18/4/13

Kiếp sau (C9-10)

Chương 9


Mãi gần sáng cô mới về nhà. Jonathan đã ngủ thiếp đi trên ghế salon trong phòng khách tầng trệt. cô đi thẳng vào trong bếp mà không nói với anh nửa lời. Cô rót nước vào máy pha cà phê, đổ cà phê vào phin và nhấn nút. Đặt hai tách cà phê lên bàn, cô mở tủ lạnh lấy ra một gói bánh mì đã cắt lát và hai chiếc đĩa từ trong tủ để bát phía trên bồn rửa, vẫn không thốt lên lời nào. Con dao được cô đặt lên trên chiếc hộp đựng bơ bằng thủy tinh, chỉ có tiếng chân cô khua nhẹ trên nền nhà lát gạch. Sau khi lại mở tủ lạnh, cô nói câu đầu tiên với Jonathan:

- Anh vẫn dùng mứt dâu trong bữa sáng chứ?

Jonathan muốn đến gần cô, nhưng cô chìa con dao cắt bơ ra để dọa anh. Ánh mắt của Jonathan đổ dồn vào lưỡi dao đầu tròn rộng hai phân, cho tới lúc cô vung con dao trước mặt anh.

- Dừng lại Anna, chúng ta cần nói chuyện với nhau.

- Không! Cô thét lên, chả có gì để nói cả!

- Anna, chẳng lẽ em muốn chúng ta sẽ nhận ra sai lầm của mình trong sáu tháng hay một năm nữa sao?

- Im đi, Jonathan, anh im đi.

- Anna, chúng ta đã diễn trò lễ cưới này từ nhiều tháng nay, anh đã hết sức để níu kéo, chỉ vì anh muốn chúng ta yêu nhau, anh thực sự muốn điều đó. Song chúng ta không thể lừa dối tình cảm được.

- Nhưng anh lại có quyền lừa dối người đàn bà mà anh sẽ cưới phải không? Có phải vậy không?

- Anh về đây để nói sự thật với em.

- Từ khi nào anh đã có đủ dũng cảm để thú nhận với tôi sự thật, Jonathan?

- Hôm qua, khi anh nhận thấy cần phải như thế. Anh đã gọi điện từ London về cho em mỗi buổi tối, Anna ạ.

Anna nóng nảy quơ lấy túi, mở phắt ra và lôi một chiếc phong bì có những tấm ảnh khác, ném từng chiếc một vào mặt Jonathan.

- Đây là anh đang ngồi tại một quán cà phê ngoài trời tại Florence, đây là trong một chiếc taxi ở quảng trường Concord, còn đây, tại một tòa lâu đài đáng nguyền rủa ở Anh,và đây nữa, trong một nhà hàng ở London…Anh đã làm tất cả những trò này chỉ trong có một ngày thôi sao? Không phải tất cả những sự dối trá này đều đã xảy ra trước ngày hôm qua sao?

Jonathan nhìn bức ảnh có hình Clara rơi dưới chân anh. Trái tim anh thắt lại thêm một chút.

Em cho người theo dõi anh từ khi nào?

- Từ khi anh gửi cho tôi một bức điện trong đó anh gọi tôi là Clara! Tôi đoán là tên người đàn bà ấy, có đúng không?

Jonathan không trả lời, và Anna lại hét to hơn.

- Có đúng tên cô ta là Clara không? Nói đi, tôi muốn nghe anh nói tên người đàn bà đã làm hỏng cuộc sống của tôi! Anh có đủ can đảm để làm điều đó không, Jonathan?

- Anna, Clara không phải là người đã phá vỡ tình cảm của chúng ta, chính hai ta đã gây ra điều đó, chẳng cần sự tiếp tay của ai cả. mỗi người đã dần xa nhau để theo đuổi cuộc sống riêng, song lại muốn kết hợp hai con đường ấy với nhau. Đã từ lâu chúng ta chẳng còn chạm tới nhau nữa.

- Chúng ta chỉ quá mệt mỏi vì chuẩn bị cho đám cưới, Jonathan, chúng ta có phải là những con vật đâu!

- Anna, em đã không còn yêu anh nữa.

Còn anh, chắc anh yêu tôi điên cuồng chứ?

- Anh sẽ để lại căn nhà cho em, anh là người phải ra đi…

Cô ném cho anh cái nhìn nảy lửa.

- Anh sẽ chẳng để gì cho tôi cả, vì anh sẽ không rời khỏi bốn bức tường này, anh không thể bước ra khỏi cuộc đời tôi như vậy được, Jonathan. Đám cưới sẽ được tiến hành. Ngày thứ bảy, 19 tháng 6, dù anh có muốn hay không, thì tôi cũng vẫn trở thành vợ chính thức của anh cho tới khi nào cái chết chia lìa hai chúng ta.

- Em không thể buộc anh kết hôn với em được, Anna. Dù em có muốn hay không cũng vậy!

- Có thể đấy, Jonathan ạ, tin tôi đi, tôi có thể làm được điều đó.

Ánh mắt cô đột nhiên thay đổi, Anna trở nên bình tĩnh hơn. hai bàn tay cho đến giờ vẫn bấu chặt trên ngực dần dần buông xuống và mọi nét nhăn nhó bực tức trên mặt cô từ từ giãn ra. Cô mở tờ báo ra. ảnh của Jonathan được in trên trang bìa bên cạnh ảnh Peter.

- Mọi chuyện cứ như trong bộ phim truyền hình Bạn tốt của nhau vậy! phải không, Jonathan? Tôi có một câu hỏi cho anh đây. Nếu giới báo chí biết được rằng, nhà chuyên gia đã xác thực cho bức tranh mà có thể sẽ phá vỡ mọi kỷ lục đấu giá trong 10 năm trở lại đây chẳng phải ai khác mà chính là nhân tình của người đàn bà đã rao bán bức tranh, thì ai trong số hai người, Clara hay anh, sẽ vào tù trước vì tội lừa đảo? theo anh thì sao, Jonathan?

Anh sững người nhìn Anna, mặt đất dưới chân anh như nứt làm đôi.

Cô nhặt tờ báo lên và bắt đầu đọc bài báo bằng giọng châm biếm.

- Được giới thiệu bởi một phòng tranh danh tiếng, bức tranh với quá khứ đầy bí ẩn đã được xác thực bởi chuyên gia Jonathan Gardner. Bức tranh sẽ được nhà Christie’s đưa ra đấu giá dưới sự điều hành của Peter Gwel…tên của bạn anh sẽc bị giới chuyên môn tẩy chay, anh ta sẽ bị kết án treo hai năm vì tội đồng lõa. Chính anh sẽ đánh mất danh tiếng của mình, song nhờ có tôi, anh sẽ chỉ bị kết án năm năm. Các luật sư của tôi sẽ có nhiệm vụ thuyết phục quan tòa rằng người tình của anh mới là chủ mưu trong vụ lừa đảo.

Jonathan không muốn nghe thêm nữa. anh quay bước và đi về phía cửa.

- Khoan đã, đừng đi vội, Anna cười khẩy, hãy nghe tôi đọc thêm một vài dòng nữa, tất cả các bài báo này đều tôn vinh anh, anh có thể tự đánh giá…Nhờ sự xác nhận của Jonathan Gardner, bức tranh được ước giá khoảng hai triệu USD có thể sẽ được mua với giá gấp hai hoặc ba lần…

Anna đuổi kịp anh tại sảnh và níu tay áo vest anh lại,buộc anh phải nhìn thẳng vào cô.

- Với một vụ lừa đảo công khai trị giá 6 triệu USD, cô ta sẽ dễ dàng được tặng 10 năm sau chấn song sắt vàt tin buồn cho hai người là trong nhà tù, nam nữ không được giam chung!

Jonathan cảm thấy cơn buồn nôn trào lên. Anh bước vội ra phố và cúi gập người xuống rãnh nước. bàn tay của Anna vẫn đặt trên lưng anh.

Cứ nôn đi, anh yêu, hãy nôn hết ruột gan ra. Khi anh đã lấy lại sức lực để có thể gọi điện và nói với cô ta rằng, anh sẽ không bao giờ gặp lại cô ta nữa, rằng tất cả chỉ là một chuyện qua đường nực cười và anh không hề yêu cô ta. Tôi muốn có mặt ở đó để nghe!

Anna quay gót vào trong nhà. một ông cụ dắt chó đi dạo ngang qua chỗ Jonathan. Ông giúp anh ngồi bệt xuống đất, tựa lưng vào bánh một chiếc xe đậu ngay bên lề đường.

Con chó của ông cụ có vẻ không thích thú mấy với vẻ mặt người đàn ông đang ngồi bệt xuống đường ngang tầm với nó, đưa mõm hất bàn tay anh và cáu kỉnh tìm cách tớp nhẹ. Ông cụ khuyên Jonathan úp mặt vào hai bàn tay và hít thở thật sâu.

- Chỉ là một cơn co thắt dạ dày nhẹ thôi mà! Cụ nói bằng giọng trấn an.

Và như cụ bà nói khi cụ ông trở về sau buổi đi dạo, một bác sĩ, cho dù đã nghỉ hưu, thì vẫn là một bác sĩ.

* * *

Peter chờ anh đã được nửa tiếng ở quán cà phê ngoài trời nơi họ vẫn thường hẹn nhau. Trông thấy Jonathan bước tới, vẻ cáu bẳn của anh biến mất ngay lập tức và anh đứng lên giúp bạn ngồi xuống ghế.

- Chuyện gì xảy ra thế? Anh hỏi giọng đầy lo lắng.

- Chuyện gì đang xảy ra với tất cả chúng ta? Jonathan nhắc lại, vẻ tuyệt vọng

Và trong suốt một tiếng đồng hồ, anh kể cho Peter nghe những gì đã khiến cuộc đời anh rẽ sang bước ngoặt chỉ trong vài ngày.

- Tớ biết cậu cần phải nói gì với Anna. Cậu hãy bảo cô ta biến đi cho khuất mắt.

Peter cáu đến nỗi những người ngồi bàn bên cạnh phải ngừng câu chuyện ngóng sang chỗ hai người.

- Bia của các người không ngon hả? Peter nóng nảy hỏi.

Bọn họ vội đưa mắt đi chỗ khác.

- Cậu không cần phải thô lỗ và gây gổ với họ, điều đó sẽ chẳng giải quyết được gì Peter ạ.

- Cậu không được hủy hoại cuộc đời mình như thế, cho dù bức tranh đó có đáng giá 10 triệu đô thì cũng vậy thôi.

- Nhưng đây không phải là chuyện cuộc đời tớ, mà là của cậu và Clara.

- Thế nên cậu mới co vòi, cậu nói rằng cậu nghi ngờ về sự xác thực của bức tranh và chúng ta sẽ dừng tất cả lại.

Jonathan ném lên bàn một tờ Wall Streer Journal, rồi một tờ NewYork Times, một tờ Boston Globe, và một tờ Washington Post. Tất cả các báo đều đã đăng tin.

- Đó là chưa kể các tuần báo sẽ ra chiều nay cũng như các tờ nguyệt san. Đã quá muộn để có thể lùi bước, tớ đã ký và gửi bản chứng thực tới các đồng sự của cậu ở London. Khi Anna công bố các tấm ảnh mà cô ấy có trong tay với báo giới, chắc chắn sẽ nổ ra một vụ tai tiếng. nhà Christie’s sẽ đâm đơn kiện, các luật sư của Anna sẽ hỗ trợ cho họ, và nếu như chúng ta có tránh khỏi bị kết án tù, mặc dù tớ cũng chẳng hy vọng lắm vào điều đó, thì cả tớ lẫn cậu đều sẽ bị xóa sổ khỏi lĩnh vực này. Còn Clara, cô ấy sẽ bị phá sản. sẽ chẳng còn ai bước chân vào các phòng tranh của cô ấy nữa.

- Nhưng chúng ta vô tội, trời ạ!

- Đúng vậy, song chỉ có ba chúng ta biết điều đó thôi.

- Tớ cứ nghĩ cậu là người lạc quan hơn thế cơ, Peter vừa nói vừa xoắn hai bàn tay vào nhau.

- Tối nay tớ sẽ gọi lại cho Clara, Jonathan thở dài.

- Cậu sẽ nói cậu không còn yêu cô ấy nữa hả?

- Phải. chính vì yêu cô ấy mà tớ sẽ phải nói tớ không còn yêu nữa. Tớ thà mang lại nỗi buồn cho Clara còn hơn lôi cô ấy theo tớ trong nỗi bất hạnh. Đó cũng là yêu, phải không?

Peter sửng sốt nhìn Jonathan.

- Thật sao! Anh đứng chống nạnh nói. Cậu vừa mới đẻ ra một giai đoạn tình yêu dễ khiến cho bà tớ cũng phải bật khóc, và thậm chí kể cả tớ cũng sẽ rơi lệ nếu cậu cứ tiếp tục như vậy. Cậu đã ăn quá nhiều bánh pudding trong lúc ở London phải không?

- Sao cậu ngốc thế, Peter ? Jonathan nói.

- Có thể là tớ ngốc thật nhưng ít ra thì cậu đã cười được, thôi đừng mất công giả vờ nữa, tớ nhìn thấy cậu cười rồi. cậu thấy không, ngay cả khi cùng quẫn nhất, tớ và cậu vẫn có thể đùa tếu được và nếu như cái cô gái sắp trở thành vợ cũ của cậu tưởng có thể khiến cho chúng ta không còn đùa được, thì càng phải chứng tỏ cho cô ta thấy khả năng dồi dào của hai đứa mình.

- Cậu có ý tưởng gì đó chăng?

- Bây giờ thì hoàn toàn không, nhưng hãy tin tớ, tớ sẽ nghĩ ra cách gì đó.

Peter và Jonathan đứng lên, khoác vai nhau cuốc bộ trên lối đi lát đá dọc khu chợ cũ. Peter chia tay bạn vào giữa buổi chiều. trên đường lái xe về nhà, Peter nhấc điện thoại khỏi bảng điều khiển xe và bắt đầu bấm số.

- Jenkins phải không? Peter Gwel, người ông yêu quý nhất trong khu nhà đây, tôi rất cần sự giúp đỡ của ông, Jenkins đáng mến ạ. Ông có thể lên căn hộ của tôi và gom hộ tôi một vài thứ đồ đạc giống như ông chuẩn bị hành lý cho chính mình được không? Ông có chìa khóa và tôi đoán chắc ông cũng biết tôi cất áo sơ mi ở chỗ nào, đúng không? Hãy tha lỗi nếu như tôi có vẻ lạm dụng tình thân giữa hai chúng ta, vì trong thời gian tôi đi vắng, tôi muốn nhờ ông tìm giúp một vài thông tin trong thành phố, tôi cũng không biết tại sao, nhưng lý trí mách bảo tôi rằng trong con người ông có ẩn chứa chút tài năng thám tử. khoảng một tiếng nữa tôi sẽ về tới nơi!

Peter vừa kịp gác máy khi xe của anh bắt đầu chui vào đường hầm.

Anh rời khỏi khu nhà Stapledon lúc chập tối và gửi một lời nhắn khá dài vào điện thoại di động của Jonathan.

- Peter đây, cậu biết không, lẽ ra tớ phải căm ghét cậu, chỉ vì một nụ hôn mà cùng một lúc vừa làm ảnh hưởng tới buổi đấu giá của tớ, vừa phá hoại sự nghiệp của cả hai chúng ta, chưa kể tới đám cưới của cậu mà lẽ ra tớ sẽ là người làm chứng, song điều nghịch lý là tớ lại không hề muốn như vậy. tớ và cậu đều đang trong ngõ cụt nhưng lâu lắm rồi tớ không cảm thấy phấn khích như bây giờ. Tớ không ngừng tự hỏi vì sao, nhưng có lẽ bây giờ thì tớ hiểu ra rồi.

Vừa tiếp tục nhắn vào hộp thư thoại của Jonathan, Peter vừa lục túi áo vest. Mẩu giấy mà anh đã lấy trộm của bạn vẫn nằm sâu dưới đáy túi.

- Lúc ở London, nhìn thấy cậu và cô ấy ngồi trong quán cà phê, tớ đã hiểu chẳng phải bức tranh khiến cậu hạnh phúc đến vậy. những cái nhìn kiểu cậu và cô ấy dành cho nhau thật lạ thường nên chẳng cần khó khăn lắm cũng có thể đoán ra ngụ ý của chúng, vì thế mà anh bạn thân mến ạ, tối nay khi gọi điện cho Clara cậu muốn nói gì cũng được, miễn sao cô ấy hiểu được rằng, ngay cả trong những hoàn cảnh tuyệt vọng nhất cũng vẫn có thể tìm thấy niềm hy vọng. Và nếu như cậu không biết nói với cô ấy như thế nào, thì chỉ cần lấy tớ ra làm dẫn chứng. cậu sẽ không thể liên lạc được với tớ từ giờ cho đến sáng mai, nhưng rồi tớ sẽ gọi điện và giải thích hết cho cậu. tớ vẫn chưa biết phải làm thế nào, song chắc chắn tớ sẽ tìm được cách giải cứu cho chúng ta.

Anh gác máy, bị cắn rứt bởi cảm giác ngờ vực, song rất hài lòng.

* * *

Jonathan bước vào xưởng vẽ của Anna. Cô đang đứng vẽ trước giá.

- Anh đầu hàng trước sự đe dọa của em, em thắng rồi, Anna ạ!

Anh quay gót bước đi vẻ cả quyết. ra tới cửa, anh nói thêm mà không quay người lại.

- Anh sẽ gọi điện cho Clara một mình. Em có thể lấy cuộc đời anh, song em đừng hy vọng có cơ hội xâm phạm phẩm cách cô ấy!

Rồi anh bước xuống cầu thang.

* * *

Clara chậm rãi buông máy. Đứng một mình bên cửa sổ trang viên, cô không nhìn thấy cây dương già đuà với trước gió. Những giọt nước mắt lăn tròn từ đôi mắt nhắm nghiền của cô. Màn đêm buông xuống cùng những tiếng khóc bật ra nức nở. trong căn phòng làm việc nhỏ, thiếu nữ áo đỏ dường như cúi người, dường như nỗi buồn đang lan tỏa khắp tòa nhà đã thấm vào tận trong lớp toan và đè nặng lên cả đôi vai cô. Đêm đó Dorothy ở lại trong tòa nhà. Việc cô chủ đã không thể kiềm chế trước mặt bà chứng tỏ nỗi đau này quá lớn để cô có thể một mình chịu đựng. có những lúc sự có mặt của người khác đủ để khiến mọi thứ trở nên êm dịu hơn, cho dù người đó không hé một lời.

Khi trời vừa sáng, Dorothy bước vào phòng làm việc. Bà thổi bùng lửa trong lò sưởi và mang trà tới cho Clara. Bà lại gần cô, đặt chiếc tách lên bàn, quỳ xuống và ôm cô trong vòng tay.

- Rồi em sẽ thấy, để mọi thứ trong cuộc sống có thể đến được với em, không bao giờ được mất lòng tin. Bà luôn miệng thì thầm với cô, và Clara gục đầu vào vai bà khóc cho tới khi trời sáng hẳn.

Khi ánh mặt trời buổi trưa chiếu lên người, Clara choàng mở mắt rồi nhắm lại ngay. Có phải ánh sáng hay tiếng còi xe giục giã ngoài sân đã kéo ra khỏi giấc ngủ? cô tung chăn ra và vùng dậy khỏi chiếc ghế dài. Dorothy bước vào phòng, và theo cung cách y hệt như thời xa xưa, bà dõng dạc thông báo:

- Cô chủ có một người khách từ Châu Mỹ tới!

Peter đứng dậm chân trong bếp, nơi bà Blaxton lúc trước đã yêu cầu anh vui lòng chờ để bà đi hỏi xem cô chủ có sẵn lòng tiếp đón anh hay không. Theo yêu càu nghiêm khắc của Dorothy, Clara chạy lên phòng rửa mặt ở xứ sở của Nữ Hoàng nước Anh, một người phụ nữ không được xuất hiện với vẻ đau khổ trước khách lạ, cho dù đã từng chạm mặt nhau ngoài phố, Dorothy vừa theo chân cô lên gác vừa nhắc lại.

* * *

- Tức là anh ấy yêu tôi? Clara hỏi trong lúc ngồi đối diện với Peter bên chiếc bàn trong bếp.

- Trời ơi! Hai người thật khéo xứng đôi vừa lứa. tôi đã phải qua một đêm dài trong máy bay, phải chạy suốt hai tiếng đồng hồ liền trong một chiếc xe tay lái nghịch, tôi vừa giãi bày mọi chuyện với cô, vậy mà cô lại hỏi tôi cậu ấy có yêu cô không ư? Xin thưa là có, cậu ấy yêu cô, cô cũng như tôi, chúng ta đều yêu cậu ấy, cậu ấy cũng yêu tôi, tất cả chúng tôi đều yêu nhau song tất cả chúng ta đều đang kẹt cứng trong ngõ cụt!

- Ông sẽ dùng bữa trưa ở đây chứ? Dorothy hỏi khi bước vào bếp.

- Bà chưa có gia đình phải không, Dorothy?

- Ông không cần phải bận tâm tới gia cảnh của tôi, chúng ta không ở Mỹ. Dorothy đáp.

- Như thế có nghĩa là bà chưa có gia đình! Tôi muốn giới thiệu với bà một người rất tuyệt vời. một người Mỹ gốc Chicago hiện đang sống ở Boston và vô cùng yêu mến đất nước Anh.

* * *

Jonathan ở lại một mình trong căn nhà. Anna đã ra khỏi nhà từ sáng sớm, phải đến chiều tối cô mới về. anh lên xưởng vẽ để xem thư điện tử, và bật máy tính lên. Các thư mục của Anna đều có mật khẩu bảo vệ, nhưng anh có thể vào mạng Internet. Peter vẫn chưa viết gì cho anh và anh hoàn toàn không muốn trả lời những thư đề nghị phỏng vấn được ồ ạt gửi tới hộp thư điện tử của anh. Jonathan quyết định quay xuống phòng khách. Trong lúc tắt màn hình, con mắt nhà nghề của anh đã bị cuốn hút bởi một chi tiết nhỏ trong một bức tranh của Anna treo trên tường. Jonathan khom người quan sát kỹ bức tranh. Qua ngạc nhiên, anh quan sát một bức khác. Rồi anh bồn chồn mở chiếc tủ to và lần lượt lấy ra từng bức tranh của Anna được xếp vào đó từ bấy lâu. Trên nhiều bức tranh, Jonathan đều tìm thấy một điểm giống nhau khiến máu trong người anh như đông cứng lại. anh vội vã đi về phía bàn làm việc, mở ngăn kéo và lấy ra chiếc kính lúp. Từng bức tranh được anh soi kỹ lại một lần nữa. nằm ở xa xa trong nền cảnh nông thôn, những khu trang viên mà Anna vẽ trông không khác chút nào so với tòa dinh thự của Clara. Bức tranh mới nhất được vẽ từ 10 năm về trước, và lúc đó Jonathan còn chưa hề quen biết Anna. Anh vội vã xuống cầu thang, chạy trên vỉa hè rồi nhảy vào trong xe lái về hướng ngoại ô. Nếu như đường không quá đông xe thì chỉ khoảng hai tiếng anh sẽ tới cổng trường đại học Yale.

Danh tiếng của Jonathan đã cho phép anh gặp thầy hiệu trưởng. ông đứng đón anh trước một dãy hành lang rộng mênh mông có tường bọc gỗ, trên đó treo những bức chân dung của các nhà văn hoặc nhà khoa học có nét mặt buồn buồn. giáo sư William Becker mời anh vào phòng làm việc của ông. Ông tỏ vẻ ngạc nhiên trước lời đề nghị của anh, ông đã nghĩ anh tới để trao đổi về hội họa, vậy mà giờ đây anh lại hỏi ông những vấn đề khoa học, mà lại chẳng phải thuộc về một môn khoa học chính thống. Becker rất lấy làm tiếc song không một giáo sư nào trong trường giống với sự mô tả của Jonathan, kể cả các giáo sư nữ hoặc nam, cả những người làm việc chính thức lẫn nhân viên hợp đồng, và cũng chẳng có ai dạy môn học mà Jonathan đang đề cập. bộ phận nghiên cứu mà Jonathan nhắc tới đúng là trước kia đã từng nằm trong trường, song đã từ lâu nó không còn tồn tại nữa. nếu Jonathan muốn, anh vẫn có thể đi thăm các nơi trong trường. tòa nhà 625 trước kia từng là nơi giảng dạy những môn khoa học tiên báo nhưng đã để trống kể từ khi bộ phận nghiên cứu đóng cửa.

- Ông làm việc ở đây lâu chưa? Jonathan hỏi người đàn ông thuộc bộ phận duy tu được giao dẫn anh đi tham quan.

- Từ lúc tôi 16 tuổi, mà lẽ ra tôi đã nghỉ hưu cách đây năm năm, vì thế tôi nghĩ là cũng khá lâu rồi đấy. ông O’Malley trả lời.

Ông đưa tay chỉ một tòa nhà lớn bằng gạch đỏ và dừng xe đện trước bậc thềm.

- Đến rồi đây. Ông nói và ra hiệu cho Jonathan đi theo.

Cánh cửa lớn mở ra gian sảnh của tòa nhà 625 rít lên trên bản lề.

- Chẳng có ai đến đây từ 40 năm nay, nhìn cái mớ lộn xộn trong này mà xem. O Mally nói

Trong mắt Jonathan, ngoài lớp bụi phủ dày trên sàn và đồ đạc,nơi này được gìn giữ khá tốt. gian phòng rộng có tới 10 chiếc bệ được lát gạch men trắng, trên đó vẫn còn để đầy ống nghiệm và những dụng cụ chưng cất.

- Có vẻ như họ nghiên cứu về những vấn đề toán học thực nghiệm, song tôi đã nói với các thanh tra, đúng hơn là họ tìm cách phát minh ra các công thức hóa học tại đây.

- Các thanh tra nào? Jonathan hỏi.

- Ông không biết sao? Tôi cứ nghĩ ông đến đây vì chuyện đó. Cả vùng ai cũng biết chuyện đã xảy ra.

Vừa đi theo dãy hành lang dẫn tới khu dành cho các giáo sư,, O Mally vừa kể cho Jonathan nghe chuyện gì đã khiến người ta phải vội vã đóng cửa bộ phận nghiên cứu các môn khoa học tiên báo, theo như tên gọi trước kia của nơi này. Có rất ít sinh viên được nhận vào học tại khoa. Đa số những người đăng kí học đều không qua được kì thi sát hạch đầu vào.

- Không những sinh viên phải có học lực giỏi trong tất cả những môn khoa học, mà còn phải là một thần đồng về triết học. Hơn nữa, trước khi được nhận, sinh viên còn phải trải qua một buổi phỏng vấn với bà giám đốc bộ phận nghiên cứu trong trạng thái thôi miên. Chính bà ta là người lọai bỏ hầu hết các sinh viên. Chẳng ai làm bà ta hài lòng. Bà ấy quả là một con người kì lạ. bà ấy đã làm việc 10 năm trong bốn bức tường ở đây, song trong suốt cuộc điều tra, không ai nhớ đã từng gặp bà ấy ở trong trường này. Tất nhiên là trừ tôi ra.

- Ông vẫn chưa nói cho tôi biết người ta đến điều tra về việc gì?

- Cách đây 40 năm, có một sinh viên đã mất tích.

- Mất tích ở đâu?

- À, đó mới chính là vấn đề, thưa ông. Nếu như ông biết chìa khóa của ông bị mất ở đâu thì đã chẳng thể bảo là bị mất, đúng không?

- Thế cảnh sát kết luận thế nào?

- Rằng cậu ta đã bỏ trốn, nhưng tôi chẳng hề tin.

- Vì sao?

- Vì tôi biết cậu ta đã biến mất trong phòng thí nghiệm.

- Có thể anh ta đã lọt khỏi tầm nhìn của ông, dù sáo mắt của ông cũng không thể bao quát hết được.

- Hồi đó, O Mally nói tiếp, tôi làm việc trong đội bảo vệ. thời ấy “an toàn” vẫn là một từ vĩ đại. công việc của chúng tôi chủ yếu là ngăn không cho các cậu sinh viên ban đêm trốn ra lảng vảng bên khu nội trú dành cho các nữ sinh và ... ngược lại.

- Thế còn ban ngày?

- Giống như những người trực đêm khác, chúng tôi ngủ ban ngày; đúng hơn là hai đồng nghiệp của tôi ngủ, còn tôi thì không. Tôi không bao giờ ngủ quá 8 tiếng, hình như đó là di truyền, chính vì lý do đó mà tôi bị vợ bỏ. Vì thế nên buổi chiều hôm ây tôi ra tỉa cỏ. Còn cậu sinh viên Jonas, tôi đã nhìn thấy cậu ấy đi vào trong tòa nhà và cậu ấy không bao giờ trở ra.

- Thế cảnh sát không tin lời ông à?

- Họ đã dò khắp các bức tường, đã cào khắp các vườn hoa, đã hỏi cung mụ già, ông còn muốn họ làm gì hơn được nữa? Vả lại hồi đó tôi cũng có uống chút rượu, mà ông biết đấy, một nhân chứng mặt đỏ gay thì không được tin cậy lắm.

- Thế mụ già mà ông nói đến là ai vậy?

- Chính là bà giám đốc, mời ông theo tôi.

O Mally tìm một chiếc trong chùm chìa khóa, mở cửa một phòng làm việc và bước vào trước Jonathan. Các mặt kính của các cửa số bé bẩn đến nỗi ánh sáng chỉ lờ mờ lọt được vào trong phòng. một chiếc bàn học bằng gỗ nhỏ phủ dày một lớp mãu xám bị đẩy vào sát tường. chiếc ghế đổ bị bỏ quên trong góc phòng bên cạnh cây mắc áo xiêu vẹo. Ở góc đối diện, một chiếc rương lớn có ngăn kéo trông cũng không có vẻ gì khá hơn.

- Tôi cũng chẳng hiểu vì sao người ta gọi chỗ này là phòng giáo viên, bà ta là người duy nhất từng giảng ở đây. O Mally nói

Ông tiến lại gần dãy giá sách đứng che kín một bức tường và lục tìm trong chồng báo cũ đã ngả vàng.

- Đây này, chính mụ già ấy đây! Ông bảo vệ nói thêm và chỉ chi Jonathan xem bức ảnh trên trang nhất một tờ báo.

Người đàn bà đứng giữa bốn sinh viên trẻ, trông chưa quá 30 tuổi.

- Vì sao ông lại gọi bà ta là mụ già? Jonathan vừa hỏi vừa nhìn bức ảnh.

- Vì hồi ấy tôi mới tròn 20 tuổi. O Mally vừa làu bàu vừa lấy chân di di lớp bụi.

Jonathan bước lại gần cửa sổ để nhìn cho rõ tấm ảnh ố vàng. Khuôn mặt của người phụ nữ không gợi lên điều gì với Jonathan nhưng bàn tay bà ta lại thu hút sự chú ý của anh, trên ngón tay áp út của bà ta đeo một chiếc nhẫn kim cương rất lớn.

- Đây có phải là Jonas không? Jonathan chỉ tay vào chàng trai đứng sát mép ảnh bên phải.

- Sao ông biết được? O Mally ngạc nhiên hỏi lại.

- Tôi cũng không biết nữa.

Anh gấp tờ báo lại và nhét vào túi áo. Trên tấm ảnh, chàng trai với hai tay chắp sau lưng đang nheo nheo có thể chỉ đơn giản là vì ánh đèn.

- Thế những lúc không gọi bà ta là mụ già, thì ông gọi bà ấy như thế nào?

- Chưa bao giờ chúng tôi gọi bà ta bằng tên khác cả.

- Khi bà ấy nói chuyện với ông, chắc ông không thể trả lời bằng cách gọi bà ấy bằng mụ già được chứ? Jonathan cố nài.

- Chẳng bao giờ bà ta nói chuyện với chúng tôi, mà chúng tôi chẳng có chuyện gì để nói với bà ta cả.

- Vì sao ông căm ghét bà ấy đến vậy, ông O Mally?

Người bảo vệ già quay lại nhìn Jonathan.

- Tại sao ông lại đến đây, ông Gardner? Tất cả những chuyện này đều là chuyện xưa cũ và chẳng có gì hay ho khi khuấy động quá khứ lên cả. tôi còn nhiều việc cần làm, chúng ta nên ra khỏi đây thôi.

Jonathan tóm lấy cánh tay O Mally

- Chính vì ông đã nói đến quá khứ. Tôi bị giam lỏng trong một thời đại mà chính bản thân tôi không hề được biết, và tôi còn rất ít thời gian để tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra. Một người bạn của tôi từng nói, chỉ cần một manh mối nhỏ xíu cũng có thể lần ra được cả tiến trình sự việc. tôi đang tìm một mẩu ghép nhỏ xíu có thể cho phép tôi tái hiện cả bức tranh. Tôi cần ông giúp tôi, ông O Mally ạ.

Người bảo vệ nhìn Jonathan chằm chằm, rồi hít một hơi thật sâu.

- Họ đã tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm tại đây. Chính vì lý do đó mà tòa nhà này phải đóng cửa, để tránh mọi chuyện trở nên ầm ĩ sau sự mất tích của Jonas.

- Thí nghiệm như thế nào?

- Các sinh viên đã được chọn vì họ từng có những cơn ác mộng. tôi biết điều đó có vẻ vô lý, song điều đó là thật.

- Ác mộng kiểu gì, ông O Mally?

Người đàn ông nhíu mày. Dường như việc trả lời câu hỏi đó là một gánh nặng khủng khiếp đối với ông ta.

- Cảm giác đang sống lại những sự kiện xảy ra trong một thời đại khác đúng không? Có đúng như vậy không?

O Mally gật đầu tỏ vẻ xác nhận.

- Bà ta thôi miên họ, bà ta nói rằng làm như thế mới có thể đạt tới nơi sâu thẳm nhất của ý thức, một trạng thái tuyệt vời cho phép chúng ta bước chân vào vùng ký ức tiền kiếp.

- Hồi đó, ông không hề làm việc trong đội bảo vệ, ông là một trong những sinh viên của bà ta, phải không?

- Hồi đó, ông không hề làm việc trong đội bảo vệ, ông là một trong những sinh viên của bà ta, phải không?

- Phải, chính là tôi từng là một trong những sinh viên của bà ta, và kể từ khi phòng thí nghiệm đóng cửa, cả đời tôi chẳng học thêm được gì nữa.

- Chuyện gì đã xảy ra, ông O Mally?

- Sang năm thứ 2, bà ta cho tiêm vào người chúng tôi các loại dung dịch, để có thể kích thích các sự kiện. sau khi bị tiêm mũi thứ 3. cả Coralie và tôi đều nhớ ra mọi chuyện. Ông có sẵn sàng nghe một câu chuyện rất khủng khiếp không, ông Gardner? Năm 1807, vợ chồng tôi từng sống ở Chicago, tôi là một nhà buôn thùng thành đạt, cho tới khi Coralie giết chết con gái của chúng tôi. Con bé chỉ mới một tuổi khi cô ấy quấn nó chết bằng tã lót. Tôi rất yêu vợ nhưng cô ấy mắc một căn bệnh khiến cho các tế bào não bị phá hủy dần. Các triệu chứng đầu tiên chỉ là những cơn cáu giận thoáng qua, nhưng rồi sau năm năm, những ai bị mắc bệnh đó đều phát điên mà không cách nào chữa được.Coralie bị kết án treo cổ. Ông không hiểu người ta phải chịu đau đớn tới mức nào khi đao phủ không chịu ban ân cho tội nhân bằng cách siết chặt nút dây làm gãy các đốt sống cổ. Tôi đã phải nhìn Coralie bị treo lủng lẳng ở đầu dây, những giọt nước mắt của cô ấy như van xin tôi tìm cách giúp cô ấy rút ngắn nỗi đau đớn. Tôi những muốn tự tay giết chết tất cả những kẻ hiếu kỳ đứng xem cô ấy bị hành hình, vậy mà tôi lại đứng bất lực giữa đám đông. Rồi cô ấy đã lặp lại chuyện đó năm 1843, tôi đã không nhận ra cô ấy và cả cô ấy cũng vậy, nếu không thì chắc chúng tôi đã chẳng yêu nhau mãnh liệt đến thế. một tình yêu mãnh liệt như vậy không còn tồn tại trong thời đại chúng ta, ông Gardner ạ. Rồi mọi chuyện lại tái diễn năm 1902, và chính mụ già đã nói với tôi rằng câu chuyện sẽ còn tiếp diễn như vậy trong những lần sau. Cho dù vợ tôi có mang cái tên khác hay khuôn mặt khác, cô ấy vẫn mãi là linh hồn ấy, cùng với căn bệnh sẽ mãi mãi quay lại ám ảnh chúng tôi. Cách duy nhất để nỗi đau của chúng tôi chấm dứt hoàn toàn là một trong hai người phải chối bỏ tình yêu khi còn đang sống. chỉ cần một trong hai chúng tôi bộc lộ tình cảm với người kia, là chúng tôi sẽ sống lại kiếp trước và mọi chuyện sẽ lại tái diễn, cùng với tất cả những nỗi đau.

- Và ông đã tin bà ta ư?

- Nếu như ông trải qua những cơn ác mộng như chúng tôi gặp phải trong lúc hoàn toàn tỉnh táo, ông Gardner ạ, thì chính bản thân ông cũng tin thôi.

Khi phòng thí nghiệm bị đóng cửa, vị hôn thê của ông O Mally lên cơn điên lần thứ ba mà không thể nào kiểm soát nổi. cô đã tự tử vào năm 23 tuổi. chàng trai O Mally đã bỏ sang Canada sinh sống.20 năm sau, ông trở về và nộp đơn vào Yale xin làm công việc duy tu. Ông đã thay đổi tới mức chẳng còn ai nhận ra được nữa.

- Và cũng không ai biết chuyện gì đã xảy ra với Jonas ư? Jonathan hỏi.

- Mụ già đã giết cậu ta.

- Sao ông tin chắc như vậy?

- Cậu ta cũng từng mơ thấy điều gì đó. Buổi sáng hôm mất tích, cậu ấy đã tuyên bố sẽ rời khỏi trường. Jonas vội vã chuẩn bị đi London.

- Vậy mà ông lại không nói gì với cảnh sát?

- Nếu như tôi kể cho họ nghe tất cả những gì tôi vừa kể với ông, thì ông nghĩ họ sẽ tin tôi hay tống tôi vào nhà thương điên?

O Mally tiễn Jonathan ra tới tận chỗ anh để xe trong bãi để xe của trường. khi Jonathan hỏi vì sao ông lại quay trở lại đây, O Mally nhún vai.

- Đây là nơi tôi cảm thấy được ở gần cô ấy nhất. nơi chốn cũng có ký ức cả đấy ông Gardner ạ.

Khi Jonathan bắt đầu khởi động máy, O Mally cúi người xuống cửa xe và nói. - Tên mụ già là Alice Walton!


Chương 10


Peter hoàn toàn bị chinh phục bởi kỹ thuật của Radskin. Tía sáng phản chiếu trên nhánh chính của cây dýõng trýớc khi xuyên qua khung cửa sổ nhỏ nằm bên phải khung hình đã đạt được hiệu quả đáng kinh ngạc. màu sáng bạc phủ trên sàn nhà dýới chân thiếu nữ áo đỏ trông giống hệt như màu ánh trăng tối hôm đó chiếu vào căn phòng làm việc nhỏ. Rất nhiều lần, Peter thích thú tắt đèn đi để có thể chiêm ngýỡng sự lột tả chân thật tới mức làm rung động lòng ngýời. anh tới sát cửa sổ, nhìn cây cổ thụ, rồi lại ngắm bức tranh.

- Căn phòng của Vladimir nằm ở đâu? Anh hỏi Clara.

- Ngay bên dýới, anh ðã để hành lý ở đó, tối nay anh sẽ ngủ trong giường của ông ấy.

Đêm đã khuya, Clara chào tạm biệt vị khách. Peter muốn nán lại đôi chút bên bức tranh. Cô hỏi anh có cần thêm gì không và anh trấn an cô,anh đã có phép chống lại múi giờ chênh lệch, đó là những viên thuốc nhỏ giúp thần kinh thý giãn.

- Cám õn anh, Peter! Clara nói khi ra tới ngýỡng cửa phòng sách.

- Cám õn vì chuyện gì?

- Vì đã đến đây.

Khi Peter quay lại thì Clara đã biến mất.

* * *

Nằm dài trên giýờng, Peter không nén nổi bực tức với Jenkins. Cái ðồ ngốc ấy ðã nhầm kháng sinh với thuốc ngủ. chẳng còn dám tin vào ai được nữa! nếu như lúc này đã là 11 giờ đêm ở Anh, thì ở Boston mặt trời vẫn chýa lặn. Không thể dỗ mình vào giấc ngủ, Peter đành ngồi dậy, lấy tập hồ sõ trong va li và mang lên giýờng. cảm thấy trong phòng quá nóng, anh đứng ngay dậy, ra mở cửa sổ. anh hít một hơi bầu không khí mát rýợi và say sýa nhìn tấm áo bạc mà vầng trăng sắp tròn phủ lên cây dýõng. Chợt cảm thấy ðôi chút ngờ vực, anh khoác áo choàng và quay lại phòng làm việc. Quan sát kỹ bức tranh, đoạn anh quay trở về bên cửa sổ trong phòng ngủ. Nhánh chính của cây dýõng bắc ngang trên ðầu anh, cùng tầm với mái nhà. Vì cây cối bao giờ cũng mọc výõn ngọn lên trời, Peter cho rằng Vladimir đã phải vẽ bức tranh của ông từ một căn phòng nằm trên tầng xép. Anh tự nhủ phải nói điều này với Clara ngay sáng hôm sau. Sự nóng lòng càng làm cõn khó ngủ kéo dài, vì thế ngay khi vừa nghe tiếng býớc chân cô chủ nhà vang lên ngoài cầu thang, anh vội hé cửa gọi cô

- Tôi ði lấy nýớc, anh có muốn uống không? Clara từ cầu thang hỏi vọng lên.

- Tôi chẳng bao giờ uống nýớc cả. nó làm tôi bị gỉ sét! Peter vừa trả lời vừa býớc ra hành lang.

Anh ði theo Clara và mời cô cùng vào phòng làm việc.

- Tôi đã thuộc lòng bức tranh đó rồi. Cô nói.

- Tôi không hề nghi ngờ điều đó, nhưng cô cứ theo tôi. Peter nhấn mạnh

Sau khi đi nhanh qua gian bếp, Peter dẫn Clara đến tận bên cửa sổ phòng anh.

- Đây này, cô hãy tự mình nhìn đi! Tôi cam đoan với cô là Vladimir đã vẽ từ tầng trên.

- Không thể nào, đến gần cuối đời, Vladimir đã rất yếu, và ông phải thu hết sức lực mới có thể đứng trước giá vẽ. leo thang gác để lên được tận tầng trên là một việc khá mạo hiểm ngay cả đối với người dũng cảm. không một người nào trong tình trạng sức khỏe nhý ông ấy lại tìm cách lên đó làm gì. - Có mạo hiểm hay không chýa kể, nhýng tôi dám chắc với cô, ðây không phải là cửa sổ tôi thấy trong bức tranh, trông ở ðây nó to hõn rất nhiều, khung cảnh trông cũng không giống và nhánh chính của cây nằm ngang tầm với mái nhà chứ không phải ngang với cửa sổ phòng tôi!

Clara nhắc Peter rằng sau một thế kỷ rýỡi, cây dýõng ðã mọc cao lên nhiều và trí týởng týợng cũng là một trong những biệt tài của nhà danh họa. nói xong những lời này, cô ði về phía phòng mình.

Peter quay vào giýờng trong cảm giác bực bội. ðến nửa ðêm, anh lại bật ðèn lên, ði ra cửa sổ. nếu Vladimir ðã có thể tái hiện một cách tuyệt vời nhý vậy hiệu ứng của ánh sáng đêm trăng lên cành cây nhý anh nhìn thấy từ cửa sổ phòng mình, thì vì lý do gì ông ta lại phải di chuyển vị trí thân cây?

Anh để dành cả đêm dài mất ngủ để tìm câu trả lời. đến tận khi trời sáng, Peter vẫn còn ngồi trên giýờng ðọc lại tập hồ sõ của buổi ðấu giá danh tiếng mà anh vẫn chýa mất hết hy vọng được điều hành sau hai tuần nữa. Dorothy đến lúc 6h30’ sáng và Peter chuồn ngay xuống bếp dùng một tách cà phê.

Ở đây lạnh như cắt thịt. Peter vừa nói vừa xoa hai tay vào nhau cạnh lò sýởi bếp.

- Tòa nhà này cổ lắm rồi. Dorothy trả lời và đưa cho anh bộ đồ ăn để dọn bữa sáng bày trên chiếc bàn gỗ lớn.

- Bà làm việc ở đây đã lâu chýa, Dorothy?

- Khi tôi bắt ðầu phục vụ bà chủ, tôi mới 16 tuổi.

- Bà chủ nào? Peter vừa nói vừa ðổ ðầy sữa vào bát.

- Bà ngoại của cô chủ.

- Bà ngoại của cô ấy ðã từng sống ở đây ư?

- Không, bà chủ không bao giờ đến đây. Tôi ở nơi này một mình.

- Thế bà không sợ các bóng ma sao? Peter trêu bà.

- Cũng giống nhý con ngýời, thýa ông, họ cũng có thể là bạn ðồng hành tốt hoặc xấu theo cách của họ.

Peter vừa lắc ðầu vừa phết bõ lên bánh mì.

- Tòa nhà có thay đổi nhiều so với hồi đó không?

- Hồi ấy chúng tôi chýa có ðiện thoại, và ðó gần nhý là thay ðổi duy nhất. cô chủ cũng ðã trang trí lại một vài căn phòng.

Dorothy xin lỗi anh. Bà còn bận nhiều việc và để Peter ở lại ăn nốt bữa sáng. Anh lật nhanh một tờ báo, để bát cũ vào bồn rửa, và quyết định đi lên phòng mình lấy tập hồ sõ. Không khí bên ngoài hứa hẹn một ngày ðẹp trời, anh sẽ làm việc ngoài trời trong lúc chờ Clara xuống. trên đường đi lên phòng, Peter dừng lại giữa cầu thang trýớc một bức vẽ ðýợc ðóng khung mô tả trang viên. Bức tranh ðýợc vẽ nãm 1879. Anh cúi ngýờixem thật kỹ bức họa. bãn khoãn, anh xuống thanh, ra ngoài và bãng qua sân. Anh dừng lại dýới gốc cây dýõng, ðoạn chãm chú nhìn lên phía mái nhà. rồi Peter quay vào trong, lên cầu thang, tháo bức tranh ra, ôm dýới cánh tay và ði xuống dýới.

- Clara, Clara, cô xuống đây mà xem.

Peter đứng từ giữa sân hét toáng lên. Dorothy tức giận býớc trong bếp ra.

- Cô chủ ðang nghỉ ngõi, thýa ông, ðừng làm nhý vậy, tôi xin ông!

- Đi ðánh thức cô ấy dậy ngay! Nói với cô ấy là có việc rất quan trọng!

- Tôi có thể biết ông ðã tìm thấy điều gì quan trọng ở giữa sân đến nỗi ông muốn tôi phải đánh thức cô chủ dậy, trong khi cô ấy đang rất cần sự nghỉ ngơi sau nhiều đêm khủng khiếp mà cô ấy đã phải trải qua vì lỗi của ngýời bạn ông.

- Bà có thể nói một mạch tất cả những điều vừa rồi mà không cần lấy hõi sao, Dorothy? Bà khiến tôi phải ngýỡng mộ ðấy. Thôi, bà ði nhanh ði, không có chính tôi sẽ vào phòng đánh thức cô ấy dậy đấy.

Dorothy vừa bỏ đi vừa giơ hai tay lên trời, miệng lẩm bẩm rằng những ngýời Mỹ quả chẳng có chút phong thái nào! Clara khoác trên mình một chiếc áo choàng đi ra chỗ Peter, lúc này đang sốt ruột đi đi lại lại quanh gốc cây. Cô đưa mắt nhìn bức tranh đã được Peter dựng bên gốc cây.

- Nếu tôi nhớ không nhầm thì hôm qua bức tranh này không được treo ở đây , đúng không? Cô vừa chào Peter vừa nói.

Peter ngồi xuống và chuyển bức tranh cho Clara

- Cô nhìn xem!

- Đây là tòa dinh thự mà, Peter!

- Cô đếm được bao nhiêu cửa sổ con trên mái? Anh nôn nóng hỏi.

- 6, Clara trả lời.

Anh nắm lấy vai cô và xoay ngýời cô nửa vòng.

- Còn bây giờ cô đếm thử xem có bao nhiêu?

- 5, Clara thì thầm.

Peter tóm lấy cánh tay cô và kéo cô trở vào nhà. Họ leo bốn býớc một lên cầu thang và Dorothy, rất không hài lòng về cách trang phục của cô chủ trýớc mặt Peter, ra khỏi bếp rồi ði theo họ lên tận tầng xép.

* * *

Jonathan viết vội vài dòng. Anh báo với Anna mình sẽ ở cả ngày trong viện bảo tàng và sẽ ăn tối với ông quản đốc ở đó, sẽ trở về nhà vào khoảng 10 giờ tối. Jonathan rất ghét phải thông báo thời gian biểu của mình. Anh xé tờ giấy ra khỏi cuốn sổ và gắn lên cửa tủ lạnh bằng viên nam châm hình con cánh cam. Rồi anh býớc ra ðýờng, ði dọc vỉa hè bên phải. anh ngồi vào sau tay lái chiếc xe của mình và kiên nhẫn chờ đợi.

Một giờ sau, Anna đi xe khỏi nhà, cô rẽ về phía bên trái. Khởi động xe, cô đi về hướng bắc, qua cầu Harvard, tiếp tục lái thẳng tới Cambridge. Jonathan đậu xe ở lối rẽ vào phố Garden và dõi theo cô cho tới khi Anna býớc lên ba bậc thềm của một tòa nhà sang trọng. Ngay sau khi cô biến vào trong tòa nhà, anh ra khỏi xe và đi bộ tới tận cửa kính ra vào. Trong sảnh, tấm bảng điện tử phía rên cửa thang máy cho thấy thang đã dừng lại ở tầng thứ 13. Anh quay trở lại trong xe. Hai giờ đồng hồ sau Anna lại xuất hiện. Jonathan nằm nép mình xuống ghế khi chiếc Saab chạy ngang qua chỗ anh về phía đầu phố. Ngay khi Anna vừa qua khỏi ngã tý, Jonathan ra khỏi xe và býớc cả quyết về phía căn nhà số 27 phố Garden, dừng lại lýỡng lự trýớc nút chuông cãn hộ 13A và 13B rồi quyết ðịnh nhấn cả 2. tiếng chuông mở cửa vang lên ngay lập tức.

Cánh cửa cuối hành lang vẫn còn hé mở. Jonathan đẩy nhẹ cửa, và một giọng nói mà anh nhận ra ngay tức khắc vang lên:

- Con quên thứ gì phải không, con gái yêu?

Khi nhìn thấy anh đứng ở cửa, người đàn bà có mái tóc bạch kim khẽ giật mình song lập tức trấn tĩnh.

- Bà Walton phải không? Jonathan lạnh lùng hỏi.

* * *

Hai tay chống lên hông, Dorothy dứng thẳng đơ người như cái cây mọc chính giữa gian phòng lớn trên gác xép, sẵn sàng đối mặt với Clara.

- Dorothy hãy thề danh dự rằng bà tôi chýa bao giờ cho thay ðổi bất cứ thứ gì trên mái của tòa nhà này!

Peter chăm chú nhìn bà. Giõ cao chiếc búa tạ mang từ dýới nhà kho lên, anh nện thật mạnh vào bức týờng cuối phòng. Cả căn phòng rung lên.

- Tôi sẽ không thề. Bà giận dữ trả lời.

- Thế tại sao không bao giờ bà nói với tôi về chuyện này? Clara hỏi.

Peter nện thêm cú nữa và trên vách týờng xuất hiện vết nứt ðầu tiên.

- Chúng ta chýa bao giờ có dịp bàn tới chủ ðề này!

- Thôi ði nào, Dorothy! Kiến trúc sý của gia ðình ta, ông Goesfield, đã tỏ ra ngạc nhiên khi tòa thị chính từ chối đơn xin cải tạo tầng xép, và còn nhắc đi nhắ lại rằng ông ấy tin chắc căn phòng này đã từng bị sửa chữa.

Dorothy giật nảy ngýời khi Peter giáng thêm một cú nữa lên týờng.

- Bà ðã cam đoan trước mặt tôi rằng tòa lâu đài vẫn hoàn toàn nguyên vẹn nhý trýớc kia! Tôi vẫn còn nhớ nhý in. Hõn nữa, bà lại tỏ ra rất khó chịu với ông Goesfield.

Cãn phòng lại rung lên lần nữa, một làn bụi mù mịt rõi từ trên mái xuống. Clara ngýớc ðầu lên rồi kéo Dorothy lại gần cửa sổ.

- Bà chủ bắt tôi phải hứa! Chính bà chủ ðã cho ngýời sửa lại trang viên.

- Vì sao? Peter hỏi vọng từ cuối phòng.

Anh lấy chân đẩy những mảnh tường vỡ trên sàn. Hai vai anh đau nhừ. Anh hít một hơi và tiếp tục đập.

Tôi không biết, Dorothy làu bàu với Clara, bà của cô là ngýời ðã quyết định mọi việc nhưng bà là một ngýời ðúng ðắn. bà chủ nói cô sẽ trở thành một nhà sinh học tài nãng nhýng cô chỉ làm theo ý mình…

- Bà tôi muốn tôi trở thành nhà hóa học! Và bà cũng muốn tôi phải bán trang viên này đi, Dorothy có nhớ không? Clara cắt ngang.

- Phải, Dorothy lúng túng, quả là bà đã rất gắn bó với nõi này.

Các lớp gạch bắt ðầu long ra. Peter dung lýỡi búa cạy các khe vữa. bức týờng bắt ðầu cong xuống sau cú ðập tiếp theo.

- Tại sao bà lại muốn làm cho cái cửa sổ này biến khỏi tầng xép, Dorothy?

Dorothy nhìn chằm chằm Clara, lýỡng lự không muốn trả lời. Trýớc ánh mắt khẩn nài của cô, bà ðành nhýợng bộ.

- Vì điều bất hạnh đã đến với con gái bà chủ khi cô ấy muốn đục bức tường này ra. Hãy bảo ông ấy dừng tay, tôi xin cô!

- Bà biết chuyện gì đã xảy ra với mẹ tôi ý? Clara run rẩy hỏi.

Peter ðã gỡ ra viên gạch đầu tiên, anh thò tay qua lỗ hổng và khua cánh tay. khoảng trống phía sau bức týờng có vẻ khá sâu. Anh lại cầm búa lên và dồn sức gấp ðôi.

- Bà của cô ðã tìm được tôi trong làng khi bà mới mua lại tòa nhà. Những cõn ác mộng của con gái bà chủ bắt ðầu ngay từ kỳ nghỉ ðầu tiên khi hai mẹ con bà tới ðây.

Peter lại làm bung một lớp gạch nữa, khoảng trống bây giờ ðã đủ lớn để anh có thể ngó vào trong. Phía bên kia bức týờng tất cả tối nhý ðêm ðen.

- Những cõn ác mộng kiểu gì? Clara hỏi.

- Cô thýờng hét lên những ðiều khủng khiếp trong giấc ngủ.

- Bà còn nhớ mẹ tôi thýờng nói gì không?

- Tôi vẫn mong sao có thể quên đi được! thật không thể hiểu nổi, cô ấy vẫn thường nhắc đi nhắc lại: “ anh ấy sẽ đến”. các loại thuốc do bác sĩ kê hoàn toàn không có tác dụng gì khiến cô giảm cõn và bà chủ hoàn toàn tuyệt vọng khi thấy con gái mình trong tình trạng nhý vậy. Những khi cô ấy không cả ngày lục lọi từng ngóc ngách trong tòa lâu đài, thì lại ngồi dýới bóng cây dýõng. Tôi thýờng ôm cô ấy trong vòng tay, vỗ về và cô tâm sự với tôi rằng trong giấc mõ cô vẫn thýờng nói chuyện với một chàng trai mà cô ðã biết từ rất lâu. Tôi chẳng hiểu gì cả, cô ấy nói tên chàng trai là Jonas, rằng họ đã yêu nhau từ trýớc ðó. Rồi anh ta sẽ nhanh chóng tới tìm cô, anh ấy đã biết làm thế nào để tìm được cô. Rồi đến một tuần khủng khiếp khi nỗi buồn cướp mất cô.

- Nỗi buồn nào?

- Cô chủ không nghe thấy anh ta nữa, cô nói anh ta đã chết, ngýời ta ðã giết anh ấy. Cô không muốn ăn uống nữa, sức lực nhanh chóng rời bỏ cô ấy. chúng tôi rắc tro của cô quanh gốc cây cổ thụ. Bà chủ đã cho ngýời xây týờng bịt lại và lấp kín cửa sổ trên mái. Tôi xin cô, hãy bảo ông Gwel dừng lại trýớc khi mọi chuyện trở nên quá muộn.

Peter ðã nện đến nhát thứ 20, và hai cánh tay anh đau nhức nhối. cuối cùng thì anh cũng chui ngýời lọt qua lỗ hổng và sang ðýợc phía bên kia týờng.

- Có phải ông ấy là bố tôi không? Cái ngýời tên Jonas ấy.

- Ồ không! Thưa cô chủ. cầu chúa ban phước lành cho cô. Bà của cô ðã nhận nuôi cô sau đó một thời gian dài.

Clara tựa lưng vào khung cửa sổ. cô nhìn xuống dýới sân và nín thở. Nỗi buồn dâng lên ngập mắt không cho phép cô quay lại ðối diện với Dorothy.

- Bà nói dối! tôi không phải là con nuôi. Clara vừa nói vừa cố kìm tiếng khóc.

- Bà cô là ngýời rất tốt! bà đã đi thăm nhiều trại trẻ mồ côi trong vùng. Bà yêu quý cô ngay từ khi nhìn thấy cô lần đầu tiên, bà nói bà nhý nhìn thấy con gái mình trong đôi mắt của cô, rằng con gái bà đã tái sinh thành cô. Đó chỉ là những câu chuyện do bà chủ nghĩ ra để tự xoa dịu nỗi đau của mình, bà chủ đã hoàn toàn thay đổi kể từ sau cái chết của con gái. Bà cấm cô không được đến gần trang viên. Chính bà cũng không bao giờ quay lại đây nữa. mỗi khi bà chủ từ London tới đây để trả tiền lương cho tôi cũng như đưa các khoản chi dung cho việc chăm sóc nơi này, tôi thường phải chờ bà phía sau cánh cổng sắt. mỗi lần gặp bà tôi ðều khóc.

Peter ho sặc sụa vì bụi. anh đứng im cho đôi mắt quen dần với bóng tối.

- Thế con gái của bà tôi tên là gì?

Đôi mắt của Dorothy Blaxton bắt đầu đẫm nước. bà ôm cô gái trẻ vô cùng yêu quý trong vòng tay và nói thầm vào tai cô bằng giọng run rẩy:

- Giống nhý cô, thýa cô chủ, cô ấy tên là Clara.

- Cô phải vào ðây ðể xem tôi tìm thấy điều gì! Peter hét lên từ phía bên kia bức tường.

* * *

Jonathan bước vào phòng khách của căn hộ quý tộc.

Anh làm gì ở đây? Bà Walton lạnh lùng hỏi.

- Tôi vừa từ Yale về và hôm nay tôi sẽ là ngýời ðặt câu hỏi, Jonathan trả lời khô khốc. Anna làm gì ở nhà bà vậy, bà Walton?

Ngýời ðàn bà có mái tóc trắng chãm chú nhìn anh. ạnh cảm thấy có chút gì thýõng hại trong mắt bà ta.

- Anh ðã bỏ sót quá nhiều thứ, Jonathan tội nghiệp ạ.

- Bà tự cho mình là ai kia chứ, Jonathan nổi nóng.

- Là mẹ vợ của anh! Điều sẽ trở thành hiện thực trong vài ngày nữa.

Jonathan nhìn bà ta hồi lâu, cố tìm xem có bao nhiêu phần sự thật trong câu nói ấy.

- Bố mẹ của Anna đều đã qua đời!

- Điều này nằm trong kế hoạch mà chúng tôi muốn anh phải tin.

- Kế hoạch nào?

- Bố trí cho anh gặp con gái tôi, kể từ buổi triển lãm đầu tiên của nó, mà tôi đã phải tốn rất nhiều tiền để tổ chức, cho đến đám cưới của anh với nó. Tất cả đều đã được tính trước, kể cả tình cảm thống thiết không thể tránh khỏi với Clara, có phải tên mới của cô ta vẫn là thế không?

- Chính bà là ngýời ðã theo dõi chúng tôi ở Châu Âu?

- Tôi và một vài ngýời bạn. Nhýng ðiều ðó thì có quan trọng gì khi kết cục vẫn là nhý thế? Các mối quan hệ của tôi cúng ðã giúp ích cho anh nhiều khi ở Louvre, đúng không?

- Nhưng thật ra bà muốn gì? Jonathan hét to.

- Trả thù, trả lại công bằng cho con gái tôi! Alice Walton gào lên.

Bà châm một điếu thuốc. Và mặc dù đã cố tỏ ra bình tĩnh, bàn tay điểm chiếc nhẫn kim cương của bà ta vẫn liên tục chà xát lên lớp vải bọc ghế bành đang ngồi.

- Giờ thì các viên xúc xắc đã được tung ra và số phận các ngýời ðã được định đoạt, hãy để tôi kể nốt cho anh nghe câu chuyện buồn về ngài Edward Langton, ngýời ðã từng là chồng của tôi.

- Chồng của bà ý? Nhýng Langton ðã qua đời từ cách đây hơn một thế kỷ rồi.

Những cơn ác mộng không thể kể cho anh nghe hết mọi chuyện. ngài Edward có hai cô con gái. Ông ấy là một ngýời hào phóng, quá hào phóng. Ngoài việc dốc hết tài nãng và gia tài của một nhà buôn tranh cho lão họa sĩ Radskin, ông ấy còn có một tình yêu vô bờ bến đối với đứa con gái lớn. ông ấy không tiếc bất cứ thứ gì cho nó, và anh không thể týởng týợng nổi ðứa thứ hai ðã phải khổ sở nhý thế nào khi không có ðýợc tình cảm của ngýời cha! Song ðàn ông bao giờ cũng chỉ hành ðộng theo ý muốn của mình, chẳng bao giờ suy nghĩ về những hậu quả có thể xảy ra. Vì sao các ngýời lại có thể ðối xử nhý vậy với chúng tôi?

- Đối xử với bà nhý thế nào? Tôi chẳng hiểu bà ðang nói gì.

- Con gái lớn của ông ấy, đứa con mà Edward yêu quý nhất, đã đem lòng yêu một chàng trai trẻ tài giỏi, một chuyên gia trong ngành hội họa. Họ không thể rời nhau, tình yêu là tất cả đối với họ. Edward đã không thể chịu đựng được khi thấy con gái xa rời ông ấy, ông ấy đã ghen tị, nhý tất cả các ông bố ðều có lúc nhý vậy, mỗi khi con cái bắt ðầu muốn bay bằng ðôi cánh của mình. Còn tôi thì chỉ mõ ðến ngày hai ðứa chúng nó ra đi. Tôi đã hy vọng cuối cùng thì Edward cũng sẽ dành nhiều quan tâm hõn cho Anna. Sau cái chết của Vladimir, chúng tôi không còn nhiều khả năng thanh toán các khỏan nợ. chỉ có việc bán bức tranh cuối cùng của ông ta mới cứu chúng tôi khỏi phá sản. chúng tôi trông đợi một số tiền khá lớn và mong tất cả những bức tranh chýa bán ðýợc mà chồng tôi ðã chất trong nhà, sau nhiều năm cũng sẽ trở nên giá trị. Như thế mới công bằng, Edward đã chứa chấp và cung phụng Vladimir một cách vô lý trong quá nhiều năm và điều đó đã làm tiêu tan cả sản nghiệp của chúng tôi!

* * *

Đến lượt Clara chui qua lỗ hổng mà Peter đã khoét rộng. đằng sau bức tường tất cả đều toát lên vẻ bần hàn. Đồ đạc tuềnh toàng bao gồm một chiếc bàn gỗ nhỏ, chiếc ghế mộc, một cái giýờng nhỏ trông nhý chiếc chõng tồi tàn thời chiến tranh. Chiếc bình gốm cũ đặt trên một trong ba cái giá. Cuối phòng, một tia sáng trên trên trần chiếu xuyên xuống sàn tới tận chỗ để giá tranh. Peter xông vào góc tối. anh ngẩng lên và phát hiện những mảnh ván được đóng sát trần nhà. anh kiễng chân kéo từng mảnh một ra. một luồng xám nhạt bốc lan ra chỗ giá tranh. Peter đẩy tấm cửa vừa lộ ra rồi dung hết sức của đôi tay để kéo nó lên.

Mái tóc phủ trắng bụi của anh nhô ra khỏi mái nhà nghiêng nghiêng. Anh nhìn khu výờn trải rộng xung quanh và khi nhìn thấy nhánh chính của cây dýõng ðang ðung ðýa nhè nhẹ trên máng nýớc phía dýới, anh mỉm cýời, quay vào trong.

- Clara, tôi nghĩ chúng ta vừa tìm được phòng ở thực sự của Vladimir Radskin. Chính tại nõi này ông ấy ðã vẽ bức tranh Thiếu nữ áo đỏ.

* * *

Alice Walton xoay xoay chiếc nhẫn quanh ngón tay. Mẩu thuốc của bà ta vẫn còn nhả khói trong gạt tàn, bà nóng nảy dụi tắt nó rồi lại ngay lập tức châm một điếu khác. Ngọn lửa từ que diêm buồn bã rọi lên khuôn mặt bà ta. Sự đau khổ và giận dữ hằn sâu trên từng nếp nhăn trên mặt bà.

- Thật không may, vào đúng ngày tổ chức buổi đấu giá, tên chuyên gia xấu bụng đã gởi một bức thý tới cho ngýời ðiều hành ðấu giá, hắn ta cho rằng bức tranh là giả! Cái gã đã cáo buộc điều đó và đẩy cả gia đình tôi vào cảnh phá sản chẳng phải ai khác, chính là kẻ đồng lõa đang si mê đứa con gái lớn của chồng tôi. Đó là sự trả thù đối với chồng tôi vì đã ngăn cản đám cưới của chúng. Sau đó thì anh biết rồi, chúng tôi đã sang Mỹ. Chồng tôi qua đời chỉ vài tháng sau khi chúng tôi tới đây. Ông ấy chết vì bị mất hết danh dự.

Jonathan đứng lên và býớc lại gần ô cửa kính. Chẳng có ðiều gì đáng là sự thật trong câu chuyện trên. Song ký ức về cõn ác mộng gần ðây nhất mà cả anh và Clara cùng gặp phải vẫn còn ám ảnh anh. Quay lýng về phía Alice, anh lắc lắc đầu tỏ vẻ không tin.

- Đừng làm ra vẻ không biết gì, Jonathan! Chính anh cũng từng gặp phải những giấc mộng. tôi chýa bao giờ rời bỏ hai ngýời. nỗi cãm hận là một cảm xúc khiến cho linh hồn có ðýợc sức sống mãnh liệt. tôi đã không ngừng nuôi dýỡng nó để có thể sống lại. vào mỗi thời đại, tôi đều tìm ra được các người và tìm ra cách thay đổi số phận hai người. tôi thật sung sướng làm sao khi anh là một trong những sinh viên của tôi tại Yale. Các ngýời ðã tiến thật gần tới đích. Trong kiếp đó, anh đã mang cái tên Jonas, anh đã học tại Boston và muốn đổi tên gọi của mình theo kiểu Mỹ, song điều đó chẳng có gì quan trọng cả. Suýt nữa thì anh tìm thấy Clara, trong các giấc mõ anh thấy ðýợc nó ðang ở London, song tôi ðã vừa kịp chia rẽ các ngýời.

- Bà thật điên rồ!

Jonathan bỗng thấy vò xé bởi ýớc muốn rời khỏi cái nõi ðang khiến anh ngạt thở này. Anh tiến ra cửa. Ngýời ðàn bà tóc trắng thô bạo kéo tay anh lại.

-Tất cả các nhà phát minh lớn đều có một điểm chung là biết cách tự mình tách ra khỏi thế giới bao quanh họ, để tưởng tượng. tôi đã thành công trong việc khiến cho Coralie O’Mally phát điên, và tôi đã gần nhý làm ðýợc ðiều ðó với Clara cái ngày mà tôi ðầu ðộc chết Jonas. Tôi ðã nói với anh ngay lần đầu tiên gặp nhau tại Miami. Yêu và hận chính là cách sáng tạo ra cuộc sống, thay và chiêm ngýỡng nó. Tình cảm không phải lúc nào cũng lụi tàn, Jonathan ạ. Và tình cảm luôn khiến cho các ngýời phải tái hợp.

Jonathan nhìn bà ta khinh bỉ, anh túm cánh tay bà ta và hất nó ra khỏi tay anh.

- Bà đang tìm cách làm gì, bà Walton?

- Vắt kiệt linh hồn anh và buộc anh vĩnh viễn phải rời xa Clara. Chính vì thế mà trýớc hết tôi phải khiến cho các ngýời tìm thấy nhau. Tôi đã chạm tới đích. Nếu như lần này các ngýời không thể hýởng tình yêu bên nhau, thì đây sẽ là lần cuối cùng các ngýời ðýợc sống. linh hồn của các ngýời ðã gần hết năng lượng, chúng sẽ không thể vượt qua nổi một lần chia tay nữa.

- Đó chính là mục đích của bà ý? Jonathan vừa nói vừa ðứng dậy. Bà muốn trả thù vì một điều đã xảy ra cách đây hơn một thế kỷ phải không? Cứ cho là mọi chuyện sẽ tuân theo suy luận của bà, bà sẵn sang hy sinh một trong hai cô con gái của mình vì ýớc muốn ðiên rồ ðó ý? Vậy mà bà vẫn cho rằng mình không điên sao?

Jonathan býớc thẳng ra khỏi cãn hộ mà không hề ngoái lại. khi anh býớc qua ngýỡng cửa, Alice Walton gào lên sau lýng anh.

- Clara không phải con gái ta, chỉ có Anna thôi! Và cho dù anh có muốn hay không thì anh cũng sẽ phải cýới con gái ta trong một vài ngày nữa.

* * *

- Điều duy nhất mà chúng ta có thể khẳng định được, là Radskin chắc chắn đã không làm Ngài Edward phá sản vì những chi phí của ông.

Peter ho nhẹ. không khí trong phòng hõi hãng hắc, phảng phất mùi tỏi.

- Ông ấy sống trong cãn phòng này ý? Clara ngõ ngác hỏi.

- Ít nhất thì tôi cũng thấy, khó mà phủ nhận được điều đó! Peter vừa trả lời vừa thả một viên gạch mới được dỡ ra xuống sàn.

Trong vòng một giờ, anh đã tạo được một lỗ tường hổng đủ lớn để ánh sáng từ bên ngoài có thể lọt vào rọi sáng căn phòng. Peter giõ tay chỉ lên mái lâu ðài.

- Giang sõn khép kín của Vladimir trông có vẻ giống một xà lim hõn là một phòng dành cho khách.

Peter tò mò nhìn xuống sàn nhà, màu gỗ ở đây trông rất khác so với phần còn lại của gác xép.

- Đúng là sàn chỗ này chưa từng được làm lại!

- Tất nhiên rồi! Clara tiếp lời.

Peter tiếp tục xem xét cãn phòng. Anh cúi ngýời nhìn xuống gầm giýờng.

- Anh tìm gì vậy? Clara hỏi.

- Bảng màu, bút vẽ và những tuýp màu của ông ấy. Một dấu vết nào đó.

Tôi chẳng thấy gì trong căn phòng này cả, cứ nhý ai ðó ðã muốn xóa bỏ hết mọi dấu vết về cuộc sống của Radskin ở đây.

Anh trèo lên giường và đưa tay quờ lên các tầng giá treo.

- Tôi tìm thấy cái gì đó!

Anh nhảy cẫng lên và chìa cho Clara xem một cuốn sổ màu đen. Cô thổi nhẹ lên bìa sổ, một lớp bụi dày bay tung. Peter nôn nóng lấy cuốn sổ khỏi tay cô.

- Tôi sẽ mở nó ra xem!

Từ từ thôi! Clara ngăn anh lại.

- Tôi là chuyên gia đấu giá. Và chắc cô sẽ ngạc nhiên về điều này, song tôi đã khá quen với việc phải nýõng tay khi ðụng ðến những di vật cổ xưa.

Clara lấy lại cuốn sổ trong tay anh và thận trọng mở trang ðầu tiên.

- Trong ðó có gì thế? Peter năn nỉ.

- Tôi không biết, trông nó giống như một cuốn nhật kí. Nhưng hình nhý ðýợc viết bằng ngôn ngữ Kirin

- Tiếng Nga ý?

- Thì cũng thế cả thôi!

- Tôi cũng thừa biết là thế rồi. Peter làu bàu.

- Khoan đã, còn có cả một loạt ký hiệu hóa học nữa.

- Cô có chắc không? Peter hỏi bằng một giọng lộ rõ vẻ phấn khích.

- Tất nhiên! Clara hõi tự ái.

* * *

Ngồi sau bàn giấy, François Hebrard kết thúc ngày làm việc bằng cách đọc lại bản báo cáo mà Sylvie Leroy vừa mang tới. Từ khi Jonathan về, các chuyên viên vẫn tiếp tục nghiên cứu và khám phá bí ẩn của màu đỏ.

- Cô đã liên lạc được với Gardner chưa? Ông giám đốc phòng thí nghiệm hỏi.

- Vẫn chýa, bộ nhớ ðiện thoại của anh ta ðã hết chỗ, chẳng có cách nào để nhắn thêm vào đó được nữa, mà anh ta cũng chẳng trả lời email.

- Bao giờ thì buổi đấu giá bắt đầu? ông Hebrard hỏi.

- Ngày 21, tức là bốn hôm nữa.

- Sau tất cả những nỗ lực chúng ta đã bỏ ra, nhất định phải báo bằng được tin này cho anh ta biết. Cô muốn làm gì cũng được, miễn là tìm cho ra anh ấy cho tôi.

Sylvie Leroy býớc ra khỏi phòng và đi về phía xưởng vẽ của cô. Cô biết một người có thể tìm được Jonathan Gardner, nhưng cô không hề muốn gọi cho người ấy chút nào. Cô vớ lấy túi và tắt đèn trên bàn làm việc. trong hành lang, Sylvie gặp vài đồng nghiệp song cô bực mình tới mức chẳng buồn nghe tiếng họ chào. Cô býớc qua cổng kiểm soát và tra thẻ của mình vào máy đọc. cánh cửa lớn mở ra tức khắc. Sylvie Leroy bước lên cầu thang dẫn ra phía ngoài. Bầu trời rực rỡ, không khí bắt đầu có hương vị mùa hè. Cô băng qua sân bảo tàng, ngồi xuống một băng ghế và tận hýởng vẻ ðẹp của khung cảnh xung quanh. Kim tự tháp Pei phản chiếu những tia nắng chiều đỏ rực tới tận mái vòm của phòng trýng bày Richelieu. Cô nhìn hàng ngýời dài dằng dặc ðang chờ tới lýợt tham quan, trông nhý một dải ruy bãng kéo dài trýớc sân bảo tang. Làm việct rong một không khí mang đậm nét cổ tích như ở đây quả là giấc mõ mà cô không bao giờ muốn tỉnh dậy. cô nhún vai thở dài và bấm số di ðộng.

* * *

Dorothy đã trải khăn lên chiếc bàn nhỏ ngoài sân. Họ ăn tối sớm để sáng mai đi London. Công nhân của hãng vận chuyển Dalaye Moving sẽ có mặt ở phòng tranh ngay đầu giờ sáng để chuẩn bị mang Thiếu nữ áo đỏ đi. Peter và Clara sẽ được xếp chỗ ngồi sau chiếc xe hòm bọc thép và được hộ tống tới tận sân bay Heathrow. Năm bức tranh của Vladimir sẽ được mang đi trong tầng hầm của chiếc Boeing 747 của hang British Airways tới tận Boston. Một chiếc xe bọc thép khác chờ sẵn tại sân bay Logan. Ngày mai khi ra đến London, Peter sẽ chụp các trang viết tay trong cuốn sổ của Vladimir và gửi qua thư điện tử tới một đồng nghiệp người Nga nhờ anh ta dịch giúp ngay lập tức. Anh rót thêm một tách cà phê cho Clara, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng và họ hầu như chuyện trò rất ít kể từ đầu bữa ăn.

- Hôm nay anh nói chuyện với anh ấy chưa? Clara hỏi, phá vỡ bầu không khí yên lặng.

- Lúc này là 7 giờ sáng ở Boston, có lẽ Jonathan vừa mới dậy thôi. Lát nữa tôi sẽ gọi điện cho cậu ấy. tôi hứa với cô.

Nguồn: http://vnthuquan.net/