ấy rời bỏ đám cưới. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô ta trước khi cô ta chạy ra khỏi nhà ông và xin đi nhờ xe của tôi. Cô ta không mặc váy cưới, nên tôi đã không biết cô ta là ai.”
Virgil ngồi lui lại trong ghế. “Nhưng anh đã biết ở thời điểm nào đó.”
“Phải.”
“Khi anh phát hiện ra cô ấy là ai, anh vẫn ngủ với cô ấy ư?”
John nhíu mày. “Dĩ nhiên rồi.” Theo cách anh nhìn nhận thì không những anh đã giúp cho Virgil một việc lớn bằng cách tống khứ Georgeanne khỏi đám cưới ấy. Cô ta có thể trở nên vô cùng ích kỷ, và John không nghĩ người đàn ông luống tuổi ấy có thể chịu đựng được khi bị nói mình lãng xẹt trong chuyện chăn gối. Không như John.
Virgil còn tốt hơn nhiều khi không có cô ta. Cô ta có thể khiến một gã đàn ông trở nên nóng và cứng. Rồi lại bảo anh ta đang tự làm xấu hổ bản thân. Rồi với cái giọng nhỏ ra mật ngọt và sắc như dao găm, cô ta sẽ nhắc anh ta nhớ về cuộc hôn nhân thứ hai với một vũ nữ thoát y. Cô ta thật xấu xa, không còn nghi ngờ gì nữa.
“Hai người yêu nhau bao lâu?”
“Không lâu.” Anh biết Virgil, và ông già này hẳn đã chẳng cho gọi anh tới chỉ để nghe vài ba chuyện chớt nhả. “Vào thẳng chuyện đi.”
“Anh chơi những trận khúc côn cầu tuyệt hay cho tôi, và tôi chẳng bao giờ quan tâm xem anh chọc đồ thừa của anh vào đâu. Nhưng khi anh phang Georgeanne, anh đã phang vào mặt tôi.”
John đứng dậy và suy xét xem có nên nhảy sang bên kia bàn mà nện cho Virgil một trận phọt cứt không. Nếu Virgil không già hơn anh đến thế, có lẽ anh đã làm vậy. Georgeanne là người đàn bà nóng bỏng nhất và gợi tình nhất mà anh từng vui vẻ cùng, chứ không chỉ là gái để anh phang. Với anh cô là cái gì đó hơn thế, và cô không đáng bị nhắc tới như một thứ rác rưởi. Trấn tĩnh lại, anh cố kiềm chế cơn tức giận. “Ông vẫn chưa đi thẳng vào vấn đề chính.”
“Anh có thể có sự nghiệp của anh với đội Chinooks, hoặc anh có thể có Georgeanne. Anh không thể có cả đôi.”
John còn ghét bị đe doạ hơn là bị người ta đào bới vào chuyện đời tư. “Ông đang đe doạ sẽ chuyển nhượng tôi chăng?”
Virgil nói nghiêm túc một cách đáng sợ, “Chỉ khi anh buộc tôi phải làm thế.”
John chỉ muốn hét vào mặt Virgil rằng hãy phắn cái mông già khú nhăn nheo của ông đi. Nếu là năm tháng trước có thể anh đã nói thế. Dù thích chơi cho đội Chinooks và không thể chịu nổi cảnh mình nhảy vào làm đội trưởng cho một đội khúc côn cầu khác, anh vẫn thường không phản ứng chừng mực được trước những lời đe doạ. Nhưng lúc này anh có quá nhiều thứ không thể để mất. Anh chỉ vừa phát hiện ra mình có một đứa con, và chỉ vừa mới được phép cùng Georgeanne chăm sóc con bé. “Chúng tôi có một đứa con gái với nhau, vậy nên có lẽ ông nên cho tôi biết có ý gì khi nói “có”.”
“Gặp đứa trẻ bao nhiêu tuỳ thích,” Virgil bắt đầu. “Nhưng không được chạm vào mẹ nó. Không hò hẹn với cô ta. Không cưới cô ta, nếu không tôi và anh sẽ có chuyện đấy.”
Nếu Virgil đưa ra lời đe doạ này một năm, hoặc giả chi chỉ là vài tháng trước, thì có lẽ John sẽ bước thẳng ra ngoài mà đòi chuyển nhượng sang đội khác rồi. Nhưng làm sao anh có thể làm bố của Lexie nếu phải chuyển tới Detroit, New York hay thậm chỉ là Los Angeles? Làm sao anh có thể dõi theo Lexie của anh lớn lên từng ngày nếu không sống cùng bang với con bé. “Nghe này, Virgil,” anh vừa nói vừa nhìn ông già đứng dậy, “tôi không biết ai ghét ai hơn nữa, Georgeanne hay tôi. Nếu ông hỏi tôi từ tuần trước, có thể ông đã đỡ cho mình chút nhọc công, và giúp cho tôi đỡ phải lái xe đến đây. Tôi muốn Georgeanne chỉ như muốn một cái áo phông nhăn nhúm xấu xí thôi, còn cô ta thậm chí còn không muốn tôi đến thế nữa kìa.”
Đôi mắt quầng mỏi mệt của Virgil đang giễu nhại anh là đồ dối trá. “Chỉ cần nhớ những gì tôi nói thôi.”
“Tôi sẽ không thể quên.” John nhìn ông già lần nữa, rồi quay người rời khỏi phòng. Anh bước khỏi ngôi nhà ấy với tối hậu thư của Virgil còn bùng nhùng trong tai. Anh có thể có sự nghiệp với đội Chinooks, hoặc anh có thể có Georgeanne. Anh không thể có cả đôi.
John đợi phà suốt mười lăm phút, và đến khi anh bước vào ngôi nhà thuyền thì sự ngớ ngẩn trong lời đe doạ của Virgil mới khiến anh bật ra một tiếng cười gượng gạo từ trong cổ họng. Anh ngờ rằng ông già đó đang tưởng đã tìm ra cách trả đũa hoàn hảo. Có thể đó cũng là một cách hay, nhưng dường như ở chung với nhau John và Georgeanne còn không chịu đựng nổi nữa mà. Ép họ ở cùng nhau có khi còn là hình phạt thích đáng hơn.
Còi, chuông, tiếng lốp xe nghiến ken két, và tiếng kính vỡ loảng xoảng dội vào tai John khi anh nhìn Lexie đâm sầm vào cây, lao vun vút lên vỉa hè và đốn ngã khách bộ hành.
“Cháu chơi khá hơn rồi,” con bé hét lên trong bầu không khí nhốn nháo của khu điện tử xèng.
Anh nhìn chằm chằm vào màn hình trước mặt Lexie, cảm thấy thái dương mình nhoi nhói. “Cẩn thận tránh bà già đáng kính kia nhé,” anh cảnh báo nhưng đã quá muộn. Lexie đã tông chết vị công dân lớn tuổi ấy và hất tung khung tập đi của bà lên không trung.
John không thích thú gì với mấy trò chơi điện tử hay khu chơi điện tử xèng. Anh không thích các trung tâm mua sắm hay đặt hàng qua thư, và cũng chẳng hào hứng gì với phim hoạt hình.
Trò chơi kết thúc, và John xoay cổ tay nhìn đồng hồ. “Đến lúc phải đi rồi.”
“Cháu có thắng không chú John?” Lexie vừa hỏi vừa chỉ vào điểm số trên màn hình. Ngón tay giữa của con bé đeo một chiếc nhẫn bạc chạm lộng mà anh mua trong gian hàng bán đồ trang sức ở chỗ Pike Place, ngồi trên chiếc ghế bên cạnh là một chú mèo thuỷ tinh bé xíu mà anh mua ở một quầy hàng khác. Chất đầy sau chiếc Range Rover là hàng đống đồ chơi, và anh chỉ giết thời gian trước khi đưa Lexie lên đầu phố tới rạp chiếu bóng để con bé xem phim Thằng gù ở Nhà thờ Đức Bà.
Anh đang cố mua chuộc tình yêu của con gái mình. Anh không hề hối tiếc. Anh không quan tâm. Anh sẽ mua cho con bé bất cứ thứ gì, dành thời gian trong cả chục gian điện tử xèng ồn ào, hay ngồi miết trong rạp chiếu phim của Disney nếu vì thế mà anh được nghe con gọi “Bố yêu” dù chỉ một lần. “Cháu suýt thắng,” anh nói dối và nắm lấy tay con bé. “Mang con mèo đi nào,” anh nói, rồi cả hai len lỏi ra khỏi khu giải trí. Anh sẽ làm mọi cách để có lại được cô bé Lexie ngày nào.
Trước đó khi anh đến đón Lexie, con bé gặp anh ở ngưỡng cửa nhưng tuyệt nhiên không thấy chút dấu vết nào của phấn phủ mắt hay phấn hồng. Hôm nay là thứ Bảy, và dù vô cùng tha thiết được nhìn thấy khuôn mặt mộc của con, anh cũng mong mỏi xiết bao được thấy lại cô bé anh đã gặp hồi tháng Sáu đến nỗi gợi ý con tô một lớp son bóng phơn phớt. Con bé từ chối với một cái lắc đầu.
Có lẽ anh phải nói chuyện với Georgeanne lần nữa về cách cư xử bất thường của Lexie, nhưng khi anh đến đón Lexie thì Georgeanne đã ra khỏi nhà. Theo lời cô nhóc giữ trẻ đeo khoen ở cánh mũi phải thì Georgeanne đang làm việc và sẽ trở về nhà trước khi anh đưa Lexie đi chơi về.
Có lẽ sau đây mình sẽ nói chuyện với Georgeanne, anh nghĩ khi cùng Lexie đi thẳng tới rạp chiếu bóng. Có lẽ anh và Georgeanne cần cư xử như những người lớn hiểu lý lẽ và quyết định xem cái gì tốt nhất cho con gái. Ừm, có lẽ vậy. Nhưng ở Georgeanne có điều gì đó như trêu ngươi khiến anh muốn châm chọc cô.
“Nhìn này!” Lexie bất ngờ khựng lại và nhìn chằm chằm vào cửa sổ trước của một cửa hàng. Đằng sau khung kính, mấy con mèo nhỏ vằn vện nằm cuộn tròn như những quả bóng lông hay đuổi nhau trèo lên cây cột mài móng bọc nhung. Khoảng sáu con miu mới sinh đang được nhốt trong một chiếc chuồng lưới thép lớn, và khi bé chăm chú nhìn kinh ngạc, John đã có đặc ân được thoáng thấy lại cô bé dễ thương từng đánh cắp trái tim anh ở công viên Marymoor.
“Cháu có muốn vào trong xem qua một chút không?” anh hỏi con.
Bé ngẩng lên liếc anh cơ hồ như anh vừa rủ rê nó dự phần vào một tội ác lớn. “Mẹ cháu bảo rằng…” Nó ngừng lại và một nụ cười từ từ hé nở trên môi. “Okay. Cháu sẽ vào trong với chú.”
John mở cửa vào cửa hàng Patty”s Pets và giữ cửa cho con gái bước vào. Cửa hàng vắng tanh, chỉ có cô bán hàng đứng sau quầy đang hí hoáy viết gì đó vào sổ.
Lexie đưa cho anh con mèo thủy tinh mà anh mua cho trước đấy, rồi bước tới và cũi và đặt tay lên nóc. Nó nhét tay vào trong rồi ngọ nguậy ngón tay. Ngay tức khắc, một con mèo mướp vàng nhảy lên và uốn cái mình nhỏ xíu xù lông quanh cổ tay con bé. Lexie khúc khích cười, nâng niu con miu nhỏ áp vào ngực mình.
John nhét con mèo thủy tinh nhỏ vào túi áo phông màu lục lam rồi quỳ xuống cạnh Lexie. Anh gãi nhẹ vào giữa hai tai con mèo, và khớp đốt ngón tay anh cọ cọ vào cằm con gái. Anh không biết cái gì mềm mại hơn nữa.
Lexie nhìn anh, phấn khích đến nỗi khó có thể kìm lòng. “Cháu thích con miu này, chú John ạ.”
Anh chạm vào tai con mèo bé bỏng rồi cọ cọ mu bàn tay dọc theo quai hàm Lexie. “Con có thể gọi bố là Bố yêu,” anh nói, và nín thở.
Đôi mắt lam mở lớn chớp một lần, hai lần, rồi bé dụi vào chóp đầu con mèo, nở một nụ cười. Một lúm đồng tiền hằn sâu bên gò má không đánh phấn, nhưng bé không nói lời nào.
“Tất cả lũ mèo này đều có ảnh chụp cả đấy ạ,” cô bán hàng đứng sau John thông báo.
John nhìn xuống mũi giày chạy, nỗi thất vọng cứa vào trái tim anh. “Hôm nay chúng tôi chỉ xem thôi,” anh vừa nói vừa đứng dậy.
“Tôi có thể để anh mua con mèo mướp bé bỏng đấy với giá năm mươi đô la. Đó là một giá hời đấy.”
John biết rằng một khi Lexie bị ám ảnh về động vật như thế, con bé sẽ có một con thú cưng nếu Georgeanne cho phép. “Mẹ cô bé có thể sẽ giết chết tôi nếu tôi đưa con bé về nhà cùng một con mèo con.”
“Thế còn cún con thì sao? Tôi vừa có một con chó đốm nhỏ.”
“Một con chó đốm?” Tai Lexie giỏng lên. “Cô cóa một con chó đốm?”
“Ngay đằng kia.” Cô bán hàng chỉ tới bức tường xếp đầy những cũi chó bằng kính.
Lexie nhẹ nhàng đặt con mèo trở lại cũi rồi đi thẳng tới cũi chó. Chiếc cũi nhỏ chẳng có gì ngoài một con chó đốm, một con chó bé bỏng béo lẳn đang nằm nghiêng người ngủ, và một con chuột lớn nằm cuộn tròn trong bát đựng thức ăn.
“Con gì kia ạ?” Lexie vừa hỏi vừa chỉ vào con chuột trụi thùi lụi lông với đôi tai lớn.
“Nó thuộc giống chó Chihuahua. Một con chó bé bỏng vô cùng dễ thương.”
John không nghĩ người ta nên gọi con vật ấy là chó. Nó run rẩy khắp mình mẩy, trông thật thảm bại, và sẽ gieo tiếng xấu cho loài chó nói chung.
“Lạnh không?” Lexie hỏi và dí trán vào tấm kính.
“Cô không nghĩ thế. Cô đã cố giữ ấm cho nó rồi.”
“Chắc nó phải hoảng sợ lắm.” Con bé đặt tay lên cũi rồi nói, “Nó nhớ mẹ.”
“Ôi, không,” John nói khi ký ức về lần lội xuống biển Thái bình Dương để cứu sống một con cá bé xíu cho Lexie tràn về trong trí nhớ của anh. Sẽ không đời nào anh lại đi vờ cứu sống con chó ngu ngốc đang run rẩy kia. “Không, nó không nhớ mẹ đâu. Nó muốn được sống một mình. Chú cá là nó thích nằm ngủ trong chiếc đĩa thức ăn của nó. Chú cá là nó đang mơ một giấc mơ ngọt ngào, và nó run rẩy vì nó mơ đang bay trong cơn gió lạnh.”
“Chihuahua vốn là giống chó hay hoảng sợ,” người bán hàng cho anh biết.
“Hoảng sợ?” John chỉ vào con chó. “Nó đang ngủ.”
Người phụ nữ mỉm cười. “Nó chỉ cần chút yêu thương gần gũi.” Rồi cô quay đi bước qua hai cánh cửa lật. Vài giây sau, cửa sau chuồng thủy tinh mở ra và một đôi tay thò vào bế con chó đang nằm cuộn tròn trên đĩa thức ăn.
“Chúng ta phải đi thôi nếu muốn đến kịp giờ chiếu phim,” John nói muộn màng. Người phụ nữ quay lại dúi con chó vào vòng tay đang đợi sẵn của Lexie.
“Tên nó là gì ạ?” Lexie hỏi khi cúi nhìn vào đôi mắt đen tròn đang thao láo nhìn lại bé.
“Nó không có tên,” người phụ nữ trả lời. “Chủ của nó sẽ đặt tên cho nó.”
Cái lưỡi hồng hồng nhỏ xíu của con chó thè ra liếm vào cằm Lexie. “Nó thích cháu,” con bé cười khanh khách.
John nhìn vào đồng hồ, bồn chồn giục Lexie chia tay con chó. “Bộ phim sắp bắt đầu rồi. Mình phải đi thôi.”
“Cháu đã xem bộ phim này ba lần rồi,” bé nói mà mắt không rời khỏi con chó. “Mày đúng là một con cún cưng quý báu,” bé dài giọng, nghe giống mẹ đến kinh ngạc. “Ngọt ngào với tao nào.”
“Không.” John lắc đầu, bỗng nhiên có cảm giác như người phi công đang loay hoay cố hạ cánh máy bay trong khi chỉ còn một động cơ hoạt động. “Không được hôn nó đâu.”
“Nó hết run rồi này.” Lexie cọ má vào mặt con chó và con chó liếm tai Lexie.
“Cháu phải trả con chó lại rồi đấy.”
“Nhưng nó yêu cháu và cháu yêu nó. Cháu không được giữ nó sao?”
“Ôi, không được. Mẹ cháu sẽ giết chú mất.”
“Mẹ sẽ không phiền đâu.”
John nghe thấy sự nũng nịu trong giọng của Lexie và quỳ xuống bên con. Anh cảm thấy như động cơ còn lại của chiếc máy bay cũng đã chết giữa lúc mặt đất đang lao vào anh. Anh phải nghĩ ra thứ gì đó thật nhanh trước khi đâm xuống. “Có, mẹ sẽ giận đấy, nhưng chú bảo này, chú sẽ mua cho cháu một con rùa và cháu có thể giữ nó ở nhà chú, rồi mỗi lần cháu tới, cháu có thể chơi với con rùa.”
Với con chó cuộn tròn hạnh phúc trong vòng tay, Lexie ngả vào ngực John. “Cháu không muốn một con rùa. Cháu muốn có con Pongo bé bỏng.”
“Pongo bé bỏng? Cháu không thể đặt tên cho nó, Lexie. Con chó đâu phải của cháu.”
Nước mắt ngân ngấn nơi khóe mắt và cằm con bé bắt đầu run run. “Nhưng cháu yêu nó, và nó cũng yêu cháu mà.”
“Cháu không muốn có một con chó thực sự ư? Tuần tới mình sẽ đến xem những con chó thực sự.”
Con bé lắc đầu. “Nó là một con chó thực sự mà. Nó chỉ hơi nhỏ thôi. Nó không có mẹ, và nếu cháu bỏ lại nó ở đây, nó sẽ nhớ cháu đến chết mất.” Những giọt nước mắt tràn qua vành mi dưới và bé nức nở, “Đi mà, bố yêu quý, cho con giữ Pongo đi.”
Trái tim John va mạnh vào mạng sườn rồi nhào lên cuống họng. Anh nhìn khuôn mặt buồn bã tội nghiệp của con gái, và anh đã đâm xuống. Anh bốc cháy. Không còn cơ hội để cứu vãn nữa. Anh trở thành thằng khờ. Con bé đã gọi anh là “Bố yêu” và anh liền thò tay lấy ví rồi chìa thẻ Visa cho cô bán hàng đang mừng rơn.
“Được rồi,” anh nói, quàng tay quanh Lexie và kéo con bé lại gần. “Nhưng mẹ sẽ giết bố con mình mất.”
“Thật vậy ư? Con có thể giữ con Pongo ư?”
“Bố đoán là thế.”
Nước mắt của con bé lại tuôn trào và nó vùi mặt vào cổ anh. “Bố là người bố tuyệt nhất trái đất,” nó sụt sịt, và anh cảm thấy làn hơi ẩm trên da thịt mình. “Con sẽ là cô bé ngoan, suốt đời và mãi mãi.” Vai Lexie run lên, Pongo run lên và John sợ rằng mình cũng đang bắt đầu run lên. “Con yêu bố, bố yêu,” nó thì thầm.
Nếu không nhanh nhanh làm cái gì đó, anh chắc sẽ khóc nức lên như Lexie mất. Anh sẽ bắt đầu sụt sùi như đàn bà ở đây, ngay trước mặt cô bán hàng mất thôi. “Bố cũng yêu con lắm,” anh nói, rồi hắng giọng. “Chúng tôi nên mua chút thức ăn cho nó.”
“Và có lẽ anh cần một cái thùng gỗ thưa,” cô bán hàng thông báo cho anh khi cầm lấy thẻ visa. “Và vì con chó có rất ít lông nên chắc nó cần cả một cái áo len.”
Cho tới khi John đưa Lexie, Pongo và đồ dùng của con chó lên chiếc Range Rover, thì anh gần như đã đốt đến cả nghìn đô. Trên đường chạy thẳng về phía Bellevue, Lexie nói chuyện rôm rả không ngớt miệng và còn hát ru con chó nữa. Nhưng càng về gần con phố nhà mình, con bé lại càng im lặng. Khi John dừng xe cạnh vỉa hè, sự im lặng bao trùm khắp chiếc xe.
John giúp Lexie xuống xe, và cả hai không nói gì khi đi lên vỉa hè. Họ dừng lại bên dưới ngọn đèn hiên, cả hai nhìn chằm chằm vào cánh cửa đang khép, chùng chình trước khoảnh khắc họ phải đối mặt với Georgeanne vì một con chuột run lẩy bẩy trong vòng tay của Lexie.
“Mẹ sẽ giận lắm đấy,” Lexie rì rầm cảnh báo anh.
John cảm thấy bàn tay nhỏ nhắn nắm lấy tay mình. “Ừ. Sắp rắc rối vãi cứt đây.”
Lexie không sửa câu nói bậy của bố. Bé chỉ im lặng rồi nói, “Vâng.”
Anh có thể có sự nghiệp của anh với đội Chinooks, hoặc anh có thể có Georgeanne. Anh không thể có cả hai. Suýt nữa thì anh bật cười. Ngay cả nếu anh có bỗng nhiên giở chứng mà yêu Georgeanne điên cuồng thì anh cũng biết rằng sau đêm nay, sự nghiệp của anh sẽ vững chắc như căn cứ quân sự Fort Knox.
Cánh cửa mở ra và dự báo của John về mức độ rắc rối đã trở thành hiện thực. Georgeanne hết nhìn John rồi lại nhìn Lexie, rồi nhìn tới con chó run rẩy trong vòng tay của Lexie. “Cái gì thế?”
Lexie im lặng để John nói. “Ừ thì, chúng tôi đi vào một cửa hàng thú cưng và…”
“Ồ không!” Geoorgeannr rên rỉ. “Anh đưa con bé đến cửa hàng thú cưng sao? Con bé không được phép vào cửa hàng thú cưng. Lần gần nhất khi con bé vào đó nó đã khóc dữ đến mức nôn thốc nôn tháo ra đấy.”
“Chậc, hãy nhìn tích cực lên nào, lần này con bé đâu có nôn.”
“Mặt tích cực?” Cô chỉ vào vòng tay của Lexie rồi rít lên, “Đó là một con CHÓ phải không?”
“Cô bán hàng nói thế, nhưng tôi cũng không tin lắm.”
“Mang trả nó đi.”
“Không, mẹ. Pongo là của con.”
“Pongo? Con đã đặt tên cho nó rồi sao?” Cô nhìn John và hai mắt nheo lại hình viên đạn. “Tuyệt đấy. Pongo có thể sống với chú John.”
“Tôi không có sân.”
“Anh có boong tàu. Thế là tốt lắm rồi.”
“Nó không thể sống với bố vì nếu thế con chỉ được gặp nó vào cuối tuần, vậy làm sao con có thể rèn cho nó không đi bậy trên thảm chứ?”
“Rèn ai cơ? Pongo hay bố con?”
“Chuyện này không đáng cười đâu, Georgie.”
“Tôi biết. Mang trả nó đi, John.”
“Giá mà tôi có thể làm thế. Nhưng tấm biển trên quầy thu ngân có viết hàng đã mua miễn đổi hoặc trả lại. Tôi không thể mang trả Pongo.” Anh nhìn Georgeanne đứng đó xinh đẹp như thường lệ và tức giận như phát điên. Nhưng lần đầu tiên kể từ khi ở bãi biễn Cannon, anh không muốn cãi cọ với cô. Anh không muốn chọc cô tức hơn mức hiện tại nữa. “Tôi xin lỗi về chuyện này, nhưng Lexie bắt đầu khóc và tôi không thể từ chối con bé. Nó đặt tên cho con chó rồi gục đầu vào cổ tôi mà khóc, vậy nên tôi đã đưa thẻ tín dụng cho cô bán hàng.”
“Alexandra Mae, vào nhà đi.”
“Ơ, vâng,” Lexie nói, lấy tay che đầu con chó, rồi cúi đầu xuống, chạy qua người mẹ.
John dợm bước vào theo, nhưng Georgeanne chặn lại. “Tôi đã bảo con bé suốt năm năm trời nay là nó không được phép có thú cưng cho tới khi mười tuổi. Thế mà anh đưa nó ra ngoài có vài giờ đồng hồ rồi dẫn nó về với một con chó trụi lông là sao?”
Anh giơ tay phải lên. “Tôi biết, và tôi xin lỗi. Tôi hứa sẽ mua hết thức ăn cho con chó, rồi Lexie và tôi sẽ đưa nó tới lớp huấn luyện cún con.”
“Tôi có thể mua được cả đống thức ăn khốn kiếp đó!” Georgeanne giơ lòng bàn tay lên, những ngón tay ấn lên trán. Cô cảm thấy như đầu mình sắp nổ tung. “Tôi giận đến mức không nghĩ minh mẫn được rồi đây.”
“Có ích gì nếu tôi nói đã mua một cuốn sách về cún con để cô đọc không?”
“Không, John,” cô thở dài thườn thượt, và buông tay xuống. “Chẳng ích gì.”
“Tôi còn có cả một cái cũi nhỏ nữa.” Anh nắm lấy cổ tay cô kéo theo sau. “Tôi đã mua cả đống đồ cho con chó.”
Georgeanne cố phớt lờ nhịp đập mạch đập rộn lên khi anh kéo cô. “Đồ gì?”
Anh mở cửa ghế sau của chiếc Range Rover rồi đưa cho cô cái thùng gỗ thưa lỗ to bằng ngăn tủ quần áo.
“Con chó sẽ ở trong cái cũi đó vào buổi tối để không bậy lên sàn nhà,” anh nói với cô, rồi thò tay vào trong xe lần nữa. “Đây là cuốn sách nuôi dạy chó, một cuốn khác nói về giống chó Chihuahua, và một cuốn nữa” – anh dừng lại để đọc nhan đề - “Làm sao để nuôi dạy cún nhà bạn. Tôi có thức ăn, bánh quy cho bộ răng còn non của nó, cả đồ chơi cho nó nhá, một cái vòng cổ và một cái xích chó, và cả một cái áo len be bé nữa.”
“Áo len? Anh mua tất tần tật trong cửa hàng đó sao?”
“Hết rồi đấy.” Anh xoay người rồi thò đầu vào trong xe.
Qua nóc cũi, Georgeanne liếc vào hai túi sau của John đang chĩa về phía mình. Chiếc quần jeans của anh được mài bạc thành màu da trời nhạt ở vài chỗ, và chiếc thắt lưng da tết luồn quanh đỉa quần.
“Tôi biết nó ở đâu đấy quanh đây mà,” anh nói, và cô vội lia cái nhìn tới phần sau chiếc xe bốn bánh. Nó chất đầy ự những túi đồ chơi mua trong cửa hàng và một cái hộp lớn dán nhãn cửa hàng Ultimate Hockey.
“Tất cả thứ đó là cái gì?” cô hỏi, nghiêng đầu về phía sau xe.
John nhìn cô qua vai. “Chỉ là mấy món đồ Lexie chọn thôi. Ở nhà tôi chẳng có gì cho nó chơi cả, nên tôi mua vài thứ. Tôi không thể tin mấy con búp bê Barbie lại đắt đến thế. Tôi không hình dung được là một con thôi giá cũng sáu mươi đô la.” Anh đứng thẳng người và chìa cho cô một ống tuýp. “Đó là thuốc đánh răng cho Pongo.”
Georgeanne thất kinh. “Anh trả sáu mươi đô la cho một con Barbie sao?”
Anh nhún vai. “À, nếu cô biết con này đi kèm một con chó xù, con kia thì đi kèm áo khoác vằn đen trắng và mũ nồi tiệp màu, tôi không nghĩ mình bị móc túi nhiều lắm đâu.”
Anh đã bị lừa. Mở hộp ra, rồi chỉ vài ngày thôi Lexie hẳn sẽ cởi tung quần áo của lũ búp bê và khiến chúng trông như thể đã được con bé mua về từ một phiên bán đồ cũ của các gia đình vậy. Georgeanne hiếm khi mua đồ chơi đắt tiền cho Lexie. Con gái cô đâu đối xử với chúng tử tế hơn chút nào so với những món đồ rẻ tiền, và thường thì Georgeanne không thể bỏ ra một trăm hai mươi đô la cho hai con búp bê.
Georgeanne có khuynh hướng thoải mái hơn và tiêu nhiều tiền vào dịp Giáng sinh và sinh nhật, nhưng cô phải lập ngân sách và dành dụm tiền cho những dịp đặc biệt ấy, John thì không. Tháng trước, khi luật sư của họ cùng tìm cách đi đến thỏa thuận chung về quyền chăm sóc con, cô đã biết được rằng mỗi năm anh kiếm được sáu triệu đô từ tiền chơi khúc côn cầu, cộng với khoảng ba triệu đô từ tiền đầu tư và quảng cáo. Cô không bao giờ cạnh tranh nổi với mức đó.
Cô nhìn vào khuôn mặt cười tươi rói của anh và tự hỏi anh đang có mưu đồ gì. Nếu cô không cẩn thận, anh sẽ lấy đi tất cả mà chẳng bỏ lại cho cô thứ gì ngoài con chó trụi lông kia.
--------------------------------
1
Kahluá: Một loại rượu có hương cà phê nổi tiếng của Mexico.
Chương 17
“Cậu muốn latte ít béo hay mocha?” Georgeanne hỏi Mae khi cho đầy cà phê espresso vào cái phin kim loại của máy pha.
“Latte,” Mae trả lời mà không rời mắt khỏi con Pongo đang nằm cuộn tròn nhai bánh quy của chó. “Quỷ tha ma bắt, thật thảm hại. Con mèo của tớ còn to hơn con chó của cậu. Bootsie có thể đá tung mông con chó.”
“Lexie,” Georgeanne gọi với, “Dì Mae lại đang nói xấu Pongo này.”
Lexie bước vào bếp, nhét tay vào áo mưa. “Không được nói xấu con chó của cháu.” Nó cau có, và chộp lấy chiếc ba lô trên bàn. “Nó nhạy cảm lắm.” Con bé quỳ xuống và cúi mặt xuống sát mặt con chó. “Cháu phải đi học rồi, hẹn gặp lại dì sau.” Con cún thôi ăn bánh quy để liếm liếm miệng Lexie.
“Này, mẹ đã bảo con rồi,” Georgeanne vừa phàn nàn vừa lôi túi sữa ít béo từ trong tủ lạnh ra. “Con chó có những thói quen xấu.”
Lexie nhún vai rồi đứng dậy, “Con không quan tâm. Con yêu nó.”
“Nhưng mẹ thì quan tâm đấy. Giờ thì sang nhà Amy đi, nếu không con sẽ phải đi học một mình đấy.”
Lexie chun môi chờ mẹ hôn chào tạm biệt.
Georgeanne lắc đầu và đưa Lexie ra cửa trước. “Mẹ không hôn các cô bé hôn những con chó sau khi chúng đã tự liếm khắp người.” Georgeanne đứng bên ngưỡng cửa, nhìn Lexie sang đường xong mới quay vào bếp. “Con bé mê mẩn con cún con kia mất rồi,” cô nói với Mae trong khi bước thẳng tới máy pha cà phê. “Nó mới có con chó ấy năm ngày, thế mà con chó đã chiếm lĩnh cả cuộc sống của mẹ con mình. Cậu phải xem cái áo vest vải bông chéo mà Lexie may cho con chó mới được.”
“Mình có chuyện này muốn nói với cậu,” Mae bỗng buột miệng.
Georgeanne ngoái lại nhìn cô bạn. Cô đã ngờ ngợ có gì đó là lạ với Mae. Mae thường không ghé qua sớm thế này để uống cà phê, và mấy ngày gần đây, Mae có vẻ hơi xa cách. “Chuyện gì thế?”
“Mình yêu Hugh 1.”
Georgeanne mỉm cười và rót hai tách nước vào máy pha cà phê. “Mình cũng yêu cậu.”
“Không.” Mae lắc đầu. “Cậu hiểu nhầm rồi. Mình yêu Hugh, anh chàng thủ môn.”
“Sao cơ?” Tay cô cứng đờ và mày cô nhíu xuống. “Bạn của John ư?”
“Phải.”
Georgeanne đặt bình pha xuống mà không bật máy. “Mình cứ tưởng cậu ghét anh ta chứ.”
“Mình cũng đã tưởng thế, nhưng giờ thì mình không biết nữa.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
Mặt Mae trông cũng bối rối như lòng Georgeanne vậy. “Mình không biết nữa! Thứ Sáu tuần trước anh ấy chở mình về nhà từ câu lạc bộ, và anh ấy không bao giờ rời đi nữa.”
“Anh ấy đã ở cùng cậu suốt sáu ngày vừa rồi sao?” Georgeanne bước tới bàn bếp. Cô cần ngồi xuống.
“Ừm, chính xác hơn là sáu đêm qua.”
“Cậu đang nói đùa phải không?”
“Không, nhưng mình hiểu tại sao cậu nghĩ thế. Mình không biết chuyện xảy ra thế nào nữa. Một phút trước mình còn bảo anh ấy không thể bước vào nhà mình, và rồi mình còn chưa kịp thực sự nhận ra có chuyện gì thì bọn mình đã trần truồng và cãi vã xem ai sẽ ở trên. Anh ấy thắng và mình yêu anh ấy luôn.”
Georgeanne chết lặng vì sốc. “Cậu chắc không.”
“Chắc. Anh ấy ở trên.”
“Mình không định hỏi chuyện đó!” Nếu có một thứ mà Georgeanne muốn thay đổi trong tình bạn của hai người thì đó là thói quen chia sẻ những chi tiết mà Georgeanne không muốn biết của Mae. “Cậu có chắc cậu đang yêu anh ta không?”
Mae gật đầu, và lần đầu tiên trong suốt bảy năm trời hai người làm bạn với nhau, Georgeanne ngồi nhìn nước mắt dâng đầy tròng mắt nâu của Mae. Mae lúc nào cũng mạnh mẽ nên nhìn cô khóc trái tim của Georgeanne như vỡ tan theo. “Ôi, cưng à,” cô thở hắt ra, và đi tới quỳ xuống bên ghế của Mae. “Mình rất tiếc.” Cô quàng tay quanh người Mae và cố xoa dịu bạn. “Đàn ông là những kẻ phiền nhiễu thế đấy.”
“Mình biết,” Mae sụt sùi. “Mọi thứ đều thật tuyệt, và rồi anh ấy đã phải làm thế.”
“Anh ta đã làm gì?”
Mae ngồi lui lại và nhìn thẳng vào khuôn mặt Georgeanne. “Anh ấy cầu hôn mình.”
Georgeanne bật người lại ngồi lên gót, không nói nên lời.
“Mình đã bảo Hugh là quá sớm, nhưng anh ấy không nghe. Anh ấy bảo yêu mình, và biết mình cũng yêu anh ấy.”
Cô chộp lấy góc khăn trải bàn vải lanh của Georgeanne lau mắt. “Mình đã bảo mình không nghĩ bọn mình nên kết hôn lúc này, nhưng anh ấy cứ không chịu nghe.”
“Dĩ nhiên là cậu không nên cưới anh ta vào thời điểm này.” Georgeanne vịn vào bàn và kéo mình đứng dậy. “Tuần trước cậu thậm chí còn không ưa anh ta. Làm sao anh ta có thể mong cậu đưa ra một quyết định quan trọng trong đời chỉ trong ngần ấy thời gian ngắn ngủi chứ? Sáu ngày đâu đã đủ cho cậu biết liệu mình có muốn dành cả cuộc đời còn lại ở bên anh ta không?”
“Mình đã biết điều đó sau đêm thứ ba.”
Georgeanne lần tới ghế. Cô cảm thấy chóng mặt và cần ngồi xuống. “Cậu đang cố ý làm mình bối rối đấy à? Cậu muốn cưới anh ta sao?”
“Ừm, đúng vậy.”
“Nhưng cậu nói với anh ta là không?”
“Mình nói với anh ấy là có! Mình đã cố nói không, nhưng không thể,” cô nói, và lại tức tưởi òa khóc. “Chuyện này nghe có vẻ ngớ ngẩn và bốc đồng, nhưng mình thực lòng yêu anh ấy, và mình không muốn vứt bỏ cơ hội được hạnh phúc.”
“Cậu không có vẻ gì là đang hạnh phúc cả.”
“Mình có hạnh phúc! Mình chưa từng cảm thấy thế này bao giờ. Hugh khiến mình cảm thấy thật tuyệt, dù mình không bao giờ biết có thể cảm thấy tuyệt hơn nữa không. Anh ấy làm mình bật cười, và anh ấy nghĩ mình hài hước. Anh ấy làm mình hạnh phúc, nhưng…” Cô dừng lại lau nước mắt. “Mình muốn cậu cũng được hạnh phúc.”
“Mình?”
“Mấy tháng trước cậu đã rất đau khổ, nhất là sau chuyện xảy ra ở Oregon. Mình cảm thấy thật tồi tệ vì cậu bất hạnh còn mình thì chưa bao giờ hạnh phúc hơn lúc này.”
“Mình hạnh phúc mà,” cô trấn an Mae, rồi tự hỏi có thật như thế không. Với ngần ấy chuyện xảy đến trong đời mình, cô chưa từng dừng lại để nghĩ xem mình cảm thấy như thế nào. Nếu có nghĩ về điều đó lúc này thì từ duy nhất nảy ra trong đầu cô là sốc. Nhưng giờ đâu phải là lúc để cô lôi những cảm xúc trong lòng mình ra ngắm nghía. “Này,” cô vừa nói vừa mỉm cười, chìa tay ra trước mặt, rồi vỗ vỗ lên bàn. “Bây giờ hãy chỉ nghĩ đến hạnh phúc của cậu thôi nhé. Có vẻ như chúng mình có một đám cưới cần lên kế hoạch đây.”
Mae đặt tay vào tay Georgeanne. “Mình biết toàn bộ chuyện này có vẻ quá vội vàng, nhưng mình thực lòng yêu Hugh,” Mae nói, mắt sáng lên khi gọi tên anh.
Georgeanne nhìn sâu vào mắt bạn, và để sự lãng mạn và phấn khích ánh lên trong đó lấn át mọi hoài nghi – trong phút chốc. “Cậu đã chọn ngày chưa?”
“Mồng mười tháng Mười.”
“Ba tuần nữa!”
“Mình biết, nhưng mùa khúc côn cầu bắt đầu vào mồng năm tại Detroit, và Hugh không thể bỏ lỡ trận đầu tiên của mùa giải. Rồi anh ấy lại phải qua New York và St. Louis rồi mới trở lại đây vào ngày mồng chín để đấu với đội Colorado, mà anh ấy thì chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội đánh bại Patrick Roy cả. Mình đã kiểm tra lịch làm việc của cả hai và thấy ba tuần đầu của tháng Mười bọn mình đều không bận lắm. Vì vậy Hugh và mình sẽ cưới vào ngày mồng Mười, hưởng tuần trăng mật một tuần trên đảo Maui, rồi mình trở về đây giúp cậu chuẩn bị tiệc cho Bennet, còn Hugh thì tới Toronto tham gia trận đấu với đội Lá Cây Thích.”
“Ba tuần,” Georgeanne rên rỉ. “Làm thế nào tớ có thể lập kế hoạch cho một đám cưới tuyệt vời trong ba tuần chứ?”
“Cậu sẽ không làm việc đó. Mình muốn cậu có mặt tại lễ cưới, chứ không phải ở trong bếp. Mình đã quyết định thuê Anne Maclean thầu trọn vụ này rồi. Bà ấy làm việc tại một hội trường dạ tiệc lớn ở Redmond, nhưng có làm ngoài, và vẫn đủ nhiệt tình để nhận một vụ với thời gian gấp gáp như thế này. Mình chỉ muốn cậu giúp mình hai việc. Mình sẽ rất cảm kích nếu cậu giúp mình chọn váy cưới. Cậu biết mình mù mờ thế nào về những thứ như thế này rồi đấy. Có khi mình sẽ chọn chiếc váy ngớ ngẩn nào đó mà chẳng hề hay biết cũng nên.”
Georgeanne mỉm cười. “Mình sẽ rất vui được giúp cậu.”
“Và mình muốn cậu làm giúp mình một việc khác nữa.” Cô siết tay Georgeanne chặt hơn. “Mình muốn cậu trở thành phù dâu danh dự của mình. Hugh sẽ mời John làm phù rể, nên thỉnh thoảng cậu sẽ phải đứng cạnh anh ta.”
Những giọt nước mắt của Mae khiến cổ họng Georgeanne nghẹn lại. “Đừng lo lắng về chuyện giữa mình với John. Mình rất vui được đứng bên cậu.”
“Còn một vấn đề nữa, và chuyện này khá căng đấy.”
“Còn chuyện gì có thể tồi tệ hơn việc lên kế hoạch làm đám cưới trong ba tuần và đứng bên cạnh John?”
“Virgil Duffy.”
Mọi thứ bên trong Georgeanne đông cứng lại.
“Mình đã bảo Hugh rằng chúng mình không nên mời ông ta, nhưng Hugh không biết làm cách nào né tránh chuyện này. Anh ấy nghĩ nếu chúng mình mời đồng đội, chuyên gia y tế, huấn luyện viên và ban quản lý, thì tụi mình không thể lờ ông chủ đội bóng được. Mình đã gợi ý chỉ nên mời bạn thân, nhưng chính đồng đội lại là những người bạn thân của anh ấy. Làm sao tụi mình có thể mời người này mà bỏ người kia?” Mae vùi mặt trong tay. “Mình không biết phải làm gì nữa.”
“Dĩ nhiên cậu sẽ mời Virgil,” Georgeanne cố gắng nói, cảm giác như quá khứ xa xôi đang ùa về ám mình. Đầu tiên là John, và bây giờ là Virgil.
Mae lắc đầu rồi buông thõng tay xuống. “Sao mình có thể làm thế với cậu chứ?”
“Mình là người phụ nữ mạnh mẽ mà. Virgil Duffy không còn làm mình sợ nữa,” cô nói, tự hỏi lòng sự thực có phải vậy chăng. Giờ khi ngồi trong bếp thì cô không sợ, nhưng cô không chắc sẽ cảm thấy thế nào khi gặp ông ta tại đám cưới. “Cậu cứ mời ông ấy, cũng như mời bất cứ ai cậu muốn. Đừng lo cho mình.”
“Mình đã bảo Hugh có lẽ tụi mình nên bay tới Vegas và thuê một gã nào đấy giống Elvis Presley làm chủ hôn. Như thế sẽ giải quyết mọi rắc rối.”
Không đời nào Georgeanne lại để bạn mình trốn sang tận Vegas chỉ bởi những lỗi lầm trong quá khứ của cô. “Ngay cả khi nghĩ thì cũng đừng nghĩ đến chuyện đó,” cô nghênh mặt cảnh cáo. “Cậu biết mình cảm thấy thế nào về những gã rẻ tiền rồi đấy, mà kết hôn dưới sự chủ trì của một gã bắt chước Elvis thì thật là một trò rẻ tiền hạ đẳng. Nếu thế mình sẽ phải mua cho cậu một món quà rẻ tiền cho xứng tầm. Món đồ gì đó ở Ronco, dao cắt kính chẳng hạn, để cậu có thể cắt vỏ chai Pepsi thành cốc uống rượu. Và xin lỗi nhé, nhưng mình không chắc còn có thể yêu quý cậu nữa đâu.”
Mae cười. “Được rồi mà, không Elvis.”
“Tốt rồi. Cậu sẽ có một đám cưới tuyệt vời,” cô bảo, rồi đi tìm sổ kế hoạch làm việc trong ngày.
Georgeanne và Mae cùng bắt tay vào làm việc. Họ gọi điện cho người nhận đặt tiệc mà Mae muốn thuê, rồi nhảy vào ô tô của Georgeanne và lái thẳng tới Redmond.
Tuần sau đó, họ lên ý tưởng cho người làm hoa và đã đi ngắm nghía hơn chục chiếc váy cưới. Mắc kẹt giữa công việc ở nhà hàng Heron, công việc ở đài truyền hình, Lexie và đám cưới đang đến rất gần, Georgeanne không có thời gian cho riêng mình. Thời gian duy nhất mà cô được ngồi thư giãn là tối thứ Hai và tối thứ Tư khi John tới đón Lexie và Pongo và đưa cả hai tới lớp huấn luyện cún con. Nhưng ngay cả khi ấy, cô cũng không cảm thấy thư thái. Thư thái làm sao được khi John bước vào nhà cô, cao lừng lững, đẹp trai lồng lộng và thơm mát như làn gió cuối mùa hè. Cô sẽ lại thấy anh, và trái tim khờ khạo của cô sẽ lại bối rối, và khi anh quay bước đi, ngực cô sẽ lại thấy đau. Cô đã lại yêu anh. Chỉ có điều lần này tình yêu khiến cô cảm thấy khốn khổ hơn lần trước. Cô cứ ngỡ đã hết yêu kẻ không đáp lại tình yêu của mình, nhưng hóa ra không phải thế. Dẫu anh đã làm tan nát trái tim cô, có lẽ cô vẫn sẽ mãi yêu John. Anh đã lấy đi tình yêu và đứa con của cô, chỉ để lại cho cô cảm giác cô đơn trống rỗng. Mae sắp kết hôn và đang tiến lên cùng cuộc sống riêng mới. Georgeanne cảm thấy bị bỏ lại đằng sau. Cuộc đời mang lại cho cô nhiều điều tốt đẹp, nhưng người cô yêu lại đi trên những con đường mà cô không thể bước theo.
Vài ngày nữa, Lexie sẽ có kỳ nghỉ cuối tuần đầu tiên với John, sẽ gặp Ernie Maxwell và mẹ John, Glenda. Con gái cô thuộc về một gia đình mà Georgeanne không thể mang lại cho con bé. Một gia đình không có chỗ cho cô, và sẽ mãi mãi không dành cho cô. John có thể mang lại cho Lexie mọi thứ con bé từng khao khát và cần có, còn Georgeanne thì bị bỏ rơi và gạt ra lề.
Mười ngày trước lễ cưới, Georgeanne lại ngồi một mình trong văn phòng nhà hàng Heron, nghĩ về Lexie, John và Mae, và nỗi cô đơn lại xâm chiếm lấy cô. Khi Charles gọi điện rủ cô đi ăn trưa tại nhà hàng McCormick và Schmick, cô vội chớp ngay lấy cơ hội để tạm lánh khỏi tất cả trong vài giờ đồng hồ. Đó là buổi chiều thứ Sáu, tối hôm đó cô sẽ tổ chức một bữa tiệc trọng đại, và cô cần một gương mặt thân thiện, một cuộc chuyện trò vui vẻ.
Ăn xong món trai và cua mai mềm, cô kể với Charles về Mae và đám cưới. “Tính từ thứ Năm tới là chỉ còn một tuần nữa thôi,” cô vừa nói vừa lau tay vào khăn ăn vải lanh. “Với thông báo lễ cưới gấp gáp như thế, họ thật may mắn khi tìm được một nhà thờ không thuộc giáo hội ở Kirkland và cả một hội trường đại tiệc ở Redmond. Lexie sẽ là cô bé mang hoa, còn em sẽ là phù dâu danh dự.” Georgeanne cầm nĩa lên, lắc đầu. “Em vẫn chưa kiếm được cái váy nào mặc cả. Ơn chúa là đến khi nào cưới Lexie em mới lại phải lo chuyện đó.”
“Em không có kế hoạch sau này sẽ kết hôn sao?”
Georgeanne nhún vai quay đi. Cứ khi nào nghĩ đến chuyện kết hôn, hình ảnh John với bộ lễ phục tuxedo trong ngày chụp ảnh cho tạp chí GQ hôm nào lại hiện rõ trong tâm trí cô. “Thực lòng em vẫn chưa nghĩ tới chuyện đó.”
“Chà, sao em không nghĩ tới chuyện đó nhỉ?”
Georgeanne quay lại nhìn Charles và mỉm cười. “Anh đang cầu hôn em ư?”
“Anh sẽ làm thế chừng nào anh biết em đồng ý.”
Nụ cười của cô dần tắt.
“Đừng lo,” anh nói, thảy chiếc vỏ trai vào đống vỏ trên đĩa của mình. “Anh sẽ không cầu hôn bây giờ khiến em bối rối đâu, và anh sẽ không để chính mình bị em từ chối đâu. Anh biết em chưa sẵn sàng mà.”
Cô nhìn anh chằm chằm, người đàn ông tuyệt vời này có ý nghĩa rất lớn với cô, nhưng cũng là người cô không yêu như một người vợ yêu chồng. Lý trí muốn cô yêu anh, nhưng trái tim lại muốn cô yêu ai đó khác.
“Đừng vội gạt đi những lời anh nói. Đơn giản là hãy dành thời gian nghĩ về nó,” anh nói, và cô làm theo. Cô nghĩ về cuộc hôn nhân của cô với Charles sẽ giải quyết những vấn đề của cô như thế nào. Anh có thể mang lại cho cô và Lexie một cuộc sống thoải mái, và cả ba người có thể trở thành một gia đình. Georgeanne không yêu anh như đáng lẽ cô nên thế, nhưng biết đâu cô sẽ yêu anh nếu có them thời gian. Có lẽ lý trí của cô nên thuyết phục trái tim cô.
John quăng chiếc áo phông xuống đống tất và giày chạy trên sàn phòng tắm. Chỉ mặc một chiếc quần ngố tập thể dục, anh bôi kem cạo râu lên cằm. Khi với lấy dao cạo, anh ngước lên nhìn thẳng vào tấm gương trước mặt và mỉm cười. “Con có thể vào và nói chuyện với bố nếu muốn,” anh nói với Lexie, bé đang đứng sau anh, ngó trộm vào phòng tắm.
“Bố đang làm gì thế?”
“Cạo râu.” Anh đưa dao cạo lên gần dái tai rồi kéo một đường xuống.
“Mẹ thường cạo lông chân và lông nách,” con bé kể khi bước tới đứng gần anh. Nó mặc một bộ váy ngủ màu hồng sọc trắng, và mái tóc rối bù sau một giấc ngủ say. Đêm qua là đêm đầu tiên nó ở một mình với anh, và sau khi anh giết chết con nhện trong phòng ngủ cho con bé thì mọi chuyện có vẻ rất ổn. Anh đập chết con côn trùng ấy bằng một quyển sách, và rồi con bé lại nhìn anh như cái lần anh lội xuống biển Thái Bình Dương.
“Khi nào học lớp bảy con cũng sẽ cạo lông,” nó tiếp tục.
“Đến lúc ấy chắc con cũng mọc nhiều lông lắm.” Nó ngước lên ngắm nghía anh qua gương. “Bố có nghĩ có bao giờ Pongo lại mọc lông không?”
John rửa lưỡi dao cạo rồi lắc đầu. “Không. Nó sẽ không bao giờ mọc nhiều lông đâu.” Khi anh tới đón Lexie tối hôm qua, con chó bé bỏng tội nghiệp ấy đang mặc chiếc áo len mới màu đỏ đính cườm khắp người và đội mũ len che kín tới cổ cùng màu. Lúc anh bước vào, con chó nhìn anh, rồi chạy sang phòng khác trốn. Georgeanne đoán có lẽ con chó sợ chiều cao của John, nhưng John thì cho là có lẽ con chó Pongo khốn khổ ấy không muốn một kẻ thuộc giống đực khác nhìn thấy mình trong bộ dạng một mụ già ẻo lả.
“Làm sao bố lại bị cái vết kia bên lông mày trái thế?”
“Cái vết nhỏ xíu này hả?” Anh chỉ vào vết sẹo ngày trước. “Khi bố mười chín tuổi, một thằng cha nào đó đã đá quả bóng khúc côn cầu vào đầu bố nhưng bố không tránh kịp.”
“Có đau không ạ?”
Đau như chó bị thiến ấy chứ. “Không.” John ngửa cổ lên để cạo râu dưới quai hàm. Qua khóe mắt, anh nhìn Lexie đang chăm chú nhìn anh. “Có lẽ con nên đi thay đồ bây giờ đi. Bà nội và cụ Ernie sẽ tới đây nửa giờ nữa đấy.”
“Bố sẽ buộc tóc cho con chứ?” Con bé chìa cho anh xem bàn chải tóc.
“Bố không biết làm gì với tóc tai của các cô bé đâu.”
“Bố có thể buộc thành một cột tóc đuôi ngựa. Dễ lắm mà. Không thì bố có thể buộc lệch sang bên. Chỉ cần bố buộc cao là được, vì con không thích buộc thấp.”
“Bố sẽ thử xem sao,” anh nói, rửa sạch lớp kem và râu ria bám vào dao lam, rồi cạo sang má kia. “Nhưng nếu con trông như một đứa trẻ đầu bù tóc rối thì đừng có đổ lỗi cho bố đấy.”
Lexie cười và dựa đầu vào sườn bố. Làn tóc tơ mỏng cọ cọ vào sườn John. “Nếu mẹ cưới chú Charles, họ của con có còn là Kowalsky như họ của bố không?”
Chiếc dao lam bỗng dừng sững lại trên khóe miệng John. Anh đưa mắt từ gương xuống gương mặt Lexie đang ngẩng lên. Anh từ từ đưa lưỡi dao khỏi mặt rồi giữ nó dưới vòi nước nóng. “Mẹ con định lấy chú Charles ư?”
Lexie nhún vai. “Có lẽ vậy. Mẹ còn đang suy nghĩ.”
John chưa từng suy nghĩ nghiêm túc về việc Georgeanne kết hôn. Ý nghĩ về chuyện đó vào lúc này, về một người đàn ông khác sẽ chạm vào người cô, làm dạ dày anh cuộn lên. Anh cạo qua loa cho xong rồi tắt vòi nước. “Mẹ nói với con thế à?”
“Vâng, nhưng vì bố là bố con, nên con đã bảo mẹ nên nghĩ đến chuyện lấy bố.”
Anh với lấy tấm khăn tắm chấm nhẹ vào lớp kem trắng dưới tai trái. “Thế mẹ con bảo sao?”
“Mẹ cười và bảo chuyện đó sẽ không xảy ra, nhưng bố có thể hỏi mẹ, được không bố?”
Cưới Georgeanne? Anh không thể cưới Georgeanne. Dù sau vụ mua Pongo, hai người khá hòa hợp với nhau, nhưng anh không chắc cô có bao giờ lại thích anh.
Anh có thể thành thực mà nói rằng anh thích cô. Có khi còn rất nhiều. Mỗi lần tới đón Lexie, anh lại hình dung ra cảnh cô khi không mặc gì, nhưng ham muốn thể xác thôi thì không đủ để cam kết sống bên nhau trọn đời. Anh cũng tôn trọng cô nữa, nhưng tôn trọng thôi chưa đủ. Anh yêu Lexie và muốn mang lại mọi thứ cho con hạnh phúc, nhưng anh đã học được từ nhiều năm trước rằng không nên cưới một người chỉ vì một đứa con.
“Bố không thể hỏi thử sao? Rồi nhà mình sẽ có em bé mới.”
Nó ngước lên nhìn với ánh mắt khẩn khoản như lần nó xin anh mua con cún con, nhưng lần này anh không định đồng ý. Nếu, và khi anh tái hôn, thì đó chỉ có thể là vì cuộc sống không có đàn bà tệ như địa ngục. “Bố không cho là mẹ con thích bố đâu,” anh nói, và quẳng chiếc khăn tắm lên giá cạnh bồn rửa. “Chúng ta làm gì với bím tóc đuôi ngựa bây giờ?”
Lexie đưa lược cho anh. “Bố chải mượt những chỗ rối trước đã.”
John quỳ một chân xuống và cẩn thận vuốt những sợi tóc lởm chởm ra đằng sau. “Bố có làm con đau không?”
Con bé lắc đầu. “Mẹ thích bố.”
“Mẹ nói với con là mẹ thích bố à?”
“Mẹ cũng nghĩ bố hấp dẫn và tử tế nữa.”
John chậc lưỡi. “Bố biết mẹ con không nói thế mà.”
Lexie nhún vai. “Nếu bố hôn mẹ, mẹ sẽ nghĩ bố đẹp trai. Rồi bố mẹ sẽ sinh em bé.”
Dù ý tưởng được hôn Georgeanne vẫn luôn là cả một địa ngục cám dỗ đối với John, anh cũng không tin một nụ hôn có thể có tác dụng thần kỳ và giải quyết được mọi chuyện giữa họ. Thậm chí anh còn chẳng muốn nghĩ tới chuyện có con.
Anh quay người Lexie sang một bên rồi nhẹ tay chải mớ tóc rối dưới tai trái. “Hình như con để thức ăn dính vào tóc rồi,” anh nói, cẩn thận không chải quá mạnh.
“Có lẽ là pizza đấy,” Lexie hờ hững nói, rồi cả hai ngồi im lặng trong khi John chải gọn những dảnh tóc tơ mềm mại mà cứ lo đang làm rối thêm. Lexie vẫn im lặng, và John cảm thấy nhẹ nhõm khi chủ đề về Georgeanne, hôn và em bé đã đi đến hồi kết.
“Nếu bố hôn mẹ, mẹ sẽ thích bố hơn thích chú Charles,” con bé thì thầm.
John kéo rèm cửa sang bên rồi trải ánh mắt nhìn ra màn đêm yên bình ở Detroit. Từ căn phòng của anh ở khách sạn Omni, anh có thể nhìn thấy dòng sông sóng sánh như một vệt dầu dài. Anh bồn chồn và căng thẳng, như trước nay anh vẫn thế. Thường là sau mỗi trận đấu, phải vài giờ đồng hồ anh mới bình tĩnh trở lại, nhất là sau trận đấu với đội Detroit Đôi Cánh Đỏ. Năm ngoái đội bóng đến từ Motown này đã suýt cho đội Chinooks ra rìa trong loạt trận play-off bằng một bàn thắng do Sergei Fedoro ghi sau một cú lừa bóng về bên trái. Năm nay đội Chinooks bắt đầu mùa giải kéo dài này với một chiến thắng chung cuộc 4-2 trước đối thủ cũ. Chiến thắng là một khởi đầu tốt đẹp cho một mùa giải mới đang chờ.
Lúc này hầu như cả đội đang ở quán bar tầng dưới ăn mừng. John thì không. Anh bồn chồn, lo lắng và quá phấn khích nên không sao ngủ được, nhưng anh không muốn hòa cùng mọi người. Anh không muốn ăn đậu phộng ở quán bar, nói chuyện công việc, hay xua mấy cô em thích làm phiền đi.
Có cái gì đó không ổn. Ngoại trừ lần phạm lỗi từ phía khuất tầm mắt với Fetisov, John đã luôn chơi khúc côn cầu theo đúng chuẩn mực. Anh đã chơi theo cách anh thích chơi, với tốc độ, sức mạnh, kỹ thuật, và những cú đốn người thật mạnh. Anh đã đang làm những gì anh yêu thích. Những gì anh luôn khao khát được làm.
Có cái gì đó không ổn. Anh không thỏa mãn. Anh có thể có sự nghiệp với đội Chinooks, hoặc anh có thể có Georgeanne. Anh không thể có cả hai.
John kéo rèm trở lại rồi liếc nhìn đồng hồ. Lúc này ở Detroit đã là nửa đêm, và ở Seattle là chín giờ. Anh bước tới bàn gần giường, nhấc điện thoại lên, rồi bấm số.
“Xin chào,” cô nhận điện sau hồi chuông thứ ba, khuấy động điều gì đó sâu thẳm trong anh.
Nếu bố hôn mẹ, mẹ sẽ nghĩ bố hấp dẫn. Rồi bố mẹ sẽ có em bé. John nhắm mắt lại. “Chào, Georgie.”
“John?”
“Ừm.”
“Anh đang ở…Anh đang làm…? Trời đất quỷ thần ơi, tôi đang xem anh trên ti vi mà.”
Anh mở mắt ra, nhìn tấm rèm đã khép bên kia phòng. “Trận đấu phát sóng muộn ở Bờ biển phía Tây.”
“Ồ. Đội của anh có thắng không?”
“Có.”
“Lexie sẽ rất vui khi nghe tin này. Con bé đang ở trong phòng khách xem anh thi đấu.”
“Con bé nghĩ gì?”
“À, tôi tin nó rất thích trận đấu này cho tới khi cái gã áo đỏ to lớn ấy đốn ngã anh. Sau đó con bé rất buồn.”
Cái “gã áo đỏ to lớn” thực ra là một gã khó chơi của đội Detroit. “Bây giờ con bé ổn chưa?”
“Rồi. Khi thấy anh lại trượt vòng quanh, nó đã ổn hơn rồi. Tôi nghĩ Lexie thích xem anh thi đấu lắm đấy. Chắc do gen di truyền.”
John liếc nhìn xuống cuốn sổ gần điện thoại. “Còn cô thì sao?” anh hỏi, rồi băn khoăn tự hỏi tại sao câu trả lời của cô lại quan trọng với anh đến vậy.
“Ừm, bình thường tôi đâu có thích xem thể thao. Đừng nói với ai, bởi anh cũng biết rồi đấy, tôi là người Texas,” cô dài giọng, “nhưng tôi thích xem khúc côn cầu hơn bóng bầu dục.”
Giọng nói của cô khiến anh nghĩ tới nỗi đam mê đen tối, những hình ảnh nóng bỏng phản chiếu trên cửa sổ, và những cuộc yêu đương cuồng nhiệt. Nếu bố hôn mẹ, mẹ sẽ thích bố hơn thích chú Charles. Cái ý nghĩ cô hôn bạn trai khiến anh cảm thấy như mình đang mang con kangaroo trước ngực vậy. “Tôi kiếm được vé cho cô và Lexie tới trận đấu vào thứ Sáu. Tôi thực lòng muốn hai mẹ con đến xem.”
“Thứ Sáu ư? Cái đêm sau lễ cưới?”
“Có chuyện gì sao? Cô phải làm việc à?”
Cô ngập ngừng trong giây lát rồi trả lời, “Không, hai mẹ con tôi sẽ tới đó.”
Anh mỉm cười vào điện thoại. “Lời nói đôi khi thật mặn mà.”
“Tôi cho là giờ chúng ta đã quen với lời nói mặn mà rồi,” cô nói, anh thoáng nghe thấy tiếng cười trong giọng cô. “Lexie đang ở ngay đây. Tôi chuyển máy cho con bé nhé.”
“Chờ đã, còn một chuyện này nữa.”
“Gì vậy?”
Hãy đợi cho tới khi tôi trở về trước khi em quyết định cưới bạn trai em. Anh ta là gã cù lần yếu đuối với cục xúc xích bé nhỏ và em xứng đáng với ai đó tuyệt hơn. Anh ngồi phịch lên mép giường. Anh không có bất cứ quyền gì mà yêu cầu bất cứ điều gì cả. “Không có gì. Tôi mệt quá.”
“Anh còn muốn gì nữa không?”
Anh nhắm mắt và hít một hơi thật sâu. “Không, chuyển máy cho Lexie giúp tôi.”
--------------------------------
1
Nguyên văn: I love Hugh, nghe gần giống như I love you – Mình yêu cậu, nên Georgeanne mới đáp lại như vậy.
Nguồn: http://alobooks.vn/