Chương 3
Gabrielle gọi điện cho luật sư kinh doanh của cô, người này lại cho cô tên của một luật sư biện hộ cho tội phạm. Cô tưởng tượng ra Jerry Spence. Một người mặc áo khoác da hoẵng thay mặt cô đá mông kẻ khác. Cô có Ronald Lowman, một anh chàng trẻ măng tự phụ với mái tóc cắt bằng dao cạo và một bộ vét Brooks Brothers. Anh ta gặp cô trong phòng tạm giam trong mười phút, rồi bỏ cô lại một mình. Khi quay lại, anh ta không còn quá tự tin về bản thân nữa.
"Tôi vừa nói chuyện với công tố viên," anh ta bắt đầu. "Họ sẽ tiến hành khởi tố cô với tội hành hung. Họ nghĩ cô biết gì đó về bức Monet bị ăn cắp của nhà Hillard, và họ sẽ không để cô đơn giản bước ra khỏi đây đâu."
"Tôi chẳng biết tí gì về cái bức tranh ngu ngốc đó hết. Tôi vô tội," cô nói, cau mày với anh chàng mà cô đã thuê để bảo vệ lợi ích cho cô.
"Nghe này, cô Breedlove, tôi tin rằng cô vô tội. Nhưng chúng ta có công tố viên Blackburn, Cục trưởng cục cảnh sát Walker, Đại úy Luchetti, và ít nhất một thám tử không tin." Anh ta trút ra một hơi thở sâu và khoanh tay trước ngực. "Họ sẽ không nhẹ nhàng với cô đâu. Không phải khi giờ đây cô đã biết cô và đối tác của mình là nghi phạm. Nếu chúng ta từ chối trợ giúp họ trong vụ điều tra này, họ sẽ tiến hành khởi tố tội hành hung. Nhưng họ thực sự không muốn làm thế. Họ muốn ông Carter, sổ sách mật và danh sách liên lạc của ông ta. Họ muốn món đồ nghệ thuật của ông Hillard quay lại, nếu có thể. Họ muốn sự hợp tác của cô."
Cô biết họ muốn gì, và cô không cần một tên luật sư vừa ra trường nói cho cô biết. Để cứu lấy chính mình, cô phải tham dự vào một cuộc điều tra ngầm của cảnh sát. Cô phải thuyết phục Kevin rằng cô vừa thuê anh bạn trai của cô làm việc như một tay thợ sửa chữa trong cửa hàng của họ. Cô phải ngậm chặt miệng và ngoảnh đi chỗ khác trong khi Thám tử Hủy Diệt thu thập bằng chứng để kết án người bạn tốt và đối tác kinh doanh của cô là một tên buôn lậu.
Lần đầu tiên trong đời, những niềm tin và mong muốn của cô chẳng đáng kể gì. Chẳng ai có vẻ quan tâm xem những gì họ đang đề nghị cô làm có mâu thuẫn với đạo đức của cô hay không, những mảnh nhỏ về đạo đức mà cô đã tập hợp từ nhiều tín ngưỡng và nền văn hóa khác nhau trong suốt cuộc đời cô. Họ đang đòi cô phá vỡ những nguyên tắc đòi hỏi sự trung thực, đòi cô phản bội một người bạn.
"Tôi không tin Kevin có đánh cắp gì hết."
"Tôi không ở đây để đại diện cho đối tác của cô. Tôi ở đây để giúp cô, nhưng nếu anh ta có tội, anh ta sẽ lôi cô vào một vụ án nghiêm trọng. Cô có thể mất đi cửa hàng của mình, hay ít nhất là danh tiếng một nữ doanh nhân trung thực. Và nếu Kevin vô tội, cô chẳng mất gì và tuyệt đối chẳng có gì phải sợ. Hãy xem như đang giúp rửa sạch tên tuổi anh ta. Hay chúng ta có thể ra tòa. Nếu chúng ta yêu cầu một phiên tòa pháp lý, cô chắc sẽ không tốn mấy thời gian. Nhưng cô sẽ có một bản án buôn lậu trong hồ sơ."
Cô ngước lên nhìn anh ta. Ý nghĩ về một bản án buôn lậu làm cô chán nản hơn cô từng nhận ra. Tất nhiên, trước đây cô chưa bao giờ nghĩ mình như một tên buôn lậu. "Thế nếu tôi nói đồng ý và họ ùa vào cửa hàng của tôi, làm tung tóe mọi thứ, rồi bỏ đi thì sao?"
Anh ta đứng dậy và liếc nhìn cổ tay đeo đồng hồ. "Để tôi nói chuyện với công tố viên và xem xem chúng ta có nhận được một nhượng bộ nào nữa không. Họ muốn sự hợp tác của cô đến phát điên lên được ấy chứ, nên tôi nghĩ họ sẽ hợp tác với chúng ta thôi."
"Vậy anh nghĩ tôi nên ký vào bản hiệp ước hả?"
"Điều đó phụ thuộc vào cô, nhưng đó sẽ là lựa chọn tốt nhất của cô. Cô để họ làm việc ngầm vài ngày, rồi họ sẽ đi. Tôi sẽ bảo đảm họ để lại cửa hàng của cô đúng nguyên tình trạng hiện giờ, hoặc tốt hơn. Cô phải giữ lại quyền bầu cử, và thậm chí cũng phải giữ lại quyền sở hữu súng của cô. Mặc dù tôi sẽ gợi ý cô lấy một giấy phép mang súng."
Điều đó có vẻ vô cùng đơn giản, vậy mà thật khủng khiếp. Nhưng đến cuối cùng, cô đã ký vào bản hiệp ước biến cô thành một tay chỉ điểm ngầm. Cô ký nó cùng với mẫu đơn đồng ý cho lục soát và tự hỏi họ có cho cô một bí danh như một Bond Girl hay không.
Sau khi được thả, cô đi về nhà và cố đắm mình trong niềm vui mà cô vẫn thường thấy khi trộn dầu tự nhiên. Cô cần làm xong dầu xoa bóp húng quế và hoa cam trước lễ hội Coeur, nhưng khi cô đổ đầy mấy cái bình nhỏ màu xanh, cô làm loạn hết cả và phải dừng lại. Cô cũng không thành công hơn trong việc dán nhãn.
Đầu óc và tâm hồn đã bị chia tách, và cô phải cố gắng thư giãn, để đưa chúng hợp nhất. Cô ngồi khoanh chân trong phòng ngủ và cố tìm kiếm chốn yên tĩnh trước khi đầu cô bùng nổ. Nhưng khuôn mặt dữ dằn của Joe Shanahan cứ nhảy vào não cô, quấy nhiễu việc ngồi thiền của cô.
Thám tử Shanahan tương phản hoàn toàn với bất kỳ người đàn ông nào mà cô sẽ cân nhắc hẹn hò. Anh ta có mái tóc sẫm màu không tỉa tót, da ngăm ngăm, và đôi mắt nâu mãnh liệt. Cái miệng đầy đặn nghiêm nghị. Bờ vai rộng và đôi bàn tay to hơn hẳn người thường. Anh thực sự giống người nguyên thủy... nhưng đã có những ngày, trước khi cô quyết định rằng anh là một tên bám đuôi, cô thấy vẻ ngăm ngăm, dữ dội của anh quyến rũ mãnh liệt. Khi anh nhìn cô từ dưới hàng lông mi đen ấy, cô đã hơi tan chảy ngay tại quầy thực phẩm đông lạnh. Tầm vóc và sự hiện diện của anh ẩn chứa sức mạnh và sự tự tin, và bất kể trong đời cô có cố lẩn tránh những anh chàng to lớn, đồ sộ bao nhiêu, thì cô cũng không phải luôn thành công.
Chính là chiều cao của cô. Chiều cao của cô luôn khiến cho mắt cô lang thang tới chỗ anh chàng to lớn nhất xung quanh. Cô cao một mét tám mươi, mặc dù cô sẽ không bao giờ thú nhận cao hơn một mét bảy tám một phân nào hết. Như cô có thể nhớ, cô có nhiều rắc rối liên quan đến chiều cao. Suốt thời học sinh cô luôn là cô gái cao nhất lớp. Cô luôn vụng về, to xương, và lớn lên mỗi ngày.
Cô đã cầu nguyện mọi thần thánh mà cô có thể nghĩ đến can thiệp vào. Cô muốn thức dậy nhỏ nhắn với bộ ngực và bàn chân nhỏ. Tất nhiên, điều đó chẳng bao giờ xảy ra, nhưng đến thời trung học, các cậu trai bắt kịp với cô, và vài người đã cao hơn cô đủ để mời cô đi chơi. Bạn trai đầu tiên của cô là đội trưởng đội bóng rổ. Nhưng sau ba tháng, anh ta đã đá cô vì đội trưởng đội cổ vũ. Một mét năm bảy Mindy Crenshaw.
Cô phải nhắc nhở mình đừng có còng lưng khi đứng cạnh phụ nữ thấp.
Gabrielle từ bỏ việc tìm kiếm sự cân bằng và thay vào đó tìm đến một bồn tắm nóng. Cô thêm vào nước một hỗn hợp dầu đặc biệt gồm oải hương, hoàng lan, và hoa hồng nguyên chất. Hỗn hợp chiết xuất từ thiên nhiên này có tiếng là giúp thư giãn. Gabrielle không biết nó có tác dụng hay không, nhưng nó quả thực có mùi rất tuyệt. Cô trượt vào làn nước thơm ngát và tựa đầu vào thành bồn. Hơi ấm bao bọc lấy cô, và cô nhắm mắt lại. Những sự kiện trong ngày lướt qua đầu cô, và chỉ ký ức về Joe Shanahan, nằm trên mặt đất dưới chân cô, hơi thở hổn hển thoát khỏi phổi và lông mi dính chặt vào mí mắt, mới đưa một nụ cười đến môi cô. Ký ức ấy thành công trong việc làm cô thư giãn ở nơi mà một tiếng ngồi thiền đã thất bại.
Cô bám chặt vào ký ức đó và một hy vọng rằng có thể một ngày nào đó, nếu cô thật sự sống tốt và nghiệp chướng lựa chọn cô là người để trao phần thưởng, cô có thể có được cơ hội hạ gục anh với một chai sáp tạo kiểu tóc khác.
Joe bước vào cửa sau nhà cha mẹ anh mà không thèm gõ cửa và đặt cái lồng chim lên mặt bếp. Anh nghe thấy tiếng tivi từ hướng phòng gia đình phía bên phải. Một cánh cửa tủ đựng bát đĩa chặn vào mặt lò nướng, và một cái máy khoan nằm kế bên bồn rửa. Thêm một kế hoạch bị lãng quên trước khi được hoàn thành. Cha của Joe, Dewey, đã mang một cuộc sống thoải mái đến cho vợ và năm đứa con với khoản thu nhập làm thợ xây nhà, nhưng ông dường như không bao giờ hoàn thiện một thứ gì trong ngôi nhà của chính ông. Từ hàng năm trời kinh nghiệm Joe biết rằng phải dùng đến lời đe dọa sẽ thuê một người khác của mẹ anh thì công việc mới đột nhiên được làm xong.
"Có ai ở nhà không?" Joe gọi lớn, dù cho anh đã thấy xe của cha mẹ anh đều ở trong gara.
"Là con à, Joey?" Giọng của Joyce Shanahan hầu như không thể nghe thấy qua âm thanh xe tăng và súng đạn. Anh vừa xen ngang một trong những khoảng thời gian giải trí ưa thích nhất của cha anh. Phim của John Wayne.
"À vâng, con đây." Anh thò tay vào lồng, và Sam leo lên cánh tay anh.
Joyce đi vào bếp, mái tóc muối tiêu của bà được vuốt ra khỏi mặt bằng một cái băng đô màu đỏ co giãn. Bà nhìn con vẹt châu Phi màu xám dài ba mươi centimet đậu trên vai Joe một cái và khựng ngay lại. Môi bà biến mất trong miệng, và vẽ không hài lòng kéo trĩu lông mày bà xuống.
"Con không thể bỏ thằng bé ở nhà," Joe bắt đầu trước khi bà có thể phát biểu sự đau buồn của mình. "Mẹ biết nó trở nên thế nào khi không có đủ sự chú ý đấy. Con đã bắt nó hứa sẽ cư xử ngoan ngoãn lần này." Anh nhún vai và nhìn con chim. "Nói với bà đi, Sam."
Con vẹt chớp đôi mắt màu vàng đen và chuyển từ chân này sang chân kia. "Tiếp tục đi, ghi dấu ngày của tôi nào," Sam kêu lên bằng một giọng chói tai.
Joe chuyển ánh mắt sang chỗ mẹ anh và mỉm cười như một người cách tự hào. "Thấy chưa, con đã thay Jerry Springer bằng Clint Eastwood."
Joyce khoanh tay trước ngực áo phông Betty Boop. Bà chỉ cao có một mét năm, nhưng bà luôn là nữ hoàng, vua, và bạo chúa trong gia đình Shanahan. "Nếu nó lại bắt đầu cái miệng tục tĩu, nó sẽ phải biến đi đấy."
"Mấy đứa cháu đã dạy nó những từ chửi thề ấy khi chúng ở đây ăn mừng lễ Phục sinh mà," anh nói, ám chỉ tất cả mười đứa cháu trai và gái.
"Con dám đổ thói cư xử hư hỏng của nó lên các cháu mẹ đấy à." Joyce thở dài và buông tay xuống. "Con đã ăn chưa?"
"À vâng, con đã ăn vội mấy thứ trên đường từ chỗ làm về nhà."
"Đừng nói với mẹ, thịt gà ăn nhanh đầy mỡ và cái thứ khoai tây chiên khủng khiếp." Bà lắc đầu. "Mẹ còn lasagna thừa và một đĩa salad xanh ngon lành. Con mang một ít về nhà đi."
Giống như rất nhiều gia đình khác, phụ nữ nhà Shanahan thể hiện tình yêu và sự quan tâm của họ qua thức ăn. Thường thì Joe không thấy phiền - chỉ trừ khi tất cả họ đều quyết định thể hiện cho anh thấy cùng một lúc. Hay khi họ bàn luận thói quen ăn uống của anh như thể anh mới có mười tuổi và sống nhờ bim bim khoai tây. "Thế sẽ rất tuyệt ạ." Anh quay sang Sam. "Bà làm lasagna cho con kìa."
"Hừ. Vì nó rất có thể là thứ gần một đứa cháu nội nhất mà mẹ có được từ con, mẹ đoán nó cũng được chào đón. Nhưng con cũng nên bảo đảm nó sẽ rửa sạch cách ăn nói đi."
Nói về cháu chắt là dấu hiệu rút lui của Joe. Anh biết nếu anh mà không trốn ngay bây giờ thì cuộc nói chuyện tất yếu sẽ chuyển sang chuyện đàn bà dường như cứ ra ra vào vào đời anh. "Sam đã thay đổi rồi," anh nói khi lách qua mẹ anh và đi vào phòng gia đình, được trang trí bằng những món đồ cũ mua lại gần đây nhất của mẹ anh - một cặp giá nến gắn tường bằng sắt và áo giáp đồng bộ. Anh thấy bố anh đang nghỉ ngơi trong chiếc ghế La-Z-Boy màu nâu của ông, chiếc điều khiển một tay, cốc trà đá tay kia. Một gói thuốc và bật lửa nằm trên cái bàn nhỏ chia cách ghế với bộ sofa đồng màu. Dewey ở cuối tuổi sáu mươi, và Joe gần đây đã chú ý thấy một chuyện kỳ lạ đang xảy ra với tóc bố anh. Nó vẫn dày và trắng phau, nhưng năm vừa rồi nó đã bắt đầu dựng thẳng về phía trước như thể ông đang ngồi với một cơn gió mạnh sau lưng.
"Họ không làm phim như thế này nữa," Dewey nói mà không dứt mắt khỏi tivi. Ông vặn nhỏ tiếng trước khi nói thêm, "Tất cả những hiệu ứng đặc biệt mà ngày nay họ dùng không thể được như cái thật. John Wayne biết cách đánh nhau và khiến cho cảnh quay trông đẹp mắt."
Ngay khi Joe ngồi xuống, Sam bay khỏi vai anh và quắp vào thành ghế sô pha với đôi bàn chân đen có vảy. "Đừng đi xa quá đấy," Joe bảo con chim của anh, rồi với lấy một điếu thuốc. Anh trượt điếu Marlboro giữa các ngón tay, nhưng không châm lửa. Anh muốn Sam hít thở ít khói thải ra hết mức có thể.
"Con lại bắt đầu hút thuốc đấy à?" Dewey hỏi, cuối cùng cũng dứt mắt khỏi Duke. "Cha tưởng con bỏ rồi. Điều gì đã xảy ra thế?"
"Norris Hillard," là tất cả những gì Joe nói. Anh không cần tỉ mỉ thêm. Tất cả mọi người đang tự do đến giờ đều biết hết về bức Monet bị ăn trộm. Anh muốn tất cả mọi người đều biết. Anh muốn những kẻ liên quan phải lo lắng. Những kẻ lo lắng hay phạm sai lầm. Khi chúng sai lầm, anh sẽ ở ngay đó, sẵn sàng đốn chúng xuống. Nhưng anh sẽ không đốn gục Gabrielle Breedlove. Chẳng quan trọng nếu cô có dính líu sâu tới tận cặp mông ngọt ngào xinh xắn của cô. Chẳng quan trọng nếu chính cô cắt bức tranh ra khỏi khung. Cô đã được miễn trách hoàn toàn - không chỉ với án hành hung và bất kỳ cáo trạng nào sau đó nảy sinh từ vụ Hillard mà cô cũng sẽ không bị tố tụng bất kỳ một án trộm đồ cổ nào hết. Tên luật sư của cô có thể trẻ, nhưng là một con chồn con ranh mãnh.
"Có đầu mối nào chưa?"
"Một ít ạ." Bố anh không hỏi câu hỏi nào rõ ràng, và Joe cũng không đề nghị được giải thích gì thêm. "Con cần mượn máy khoan và vài dụng cụ của bố." Thậm chí nếu có thể, Joe cũng không muốn nói gì về người chỉ điểm mật của anh. Không chỉ vì anh không hề tin người chỉ điểm mà còn vì người chỉ điểm mới nhất của anh vô trách nhiệm y như một hộp bim bim khoai tây, lại còn cái trò biểu diễn với súng kia gần như cho anh thêm một lần giáng chức nữa. Và lần này, người ta sẽ không nhon nhón xung quanh và gọi đó là điều chuyển nữa đâu. Sau cơn ác mộng diễn ra ở công viên sáng hôm đó, anh phải đưa đầu Carter lên khay. Anh phải bù lỗi cho chính mình. Nếu không, anh sợ họ sẽ đẩy anh xuống bộ phận tuần tra sâu đến nỗi anh chẳng bao giờ còn nhìn thấy ánh nắng ban ngày nữa mất. Anh chẳng có gì chống đối những cảnh sát mặc đồng phục. Họ là những anh chàng tuyến đầu, và anh không thể làm việc của mình mà không có họ, nhưng anh đã lao động quá lâu, và đã phải chịu đựng quá nhiều thứ tào lao, để cho phép một nàng tóc đỏ vác súng làm loạn sự nghiệp của anh lên.
"Joe, cuối tuần trước mẹ đã nhặt được vài thứ cho con đấy," mẹ anh thông báo cho anh khi lướt qua phòng trên đường bà ra sau nhà.
Cái "vài thứ" cuối cùng mà mẹ anh đã "nhặt được" cho anh là một cặp chim bằng nhôm đáng ra phải được treo trên tường. Vào giờ phút này chúng đang ở dưới giường anh cạnh một con cú tết bằng sợi to tướng. "À, thế ạ," anh rên lên, và ném điếu thuốc chưa châm lửa lên cái bàn nhỏ. "Con ước gì mẹ đừng có làm thế. Con ghét cái đống đồ cũ bán lại thối hoắc đó."
"Đừng chống lại nó, con trai, nó là một căn bệnh rồi," bố anh nói và quay sự chú ý lại với cái tivi. "Một căn bệnh như chứng nghiện rượu vậy. Bà ấy vô phương phản kháng chứng nghiện ngập của mình."
Khi Joyce Shanahan quay lại, bà mang theo một cái yên ngựa đã bị cắt làm đôi, theo chiều dọc. "Mẹ đã có cái này với năm đôla," bà khoe và đặt nó lên sàn cạnh chân Joe. "Họ muốn mười đô cơ, như mẹ đã mặc cả xuống."
"Con ghét cái đống đồ cũ bán lại thối hoắc đó," Sam nhai lại, rồi thêm vào một tiếng rít "Aaaaaaaa" cho thêm phần hiệu quả.
Ánh mắt Joyce di chuyển từ chỗ con trai sang con chim ở trên thành ghế. "Nó tốt nhất không nên làm loạn trên ghế của mẹ."
Joe không thể hứa gì. Anh chỉ về cái yên ngựa. "Con nên làm gì với nó đây? Tìm con ngựa nửa người à?"
"Con hãy treo nó trên tường ấy." Điện thoại reo lên, và bà thêm vào qua vai khi hướng đến bếp, "Nó có mấy cái móc nhỏ ở một bên đấy."
"Tốt nhất là đóng nó vào đinh tường ấy, con trai," bố anh khuyên. "Nếu không cái thứ đó rất có thể sẽ lôi cả vữa nhà con xuống."
Joe nhìn chằm chằm cái yên ngựa với một bàn đạp. Khoảng trống dưới giường anh sắp đông đúc lắm đây. Tràng cười của mẹ anh rú lên từ phòng bên kia, dọa Sam giật mình. Nó đập cánh, để lộ phần lông đỏ bên dưới đuôi, rồi bay tới chỗ tivi và đậu lên nóc một cái lồng chim bằng gỗ có một cái tổ giả và trứng nhựa gắn ở đáy. Nó nghiêng cái đầu xám sang một bên, chu mỏ, và giả tiếng điện thoại kêu.
"Sam, đừng có làm thế," Joe cảnh cáo đúng một phần nghìn giây trước khi con chim nhái lại điệu cười của bà Joyce một cách hoàn hảo đến lạnh sống lưng.
"Con chim của con sẽ kết thúc trong một gói Lắc rồi Nướng đấy," bố anh tiên đoán.
"Con không biết chắc." Anh chỉ hy vọng Sam không nảy ra cái ý nghĩ xé toạc căn nhà gỗ nhỏ nhoi đó bằng mỏ của nó.
Cánh cửa trước mở ra với một tiếng bang lớn, và đứa cháu trai Todd bảy tuổi của Joe chạy vào nhà, theo sau là Christy mười ba tuổi và Sara mười tuổi, hai cháu gái của Joe.
"Chào chú Joe," hai cô cháu gái của anh hòa âm cùng một lúc.
"Xin chào các cô bé."
"Chú có mang Sam không ạ?" Christy muốn biết.
Joe gật đầu về tivi. "Nó đang hơi hoảng sợ. Đừng la hét xung quanh nó hay di chuyển đột ngột. Và đừng dạy nó thêm một từ xấu nào nữa."
"Chúng cháu sẽ không đâu ạ, thưa chú Joe," Sara hứa, mắt cô bé hơi quá to, hơi quá ngây thơ.
"Cái gì thế kia?" Todd hỏi, chỉ về cái yên ngựa.
"Đó là nửa cái yên ngựa."
"Để làm gì ạ?"
Chính xác. "Cháu có muốn nó không?"
"Tuyệt!"
Chị gái Tanya của Joe bước vào nhà kế tiếp và đóng cửa lại sau lưng. "Chào cha," cô nói, rồi chuyển sự chú ý sang em trai. "Chào Joey. Chị thấy mẹ vừa cho em cái yên ngựa. Em có thể tin là mẹ có nó chỉ với năm đô không?"
Rõ ràng là Tanya cũng bị lây bệnh đồ cũ bán lại rồi.
"Ai đánh rắm thế? Aaaaaaaa"
"Này các cháu," Joe trách mắng hai cô bé, vốn đang rạp xuống sàn nhà trong một tràng cười dữ dội.
"Có gì vui đến thế?" mẹ anh hỏi khi bà đi vào phòng, nhưng trước khi có người kịp trả lời, điện thoại lại reo lên. "Trời ơi." Bà lắc đầu và đi vào bếp lần nữa, chỉ để quay lại vài phút sau vẫn lắc đầu. "Họ gác máy trước khi mẹ kịp trả lời."
Joe liếc mắt nghi ngờ con chim của anh, và sự hoài nghi của anh được xác nhận khi Sam nghiêng đầu sang một bên và điện thoại tình cờ lại reo lên.
"Trời đất." Mẹ anh lao bổ vào bếp.
"Bố cháu đã ăn một con rệp," Todd bảo Joe, hút sự chú ý của anh về phía thằng bé. "Nhà cháu đã nướng thịt và bố thì ăn một con rệp."
"Ờ đấy, Ben đã chơi cắm trại vì anh ấy nghĩ mấy bé gái và chị đang khiến anh ấy trở nên ẻo lả," chị gái Joe nói thêm khi cô ngồi xuống cạnh anh trên ghế sô pha. "Anh ấy nói anh ấy cần đưa Todd đi và làm chuyện đàn ông."
Joe hiểu hoàn toàn. Anh đã được nuôi dạy với bốn chị gái, những người mặc cho anh quần áo của họ và bắt anh tô son môi. Lúc tám tuổi, họ đã thuyết phục anh rằng anh được sinh ra như một người lưỡng tính tên là Josephine. Anh thậm chí còn không biết một người lưỡng tính là gì cho đến khi anh bước sang tuổi mười hai và có thể tra từ ấy trong từ điển. Sau đó, trong vài tuần, anh đã sống trong nỗi sợ hãi là sẽ lớn lên với cặp ngực bự như chị cả Penny. May mắn thay, bố anh đã bắt gặp anh đang kiểm tra cơ thể xem có những thay đổi kỳ cục nào không, và ông đã trấn an Joe rằng anh không phải người lưỡng tính. Rồi ông đã đưa anh đi cắm trại, câu cá, và không bắt anh tắm trong một tuần.
Các chị gái anh dính chặt vào nhau như keo dán Bodini và chẳng bao giờ quên cái quái gì hết. Khi lớn lên, họ thích được quấy rối anh, và họ là ác quỷ chân chính trong tâm hồn anh. Nhưng nếu anh có bao giờ ngờ thấy dù chỉ một giây thôi rằng người đàn ông trong cuộc đời của các chị anh không đối xử tử tế với họ, anh sẽ rất vui lòng đánh những tên đó nhừ tử.
"Và chị đoán một con rệp đã đậu xuống xúc xích của Todd rồi thằng bé khóc và không chịu ăn," Tanya tiếp tục. "Điều đó hoàn toàn dễ hiểu thôi, và chị không trách thằng bé về điều đó, nhưng Ben tóm lấy con rệp và ăn nó, cố làm bậc đại trượng phu. Anh ấy đã nói, "nếu bố có thể ăn con rận chết tiệt đó, thì con cũng có thể ăn cái xúc xích chết tiệt kia."
Nghe hợp lý đấy chứ. "Cháu có ăn cái xúc xích đó không?" Joe hỏi cháu trai.
Todd gật đầu, và nụ cười của cậu bé khoe ra hai răng cửa bị mất. "Rồi cháu ăn cả một con rận nữa. Một con màu đen lận."
Joe nhìn vào khuôn mặt tàn nhang của cháu trai, và họ cùng chia sẻ một nụ cười bí ẩn. Kiểu nụ cười "ta có thể đứng tiểu" của câu lạc bộ các chàng trai. Một nụ cười mà đám con gái chẳng bao giờ có thể hiểu được.
"Họ lại gác máy," Joyce thông báo cho cả phòng.
"Mẹ cần kiếm một cái máy hiện số người gọi đi," Tanya khuyên. "Bọn con đã kiếm một cái, và con luôn kiểm tra xem ai đang gọi đến trước khi trả lời."
"Mẹ có khi cũng sẽ làm thế," mẹ anh nói khi hạ mình xuống một cái ghế bập bênh cũ bằng kim loại sơn màu, nhưng ngay khi mông bà chạm vào ghế, tiếng chuông lại bắt đầu. "Chuyện này chán lắm rồi đấy," bà thở dài và nhỏm dậy. "Có ai đó đang đùa nghịch trên điện thoại."
"Dùng nút gọi lại số cuối cùng vừa gọi ấy. Con sẽ chỉ cho mẹ." Tanya đứng dậy và đi theo mẹ cô vào trong bếp.
Các cô bé tan ra trong một tràng cười rũ rượi khác, và Todd lấy tay che miệng.
"Được," Dewey nói mà không rời mắt khỏi Duke, "con chim đó đang trêu đùa với thảm họa rất tốt đấy."
Joe lồng các ngón tay sau đầu, vắt chéo cổ chân, và thư giãn lần đầu tiên kể từ vụ trộm bức Monet nhà Hillard. Gia đình Shanahan là một đám đông lớn, om xòm, và ngồi trên tràng kỷ của mẹ anh bao quanh bởi cảnh náo loạn ấy có cảm giác như về nhà. Nó cũng nhắc cho anh nhớ đến ngôi nhà trống không của chính anh bên kia thị trấn.
Cho đến cách đây khoảng một năm, anh vẫn không lo lắng nhiều đến thế về việc tìm một cô vợ và bắt đầu một gia đình. Anh đã luôn nghĩ mình có thời gian, nhưng bị bắn có xu hướng đưa cuộc sống của một người vào trạng thái hoài nghi. Nó nhắc một người đàn ông nhớ đến những gì thực sự quan trọng trong đời anh ta. Một gia đình của chính anh.
Đúng, anh có Sam, và sống với Sam cũng giống như sống với một đứa trẻ hai tuổi hiếu động, nhưng rất thú vị. Nhưng anh không thể đốt lửa trại và nướng thịt với Sam. Anh không thể ăn rận. Phần lớn những cảnh sát khác ở tuổi anh đều có con cái, và khi anh nằm ở nhà để phục hồi sức khỏe, chẳng có gì ngoài thời gian trong tay, anh bắt đầu tự hỏi cảm giác thế nào khi ngồi ngoài rìa một Litte League(1)(Giải bóng chày cho trẻ em Mỹ) và xem các con anh chạy vòng quanh các gôn. Nhìn thấy các con anh trong đầu là phần dễ dàng. Vẽ ra vợ anh thì khó khăn hơn chút.
Anh không nghĩ mình quá kén cá chọn canh, nhưng anh biết những gì mình muốn và những gì mình không muốn. Anh không muốn một phụ nữ nổi khùng vì những chuyện cỏn con như kỷ niệm hàng tháng hay không thích Sam. Anh biết từ kinh nghiệm quá khứ rằng anh không muốn một cô nàng ăn chay quan tâm thái quá đến gram chất béo và cỡ đùi.
Anh muốn khi đi làm về và có ai đó chờ đợi anh. Anh muốn đi vào cửa mà không có đồ ăn cầm trong tay. Anh muốn một cô gái bình thường, một ai đó gắn chặt cả hai chân trên mặt đất. Và tất nhiên, anh muốn một ai đó thích tình dục theo cái cách anh thích. Nóng bỏng, cực kỳ nóng bỏng. Thỉnh thoảng hơi bẩn thỉu, thỉnh thoảng không, nhưng lúc nào cũng không giới hạn. Anh muốn một người phụ nữ không e ngại chạm vào anh hay e ngại để anh chạm vào cô. Anh muốn nhìn cô và cảm thấy dục vọng xoáy đảo trong bụng. Anh muốn nhìn cô và biết rằng cô cũng cảm thấy y như vậy với anh.
Anh luôn cho rằng anh sẽ biết người phụ nữ phù hợp khi anh gặp cô. Anh không thực sự biết làm sao mà anh sẽ biết, chỉ là thế thôi. Anh sẽ cảm thấy nó đập mạnh vào giữa hai mắt anh như một cú nốc ao hay một tia chớp, và chính là nó. Anh sẽ biết.
Tanya quay lại vào phòng với một nét cau có làm lông mày chị ấy nhăn lại. "Số cuộc gọi đến cuối cùng thuộc về bà bạn Bernese của mẹ. Sao Bernese lại gọi điện đùa nghịch chứ?"
Joe nhún vai và quyết định đánh lạc hướng chị gái anh khỏi thủ phạm thực sự. "Có lẽ bà ấy thấy buồn chán. Khi em mới vào ngành, một bà già gọi đến một tháng một lần để báo rằng có ai đó cứ đột nhập vào nhà bà ấy, cố đánh cắp mấy cái khăn choàng vô giá trị của bà ấy."
"Thế không phải à?"
"Quỷ thật, không. Chị nên nhìn mấy thứ đó - tất cả đều màu xanh sáng, vàng cam, và tím. Mấy cái khăn chết tiệt đó sẽ khiến chị gần như phải mù mắt chỉ vì nhìn chúng. Dẫu sao, bà ấy cũng luôn có bánh quy Nilla Wafers và bia không cồn chờ bọn em. Đôi khi người già trở nên thực sự cô đơn và làm những chuyện kỳ cục chỉ để có ai đó nói chuyện cùng."
Đôi mắt nâu của Tanya nhìn chằm chằm vào anh, và cái cau mày của cô sâu hơn. "Đó là những gì sẽ xảy ra với em nếu em không tìm ai đó để chăm sóc cho mình đấy."
Những phụ nữ trong gia đình anh vẫn luôn thúc giục anh về đời sống yêu đương. Nhưng kể từ khi anh bị bắn, mẹ và các chị anh đã tăng cường nỗ lực để thấy anh kết hôn một cách hạnh phúc. Họ đánh đồng hôn nhân với hạnh phúc. Họ muốn anh ổn định như phiên bản cuộc sống ấm cúng tốt lành của họ, và trong khi anh hiểu nỗi lo của họ, họ vẫn khiến anh phát điên lên được. Anh không dám để họ biết rằng anh thực sự đã có vài suy nghĩ nghiêm túc. Nếu anh làm thế, tất cả họ sẽ chồm lên anh như chim ác là trên một cái xác.
"Chị biết một phụ nữ thực sự tử tế..."
"Không," Joe cắt ngang, thậm chí không sẵn sàng xem xét một trong những cô bạn của chị gái anh. Anh có thể tưởng tượng từng chi tiết nhỏ đều được báo cáo lại với gia đình anh. Anh đã ba lăm, nhưng các chị anh vẫn đối xử với anh như kiểu anh mới có năm tuổi. Như kiểu anh không thể tự tìm thấy mông của chính anh nếu họ không bảo anh rằng nó ở tận cùng xương sống ấy.
"Vì sao?"
"Em không thích phụ nữ tử tế."
"Đó là những gì sai trái ở em ấy. Em thích thú với kích cỡ bộ ngực hơn là nhân phẩm."
"Chẳng có gì sai với em hết. Và không phải kích cỡ bộ ngực, mà là hình dáng mới đáng tính đến."
Tanya khịt mũi, và anh không nhớ trước đây đã từng nghe được một âm thanh như vậy phát ra từ một người phụ nữ đấy.
"Sao chứ?" anh hỏi.
"Em sắp trở thành một người đàn ông già cực kỳ cô đơn đấy."
"Em có Sam làm bạn đồng hành, và nó hẳn sẽ sống lâu hơn cả em nữa."
"Chim chóc không được tính đến, Joe. Dạo này em có cô bạn gái nào không? Ai đó mà em có thể cân nhắc đến việc mang về gặp gia đình em ấy? Ai đó mà em có thể cân nhắc cưới xin?"
"Không."
"Sao không?"
"Em vẫn chưa tìm được người phụ nữ phù hợp."
"Nếu đàn ông ở khu tử tù tìm phụ nữ để cưới xin, thì sẽ khó khăn đến thế nào nhỉ?"
Chương 4
Quận Hyde Park lịch sử nhỏ nhắn nằm nép mình ở chân đồi Boise. Vào thập niên bảy mươi, quận này bị xao lãng do các cuộc di tản đến vùng ngoại ô và các siêu thị nhỏ mọc lên như nấm. Nhưng mấy năm gần đây, các doanh nghiệp của nó đã được trao một bộ mặt mới và cả một lớp áo sơn tươi sáng, và họ cũng được hưởng lợi từ sự hồi sinh của cuộc sống trong thành phố.
Dài ba khu phố, Hyde Park được bao bọc ở tất cả các mặt bằng một trong những khu dân cư cổ kính nhất thị trấn. Chính bản thân cụm dân cư cũng là sự pha trộn đa dạng giữa dân di cư và những người quyền thế. Giàu có, nghèo khổ, trẻ trung, và cả những người vừa già vừa gù lưng như những mặt vỉa hè lồi lõm. Những nghệ sĩ túng quẫn và những người trẻ tuổi phát đạt sống kề vai nhau. Những ngôi nhà màu tím xập xệ với những tia nắng màu vàng cam quanh cửa sổ nằm cạnh những ngôi nhà từ thời Victoria được phục chế lại, bao gồm cả những bậc thang lỗ chỗ cạnh lề đường.
Các doanh nghiệp cũng phong phú như cư dân. Cửa hàng sửa giày đã được mở ra trong quận từ trước khi có ai đó có thể nhớ nổi, và dưới con phố, một anh chàng vẫn có thể cắt tóc với bảy đô la. Người ta có thể lấy được món bánh thịt chiên dòn, pizza, cà phê, hoặc một bộ đồ lót ăn được ở cửa hàng đồ lót Naughty or Nice. Bạn có thể rẽ vào cửa hàng 7-11 trong vùng và mua một tờ Slurpie hay National Enquirer sau khi đổ đầy xăng vào xe, hay đi dạo nửa con phố và mua sắm sách, xe đạp, hay giày trượt tuyết. Hyde Park có tất cả những thứ đó. Gabrielle Breedlove và Anomaly phù hợp một cách hoàn hảo với cả khu vực này.
Ánh sáng mặt trời đổ đầy lên khu nhà và rót qua các cửa sổ mặt tiền của Anomaly, rửa sạch căn phòng bằng ánh sáng. Những cửa sổ lớn được lấp đầy bằng những chiếc đĩa sứ và chậu rửa phương Đông trưng bày. Một con cá vàng dài sáu mươi centimet cùng cái đuôi vĩ đại của nó hẩy những bóng râm không đều lên tấm thảm Berber.
Gabrielle đứng trong cửa hàng tối om của cô, bóp vài giọt dầu thơm hoắc hương vào một lọ xịt màu xanh cô-ban xinh xắn. Gần một năm nay, cô đã thử nghiệm nhiều loại tinh dầu tự nhiên khác nhau. Toàn bộ quá trình là một chuỗi liên tục những cố gắng, thất bại, và lại cố gắng.
Nghiên cứu những đặc tính hóa học, trộn các loại dầu vào một bình nhỏ, sử dụng bát nung và bát pha, tất cả khiến cô cảm giác hơi giống một nhà khoa học điên rồ. Tạo ra những hương thơm tuyệt diệu lôi cuốn mặt nghệ sĩ của cô. Cô có niềm tin là một loại hương thơm nào đó rất có khả năng chữa lành đầu óc, tâm hồn, và cơ thể, dù thông qua những đặc tính hóa học của chúng hay bởi gợi lên những ký ức ấm áp, dễ chịu làm dịu tâm hồn. Chỉ vừa tuần trước cô đã thành công trong việc tạo ra hỗn hợp độc đáo của riêng cô. Cô đã đóng gói nó trong những cái lọ màu hoa hồng xinh xắn, rồi, như một phần trong thủ đoạn marketing, cô lấp đầy cửa hàng với mùi hương thoang thoảng từ cam quýt và những hương hoa khêu gợi. Cô đã bán hết ngay ngày đầu tiên. Cô hy vọng cũng làm tốt được như vậy ở lễ hội Coeur.
Hỗn hợp ngày hôm nay không phải độc nhất nhưng thấy bảo là có tác dụng xoa dịu. Cô đậy nắp cái bình hoắc hương màu nâu và đặt nó lại vào trong hộp gỗ chứa những lọ tinh dầu khác của cô. Cô với tay lấy dầu ngải đắng và thêm vào hai giọt nữa một cách cẩn thận. Cả hai loại tinh dầu đều được cho là giảm stress, tăng thư giãn, và làm dịu cảm giác kiệt quệ sợ hãi. Sáng nay, với một cảnh sát ngầm ở lỳ trong cửa hàng cô đến hai mươi phút, Gabrielle cần cả ba tác dụng đó.
Cửa sau mở ra rồi đóng lại, và cảm giác hãi hùng chất chứa trong hố sâu tâm hồn cô. Cô liếc qua vai về phía sau cửa hàng. "Chào buổi sáng, Kevin", cô gọi to đối tác làm ăn của mình. Tay cô lẩy bẩy khi cô đặt lại lọ ngải đắng. Chỉ mới chín giờ ba mươi sáng, mà các dây thần kinh của cô đã bị tấn công rồi, và cô mệt lả. Cô đã chong chong cả đêm cố thuyết phục mình rằng cô có thể nói dối Kevin. Rằng bằng cách cho phép Thám tử Shanahan làm việc ngầm trong cửa hàng của cô, cô thực sự đang giúp rửa sạch tên tuổi của Kevin. Nhưng cô có vài rắc rối lớn: Cô là một kẻ nói dối dở tệ khét tiếng, và cô không thực lòng nghĩ rằng cô có thể giả vờ thích tên thám tử đó, chứ đừng nói đến việc tưởng tượng mình là bạn gái anh ta.
Cô ghét nói dối. Cô ghét tạo nhân quả xấu. Nhưng thực lòng, thêm một lời nói dối có là gì khi mà cô sắp sửa tạo ra nghiệp chướng báo thù tầm cỡ một cơn địa chấn cơ chứ?
"Đây đây", Kevin gọi từ hành lang và bật công tắc đèn. "Hôm nay em đang nấu cái gì thế?"
"Hoắc hương và ngải đắng."
"Trong này sẽ có mùi giống một buổi hòa nhạc của Grateful Dead sao?"
"Có thể đấy. Em làm nó cho mẹ em mà." Ngoài việc trợ giúp thư giãn, mùi hương còn nhắc cô nhớ đến những ký ức dễ chịu, giống như mùa hè cô và mẹ đã đuổi theo Grateful Dead khắp đất nước. Gabrielle mới có mười tuổi và rất thích được cắm trại trong chiếc xe buýt Volkswagen của họ, ăn đậu hũ và nhuộm tất cả mọi thứ cô có. Mẹ cô đã gọi đó là mùa hè thức tỉnh. Gabrielle không biết về sự thức tỉnh của họ, nhưng đó là lần đầu tiên mẹ cô quả quyết về sức mạnh tâm linh. Trước đó, họ là người hộ Giám lý.
"Mẹ và cô em thế nào trong kỳ nghỉ vậy? Em đã nghe tin gì về họ chưa?"
Gabrielle đóng nắp hộp gỗ lại và nhìn Kevin bên kia phòng, đang đứng ở ngưỡng cửa của văn phòng mà họ cùng chia sẻ. "Không cho đến vài ngày nữa."
"Khi bà ấy quay lại, bà ấy và cô em sẽ ở nhà của họ trong thị trấn một khoảng thời gian, hay dành thời gian lên phía bắc với ông em?"
Cô ngờ rằng sự thích thú của Kevin với mẹ và cô cô liên quan tới lòng hiếu kỳ thuần túy thì ít, mà vì sự thật rằng họ khiến anh ta lo sợ thì nhiều. Claire và Yolanda Breedlove không chỉ là chị em chồng mà họ cũng là bạn thân và sống cùng nhau. Và đôi khi họ đọc ý nghĩ của nhau, chuyện có thể khá là đáng sợ nếu bạn không quen với họ. "Em không chắc. Em ngờ rằng họ sẽ đỗ lại ở Boise này để đón Beezer, rồi mới lái xe lên kiểm tra ông em."
"Beezer nào?"
"Con mèo của mẹ em", Gabrielle trả lời, cảm giác tội lỗi xoắn chặt dạ dày cô khi cô nhìn vào đôi mắt màu xanh biển quen thuộc của anh bạn. Anh vừa mới bước sang tuổi ba mươi nhưng trông chỉ khoảng hai mươi hai tuổi. Anh đứng thấp hơn Gabrielle khoảng chục phân, và mái tóc vàng của anh bị ánh nắng tẩy trắng. Anh theo nghề nghiệp là một thủ thư và từ trong tim là một người buôn đồ cổ. Anh xử lý mặt kinh doanh của Anomaly, cho Gabrielle tự do bộc lộ óc sáng tạo của mình. Anh không phải một tội phạm, và cô chẳng tin đến một giây rằng anh sẽ dùng cửa hàng của họ như tấm chắn để bán đồ trộm cắp. Cô mở miệng để nói thành tiếng lời nói dối cô đã tập luyện ở sở cảnh sát, nhưng những từ ngữ cứ kẹt cứng trong cổ họng cô.
"Anh sẽ ở trong văn phòng sáng nay", anh nói, rồi biến mất qua ngưỡng cửa.
Gabrielle với lấy một cái bật lửa và châm một ngọn nến trà trong lọ phun hơi nhỏ. Một lần nữa, cô cố bảo mình rằng cô thực ra đang giúp đỡ Kevin dù cho anh sẽ không biết điều đó. Cô thực sự không hề hiến tế anh cho Thám tử Shanahan.
Cô vẫn không thể bắt bản thân tin vào điều đó, nhưng không quan trọng. Tay thám tử sẽ ở lì trong cửa hàng cô khoảng dưới hai mươi phút, và cô phải làm cho Kevin tin rằng cô đã thuê anh ta để làm việc lặt vặt trong mấy ngày tới. Cô nhét chiếc bật lửa vào túi chiếc váy sa mỏng và đi qua quầy thu tiền phía trước, hỗn loạn với những tin tức thôi thúc, tới văn phòng. Cô nhìn nhanh quả đầu vàng của Kevin đang cúi xuống vài giấy tờ trên bàn, và cô hít vào một hơi thật sâu. "Em đã thuê một người để di chuyển mấy cái giá hàng từ mặt bên cửa hàng ra tường sau," cô nói, ép lời nói dối tràn qua môi. "Nhớ là chúng ta đã nói về chuyện đó trước đây không?"
Kevin ngước lên, và lông mày anh cau lại. "Anh nhớ chúng ta đã quyết định chờ đến năm sau cơ mà."
Không, anh đã quyết định điều đó cho cả hai người. "Em không nghĩ việc này lại có thể đợi lâu đến thế, nên em đã thuê một người. Mara có thể giúp anh ta," cô nói, ý chỉ cô sinh viên trẻ tuổi làm việc bán thời gian vào các buổi chiều. "Joe sẽ ở đây trong vài phút nữa thôi." Buộc ánh mắt tội lỗi của cô giữ nguyên trên người Kevin là một trong những chuyện khó khăn nhất cô từng làm.
Im lặng tràn ngập căn phòng trong vài giây tra tấn khi anh cau mày nhìn cô. "Cậu Joe này là một họ hàng của em phải không?"
Chỉ ý nghĩ Thám tử Shanahan ngụp lặn trong cùng một bể gen cũng khiến cô khó chịu gần bằng việc đóng giả làm bạn gái anh ta. "Không." Gabrielle vuốt thẳng một tập hóa đơn. "Em cam đoan với anh rằng Joe không phải họ hàng." Cô giả vờ có hứng thú với tờ giấy trước mặt. Rồi cô bật ra lời nói dối khó khăn nhất trong tất cả. "Anh ấy là bạn trai em."
Cái cau mày của anh biến mất, và trông anh chỉ bối rối mà thôi. "Anh thậm chí còn không biết em có một người bạn trai đấy. Sao em chưa bao giờ nhắc đến anh ta trước đây?"
"Em không muốn nói về chuyện đó cho đến khi em chắc chắn về cảm xúc của mình," cô nói, chồng một lời nói dối lên một lời nói dối. "Em không muốn tạo ra ảnh hưởng xấu."
"À. Chà, em biết anh ta bao lâu rồi?"
"Không lâu lắm." Cái đó đa phần là sự thật, cô cho là thế.
"Làm sao mà em gặp được anh ta?"
Cô nghĩ đến cảnh tay Joe ở trên hông, đùi, và giữa hai ngực cô. Cảnh người anh ấn vào cô, và hơi nóng dâng lên cổ tới tận má cô. "Chạy bộ trong công viên," cô nói, biết rằng giọng cô cũng đầy tội lỗi như cảm giác của cô vậy.
"Anh không nghĩ chúng ta có thể chi trả được khoản đó trong tháng này. Chúng ta phải trả phí vận chuyển pha lê Baccarat. Tháng tới sẽ tốt hơn cho chúng ta."
Tháng tới có thể tốt hơn cho họ, nhưng không phải cho Sở cảnh sát Boise. "Nó phải được hoàn thành tuần này. Em sẽ tự trả cho khoản đó. Anh không thể phản đối được đâu."
Kevin tựa lưng ra sau và khoanh tay ngang ngực. "Em muốn nó được hoàn thiện một cách khủng khiếp nhỉ. Sao lại bây giờ? Có chuyện gì à?"
"Chẳng gì hết," là câu trả lời khá nhất cô có thể nghĩ ra.
"Có điều gì em không thể nói cho anh biết vậy?"
Gabrielle nhìn vào đôi mắt xanh dương ngờ vực của Kevin và không phải lần đầu tiên cô nghĩ đến việc cứ nói toẹt ra. Rồi hai người họ có thể bí mật làm việc cùng nhau để rửa sạch tên tuổi của Kevin. Cô nghĩ về hiệp ước cung cấp thông tin mật mà cô đã kí. Hậu quả của việc phá vỡ hiệp ước cực kỳ nghiêm trọng, nhưng quỷ tha ma bắt hậu quả đi. Lòng trung thành hàng đầu của cô là cho Kevin, và anh xứng đáng với sự chân thật của cô. Anh là đối tác kinh doanh của cô, và quan trọng hơn, là bạn cô.
"Trông em đỏ lựng và lo lắng."
"Bệnh tiền mãn kinh đấy."
"Em chưa đủ già cho bệnh tiền mãn kinh đâu. Trong chuyện này phải có gì đó ngoài những gì em tiết lô. Hành động này không giống em. Em đang yêu tay thợ sửa chữa của em đấy à?"
Gabrielle hầu như không nén nổi một tiếng thở dốc kinh hàng. "Không."
"Hẳn là dục vọng."
"Không!"
Một tiếng gõ rung cửa sau bần bật. "Bạn trai của em đấy," Kevin nói.
Cô có thể nói nhờ nét mặt anh rằng anh thực sự tin rằng cô có ham muốn với anh chàng thợ sửa chữa của cô. Thi thoảng Kevin nghĩ anh ta biết hết mọi chuyện, trong khi gần như chẳng biết tẹo teo gì. Nhưng những gì cô biết về đàn ông bảo cô rằng đó là trường hợp chung của tất cả bọn họ. Cô đặt chồng hóa đơn lên bàn cô và đi ra khỏi phòng. Ý nghĩ đóng giả làm bạn gái Joe thật đáng lo. Cô di chuyển qua khu vực kho phía sau cửa hàng, nó to gấp đôi một căn bếp nhỏ. Cô mở cánh cửa gỗ nặng nề ra.
Và anh ta đứng đó trong chiếc quần Levi's bạc màu, áo phông trắng, và luồng khí màu đen. Anh ta đã tỉa gọn mái tóc sẫm màu, và một cặp kính râm phi công che khuất đôi mắt. Nét mặt anh ta không thể đọc nổi.
"Anh đến vừa đúng giờ," cô nói với hình phản chiếu của cô trong kính mắt của anh.
Một hàng lông mày sẫm màu nhướn lên. "Anh luôn như thế mà." Anh với lấy tay cô bằng một tay và đóng cánh cửa đằng sau cô bằng tay kia. "Carter có ở đây không?"
Một lát không khí mỏng chia cách ngực chiếc áo sơ mi tay lỡ của cô với lồng ngực anh, và đầu cô bao bọc trong hương thơm của gỗ đàn hương, tuyết tùng và mùi gì đó say nồng đến nỗi cô ước gì mình có thể gọi tên để rồi có thể đóng chai nó.
"Có," cô nói và gỡ tay anh khỏi cánh tay trần của cô. Cô đi lướt qua anh và xuống dọc con hẻm tới tận góc xa nhất của thùng rác. Cô vẫn có thể cảm nhận được dấu ấn của các ngón tay anh trên làn da cô.
Anh đi theo cô. "Cô đã nói gì với anh ta?" anh hỏi với tông giọng trầm gay gắt.
"Những gì tôi được bảo phải nói với anh ấy." Giọng của chính cô chẳng hơn một lời thì thầm khi cô tiếp tục, "tôi đã bảo anh ấy rằng tôi thuê bạn trai mình để di chuyển mấy cái giá trong cửa hàng."
"Và anh ta tin cô à?"
Nói chuyện với hình ảnh phản chiếu của chính cô làm cô mất bình tĩnh, và cô hạ ánh mắt khỏi kính râm xuông chỗ trũng ở môi trên của anh. "Tất nhiên. Anh ấy biết tôi không bao giờ nói dối."
"Ừ nhỉ. Có gì tôi nên biết trước khi cô giới thiệu tôi với đối tác kinh doanh của cô không?"
"Chà, vài thứ."
Môi anh hơi mím lại. "Gì?"
Cô thực sự không muốn thú nhận rằng Kevin nghĩ cô đang yêu anh, nên cô lươn lẹo chút ít. "Anh ấy nghĩ anh đang yêu tôi điên cuồng."
"Giờ thì sao anh ta lại nghĩ thế hả?"
"Bởi vì tôi bảo anh ấy là anh như thế," cô nói, và tự hỏi từ lúc nào thì nói dối lại trở nên thú vị đến thế. "Vì vậy anh tốt hơn hết là nên đặc biệt tử tế vào."
Môi anh vẫn y xì một đường thẳng. Anh không thấy thú vị.
"Có khi ngày mai anh nên mang hoa hồng đến cho tôi."
"À vâng, và có khi cô nên bắt đầu giữ mồm giữ miệng đi."
Joe nghuệch ngoạc một địa chỉ giả và số điện thoại của trung tâm An ninh Xã hội lên tờ khai thuế và ngắm kỹ khung cảnh xung quanh, chú ý tới mọi thứ mà không hề nhìn vào một thứ gì. Anh đã không làm việc ngầm trong gần một năm rồi, nhưng làm việc ngầm cũng giống như đi xe đạp vậy. Anh không hề quên cách lừa bịp một tay lừa đảo.
Kevin bỏ tờ đơn sang một bên, rồi ngước lên nhìn Joe. "Anh đã biết Gabrielle bao lâu rồi?"
Giờ thì, Gabrielle là một câu chuyện khác. Vào thời điểm này, chuyện cô có tội hay vô tội như cô quả quyết không quan trọng, mà anh muốn biết điều gì khiến cô phải nơm nớp lo sợ cơ. Cô khó đóng cọc hơn Kevin nhiều, và Joe không biết phải hiểu cô như thế nào nữa - ngoài sự thực rằng cô còn gàn dở hơn cả một hộp bơ Skippy. "Đủ lâu."
"Vậy chắc hẳn anh cũng biết cô ấy quá tin người. Cô ấy sẽ làm mọi việc để giúp đỡ những người mà cô ấy quan tâm."
Joe tự hỏi việc giúp đỡ đó có rộng tới mức giúp cả những người cô ta quan tâm buôn lậu đồ trộm cắp không. "Phải, cô ấy là một cô gái ngọt ngào thực sự."
"Đúng vậy, và tôi ghét nhìn thấy ai đó lợi dụng cô ấy. Tôi khá giỏi xét đoán tính cách, và tôi có thể nói anh thuộc dạng người làm việc để cho có. Chắc chắn không làm nhiều hơn."
Joe nghiêng đầu sang một bên và mỉm cười với anh chàng nhỏ con có rắc rối bự chảng. Điều cuối cùng anh muốn là thù địch với Kevin. Ngược hẳn lại thì đúng. Anh cần làm hắn ta tin anh, thuyết phục hắn rằng họ là bạn bè. "Ồ thật sao? Anh có thể nói tất cả những điều đó sau khi biết tôi trong năm phút?"
"Chà, hãy đối mặt đi, chẳng thể có nhiều tiền khi là một tay thợ sửa chữa. Và nếu công việc của anh đang tốt đẹp, Gabrielle sẽ chẳng phải vẽ ra một công việc cho anh ở đây." Kevin xoay ghế lùi ra sau và đứng dậy. "Không một người bạn trai nào khác của cô ấy cần việc làm. Cái tên giáo sư triết học cô ấy hẹn họ cuối năm ngoái có thể cần đến nhân phẩm, nhưng ít nhất hắn ta cũng có tiền."
Joe quan sát Kevin đi tới một tủ tài liệu cao và mở một ngăn kéo ra. Anh giữ im lặng và để Kevin nói tất.
"Ngay lúc này cô ấy nghĩ cô ấy yêu anh," hắn tiếp tục khi xếp tờ khai thuế. "Và con gái không nghĩ đến tiền khi họ mê mẩn thân hình anh."
Joe đứng dậy và khoanh tay ngang ngực. Không chính xác là những gì anh được tự quý cô đó nói cho nghe. Quả là nhiều với lời khẳng định không bao giờ nói dối của cô ta.
"Tôi đã hơi ngạc nhiên khi anh bước vào đây sáng hôm nay. Anh không phải loại đàn ông mà cô ấy thường hẹn hò."
"Loại nào vậy?"
"Cô ấy thường đi chơi với loại đàn ông Kỷ Nguyên Mới kỳ quặc. Loại đàn ông ngồi thiền và thảo luận những chuyện tào lao như là ý thức vũ trụ của đàn ông." Ngăn kéo đóng lại, và hắn tựa vai vào đó. "Anh trông không giống loại đàn ông thích ngồi thiền."
Giờ thì là một cảm giác nhẹ nhõm.
"Hai người đã nói chuyện gì trong con hẻm vậy?"
Anh tự hỏi Kevin có nghe lỏm ở cửa sau không, nhưng anh đoán là nếu hắn ta có nghe lỏm thì họ hẳn sẽ không có cuộc chuyện trò này rồi. Joe để một nụ cười chậm rãi kéo cong khóe miệng anh. "Ai nói là chúng tôi đã nói chuyện."
Kevin cười đáp lại, một trong những nụ cười tôi-cũng-ở-trong-câu-lạc-bộ-đàn-ông, và Joe rời khỏi văn phòng.
Điều đầu tiên Joe chú ý thấy khi anh đi ra mặt tiền cửa hàng là mùi hương, nó có mùi như một cửa hàng gội đầu, và anh tự hỏi người chỉ điểm mật của anh có thường du lịch trên tàu cỏ khô hay không. Điều đó sẽ giải thích kha khá đấy.
Ánh mắt Joe lang thang khắp căn phòng, và anh ghi nhận sự sắp xếp lộn xộn kỳ cục của cả đồ cũ lẫn đồ mới. Trong một góc, những cây bút ngộ nghĩnh, dao mở thư, và nhiều hộp văn phòng phẩm đặt trên một cái bàn nhiều ngăn kéo. Anh liếc nhìn quấy thu tiền chính giữa và một mẫu trưng bày đá quý cổ trong một cái thùng thủy tinh cạnh máy tính tiền. Anh nhớ thầm tất cả mọi thứ trước khi sự chú ý của anh bị hút về cái thang đặt cạnh cửa sổ mặt tiền và người phụ nữ đang đứng ở bậc trên cùng.
Ánh nắng rực rỡ chiếu sáng dáng nhìn nghiêng của cô, lọt qua mái tóc màu nâu đỏ dài, và biến chiếc áo lẫn cái váy mỏng màu vàng của cô trở nên trong suốt. Ánh mắt anh lướt xuống mặt, cằm tới đôi vai mảnh mai và bộ ngực đầy đặn của cô. Ngày hôm qua, anh tức như điên còn đùi anh thì nhức nhối, nhưng anh chưa chết. Anh vẫn ý thức rất rõ cơ thể mềm mại của cô ấn chặt vào anh. Về ngực cô khi anh kiểm tra xem có vũ khí không hay vài phút sau khi họ đi vê ô tô của anh, cơn mưa lạnh buốt làm ướt đẫm áo phông của cô, đông lạnh da thịt cô và làm cứng đầu ngực cô.
Mắt anh di chuyển tới eo và cái hông tao nhã của cô. Trông không có vẻ là cô có mặc gì dưới váy ngoài một cái quần lót bikini. Chắc là màu trắng hoặc be. Sau khi theo đuôi cô suốt tuần vừa rồi, anh đã trở nên ngưỡng mộ cặp mông tròn trịa xinh xắn và cặp chân dài của cô. Anh không quan tâm giấy phép lái xe của cô nói gì, cô cao gần mét tám ba và có đôi chân chứng minh cho điều đó. Loại cặp chân vốn dĩ là quấn quanh eo một người đàn ông.
"Cô có cần giúp gì không?" anh hỏi khi đi về phía cô, nâng ánh mắt khỏi những đường cong nữ tính khêu gợi của thân hình cô tới mặt cô.
"Thế sẽ rất tuyệt," cô nói, kéo mớ tóc qua một bên vai và nhìn xuống anh qua bên còn lại. Cô chọn một cái đĩa lớn màu xanh trắng từ một cái giá trong cửa sổ. "Tôi có một khách hàng sẽ ở đây sáng nay để lấy món đồ này."
Joe lấy cái đĩa từ tay cô, rồi bước lùi lại khi cô trèo xuống thang.
"Kevin có tin anh là thợ sửa chữa cho tôi không?" cô hỏi chỉ hơn một lời thì thầm.
"Hơn cả thợ sửa chữa cho cô." Anh chờ cho đến khi cô đứng trước mặt anh. "Anh ta nghĩ cô muốn tôi vì cơ thể của tôi." Anh quan sát cô cào tay qua tóc, làm rối tất cả những lọn tóc xoăn mềm mại như thể cô vừa ra khỏi giường. Cô đã làm cùng chuyện đó ngày hôm qua ở Sở cảnh sát. Anh ghét phải thú nhận điều này, nhưng nó quyến rũ kinh khủng.
"Anh đang đùa."
Anh bước vài bước về phía cô và thì thầm vào tai cô. "Anh ta nghĩ tôi là món đồ chơi con trai riêng của cô." Mái tóc lụa là của cô có mùi như hoa hồng vậy.
"Tôi hy vọng anh đã chỉnh lại cho anh ấy."
"Giờ thì, sao tôi lại làm thế cơ chứ?" Anh lùi ra sau và mỉm cười vào khuôn mặt hãi hùng của cô.
"Tôi không biết mình từng làm gì để phải chịu chuyện này," cô nói khi lấy cái đĩa và đi vòng qua anh. "Tôi chắc chắn mình chưa bao giờ làm chuyện gì xấu xa đến độ xứng đáng phải nhận loại nghiệp chướng tồi tệ này."
Nụ cười của Joe tắt lịm, và một cơn buốt giá gặm nhấm gáy anh. Anh đã quên béng mất. Anh đã thấy cô đứng trên cái thang, với ánh nắng rọi lên mọi đường cong mềm mại, và trong vài phút anh đã quên béng mất cô bị điên.
Gabrielle trông thì bình thường, nhưng cô không bình thường. Cô tin vào nhân quả, luồng khí, và xét đoán tính cách con người qua các ngôi sao. Cô hẳn tin rằng mình cũng có thể bắt sóng với Elvis. Cô là một kẻ lập dị, và anh cho là mình nên cảm ơn cô vì nhắc cho anh nhớ rằng anh không ở trong cửa hàng của cô để chằm chằm nhìn mông cô. Nhờ có cô, sự nghiệp thám tử của anh đang trên bờ vực, và anh phải giải quyết cho xong với một vụ khám xét lớn. Không nghi ngờ gì. Anh rời ánh mắt khỏi lưng cô và liếc quanh căn phòng. "Những cái giá mà cô muốn di chuyển ở đâu thế?"
Gabrielle đặt cái đĩa lên quầy hàng cạnh máy tính tiền. "Kia kìa," cô nói, chỉ về hệ thống giá đỡ bằng kim loại và kính gắn vào tường bên kia căn phòng. "Tôi muốn chúng được chuyển ra tường sau."
Ngày hôm qua, khi cô nói cái giá, anh đã cho rằng cô có ý nói tủ trưng bày. Với việc lắp và gỡ có dính dáng, công chuyện này sẽ tiêu của anh mất vài ngày. Nếu anh sơn, anh có thể kéo dài ra thành hai, có lẽ là ba, ngày tìm kiếm bất kỳ thứ gì để đóng cọc Kevin Carter. Và anh sẽ đóng cọc hắn. Anh không nghi ngờ điều đó lấy một phút.
Joe băng qua phòng tới cái giá bằng kính, mừng vì việc này sẽ tốn kha khá thời gian. Không giống những miêu tả về cảnh sát chiếu trên tivi, các vụ án không được giải quyết trong có một giờ. Phải mất nhiều ngày và nhiều tuần, đôi khi hàng tháng trời, để thu thập đủ bằng chứng cho một vụ tống giam. Rất nhiều chờ đợi. Chờ cho kẻ nào đó có động tĩnh, hốt hoảng hay bị phản bội.
Joe để ánh mắt lướt qua những khung tranh bằng sứ và thủy tinh, bạc và thiếc. Vài cái rổ đan nằm trên một cái hòm cũ giữa các giá hàng, và anh với tay lấy một cái túi vải nhỏ và giơ nó lên mũi. Anh có hứng thú với những thứ có thể ở trong cái hòm hơn là những gì ở trên hòm. Cũng không phải anh thực sự mong tìm thấy bức họa của ông Hillard dễ dàng đến thế. Đúng là thỉnh thoảng anh đã tìm được chỗ giấu thuốc phiện và đồ trộm cắp ở những nơi rõ rành rành, nhưng anh đoán mình sẽ không may mắn được thế với vụ này.
"Cái đó chỉ là túi hoa khô thơm thôi."
Joe liếc qua vai nhìn Gabrielle và ném cái túi nhỏ vào trong rổ. "Tôi đã đoán ra rồi, nhưng dẫu sao cũng cảm ơn."
"Tôi đã nghĩ anh có thể nhầm nó với một loại thuốc gây nghiện nào đó."
Anh nhìn vào đôi mắt màu xanh lục của cô và nghĩ rằng anh phát hiện thấy một dấu hiệu hài hước, nhưng anh cũng không chắc. Nó cũng rất dễ là một tia mất trí. Ánh mắt anh lướt qua cô tới căn phòng trống không. Carter vẫn ở trong văn phòng. Bận rộn với hy vọng làm cho bản thân hắn khá lên. "Tôi đã là một đặc vụ về ma túy trong tám năm. Tôi nghĩ mình biết sự khác biệt. Cô thì sao?"
"Tôi không nghĩ mình nên trả lời câu hỏi đó xét đến việc nó có thể buộc tội tôi." Một nụ cười thích thú nhếch hai khóe môi đỏ hồng của cô lên. Cô rõ ràng là nghĩ mình hài hước lắm đấy. "Nhưng tôi phải nói rằng nếu tôi từng dùng thuốc phiện, và nhớ kỹ rằng tôi không có đang thú nhận gì đó đâu đấy, thì cũng là lâu lắc rồi vì những lý do tôn giáo."
Anh có một cảm xúc rằng anh sẽ thực sự hối tiếc, nhưng anh vẫn cứ hỏi. "Lý do tôn giáo ư?"
"Để tìm kiếm sự thật và sự khai sáng," cô nói rõ thêm. "Để phá vỡ ranh giới của trí óc nhằm tìm kiếm tri thức cao hơn và sự trọn vẹn trong tâm hồn."
Ừ đấy, anh thấy hối tiếc rồi.
"Để khám phá mối liên hệ vũ trụ giữa cái tốt và cái xấu. Sự sống và cái chết."
"Để tìm kiếm cuộc sống mới, nền văn minh mới. Để liều lĩnh đi tới những nơi chưa một con người nào từng đi tới," anh thêm vào, giữ giọng nhạt nhẽo. "Cô và thuyền trưởng Kirk 1 dường như có rất nhiều điểm chung đấy."
Một cái cau có đập bẹt nụ cười của cô.
"Có cái gì trong cái hòm này vậy?" anh hỏi.
"Nến Giáng sinh."
"Lần cuối cùng cô kiểm tra là khi nào?"
"Giáng sinh."
Chuyển động phía sau Gabrielle hút sự chú ý của Joe về quầy trước, và anh quan sát Kevin đi tới chỗ máy tính tiền và ấn nó mở ra. "Anh có vài công việc lặt vặt phải chạy sáng nay, Gabrielle," Kevin nói khi anh đổ đầy ngăn kéo bằng tiền. "Anh sẽ quay lại lúc ba giờ."
Gabrielle quay phắt lại và nhìn bạn kinh doanh của cô. Sự căng thẳng làm tắc nghẽn không khí, nhưng dường như không có ai ngoài cô chú ý tới. Nó bịt kín họng cô, nhưng lần đầu tiên kể từ lúc bị tống giam, cảm giác nhẹ nhõm cũng nâng cánh tâm hồn cô. Cái kết cho cảnh điên khùng này đang trong tầm mắt. Kevin rời đi càng sớm, thì tay thám tử có thể lục soát càng sớm, và anh ta sẽ càng sớm tìm thấy không gì cả. Anh ta sẽ càng sớm rời khỏi cửa hàng và cuộc đời của cô hơn. "Ồ, được rồi. Cứ thoải mái đi. Nếu anh thực sự bận rộn, thì anh không cần quay lại đây đâu."
Kevin rời ánh mắt khỏi Gabrielle sang người đàn ông đang đứng thẳng phía sau cô. "Anh sẽ quay lại"
Ngay khi Kevin đi, Gabrielle liếc nhìn qua vai. "Làm việc của anh đi, thám tử," cô nói, rồi đi tới quầy trước và bắt đầu bọc cái đĩa xanh vào giấy lót. Qua khóe mắt, cô quan sát anh kéo một quyển sổ nhỏ màu đen ra khỏi túi sau của chiếc Levi's. Anh hẩy nó mở ra và từ tốn đi khắp cửa hàng của cô, dùng tay lật một trang và dừng lại để nghuệch ngoạc lên trang khác.
"Khi nào thì Mara Paglino đến làm việc?" anh hỏi mà không nhìn lên.
"Một giờ ba mươi."
Anh kiểm tra dấu hiệu trên đáy một cái đĩa bơ Wedgwood, rồi đóng quyển sổ lại. "Nếu Kevin quay lại sớm, hãy giữ anh ta ở ngoài này với cô," anh nói khi đi vào văn phòng và đóng sập cánh cửa lại phía sau.
Bằng cách nào chứ? Cô hỏi cửa hàng trống không. Nếu Kevin quay lại sớm, cô không biết bằng cách nào - chưa nói đến xử trí anh - để giữ anh không phát hiện ra tay thám tử đang xoay vần cả cái bàn của anh lên. Nhưng chuyện Kevin có về sớm và tóm được Joe tận tay cũng không đáng kể, Kevin vẫn sẽ biết mà thôi. Anh quá ư ngăn nắp đến mức anh luôn luôn biết nếu có ai đó chạm vào đồ đạc của anh.
Suốt hai tiếng sau đó, các dây thần kinh của Gabrielle càng ngày càng xoắn chặt hơn. Mọi tiếng tích tắc của đồng hồ đều đẩy cô gần hơn tới ngưỡng sụp đổ hoàn toàn. Cô cố chìm mình trong lịch trình thường ngày, cô thất bại. Cô nhận thức quá rõ chuyện tay thám tử đang lục soát tìm bằng chứng buộc tội sau cánh cửa khép kín của văn phòng cô.
Vài lần cô đi về hướng cửa văn phòng với ý định thò đầu vào trong và xem xem chính xác thì anh ta đang làm cái gì, nhưng cô luôn luôn mất can đảm. Mọi âm thanh nhỏ xíu cũng khiến cô nhảy dựng lên, và một cục nghẹn tạo hình trong họng và dạ dày cô, chặn không cho cô ăn món súp cải xanh mà cô đã mua làm bữa trưa. Đến lúc Joe cuối cùng cũng chui ra khỏi văn phòng lúc một giờ, Gabrielle đã căng thẳng đến mức cô cảm thấy muốn hét toáng lên, thay vào đó, cô hít vài thở sâu và im lặng niệm câu thần chú xoa dịu bảy âm tiết mà cô đã sáng tác ra mười tám năm trước để đương đầu với cái chết của cha cô.
"Được rồi." Joe xen ngang nỗ lực tìm kiếm chốn thanh tĩnh của cô. "Tôi sẽ gặp cô vào sáng mai."
Anh chắc chẳng tìm thấy bất kỳ thứ gì đáng tội. Nhưng Gabrielle cũng không ngạc nhiên, chẳng có gì mà tìm hết. Cô theo anh ra phòng sau. "Anh đi đấy à?"
Anh nhìn vào mắt cô, và một khóe miệng anh nhếch lên. "Đừng nói với tôi là cô sẽ nhớ tôi nhé?"
"Tất nhiên là không, nhưng còn mấy cái giá thì sao? Tôi phải nói gì với Kevin chứ?"
"Bảo anh ta rằng tôi sẽ bắt đầu vào ngày mai." Anh lấy cái kính râm ra khỏi túi áo phông. "Tôi cần đặt một cái máy nghe trộm vào điện thoại làm việc của cô. Nên hãy đến sớm hơn một chút vào buổi sáng đấy. Tôi sẽ chẳng mất đến vài phút đâu."
"Anh sẽ nghe lỏm điện thoại của tôi à? Anh không cần một lệnh của tòa án hay gì đó sao?"
"Không. Tôi chỉ cần sự cho phép của cô, thứ mà cô sẽ trao cho tôi mà thôi."
"Không đâu."
Hàng lông mày đen của anh nhíu xuống và mắt anh trở nên cứng rắn. "Vì quái gì lại không? Tôi tưởng cô đã nói cô chẳng liên quan gì đến vụ trộm bức Monet của Hillard?"
"Tôi không liên quan."
"Vậy thì đừng có hành động như thể cô có gì phải che giấu nữa."
"Tôi đâu có. Đó là sự xâm phạm khủng khiếp đời sống riêng tư."
Anh cắm gót chân xuống và nhìn cô qua đôi mắt nheo nheo. "Chỉ nếu cô có tội mà thôi. Trao sự cho phép của cô có thể giúp chứng minh rằng cô và Kevin trong sáng như những đứa trẻ sơ sinh."
"Nhưng anh không tin vào điều đó, đúng không nào?"
"Không," anh trả lời không do dự.
Phải mất rất nhiều nỗ lực mới không nói cho anh ta nghe chính xác nơi anh ta có thể nhét cái máy nghe trộm của mình. Anh ta quá tự mãn vào bản thân. Quá mức tự tin, nhưng cũng quá sai lầm. Một cái máy nghe trộm sẽ chẳng kiếm được gì cho anh ta hết, và chỉ một cách để chứng minh rằng anh ta sai. "Tốt thôi," cô nói. "Làm bất kỳ chuyện gì anh muôn. Đặt một cái máy quay. Dùng đến máy kiểm tra nói dối. Đưa ra dụng cụ tra tấn."
"Lúc này thì máy nghe trộm làm hữu dụng rồi." Anh mở cửa sau và đẩy cái kính râm lên sống mũi thẳng tắp. "Tôi để dành dụng cụ tra tấn cho những tay chỉ điểm lập dị thích thú với nó cơ." Những đường nét nhục dục ở môi anh cong lại thành một nụ cười khiêu khích có thể khiến một người phụ nữ gần như tha thứ hết cho anh vì đã còng tay cô ta rồi tống cô ta vào tù. "Cô có hứng thú không?"
Gabrielle nhìn xuống chân, tránh khỏi ảnh hưởng thôi miên của nụ cười đó, choáng váng vì anh cũng có thể gây ảnh hưởng đến cô. "Không, cảm ơn."
Anh móc một ngón tay vào dưới cằm cô và nâng ánh mắt cô lên, quay lại mắt anh. Giọng nói quyến rũ của anh ve vuốt da thịt cô. "Tôi có thể thực sự dịu dàng đấy."
Cô nhìn vào cặp kính râm của anh và không thể nói được anh đang đùa hay nghiêm túc. Anh cố quyến rũ cô hay đó chỉ là ảo tưởng của cô mà thôi. "Tôi sẽ bỏ qua."
"Đồ gà con." Anh thả tay xuống và bước một bước ra sau. "Cô hãy cho tôi biết nếu cô đổi ý nhé."
Trong vài giây sau khi anh đi, cô nhìn chằm chằm vào cánh cửa đóng kín. Một cơn run rẩy nhồn nhột cù trêu dạ dày cô, và cô cố tự bảo mình đó là vị cô chưa ăn. Nhưng cô không thực sự tin vào điều đó. Với việc tay thám tử đã đi, cô đáng lẽ phải cảm thấy khá hơn, nhưng cô thì không. Anh sẽ quay lại vào ngày mai với máy nghe trộm, rình mò các cuộc trò chuyện.
Đến lúc Gabrielle xong việc trong ngày, cô đã cảm thấy như thể não cô sưng phồng và đầu cô sắp sửa nổ tung. Cô không biết chắc, nhưng cô nghĩ cô có thể đang phát triển một khe stress ở hộp sọ.
Lái xe về nhà, thường tốn mất của Gabrielle mười phút, giờ được hoàn thành trong có năm phút. Cô rẽ chiếc Toyota dòng bán tải vào rồi ra khỏi luồng giao thông, và chưa bao giờ quá đỗi vui mừng đến thế để đi vào căn gara chỉ chứa được một xe ô tô ở đuôi nhà cô.
Ngôi nhà gạch mà cô đã mua cách đây một năm khá nhỏ và nhồi nhét đầy những miếng những mẩu đời sống của cô. Trong một cửa sổ nhô ra đối diện với đường, một con mèo đen khổng lồ nằm duỗi mình giữa những cái đệm màu đào, quá béo và lười biếng để thực hiện được một màn chào hỏi đúng đắn. Những tia mặt trời tràn qua vô số tấm kính, trải những vùng sáng hình lập phương lên sàn gỗ và thảm hoa cỏ.
Bộ ghế và tràng kỷ được bọc màu tùng lam và hồng đào, cùng lúc ấy những cây cỏ tươi tốt tô điểm cho căn phòng hình chữ nhật, bức chân dung bằng màu nước vẽ một con mèo đen nằm trên cái ghế bành được treo trên một lò sưởi gạch thanh lịch.
Khi Gabrielle lần đầu tiên đặt mắt lên ngôi nhà này, cô đã yêu ngay nó. Nó, giống như chủ trước của nó, cổ kính và chứa đựng một bầu không khí chỉ có thể được tạo ra từ thời xa xưa. Căn phòng ăn nhỏ được trang trí bằng tủ bếp liền tường và dẫn ra một căn bếp với những tủ bát đĩa cao với từ sàn nhà lên tận trần. Cô có hai phòng ngủ, một trong số đó cô dùng làm phòng vẽ.
Các đường ống cứ rên rỉ. Sàn nhà gỗ thì lạnh, và nước thì nhỏ giọt vào bồn tắm. Nước toa lét chảy không ngừng nghỉ trừ phi cô lắc nhẹ tay vặn, và cửa sổ phòng ngủ cảu cô thì bị đóng chặt. Dẫu vậy, cô yêu ngôi nhà của cô bất chấp những hư hỏng của nó và yêu thậm chí cả vì những hư hỏng ấy.
Thoát quần áo khi bước đi, Gabrielle hướng đến phòng vẽ. Cô đi nhanh qua phòng ăn và bếp, bỏ qua những cái bát và chai nhỏ chứa kem chống nắng và các loại dầu chiết xuất tự nhiên khác mà cô đã chuẩn bị. Đến lúc cô tới được cửa phòng vẽ, tất cả những gì cô mặc là chiếc quần lót bikini màu trắng.
Một cái áo sơ mi loang lổ màu vẽ treo trên một khung vẽ ở giữa phòng. Khi cô đã cài khuy áo đến nửa ngực, cô bắt đầu nhặt nhạnh đồ vẽ.
Cô biết chỉ có một cách để giải phóng cơn giận khủng khiếp quấn quanh người cô và lại tô đen cả luồng khí của cô. Cô đã vượt quá xa tọa thiền và hương thơm xoa dịu rồi, và chỉ có một cách để biểu lộ cơn giận dữ và cảm giác tra tân nội tại. Chỉ có một cách để tống nó ra khỏi cơ thể cô.
Cô không thèm chuẩn bị vải bạt hay phác họa khuôn hình trước. Cô không thèm làm dịu lớp sơn dầu nặng nề hay cố pha sáng màu sắc. Cô thậm chí còn không có một ý tưởng rõ ràng về những gì cô định vẽ nữa. Cô chỉ vẽ mà thôi. Cô không tốn thời gian cẩn thận tính toán mỗi nét phác cọ, hay thèm quan tâm xem cô đang tạo ra cả một mớ hỗn loạn trên vải vẽ.
Cô chỉ vẽ mà thôi.
Vài giờ sau, cô không ngạc nhiên khi thấy ác quỷ trong bức tranh của cô mang một vẻ tương đồng đáng kể với Joe Shanahan hay con cừu non bé nhỏ tội nghiệp, bị còng bằng một đôi còng tay bạc, có mái tóc đỏ óng ả trên đầu thay vì lông len.
Cô bước lùi lại một bước để cẩn trọng đánh giá bức tranh. Gabrielle biết cô không phải là một nghệ sĩ vĩ đại. Cô vẽ vì tình yêu, nhưng thậm chí cô cũng biết tác phẩm này không phải bức vẽ tuyệt nhất của cô. Dầu bị dùng quá nặng, và vầng hào quang bao quanh đầu con cừu trông giống cái kẹo dẻo hơn. Chất lượng không tốt được gần bằng cả những bức vẽ và chân dung khác treo trên bức tường trắng của phòng tranh. Và như cô đối xử với những bức vẽ khác, cô bỏ chuyện vẽ tay và chân cho một lần khác. Cô cảm thấy trái tim nhẹ bẫng, và một nụ cười nâng hai má cô lên. "Mình thích nó," cô thông báo cho căn phòng trống không, rồi đâm cây cọ vẽ vào một khoanh mực đen và thêm một bộ cánh kinh khủng cho ác quỷ.
--------------------------------
1
Nhân vật trong phim Chiến tranh giữa các vì sao.
Nguồn: vhproject.hnsv.com