Hôm sau là ngày đấu chung: khán giả đến đông hơn hôm qua; hoàng tử Jean dẫn lady Rowena lên ngồi trên ngai nhất nhật đế vương và sau khi các tuyên cáo viên đọc xong những điều lệ của trận đấu trong tiếng kèn tơ-rông-pét thì các địch thủ chia thành hai đội bằng nhau, một bên do ông dòng Brian, một bên do hiệp sĩ Déshérité cầm đầu, tiến ra trường đấu. Thật là một quang cảnh vừa hết sức oai nghiêm, vừa vô cùng khủng khiếp khi thấy các đấu thủ mặc áo giáp đẹp đẽ, cưỡi những con ngựa lực lưỡng chuẩn bị lao vào một trận đấu chết người; họ ngồi thẳng trên mình ngựa như những cột thép bằng đồng, chờ cuộc đấu bắt đầu, hăng say như những con ngựa của họ đang hí vang và giậm chân xuống đất tỏ lòng sốt ruột. Các hiệp sĩ cầm những cây thương dựng thẳng; mũi thương sáng loáng phản chiếu những tia sáng mặt trời và những dây lụa buộc ở cổ thương tung bay trước gió; chóp mũ có những chùm lông. Họ ngồi như vậy cho tới khi có tiếng hô của những tuyên cáo viên: "Buông cương!" Thế là họ lao vào nhau. Đó là một cuộc hỗn chiến đẫm máu.
Lúc đầu, hai người cầm đầu hai nhóm tìm nhau không thấy, sau gặp nhau, cuộc giao tranh giữa hai người bắt đầu. Front-de-Boeuf và Athelstane thuộc nhóm của Brian, sau khi thoát được các địch thủ bám riết mình, thì chạy đến ứng cứu Brian nhằm cho nhóm mình thắng thế. Déshérité một mình chống lại ba địch thủ ngoan cường và sắp bị họ đánh bại thì bỗng nhiên một người trong nhóm, đặc biệt to cao, cưỡi con ngựa màu đen, mặc áo giáp cũng màu đen, từ nãy vẫn tỏ ra không mặn mà lắm với cuộc chiến, bỗng gạt các chiến sĩ còn lại trên trường đấu ra và tức giận xông tới ba địch thủ của Déshérité. Front-de- Boeuf sắp thọc một nhát kiếm kinh khủng thì không kịp nữa... anh cùng ngựa ngã lăn trên cát. Noir-Fainéant - tên mà khán giả gán cho người nãy đến giờ vẫn tỏ ra thờ ơ với cuộc đấu - Noir-Fainéant vừa đẩy mạnh Front-de-Boeuf cùng với ngựa ngã xuống đất liền quay ra đấu với Athelstane. Vì kiếm của anh bị gãy khi đâm vào áo giáp của Front-de-Boeuf nên anh giật lấy cái rìu cán dài của anh chàng Saxon này còn đang đứng ngây người; và bổ một nhát khủng khiếp lên mũ của Athelstane làm chàng ta chông chiêng và sắp ngã. Rồi trở lại vẻ thờ ơ ban đầu, Noir-Fainéant ngồi yên trên mình ngựa, làm người quan sát bình lặng nhìn cuộc giao tranh giữa hai người cầm đầu hai nhóm.
Ngựa của Brian bị thương nên gặp cái va chạm đầu tiên đã khuỵu ngã. Déshérité vội nhảy xuống ngựa và kêu Brian đầu hàng.
Nhưng hoàng tử Jean không chấp nhận chàng hiệp sĩ yêu quý của mình phải thất bại lần thứ hai nên ông cho ngừng cuộc đấu; ông tuyên bố người thắng cuộc là Hiệp sĩ áo đen, người mà theo ông đã quyết định trận đấu khi anh vào trợ giúp Déshérité đánh hai địch thủ đáng sợ Front-de- Boeuf và Athelstane. Thật ra, ông không thích lần thứ hai lại thấy một lãnh chúa Saxon hơn người.
Người ta đi tìm Hiệp sĩ áo đen để trao vương miện mà hôm qua đã trao cho nữ hoàng sắc đẹp, nhưng mọi người ngạc nhiên, anh đã biến mất.
Thế là hiệp sĩ Déshérité được chỉ định ra nhận phần thưởng. Khi anh quỳ gối trước lady Rowena để nhận vương miện, người ta thấy bà hoàng sắc đẹp bỗng toàn thân run bắn và thốt lên một tiếng khe khẽ.
Tuy nhiên cô vẫn đặt vương miện lên đầu chàng hiệp sĩ:
- Không bao giờ vương miện được đặt lên đầu ai xứng đáng hơn. - Nàng nói.
Chàng hiệp sĩ đứng dậy, nghiêng mình chào và định hôn tay lady Rowena thì anh bỗng loạng choạng ngã xuống, bất tỉnh.
Cedric chạy ra, cởi áo giáp người thắng cuộc.
Ông ngạc nhiên đứng sững, không thốt nổi một câu. ông vừa nhận ra con trai mình, Ivanhoé, bên sườn bị một vết thương xuyên qua áo giáp.
Tên chàng Ivanhoé được truyền từ miệng người này sang người khác rồi đến tận tai ông hoàng. ông hoàng xanh mặt, quay sang nói với các triều thần:
- Các ngài, nếu Ivanhoé có mặt ở đây thì Richard, người vẫn quý mến Ivanhoé, cũng ở không xa đây lắm.
- Thế thì đến lúc chúng ta phải nghiêm túc mà tính các sự việc rồi, - Fitzurse nói. - Chúng ta hãy gặp York để tập họp người của phe phái chúng ta. Hãy gác lại cuộc đua này và chúng ta phải cẩn trọng!
- Tuy nhiên, đừng làm mất lòng các yeomen và dân làng, - De Bracy nói, - đừng làm họ không được xem cái cảnh đang gây cho họ nhiều vui thích.
- Cái đó được thôi, - Fitzurse nói tiếp, - ngày hôm nay hãy còn dài. Có thể tổ chức ngay lập tức cuộc tranh tài giữa các thợ bắn cung.
- Được, - hoàng tử gật đầu, - vả lại ta còn có chuyện phải tính với cái tên cục cằn hôm qua đã đối xử quá dã man với Isaac, người giúp vốn rất nhiều cho ta. Hắn hãy rờ hồn nếu không bắn giỏi như các thợ bắn cung hay nhất của ta ở hai quận Strafford và Leicester.
Tiếng kèn tơ-rông-pét giục những người đã bỏ đi xa, quay lại và các tuyên cáo viên thông báo vì có tình hình rất nghiêm trọng nên hoàng tử Jean không thể dự hội đến tận ngày mai. Tuy nhiên Người muốn có mặt ở cuộc thi thố tài năng của bao người yeomen dũng cảm nên Người quyết định cuộc thi bắn cung sẽ tổ chức ngay trong ngày hôm nay. Khoảng ba mươi người xin thi đấu; phần lớn họ là những người gác khu rừng săn bắn của nhà vua, có một vài người là ở đội cảnh vệ của hoàng tử. Vì họ quen biết nhau cả nên những người còn non tay bắn xin rút lui trước còn hơn là chắc chắn bị thất bại. Sau cùng chỉ còn lại sáu tay cung nổi tiếng nhất ở các quận.
Hoàng tử bước xuống sân đấu nhìn kỹ các người dự thi có mặt.
- Trong các anh, ai là người sẽ giật giải?
Giải thưởng là một cái tù và đi săn nạm bạc kèm theo một dải lụa để đeo qua vai rất đẹp.
Thêm vào đấy là một tấm lác chạm hình thánh Hubert là thần các trò chơi đồng áng. Không có ai trả lời, hoàng tử nói tiếp:
- Tệ thật, ta không thấy trong bọn ngươi có tên khoe mã mặc áo xanh hôm qua ăn nói rất xấc!
- Thưa đây, có nó. - Một tiếng nói từ trong đám đông cất lên.
Ông hoàng quay ra nhìn. ông nhận ra cái thân hình cao lớn và con mắt nhìn kiêu hãnh của người đối thoại với ông hôm qua. ông nói:
- Ngươi giỏi giang không bằng ngươi láo xược, vì ta không thấy ngươi có mặt trong số những người cứng tay nỏ kia!
- Tôi chỉ sợ mỗi việc ngài lại phải trao giải lần thứ ba cho một kẻ không làm ngài hài lòng thôi.
Máu nóng dồn lên mặt ông hoàng.
- Yeoman, tên ngươi là gì, nói đi.
- Vốn gọi là Locksley, thưa hoàng tử.
- Thế thì anh Lockley, anh cứ đọ sức đi; nhưng anh sẽ bị khốn đấy nếu anh thất bại. Ta sẽ lột chiếc áo xanh của anh ra và quất người anh cho đến ứa máu.
Locksley trả lời hết sức bình tĩnh:
- Ngài thật bất công. Nếu thua, ngài phạt cho bị đánh roi, nhưng nếu được, ngài thưởng thêm cho cái gì?
Thấy kẻ nọ ăn nói quá bạo mồm, các cận thần xì xào tức giận, nhưng hoàng tử ra hiệu bảo yên.
- Đúng rồi, - ông nói, - nếu anh thắng ta sẽ thưởng thêm cho hai mươi đồng tiền bạc. Đoạn ông quay sang nói với các lính cảnh vệ: "Hãy để mắt đến y", rồi quay sang các thợ bắn cung và những người gác rừng, ông nói tiếp: "Các anh hãy bảo vệ uy tín của mình. Hãy cho cái tên khoác lác này biết khả năng của các anh!" Người chủ trò chơi bốc thăm lần lượt cho sáu người vào đấu. Những người này phải bắn ba lần vào mục tiêu ở một cự ly rất xa. Người được tiếng bắn giỏi nhất tên gọi là Hubert, trông coi khu vực săn của ngài De Malvoisin. Hoàng tử liền nói:
- Này Locksley, anh có dám thi tài với Hubert không?
- Được chứ ạ, thưa hoàng tử. Cứ để Hubert bắn trước vào mục tiêu đã chọn. Sau đó, nếu ngài cho phép, thần sẽ chọn mục tiêu của thần.
- Được, ta đồng ý... Hubert, nếu ngươi thắng cái tên xấc láo này, ta sẽ thưởng tiền cho anh.
- Thần sẽ làm hết sức mình, thưa hoàng tử.
- Hubert trả lời.
Người quản rừng của Malvoisin chọn một cái khiên mới để làm bia, dạng chân cho chắc rồi ngắm rất lâu tấm bia. Mũi tên bay vút đi, cắm vào vòng trong vẽ trên cái khiên. Tuy nhiên không trúng hồng tâm.
- Anh có thể bắn tốt hơn, - Locksley nói, -nhưng vì anh quên không tính chiều gió.
Nói xong, Locksley bước vào chỗ đứng quy định, rồi chẳng thèm ngắm bia, giương cung bắn.
Mũi tên bắn trúng hồng tâm.
Ông hoàng tức giận nhìn Hubert nhưng không nói gì. Hubert bước vào chỗ cũ, bắn mũi tên thứ hai. Lần này, anh ta chú ý đến chiều gió:
mũi tên rơi chính giữa tấm bia khác người ta vừa cắm.
- Hoan hô, hoan hô! - Các khán giả reo lên.
- Hoan hô Hubert!
- Lần này, ngươi có thể tuyên bố thua cuộc rồi đấy. - Hoàng tử chế giễu.
- Thần còn chưa bắn, xin hoàng tử hãy đợi.
Nhưng vì Hubert không để cho thần còn chỗ nên thần sẽ xẻ mũi tên của Hubert ra làm đôi.
Các khán giả còn chưa kịp bình luận gì về lời thách thức cực kỳ khó khăn, gần như không thể thực hiện được thì Locksley đã giương cung, ngắm, lần này kỹ càng hơn chút ít so với lần trước, và bật dây cung. Mũi tên chạm trúng tên của Hubert, tách nó làm đôi..- Không phải là con người nữa mà là con quỷ! - Hubert lẩm bẩm nói, cốt cho hoàng tử nghe thấy và cũng là để biện bạch về sự yếu kém của mình.
- Đến lượt thần chọn mục tiêu. - Locksley nói và đi bẻ một cành liễu chỉ bé bằng ngón út, cắm xuống đất cách xa ba mươi bước.
- Xin thề trước cụ tổ nhà tôi, - Hubert kêu lên. - Tôi không bắn vào mục tiêu đó đâu. Nếu địch thủ của tôi bắn trúng, tôi sẽ tự tuyên bố thua cuộc.
Locksley thay dây cung vì dây cũ không còn thật chắc nữa. Lần này anh ngắm thật kỹ lưỡng rồi bật lẫy. Cành liễu bay lên, gãy khúc...
- Trời! - Hoàng tử Jean kêu lên. - Ta đã đánh giá nhầm về ngươi. Nhà ngươi là người bắn cung giỏi nhất nước; phần thưởng thuộc về nhà ngươi. Ta cho ngươi thêm năm mươi đồng tiền bạc nữa nếu ngươi chịu nhận làm người bắn cung trong đội cảnh vệ của ta.
- Xin cám ơn ngài, thần đã thề làm người tự do và ngay khi có thể, thần chỉ làm nô bộc cho một vị hoàng tử duy nhất là đức vua Richard.
Về hai mươi đồng tiền bạc, thần xin tặng lại anh Hubert, một người giỏi cung tên, vì tính khiêm nhường anh không muốn bắn mục tiêu cuối cùng như thần, nếu không, thần dám chắc, anh cũng không thua kém gì thần.
Nói đến đấy, người đội mũ màu xanh vội vàng đi thật nhanh và mất hút trong đám đông.
Jean lại tái mặt khi nghe nhắc tới tên anh mình, làm ông nhớ tới những mối nguy hiểm chắc chắn sẽ giội xuống đầu ông nếu như Richard trở về nước Anh. ông nhảy lên ngựa, phóng nước đại về thành phố Ashby, theo sau là một đám đông hiệp sĩ....
Chương 6
Sau cuộc đua tài ở Ashby, những nhân vật chính ở câu chuyện này mỗi người đi một ngả; chúng tôi thấy cần phải kể những gì xảy ra với mỗi người trong số họ trước khi lại thấy họ tụ tập ở dinh cơ Front-de-Boeuf.
De Bracy sửng sốt vì sắc đẹp của Rowena nên gợi ý với hoàng tử Jean về một cuộc hôn nhân với một công nương dòng dõi gần nhất với triều đại Saxons chắc chắn sẽ làm ông vừa ý và chỉ làm cho ngôi vua mà ông ao ước được củng cố thêm mà thôi. Jean, ruột gan rối bời vì những lo lắng chúng ta vừa biết, bằng lòng cho De Bracy thử đi lo công việc ấy với điều kiện sau ba ngày anh phải trở về. Thì giờ thế thì ít. Tuy nhiên anh có kế hoạch của mình; anh rời khỏi nhà cùng với Brian và Front-de-Boeuf.
Một vài công việc cần thiết phải chuẩn bị để thực hiện ý đồ cưới xin đó, anh muốn đem ra bàn cùng hai hiệp sĩ nọ.
Ba người và các tay chân phải mặc bộ đồ xanh giả và họ phải như chim cắt đâm bổ xuống mồi, nhảy xổ vào đám người Saxons đi xem trở về. Lúc đó De Bracy xuất hiện dưới dáng vẻ cận thần của hoàng tử Jean, giải phóng người đẹp không may rơi vào tay bọn cướp áo xanh và dẫn cô về lâu đài của Front-de-Boeuf.
Chúng ta hãy để ba người đấy cho họ bàn tỉ mỉ kế hoạch của họ và hãy quay về ngày thứ hai của hội đấu. Bạn đọc hẳn không thể quên thắng lợi được quyết định do tài năng của một hiệp sĩ lạ mặt mà khán giả mệnh danh là Noir-Fainéant vì anh đã tỏ ra thụ động và uể oải trong phần đầu trận đấu. Nhưng khi chiến thắng anh đã rời khỏi trường đấu và khi người ta đi tìm để trao phần thưởng thì không thể tìm thấy anh đâu. Trong khi các tuyên cáo viên gọi anh bằng miệng và bằng kèn đồng thì anh đã đi về phía bắc; anh tránh không đi những con đường nhiều người qua lại; anh đi con đường ngắn nhất xuyên qua rừng.
Khi sương đêm bắt đầu bao phủ các vùng xung quanh, anh gặp một quán trọ nhỏ trên.đường đi; anh qua đêm ở đó và sáng sớm hôm sau, anh tiếp tục lên đường.
Chàng kỵ sĩ hình như đang phải suy nghĩ lao lung; chỉ khi gặp đoạn đường khó đi anh mới sực tỉnh. Lúc đó, anh mới chú ý đến điều khiển ngựa, kích thích nó bằng lời nói hay chân thúc.
Khi trời tối, anh lọt vào giữa rừng sâu, tìm chẳng có một quán trọ để nghỉ chân, trong lúc anh và ngựa đều đói và mệt.
Trong đêm tối, Hiệp sĩ áo đen không thể biết mình đi có đúng đường không. Rừng rất rộng và rậm rạp! Khổ hơn nữa là hiệp sĩ đến một chỗ có nhiều chỗ rẽ.
Anh kêu lên:
- Thề trước thánh George, vua nước Anh!
Họa mình có là thầy bói hay phù thủy mới đi được đúng đường!
Nét mặt anh, mặc dầu có chút ít không vừa ý, vẫn giữ được cái vẻ vui tươi của con người biết chấp nhận như nhau những ngày lành hay ngày hạn.
Tuy nhiên, muốn tận dụng cơ hội gặp may, anh cố gắng phân biệt lối đi nào nhẵn nhụi nhất, vì anh nghĩ - cũng đúng thôi - đó là con đường sẽ dẫn đến một nơi có nhà ở một cách chắc chắn nhất.
Cái may không phụ anh. Sau một lúc đi, anh đã đến một chỗ rừng thưa, có một túp lều dựng bằng các cây gỗ đẽo gọt sơ sài. Chắc hẳn đó là nơi ở của một người ẩn dật.
Hiệp sĩ áo đen xuống ngựa. Phải gõ cửa đến hai lần mới có tiếng trả lời, mà giọng nói xem ra không êm ái lắm.
- Ai đấy, hãy đi đi, là ai cũng mặc kệ nhé.
- Một tiếng nói mạnh và gắt cất lên. - Đừng đến quấy nhiễu trong giờ cầu kinh đêm của ta nhé!
- Thưa cha kính mến, - chàng hiệp sĩ trả lời, - tôi là một kẻ lữ hành lạc rừng; giúp đỡ tôi qua cái đêm này là cha đã sinh phúc theo lời răn của Chúa.
- Thôi anh ơi, tôi không sinh phúc đâu; ngược lại thánh Nữ Đồng Trinh và thánh Dun-stan còn vui lòng để người khác sinh phúc cho ta nữa kia. ở đây đến thức ăn để chia sẻ cùng với chó ta cũng chẳng có. Chỗ ngủ của ta thì một con ngựa chỉ tinh tế một chút nó sẽ chẳng chấp nhận. Vậy anh hãy đi đi! Cầu trời giúp anh..- Nhưng làm sao tôi tìm được đường đi trong rừng giữa đêm tối thế này? Tôi xin cha kính mến, ít ra cha hãy ra mở cửa chỉ giúp đường tôi.
- Đường đi dễ thôi, - người ẩn sĩ trả lời. -Con đường nhỏ trước mặt sẽ dẫn đến một đám sình lầy có một con suối bao bọc xung quanh, gần đây ít mưa rào có thể lội qua được đấy.
Nhưng khi lội qua anh phải để ý đến bờ bên trái vì nó hơi dốc đấy và cái lối đi ở phía trên, tôi nghe nói (vì ít khi tôi bỏ lễ ra ngoài) gần đây bị vỡ mất mấy đoạn. Sau đó anh cứ theo đường thẳng trước mặt...
- Một bãi sình lầy, một con suối lội qua, những bờ dốc thẳng, một con đường sạt lở! -Chà ng hiệp sĩ kêu lên. - Ngài ẩn sĩ ơi, ngài không thuyết phục nổi tôi đi một con đường như vậy trong đêm tối đâu. Ngài phải mở cửa ngay tức khắc cho tôi, nếu không buộc tôi phải đạp đổ.
- Anh bạn lữ hành ơi! - Nhà ẩn sĩ trả lời. -Anh đừng buộc tôi phải dùng đến thứ trời cho tôi để tự bảo vệ mình là vũ khí: điều đó chẳng lợi lộc gì cho anh đâu.
Nghe thấy tiếng chó sủa chàng hiệp sĩ nghĩ có lẽ nhà ẩn sĩ đã huýt chó từ chái nhà sang.
Tức giận, anh lấy chân đạp mạnh vào cửa khiến cái cột nhà rung chuyển.
- Gượm đã nào, đừng nóng thế, anh bạn lữ hành ơi. - Nhà ẩn sĩ rõ ràng không muốn cánh cửa của mình bị đạp lần thứ hai liền nói. - Hãy để dành sức, tôi ra mở cửa đây mà.
Nói xong, cửa mở, nhà ẩn sĩ, một con người khỏe mạnh, mặc áo thầy tu và đội mũ trùm đầu hiện ra trước mặt chàng hiệp sĩ. Một tay ông cầm bó đuốc, một tay cầm chiếc gậy to bằng gỗ cây táo dại. Hai con chó, nửa vẻ chó săn thỏ, nửa vẻ chó ngao, đứng bên cạnh và hình như chỉ chờ lệnh của chủ là nhảy xổ vào cắn người khách lạ.
Nhưng nhờ vào bó đuốc, nhà ẩn sĩ thấy một hiệp sĩ gươm giáo đầy đủ, liền thay đổi ngay ý kiến; rồi đuổi chó đi, ông bỗng nhiên lễ phép mời hiệp sĩ vào nhà đồng thời tìm cách xin lỗi, nói rằng ông không bao giờ mở cửa cho ai vào lúc đêm tối như thế này sợ là kẻ trộm hoặc những tên outlaws đầy rẫy trong rừng.
Sau khi vào nhà và đảo mắt nhìn quanh, hiệp sĩ chỉ thấy một chiếc giường trải lá làm ổ, một cây thánh giá bằng gỗ sồi gọt đẽo sơ sài, một quyển sách kinh, một chiếc bàn làm bằng các tấm ván không bào, hai chiếc ghế đẩu ba chân và một vài dụng cụ nấu nướng; anh nói:
- Thưa cha, cha sống khổ sở thế này thì sợ gì kẻ cướp, chưa kể có hai con chó trung thành đủ sức vật nổi một con hươu, còn đối với người thì tôi tưởng ít có người chống cự nổi chúng.
Khi nhà ẩn sĩ đã mời hiệp sĩ vào nhà, ông cài cây đuốc lên một que sắt đóng sâu vào một trong những thân cây dùng làm tường nhà. Rồi bỏ thêm củi vào bếp cho bốc lửa, ông ngồi lên một chiếc ghế ba chân bên cạnh bàn và ra hiệu cho hiệp sĩ cùng ngồi.
Hai người ngồi xuống, người nọ nghiêm trang nhìn người kia một lúc lâu, mỗi người chắc hẳn đều nghĩ mình chưa bao giờ giáp mặt với một người trông khỏe hơn và quyết đoán hơn thế.
Sau cùng hiệp sĩ nói:
- Thưa ngài ẩn sĩ kính mến, nếu không phiền nhiễu ngài khi đang buổi cầu kinh thì tôi xin hỏi ngài ba điều: một là tôi phải dắt ngựa vào đâu, hai là ngài có cho tôi chút cơm cháo gì không, ba là đêm nay tôi ngủ ở chỗ nào.
ẩn sĩ trả lời:
- Tục lệ của tôi đã thành bổn phận: tôi chỉ trả lời khi thật cần thiết: bởi vậy tôi sẽ trả lời anh chừng mực nào có thể. - Nói xong ông lần lượt chỉ vào hai góc lều: - Đây là chuồng ngựa; kia là giường của anh. - Sau lấy trên tấm ván một cái đĩa đựng hai nắm hạt đậu khô rồi đặt trên bàn trước mặt khách: - Còn đây là thức ăn của anh.
Hiệp sĩ nhún vai, bước ra khỏi lều, dắt ngựa vào, buộc vào một thân cây. Anh tháo yên cương, cởi áo choàng của mình ra đắp lên lưng ngựa.
Có thể nhà ẩn sĩ nhìn thấy chàng hiệp sĩ săn sóc con ngựa của anh như vậy thì cảm động lắm.
Ông làm như chợt nhớ ra hôm nọ người gác rừng đến thăm còn để lại ít cỏ khô; ông đi ra phía cửa sau, đem vào một bó rơm thơm vàng và một đấu yến mạch cho ngựa. ông ra lần nữa, đem vào một tải lá cành khô đặt vào một xó rồi ra hiệu là chỗ ngủ của chàng hiệp sĩ. Hiệp sĩ cảm ơn ông đã có lòng giúp đỡ; sau đó hai người lại.ngồi vào chiếc ghế cạnh bàn, trên đó vẫn còn cái đĩa đựng hạt đậu khô. Nhà ẩn sĩ đọc kinh trước bữa ăn có lẽ trước kia bằng tiếng la-tinh nhưng bây giờ khó nhận ra đó là thứ tiếng ấy trừ có vài tiếng hay vài câu chỗ này chỗ nọ giọng đọc kéo dài ra. Nhà ẩn sĩ thấy cần ăn trước để ông khách ăn theo nên ông lấy ba hay bốn hạt đậu bỏ vào miệng để lộ ra hàm răng rất khỏe, vừa nhọn vừa trắng như răng con lợn lòi.
Chàng hiệp sĩ bắt chước ông, liền bỏ mũ, cởi áo giáp ngoài, tháo bỏ bớt phần lớn các cân đai khiến nhà ẩn sĩ thấy anh có bộ tóc màu nâu xoăn một cách tự nhiên, nét mặt đầy đặn, đôi mắt tinh nhanh, hàng ria mép sẫm hơn bộ tóc chứng tỏ anh là một người gan dạ, dám nghĩ dám làm, y như cái thân hình cao lớn của anh đã mách bảo.
Nhà ẩn sĩ như muốn đáp lại sự tin cậy của người khách liền hất cái mũ trùm đầu ra sau, để lộ một cái đầu tròn của người đang ở tuổi thanh xuân. Tóc ở đỉnh đầu khoanh gọt, chung quanh là một vòng tóc đen cứng và xoăn làm người ta liên tưởng đến một cái sân làng xung quanh có hàng rào chắn cao. Nét mặt ông không mang dấu vết gì gọi là khắc khổ của đời sống tu hành hay dấu vết của việc ăn đói nhịn khát nghiêm trọng. Khuôn mặt cộng thêm cái thân hình đẫy đà của người nhà thánh cho thấy khẩu phần của ông phải là những miếng thịt bò hay thịt lợn bổ béo chứ không phải là những hạt đậu khô hay lá rau lá cỏ này đâu. Chàng hiệp sĩ không phải không có sự nhận xét ấy. Cố nghiền vất vả được năm hay sáu hạt đậu, anh hỏi chủ nhân xem có nước cho anh xin một hụm để chiêu miếng ăn không.
Người ẩn sĩ đến đặt trước mặt người khách một hũ nước đầy trong và mát. Anh đưa lên miệng, uống một hụm.
- Thưa cha quý mến, - hiệp sĩ nói, - tôi thấy cha ăn rất ít thứ đậu khô này, cha cũng không uống nhiều lắm cái thứ nước trong sạch này, vậy mà chúng có một tác dụng diệu kỳ đối với sức khỏe của cha. Trông cha có thừa khả năng rượt đuổi đến cùng một con hươu hay vật ngã dễ dàng một địch thủ hơn là một nhà ẩn sĩ ở chỗ quạnh hiu này để hàng ngày cầu kinh hay hát những bài thánh ca.
Nhà ẩn sĩ đáp:.- Thưa hiệp sĩ, những ý nghĩ của ngài không nói theo phần hồn mà giống như của những người vô đạo. Tôi tự cho phép ăn những thức ăn trên là làm theo ý của thánh Nữ Đồng Trinh và thánh Dunstan, những thánh đã gia ân cho tôi. Nhưng, thưa hiệp sĩ, - ông nói tiếp, - tôi nhớ ra hình như lần trước ông gác rừng hảo tâm đến thăm tôi, ngoài bó rơm kia ông còn để lại một số thức ăn mà tôi không đụng đến do tinh thần tôn trọng kỷ luật của tôi thì phải; và tôi lúc nào cũng bận suy tư học đạo nên tôi quên khuấy mất, không lấy ra mời ông ăn.
- Tôi cam đoan là ông ấy có để lại mà! -Chà ng hiệp sĩ kêu lên. - Ngay lúc ông lật mũ ra trông đầu ông, tôi tin nhất định nơi ông ở phải có một thức ăn gì bổ béo hơn thứ đỗ này.
Nhà ẩn sĩ nhìn trừng trừng ông khách rồi đi về cuối lều, mở cánh tủ được che đậy khéo léo và kỹ càng, lấy ra một gói patê to tướng đặt lên bàn. Chàng hiệp sĩ rút con dao găm ở thắt lưng ra mở phăng gói patê và không để mất thì giờ lấy một miếng thật to nếm thử.
Nhà ẩn sĩ buồn rầu nhìn ông khách tấn công mạnh vào gói patê mà mình đành chịu không làm được như ông khách vì vừa rồi đã chót nói ra mình chẳng ăn gì chỉ có ăn chay. Chàng hiệp sĩ ngừng ăn nói:
- Về việc này, khi ở Palestine, tôi thấy dân họ có thói quen khi cho ai ăn uống, họ cũng ngồi ăn với khách để tỏ cho khách biết là thức ăn không có thuốc độc. Nói thế nhưng thề có Chúa, tôi không nghi ngờ ông có ý định xấu!
Tôi rất yên tâm, tuy nhiên tôi rất sung sướng thấy ông theo phong tục đó.
- ông thật chu đáo nên chiều theo ý ông tôi tạm lần này xếp việc ăn chay lại.
Thời kỳ đó chưa có dĩa nên nói xong ông thò ngay năm đầu ngón tay vào món patê véo một miếng.
Như vậy băng lạnh giữa chủ và khách vỡ tan, hai người cùng lao vào ăn uống thoải mái; nhưng ông khách mặc dầu đã nhịn đói nhiều hơn, vẫn chịu thua ông ẩn sĩ ăn khỏe hơn mình một mức xa.
- ông ẩn sĩ này, - chàng hiệp sĩ nói, - tôi xin đánh cuộc với ông con ngựa của tôi lấy một đồng tiền vàng ý, là ông gác rừng tốt bụng đã.cho chúng ta món patê tuyệt diệu này, chúng ta phải cám ơn nhưng ngoài ra ông ấy còn để lại cho chúng ta vài chai rượu ngon nữa kia đấy.
Ông ẩn sĩ đứng dậy, nửa mỉm cười vui thích, nửa nhăn nhó khó chịu; lần thứ hai ông đến cửa tủ lôi ra một cái bong bóng lớn đựng rượu có thể chứa tới tám chai rượu thường. ông đặt lên bàn cùng với hai cái chén bằng sừng miệng chén viền bạc; ông nghĩ đã góp rượu thêm vào bữa ăn như vậy là có thể bỏ hết những dè dặt đi rồi nên ông rót đầy hai chén, cầm lấy một chén nâng lên, nói bằng tiếng Saxon:
- Waes hael! Chúc sức khỏe hiệp sĩ! - Rồi ông uống cạn chén rượu.
- Drinc hael! Chúc sức khỏe ẩn sĩ! - Hiệp sĩ bắt chước làm theo. - Nhưng tôi xin hỏi: Hình như trong tủ của ông có một cây đàn harpe, tôi xin chơi một bản nhạc có được không?
- Thưa hiệp sĩ, tôi hy vọng ông sẽ chơi một bản nhạc hay. ông sẽ luôn luôn là thượng khách của tôi ở Coopmanhurst chừng nào tôi trở về đấy thờ Chúa ở nhà thờ thánh Dunstan. Đó sẽ là thời điểm tôi đổi được đời sống ẩn dật này sang một đời sống khác, đàng hoàng hơn để phụng sự Chúa. Còn bây giờ chúng ta hãy cùng ngồi đây, cùng nhau uống chén rượu, cùng đàn hát vì còn phải một thời gian nữa mọi việc mới ổn thỏa được. Rượu ta uống đây làm cho giọng thanh hơn, tai tinh tường hơn: về phần tôi, phải chờ cho cái chất nho này nó ngấm ra mười đầu ngón tay mới mong gảy một vài tiếng hay ho được.
Họ cùng nhau uống, nói chuyện, cười, hát hai ba tiếng đồng hồ sau mới nghe thấy có tiếng gõ cửa dồn dập. Cái gì làm ngắt quãng họ vậy?
Chúng tôi chỉ có thể giải thích được bằng cách đi gặp một đám khác.
Chương 7
Khi Cedric de Saxon thấy con trai mình ngã ngựa trên trường đấu Ashby, phản xạ đầu tiên của ông là lệnh cho gia nhân chạy ra cấp cứu con; nhưng lệnh đó vội tắt trên môi ông.
Ông không thể thừa nhận công khai người con đã bị đuổi ra khỏi nhà. Tuy nhiên ông căn dặn Oswald phải để mắt tới Ivanhoé, phải chở anh đi ngay Ashby một khi đám đông đã giải tán.
Nhưng Oswald không thực hiện được lệnh của chủ. Một lúc sau, đám đông có giải tán đi thật; nhưng đã có những bàn tay khác khiêng chàng hiệp sĩ bị thương đi nơi khác: Oswald mất công tìm mãi Ivanhoé trong các lều nhưng chỉ thấy những vết máu, anh không thể biết giờ đây Ivan-hoé tình trạng ra sao: hình như có những nàng tiên đến bế anh đi.
Oswald dễ tin nhảm như những người Saxons khác có lẽ sẽ giải thích Ivanhoé biến đi bằng cách như vậy nếu anh không chợt nhìn thấy một người ăn mặc kiểu giám mã mà anh nhận ra là bạn anh, anh chăn lợn Gurth. Anh chàng này lo lắng cho số phận của thân chủ mình, tuyệt vọng vì bỗng nhiên chẳng thấy ông đâu, liền bổ đi tìm khắp nơi mà không hề lo lắng cho thân phận mình.
Oswald thấy bổn phận mình phải bắt Gurth là một nông nô bỏ trốn; Gurth ắt sẽ bị ông Cedric trị tội.
Tuy nhiên Oswald vẫn ra sức thăm dò tin tức về số phận của Ivanhoé, nhưng chỉ được mỗi một tin là chàng đã được các kẻ hầu ăn mặc tử tế khiêng lên chiếc kiệu của một bà đến xem rồi khiêng ra khỏi trường đấu. Nhưng họ đã đi theo lối nào thì không ai trả lời anh được. Vậy là anh về báo tin ấy cho chủ và làm cách cho Gurth đi theo, người anh coi như kẻ đào ngũ.
Cedric rất lo lắng về số phận của con trai cho đến khi Oswald trở về báo tin trên nhưng ông không biết là Isaac và cô con gái Rebecca là những người đã săn sóc, giúp đỡ con trai mình.
Cả hai đều đội ơn chàng hiệp sĩ đã giúp đỡ họ.
Với Isaac, chàng đã ngăn không cho Brian de Bois-Guilbert bắt giữ, với cô gái Rebecca, chàng đã giữ lại cho cô một người cha mà cô rất đỗi yêu thương. Còn rất nhiều năm sau nữa, Cedric.và Ivanhoé hai cha con không biết đã sống gần nhau.
Cedric, Athelstane và lady Rowena cùng với một số gia nhân lên đường trở về nhà. Trong khi nhà quý tộc Athelstane chỉ nhớ tới bữa ăn đầy những thức ăn ngon ở lâu đài Asyby thì Ce-dric de Saxon sảng khoái khi nghĩ đến trận đấu mà một người Saxon đánh bại hoàn toàn năm hiệp sĩ Normanrd. ôi! Đương nhiên ông càng cảm thấy tự hào khi người đó chính là con trai ông, tuy nhiên, ông vẫn chưa tha thứ cho con ông đã yêu Rowena cũng như chưa tha thứ cho anh đã theo chân một ông vua đi phiêu lưu trận mạc, một ông vua anh dũng kiên cường có lẽ, nhưng là một kẻ tiếm quyền. Còn lady Rowena, nàng tư lự. Nỗi vui mừng được gặp lại người yêu giờ không bằng sự lo lắng về vết thương trầm trọng của anh. Anh không vượt qua được mối hiểm nghèo đó thì sao? ông dòng templier hằn học không tìm cách trả thù hèn nhát trong lúc anh đang suy yếu vì vết thương sao?
Wamba và Gurth đi giữa đoàn tùy tùng.
Gurth tay bị trói nhưng không vì thế mà không cười đùa với anh bạn Wamba. Hai gã rất vui thích khi nghĩ cậu chủ đã được tuyên dương vô địch. Hình phạt Gurth phải chịu không làm anh lo lắng lắm. Wamba còn nhiều lần rút con dao găm rất sắc ra khỏi thắt lưng. Anh đưa mắt trông chừng những gia nhân cùng đi và ra hiệu cho Gurth biết anh đang chờ thời cơ cắt dây trói cho anh.
Các lữ khách của chúng ta vừa đi qua một cánh đồng lớn và họ sắp đi vào những cánh rừng có tiếng là nguy hiểm vì có nhiều tên outlaws mà họ sẽ là mục tiêu để chúng tấn công. Cedric và Athelstane không chút sợ hãi những tên ăn cắp vườn này dù họ phải đi một phần đêm trong rừng; số đông trong bọn họ là nông dân và là những yeoman gốc Saxon: thường người ta tin rằng chúng không cướp của và giết hại đồng bào chúng.
Bỗng nhiên các lữ khách nghe thấy những tiếng kêu rên rỉ không cách xa họ mấy làm họ chú ý. Họ đến nơi có tiếng kêu thì thấy một cái kiệu che kín, người ta mới tháo ngựa và dắt đi; một cô gái ăn mặc sang trọng kiểu áo Do Thái ngồi khóc bên cạnh kiệu và một ông già đội cái mũ không vành màu vàng hẳn cũng là một ông.già Do Thái. ông đi đi lại lại vẻ tuyệt vọng, tay xoắn lại như đang chịu những nỗi đau khổ dằn vặt to lớn nhất.
Athelstane và Cedric hỏi làm sao ông lại ở nơi này với cô con gái mà không có ngựa và gia nhân đi cùng; Isaac d’York - vì chính là ông ta - nói cho hai ông Saxons biết là ông có thuê ở Ashby sáu người vũ trang đi theo; họ sẽ đưa ông đến tận Doncaster, kiếm ngựa cho ông và cô con gái, mua la để thồ cái kiệu trong có người bị thương nhưng sáu tên khốn nạn đã bỏ rơi ông và cô con gái ở chỗ này. Chúng tháo ngựa đi vì sợ những tên outlaws mà một người đốn gỗ trước đó cho ông biết đã gặp một toán đông cách đây không xa.
Ông già Do Thái nói, vẻ khúm núm sợ sệt:
- Nếu các quan cho phép chúng tôi được núp dưới bóng các quan, đi cùng đường thì ơn ấy chúng tôi không bao giờ quên.
- Tên Do Thái chó má kia! - Athelstane nói.
- Nếu những tên outlaws chỉ ăn cướp của các người như nhà ngươi thôi thì ta cho họ là những người rất tử tế đấy vì ngươi còn ăn cướp của tất cả mọi người kia mà.
Câu mắng trên của Athelstane không làm vừa ý ông Cedric. ông nói:
- Tốt nhất là cho họ vài con ngựa để họ có thể tiếp tục lên đường và cử hai người đi với họ đến làng nào gặp đầu tiên thì thôi. Điều ấy làm lực lượng của ta bị giảm đi một chút; nhưng không sao, gặp trường hợp chúng ta bị tấn công, lưỡi kiếm của anh, của tôi, của tám người còn lại của chúng ta sẽ đủ đẩy lùi hai chục tên ăn cướp.
Lady Rowena nghe nói có một toán cướp outlaws đã thấy sợ nên tán thành mạnh mẽ ý kiến của cha đỡ đầu. Rebecca bỗng nhiên đứng dậy, chạy đến lady Rowena, quỳ một chân xuống đất, nâng vạt áo nàng lên hôn một cách kính cẩn.
Vẻ quý phái và trang nhã của cô gái Do Thái làm cô gái Saxons đẹp đẽ cảm động. Cô nói với cha đỡ đầu:
- ông già này tứ cố vô thân, lại thêm một người đau ốm trong kiệu nữa; mặc dầu họ là người Do Thái nhưng nếu chúng ta bỏ mặc họ trong cơn hoạn nạn này thì chúng ta không phải là những con chiên ngoan đạo. Tại sao chúng ta không cho phép họ cùng đi với chúng ta được?.Cedric tán thành ý kiến đó ngay; Athelstane chỉ nêu thêm một điều kiện là người Do Thái phải đi sau đám gia nhân.
Lady Rowena mời Rebecca lên cùng đi với mình.
- Việc đó không được. - Rebecca hạ mình trả lời, không phải không pha chút kiêu hãnh. -Là m như vậy cô nương làm ơn hóa ra bị mang tiếng đấy.
Trong khi họ nói chuyện, Gurth kêu cổ tay bị trói chặt quá nên rất đau. Wamba ra nới lỏng cho; nhưng không biết vô tình hay hữu ý anh buộc lại hết sức sơ sài khíên chẳng mấy chốc Gurth đã tìm cách cởi được trói. Trước khi mọi người tiếp tục đi, anh đã lẩn sâu vào trong rừng.
Con ngựa của Gurth vẫn cưỡi được trao cho ông già Do Thái; nếu đi tiếp, anh sẽ ngồi đằng sau một gia nhân nên ai cũng tưởng anh bị che lấp nên không để ý khi anh vắng mặt. Một việc khác làm mọi người bận tâm hơn là không biết lúc nào những tên ăn cướp xuất hiện.
Lối đi rất hẹp nên hai người không thể đi song song. Mặt đất dốc thoải. Đó là một khoảng bùn lầy có một con suối chảy qua; những cây liễu già mọc hai bên bờ suối. Cedric và Athelstane đi đầu đoàn nhận thấy rằng nơi này rất thuận lợi cho bọn cướp tấn công. Lội qua dòng suối nhỏ, họ mới đến bờ bên kia đã thấy chỗ nào cũng có người cầm vũ khí bao vây khiến họ khó lòng chống đỡ. Bọn cướp hô to: "Rồng bạch!
Thánh George và nước Anh đây!" để tỏ rõ chúng là những dân outlaws Saxons chính cống. Những tên khác chạy đến đông thêm như để tăng cường lực lượng.
Hai người đi đầu đoàn lữ khách bị bắt ngay nhưng mỗi người bị bắt trong những tình huống khác nhau phù hợp với tính cách của từng người.
Cedric phóng một cây lao vào tên cướp xuất hiện trước tiên, trúng đích một cách tuyệt vời. Vì tên cướp đứng trước một cây sồi, cây lao xuyên thủng qua người cắm phập y vào đó. ông cầm kiếm xông vào tên thứ hai, chém một nhát thật mạnh khiến lưỡi kiếm, gặp một cành cây lớn, gãy đôi.
Hai, ba tên khác lao ngay tới, xô ông ngã ngựa và trói nghiến. Về phần Athelstane thì khác.
Trong khi anh đang suy nghĩ không biết nên đánh địch trước mặt hay ở hai bên sườn thì đã bị tóm dây cương, thế là anh đành chia sẻ số.phận tù binh với ông Cedric vì không đủ thì giờ đứng ra nghênh chiến dù chỉ một phút tẻo teo chăng nữa.
Những gia nhân của hai ông vừa lúng túng giữa đám lừa và ngựa lủng củng các đồ, hàng trên lưng vừa ngạc nhiên và lo lắng cho số phận của hai thân chủ mình đã bị tước vũ khí một cách dễ dàng. Quân cướp bắt cả lady Rowena đứng giữa đám người và ngựa lộn xộn, bắt cả Isaac và cô con gái đi đằng sau.
Không người nào thoát khỏi tay bọn cướp, trừ mỗi anh rồ Wamba trong tình huống này lại tỏ ra can đảm hơn những người tự coi mình có đầu óc hoàn toàn bình thường hay minh mẫn.
Anh giật lấy thanh kiếm của một gia nhân, anh này hình như không còn nghĩ đến cách sử dụng nó nữa; Wamba đi những đường kiếm rất kín, rất hiểm khiến quân địch trông thấy phải nể; song nhận thấy quân cướp quá mạnh, quá đông và người nhà mình đều bị trói lại cả rồi, nên anh từ từ tụt xuống ngựa, lợi dụng đêm tối và người đang nhốn nháo, lẩn vào rừng mà không ai biết.
Tuy nhiên, anh rồ dũng cảm đi thoát bọn cướp không được mấy chốc đã tự hỏi không biết có nên quay về chia sẻ số phận với ông chủ xưa nay anh vẫn thật gắn bó hay không.
- Wamba! - Có tiếng gọi khe khẽ, thận trọng của người nào cách xa anh vài bước.
- Gurth, - Wamba hỏi bằng một giọng cũng rất khẽ, - có phải cậu đấy không?
- Đúng rồi, - Gurth tiến lại gần, trả lời, -nhưng có chuyện gì xảy ra thế? Có tiếng gươm, đao va chạm là thế nào?
- Một chuyện phiêu lưu như hàng ngày vẫn xảy ra ấy mà: cả nhà bị bắt rồi!
- Bị bắt? Những ai bị bắt?
- ông chủ này, lady Rowena này, Athelstane, Hundibert, Oswald và tất cả những người khác.
- Trời ơi! Ai bắt giam họ? Chuyện xảy ra làm sao?
- ông chủ chúng ta vội vàng chiến đấu quá, còn Athelstane không đánh mấy tí, những người khác chẳng đánh chút nào. Những kẻ bắt họ đều đội mũ màu xanh, đeo mặt nạ. Tất cả cánh nhà ta bị trói gô trên cỏ như những quả táo đằng ấy ném cho lợn của đằng ấy ăn đấy mà. Ta không biết ta nên cười hay nên khóc. - Nói rồi, Wamba khóc thành thật..Khuôn mặt của Gurth bốc lửa:
- Wamba! - Anh kêu lên. - Cậu có vũ khí và lúc này cậu phải có tấm lòng hơn lý trí chứ!
Chúng ta chỉ có hai đứa nhưng một cuộc tấn công bất thần có thể thành công. Cậu hãy theo tớ, chúng ta phải cứu ông Cedric.
- Nhưng Gurth ơi! Cậu đã quên cách đây một tiếng, cậu thề không bao giờ cậu tha thứ cho ông ấy đó sao?
- Đấy là lúc ông ấy không cần tớ cứu giúp.
Đi thôi, theo tớ.
Hai anh bạn sắp sửa chạy đi bỗng nhiên có một người xuất hiện và bảo đứng lại. Cứ theo cách ăn mặc và đeo vũ khí thì Wamba cho người ấy là một trong những người outlaws vừa bắt thân chủ của anh, vì họ chỉ khác người này ở chỗ họ đeo mặt nạ; nhưng nhìn cái dây đeo gươm sang trọng và chiếc tù-và cài ở đấy, nghe giọng nói bình tĩnh và oai nghiêm của người ấy thì Wamba trong đêm tối cũng nhận ra đó là Lock-sley, một yeoman đã thắng vẻ vang trong cuộc thi bắn cung.
- Thế nghĩa là thế nào? - Người lạ hỏi hai anh. - Ai ngang nhiên đi bắt người giam trong rừng này?
- ông cứ nhìn mũ họ đội thì biết, xem có phải đó là các con cháu của ông hay không. -Wamba trả lời. - Vì một hạt đậu xanh vẫn là một hạt đậu xanh, không thể lẫn lộn.
- Một lát nữa, ta sẽ biết ngay, - Locksley nói, - nhưng các anh cứ chờ ta ở đây; ta cấm các anh không được động đậy trước khi ta trở lại, nếu không ta lấy đầu các ngươi. Hãy nghe theo ta, hai anh và chủ của các anh sẽ có lợi. Tuy nhiên ta cũng phải đề phòng.
Người đó cởi cái dây đeo gươm ra, rút cái lông chim trên mũ rồi trao cho Wamba nhờ anh giữ hộ: Lấy trong túi cái mặt nạ đeo lên mặt, người ấy từ biệt Gurth và anh hề để đi thám thính, sau khi không quên dặn lại lần nữa là hai anh phải đợi.
- Này Gurth, - Wamba nói, - có phải đợi không hay chúng ta cần tỏ ra chúng ta có hai cẳng để chuồn? Nếu tôi thiển nghĩ mà đúng thì cái ông này vớ ở đâu cái áo của thằng ăn trộm mặc vội vào nên trông ông ta không là một con người tử tế.
- Nếu là quỷ sứ, - Gurth trả lời, - thì ta đứng đợi hỏi có sợ gì? Nhưng nếu là người trong nhóm cướp thì ông ta đã báo cho đồng bọn rồi, chúng ta sẽ không thể nào thoát thân nổi.
Một vài phút sau Locksley trở lại.
- Hai anh bạn, - ông nói, - tôi đã thấy họ, tôi đã nói chuyện với họ. Tôi biết họ là ai và họ đi đâu. Nhưng chúng đông người quá, mà chúng ta chỉ có ba, đánh họ thì thật điên rồ; chúng còn đặt người gác khắp nơi, ai đến gần ắt có báo động. Vậy phải có một lực lượng lớn hơn, tôi biết chỗ tìm ra lực lượng ấy. Hình như hai anh là đày tớ trung thành của ông Cedric de Saxon; vậy hai anh hãy theo tôi: không thể nói người bạn của nước Anh và của những người dân Anh lại không kiếm đâu ra những người giúp đỡ ông Cedric trong cơn hoạn nạn được. Nhưng chúng ta phải nhanh lên vì bọn chúng sắp lên đường rồi.
Nói xong, ông vẫy tay ra hiệu, ba người đi sâu vào rừng.
Wamba không thích thú đi lâu mà không trò chuyện gì. Anh nhìn cái dây đeo kiếm và cái tù-và anh còn giữ hộ và nói nhỏ với Gurth:
- Anh Gurth này, tôi thấy cái giải này hình như có người chiếm được cách đây không lâu lắm đâu.
- Còn tớ, - Gurth nói giọng còn nhỏ hơn, - tớ lấy cả đàn lợn của ông chủ tớ đánh cược là tớ đã nghe được giọng nói của người chiếm giải ấy.
Mặc dầu hai anh bạn cẩn thận nói rất khẽ, Locksley vẫn nghe thấy, ông nói:
- Này hai anh bạn, lúc này không phải lúc cần biết tôi là ai, tôi như thế nào, điều đó không quan trọng. Nếu tôi giải thoát được chủ các anh, các anh sẽ có dịp coi tôi như người bạn thân thiện nhất của các anh. Tôi có mang họ này hay họ kia, tôi có bắn cung giỏi hay bắn cung kém thì đó là những việc không liên quan đến các anh, tôi yêu cầu các anh không phải bận tâm về những chuyện đó nữa.
- Chúng ta đã cưỡi lên lưng hổ rồi, - Wamba thì thầm vào tai Gurth, - không biết trời có cho chúng ta xuống được không.
- Câm đi, - Gurth nói, - đừng làm cho ông ta bực mình vì điều gì điên rồ của cậu nhé; về phần tớ, tớ có nhiều lý do để hy vọng mọi việc sẽ kết thúc tốt đẹp..
Nguồn: http://vantuyen.net/