Phần 12:
Tỉnh Thiểm Tây
Tỉnh Thiểm Tây
Có người gõ lên cửa kính xe, tôi giật mình tỉnh giấc giữa đêm và nhìn thấy khuôn mặt của một ông lão với tay nải quần áo trên vai đang mỉm cười với tôi. Tôi hạ cửa kính xe, ông lão tì má lên hai bàn tay đang chắp lại và ra hiệu muốn lên xe. Tôi lạnh cóng, người bộ hành này đang run lập cập, tôi nhớ tới ông lão người Êtiôpia ngày trước đã đón tiếp tôi. Tôi mở cửa xe, đẩy hành lý của chúng tôi xuống sàn. Ông lão mở tay nải ra và đề nghị chia cho tôi vài chiếc bánh quy chính là suất ăn tối của ông. Tôi nhận một chiếc bánh, bởi vì hình như hành động này thực sự khiến ông lão vui lòng. Chúng tôi không thể trò chuyện, nhưng giao tiếp bằng ánh mắt cũng đủ rồi. Ông lão đưa tôi chiếc bánh nữa để mời Keira. Cô ấy đang ngủ say sưa, tôi đặt chiếc bánh lên bảng iđều khiển phía trước ông ấy. Ông lão có vẻ vui sướng. Sau khi sẻ chia bữa ăn đạm bạc ấy, ông lão nằm dài ra, nhắm mắt, tôi cũng làm hệt như vậy.
Ánh ngày nhợt nhạt đánh thức tôi dậy trước tiên, Keira vươn vai và tôi ra hiệu cho cô ấy đừng gây tiếng động, chúng tôi có một vị khách đang nằm nghỉ trên băng ghế sau.
- Ai thế? Cô ấy thì thào.
- Anh cũng chịu chết. Có thể là một người hành khất, ông ấy cuốc bộ một mình trên đường, trời đêm thì lạnh buốt.
- Anh đã làm rất đúng khi cho ông lão một chỗ trú thân. Chúng ta đang ở đâu thế này?
- Giữa nơi đồng không mông quạnh, còn cách Tây An một trăm năm mươi cây số nữa.
- Em đói, Keira bảo.
Tôi chỉ cho cô ấy chiếc bánh. Cô ấy cầm bánh lên, hít hà, lưỡng lự giây lát rồi nuốt chửng.
- Em vẫn đói ngấu, cô ấy nói, em muốn tắm qua và ăn đồ ăn dọc đường.
- Vẫn còn sớm, nhưng chúng ta sẽ tìm ra một nơi bán đồ ăn dọc đường.
Ông lão tỉnh giấc. Ông chỉnh lại quần áo cho ngay ngắn rồi chắp tay vái chào Keira. Cô ấy cũng chắp tay chào lại.
- Ngốc ạ, đây là một nhà tu hành theo đạo Phật, cô ấy bảo. Chắc ông ấy đang hành hương.
Keira cố gắng trò chuyện với hành khách của chúng tôi, họ ra hiệu với nhau nhiều lần. Keira quay sang tôi, vẻ hài lòng, nhưng tôi không hiểu tại sao.
- Anh khởi động đi, chúng ta sẽ đưa ông lão đến tận nơi.
- Ý em là ông lão đã cho em biết nơi cần đến và em hiểu được ngay?
- Cứ lái theo đường này và tin ở em đi.
Chiếc xe hai cầu nghiêng ngả chao đảo, chúng tôi đang leo tới đỉnh đồi. Quang cảnh đồng quê đẹp nên thơ, Keira có vẻ đang tìm kiếm điều gì đó. Đến đỉnh đồi, đường đi rẽ hướng, xuôi xuống một tầng rừng thấp toàn thông cao và thông rụng lá. Ra đến bìa rừng, con đường biến mất. Ông lão ngồi ghế sau ra hiệu cho tôi dừng lại và tắt động cơ. Giờ thì chúng tôi phải cuốc bộ. Đến cuối đường mòn, chúng tôi gặp một con suối, ông lão ra hiệu cho chúng tôi đi dọc dòng chảy để xuyên qua quãng lội cách đó khoảng trăm mét. Chúng tôi leo thêm một quả đồi nữa và nóc một ngôi chùa đột nhiên hiện ra trước mắt chúng tôi.
Sáu nhà tu hành ra gặp chúng tôi. Họ cúi chào người dẫn đường của chúng tôi và xin chúng tôi đi theo vào bên trong.
Họ dẫn chúng tôi vào một gian phòng lớn, tường màu trắng, không bày biện đồ đạc gì. Chỉ có một vài tấm thảm trải trên nền đất. Họ mang ra trà, cơm và màn thầu - loại bánh nhỏ làm từ bột mì mời chúng tôi.
Sau khi bày biện các món đó xong, các nhà tu hành lui ra, để Keira và tôi lại với nhau.
- Em có thể cho anh biết chúng ta làm gì ở đây không? Tôi hỏi.
- Chúng ta muốn ăn một bữa sáng, đúng không nào?
- Anh cứ nghĩ đến một nhà hàng cơ, không nghĩ đến chùa chiền, tôi thì thào.
Người dẫn đường cho chúng tôi bước vào phòng, ông đã cởi bỏ bộ đồ rách rưới và mặc một chiếc áo choàng dài màu đỏ thắt khăn lụa thêu tinh xảo. Theo sau là sáu nhà sư đã ra đón chúng tôi, họ ngồi xếp bằng tròn đằng sau ông.
- Đa tạ vì đã đưa tôi về tận nơi, ông lão nghiêng mình nói.
- Ông chưa nói cho chúng tôi biết là ông có thể nói tiếng Pháp thành thạo như thế, Keira kinh ngạc.
- Đêm qua, tôi không nhớ mình đã nói bất cứ điều gì, sáng nay cũng không. Tôi đã chu du khắp thế giới và đã học qua ngôn ngữ của các vị, ông lão nói với Keira. Hai vị tìm kiếm gì nơi đây? ông lão hỏi.
- Chúng tôi là du khách, chúng tôi tham quan quanh vùng, tôi đáp.
- Thật ư? Cần phải nói là tỉnh Thiểm Tây này có rất nhiều kỳ quan cần khám phá. Riêng đình chùa miếu mạo vùng nãy đã có hơn nghìn ngôi. Du lịch vào mùa này rất thuận lợi. Còn mùa đông thì vô cùng khắc nghiệt. Tuyết rơi đẹp đấy nhưng nó khiến tất cả mọi chuyện trở nên khó khăn. Hoan nghênh hai vị dã tới đây. Một nhà tắm đang chờ sẵn, hai vị có thể vào đó thay rửa. Các đệ tử của tôi đã trải sẵn chiếu ở phòng bên, mời hai vị nghỉ ngơi và tận hưởng ngày hôm nay. Đến trưa chúng tôi sẽ đãi cơm; tôi sẽ gặp lại hai vị sau. Tôi xin cáo biệt, tôi phải thuận lại chuyến đi vừa rồi và tĩnh tâm lại.
Ông lão lui ra ngoài. Sáu nhà sư cũng đứng dậy và theo ra cùng.
- Em có nghĩ ông ấy là sếp của họ không? Tôi hỏi Keira.
- Em không nghĩ đó là từ chính xác, đối với người theo đạo Phật, thứ bậc tôn ti mang tính tinh thần hơn là hình thức.
- Ông ấy trông giống như một kẻ hành khất trên đường.
- Không có của cải tiền bạc gì, đó là đặc điểm của các nhà tu hành, không sở hữu thứ gì ngoài tư duy.
Sau khi tắm táp xong, chúng tôi cuốc bộ quanh vùng thôn dã. Đứng dưới một gốc liễu, cả hai chúng tôi để mặc cho sự êm dịu bao trùm nơi này, nằm ngoài thời gian, tách biệt khỏi văn minh, thấm vào mình.
Ngày hôm qua. Khi đêm đến, tôi chỉ cho Keira thấy những ngôi sao mọc trên bầu trời. Nhà sư già đến tìm chúng tôi và lại ngồi gần chúng tôi.
- Vậy ra cậu đây là người say mê thiên văn học, ông bảo tôi.
- Sao ông biết?
- Chỉ là vấn đề quan sát. Lúc hoàng hôn, con người thường nhìn mặt trời lặn xuống sau đường chân trời, còn cậu thì quan sát bầu trời. Đó cũng là môn khoa học tôi yêu thích. Thật khó để tìm đường đến với đạo lý nếu không nghĩ đến cái vĩ đại của Vũ trụ và tự vấn về cái vô hạn.
- Tôi không phải người được gọi là uyên bác, nhưng tôi thường tự đặt cho mình những câu hỏi này từ hồi nhỏ.
- Hồi nhỏ, cậu chỉ là lý trí, vị sư nói, thậm chí đến lúc trưởng thành, cậu vẫn bị giọng nói của đứa trẻ ấy dẫn dắt, tôi thấy vui khi cậu vẫn còn nghe thấy giọng nói đó.
- Chúng ta đang ở đâu thế này? Keira hỏi.
- Trong một ngôi chùa khổ hạnh, một nơi riêng tư và che chở cho hai vị.
- Chúng tôi đâu có gặp nguy hiểm, Keira đáp.
- Ý tôi không phải vậy, nhà sư đáp, nhưng trong trường hợp ngược lại, hai vị sẽ được an toàn tại chốn này, với điều kiện là phải tôn trọng những quy định của nơi cửa Phật.
- Quy định gì?
- Chúng tôi chỉ có một vài quy định thôi, xin các vị yên tâm: trong số đó có quy định phải thức dậy trước lúc bình minh, làm việc đồng áng để xứng đáng với mùa màng đất đai ban tặng chúng ta, không tàn sát chúng sinh, dù là người hay vật, nhưng tôi chắc là các vị không có ý định làm theo đâu, à, suýt thì tôi quên mất, không được dối trá.
Vị sư quay sang Keira.
- Vậy ra anh bạn đồng hành với nữ thí chủ là nhà thiên văn, còn thí chủ, thí chủ làm nghề gì?
- Tôi làm về khảo cổ.
- Một nhà khảo cổ và một nhà thiên văn, quả là hạnh ngộ.
Tôi nhìn Keira, hình như cô ấy đang hoàn toàn bị hút theo từng lời của vị sư.
- Và chuyến du lịch lần này đã mang lại phát hiện mới nào chưa?
- Chúng tôi không phải du khách, Keira thú nhận.
Tôi ném cho cô ấy một ánh mắt không tán thành.
- Đã có quy định ở chốn này không được dối trá cơ mà! Cô ấy nói trước khi tiếp tục. Đúng ra chúng tôi là...
- Những nhà thám hiểm? vị sư hỏi.
- Phải, hiểu theo cách đó.
- Các vị tìm kiếm thứ gì?
- Một kim tự tháp màu trắng.
Nhà sư phá lên cười.
- Có chuyện gì đáng cười đến thế? Keira hỏi.
- Các vị đã tìm ra chưa? Nhà sư hỏi, đôi mắt vẫn rạng ngời cho thấy tâm trạng vui vẻ.
- Không, chúng tôi phải tới tận Tây An, chúng tôi nghĩ sẽ gặp nó dọc đường đi.
Nhà sư cười lớn tiếng hơn.
- Nhưng rốt cuộc câu chuyện tôi kể có gì đáng cười nào?
- Tôi nghĩ các vị tìm thấy kim tự tháp đó tại Tây An, nhưng các vị không hoàn toàn nhầm lẫn đâu, tuy thế nó vẫn nằm trên đường đi phía trước hai vị, nhà sư nói thêm rồi lại bật cười sảng khoái.
- Em cho là chúng tôi giễu cợt chúng ta, Keira nói với tôi, cô ấy có vẻ khó chịu tình huống này.
- Xin thề là tôi không hề có ý giễu cợt, nhà sư nói.
- Vậy thì hãy giải thích tại sao ông lại cười như thế ngay khi tôi mở miệng nói?
- Hai vị làm ơn, chớ nói lại cho các đồ đệ của tôi biết là sư phụ của chúng đã vui vẻ như thế khi ở cùng hai vị, phần còn lại tôi hứa đến mai sẽ giải thích hết ngọn ngành. Giờ đã đến lúc tôi phải lui đi tĩnh tâm. Hẹn gặp vào lúc bình minh. Nhờ đừng đến muộn đó.
Nhà sư đứng dậy, chào từ biệt chúng tôi, khi nhìn theo ông lão đi xa dần trên con đường dẫn tới điện chính, chúng tôi có thể đoán biết rằng ông lão vẫn đang cười.
° ° °
Chúng tôi đã ngủ một giấc thật sâu. Keira kéo tôi ra khỏi giấc mơ.
- Đi nào, cô ấy bảo, đến giờ rồi, em nghe thấy tiếng vị sư ngoài sân kìa, chẳng mấy chốc là mặt trời lên rồi.
Ở lối vào của căn phòng nơi chúng tôi ngủ, các vị sư đã để sẵn đồ dùng cần thiết. Một nhà sư dẫn chúng tôi đến phòng tắm, ra hiệu cho chúng tôi rửa mặt và rửa tay trước khi chạm vào đồ ăn thức uống đã dọn sẵn. Xong phần vệ sinh, nhà sư ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống và ăn trong sự tĩnh tâm.
Chúng tôi rời khỏi khuôn viên ngôi chùa khổ hạnh rồi băng qua cánh đồng, tiến về phía cây liễu như đã hẹn. Vị trụ trì đã đợi sẵn ở đó.
- Hy vọng các vị có một đêm ngon giấc.
- Tôi ngủ như trẻ lên ba vậy, Keira đáp.
- Vậy là hai vị đang tìm một kim tự tháp màu trắng? Hai vị biết gì về nó nào?
- Theo những thông tin tôi có được, đỉnh cao nhất của nó đạt tới hơn ba trăm mét, độ cao này biến nó thành kim tự tháp cao nhất thế giới, Keira đáp.
- Thậm chí nó còn cao hơn thế, vị sư nói.
- Vậy là nó tồn tại thực? Keira hỏi.
Vị sư mỉm cười.
- Phải, theo một cách nào đó, nó tồn tại.
- Nó ở đâu?
- Như hôm qua chính nữ thí chủ đã nói đấy, nó nằm ngay trước mắt hai vị.
- Xin thứ lỗi, như thế không có khiếu lắm trong trò giải đố, vậy thì nếu ông có chỉ dẫn gì thêm, tôi sẽ vô cùng biết ơn.
- Các vị nhìn thấy gì ở chân trời? vị sư hỏi.
- Dãy núi.
- Đó là dãy Tần Lĩnh. Các vị có biết tên của ngọn núi cao nhất không, ngọn đằng kia kìa, ngay đối diện với các vị ấy?
- Tôi không biết, Keira đáp.
- Hoa Sơn, nghe thật đẹp phải không? Đó là một trong năm ngọn núi linh thiêng của chúng tôi. Lịch sử của nó có rất nhiều chỉ dẫn. Cách đây hơn hai nghìn năm, một ngôi đền đạo Lão được xây dựng ở chân sườn núi phía Tây. Ngôi đền này quy tụ nhiều nhà hiền triết, họ tin rằng vị thần của những thế giới ẩn giấu sống trên đỉnh dãy núi này. Khấu Khiêm Chi, một vị thiền sư sống vào thế kỷ thứ năm, đã lập ra trật tự bầu trời phương Bắc, ông thề đã có một khám phá trọng đại, một sự thần khải, ông nói. Hoa Sơn gồm năm đỉnh, đông, tây, bắc và nam và đỉnh trung tâm, nhưng các vị miêu tả hình dạng chung của nó thế nào?
- Nhọn, Keira đáp.
- Tôi mời hai vị mở mắt ra nhìn, hãy nhìn Hoa Sơn cho thật kỹ và ngẫm xem.
- Nó có hình tam giác, tôi nói với vị sư.
- Quả đúng vậy, nó có hình tam giác. Và vào đầu tháng Mười hai, đỉnh cao nhất khoác lên mình một lớp áo tuyết đẹp tuyệt trần. Trước kia, lớp tuyết này không tan, nhưng ngày nay, tuyết sẽ tan vào cuối xuân, chỉ đến đông mới xuất hiện trở lại. Tôi tiếc là cá vị không thể lưu lại lâu hơn để khám phá Hoa Sơn vào mùa này, cảnh vật đẹp đến không gì so sánh nổi. Giờ thì tôi có một câu hỏi cuối cùng, tuyết có màu gì?
- Trắng... , Keira thì thầm và bắt đầu hiểu ra điều vị sư muốn chúng tôi tự khám phá.
- Tòa kim tự tháp màu trắng đang ở ngay trươc smắt hai vị, các vị đã hiểu tại sao tôi lại cười khi nghe hai vị kể chuyện hôm qua rồi đấy.
- Nhất định chúng tôi phải đến đó! Keira nói.
- Ngọn núi này đặc biệt nguy hiểm, nhà sư nói tiếp. Đúng là có một con đường được tạc vào vách đá dọc theo mỗi sườn núi, đó là con đường linh thiêng. Nó dẫn lên đỉnh núi cao nhất, không chỉ đỉnh Hoa Sơn mà cả năm đỉnh núi thiêng của Trung Quốc, người ta đặt tên cho nó là cột Mây.
- Ông vừa nói là cột ư? Keira hỏi lại.
- Phải, xưa kia người ta gọi đỉnh núi này như vậy. Hai vị thực sự chắc chắn mình muốn tới đó? Dấn thân vào con đường thiêng đầy rẫy nguy hiểm ấy.
Tôi chỉ cần nhìn Keira là hiểu rằng, dù nguy cơ lớn đến thế nào chúng tôi vẫn sẽ leo lên các đỉnh Hoa Sơn. Cô ấy đang quyết tâm hơn bao giờ hết. Vị trụ trì miêu tả cho chúng tôi kỹ lưỡng những gì đang chờ phía trước. Mười lăm kilômét bậc thang được tạc vào vách núi dẫn tới ngọn đầu tiên; từ đó, các cầu treo gắn vào vách đá cho phép vượt qua vực sâu và vòng qua các sườn núi khác. Con đường thiêng cho phép những kẻ liều lĩnh nhất, những kẻ quả cảm nhất, những người vì một niềm tin không thể lay chuyển được, đi qua để đến với ngôi đền thờ Thần linh được xây dựng ở độ cao hai nghìn sáu trăm mét trên đỉnh phía Bắc.
- Một bước sai lầm nhỏ nhất thôi, một bước chệch hướng nhỏ nhất thôi cũng nguy hiểm đến tính mạng rồi. Hãy chú ý đến lớp băng mùa này vẫn thường che phủ những bậc đá trên cùng. Cẩn thận kẻo trượt chân, hiếm có chỗ để bám vịn lắm. Nếu một trong số hai vị ngã, người kia không được cố cứu vì làm vậy cả hai sẽ lao thẳng xuống vực.
Chúng tôi đã được cảnh báo, nhưng vị trụ trì không tìm cách làm chúng tôi nản chí. Ông mời chúng tôi thay quần áo, nói chúng tôi có thể để đồ đạc lại đây. Chiếc xe đỗ lại bìa rừng thấp cũng sẽ không gặp phải vấn đề gì. Giữa buổi sáng, chúng tôi đã ngồi lên một chiếc xe ba gác do lừa kéo. Nhà sư cầm cương điều khiển lừa đưa chúng tôi ra tận đường cái. Vị này vẫy một chiếc xe tải nhỏ đi ngang qua, nói chuyện với tài xế rồi ra hiệu cho chúng tôi ngồi phía sau xe. Một tiếng sau, xe dừng lại lưng chừng núi. Tài xế chỉ một lối đi hiện ra giữa rừng thông.
Chúng tôi đánh liều đi bộ băng rừng. Từ xa Keira đã nhìn thấy những bậc thang vị trụ trì vừa nhắc tới. Ba tiếng đồng hồ tiếp theo gian nan hơn tôi tưởng. Càng leo, tôi thấy các bậc dường như càng cao hơn, và đó không chỉ là cảm giác, độ dốc ngày càng dựng đứng. Từ đó trở đi, chúng tôi không phải đang leo thang mà đúng hơn là leo trên một thang đá gần như thẳng đứng. Họa là điên mới quay lại nhìn xuống phía dưới, cách duy nhất để tiến lên là không rời mắt khỏi đỉnh núi.
Phần đầu tiên của cuộc leo núi dẫn chúng tôi đến với Những nấc thang lên Thiên đường. Dọc theo đỉnh núi, các bậc thang lấy lại hình dáng gần như nằm ngang và tôi đã hiểu tại sao chúng lại có tên như vậy: người nào sảy chân tại đây sẽ lên thẳng thiên đường.
Xa một chút nữa lại có các bậc thang dẫn lên.
- Lẽ ra em không bao giờ nên làm thế, Keira vừa nói vừa bám vào vách đá.
- Không làm gì?
- Kéo anh tới đây. Lẽ ra em nên nghe lời vị trụ trì, chả gì thì ông ấy cũng cảnh báo chúng tôi là sẽ gặp nhiều nguy hiểm.
- Theo anh được biết thì anh cũng có nghe lời ông lão ấy hơn em đâu, vả lại giờ không phải lúc tranh luận, em còn nhớ ông lão nói gì với chúng ta không, chỉ hơi lơ là dù nhỏ nhất cũng nguy hại đến tính mạng, vậy em nên tập trung đi.
Giờ thì chúng tôi đã đến núi Thương Long. Ở đây, một vài cây thông tán lọng rải rác khắp núi và biến mất trong khi chúng tôi vượt qua đường mòn Kim Thục.
- Ít ra em cũng biết chúng ta đang tìm kiếm thứ gì? tôi hỏi Keira.
- Em không rõ nhưng em biết em sẽ tìm ra lúc thích hợp.
Cơ bắp của chúng tôi đau nhức rã rời, hai chân tôi không còn cảm giác nữa; ba lần chúng tôi suýt tuột tay, cả ba lần chúng tôi vừa kịp lấy lại thăng bằng. Mặt trời đã lên đỉnh, ở cuối con đường mòn, đường chia làm hai ngả. Một dẫn tới đỉnh phía Tây, một dẫn tới phía Bắc. Các thanh ván đặt lên đinh khuy cắm vào vách núi cho phép tiếp tục trèo lên. Như vị trụ trì đã miêu tả, không còn thứ gì khác để chúng tôi bám víu vào.
- Cảnh vật hùng vĩ quá, nhưng chớ có nhìn xuống phía dưới, Keira nài nỉ.
- Anh không định làm thế đâu.
Ở đoạn leo này, tôi cảm thấy mối nguy hiểm hiện hữu hơn bao giờ hết. Gió nổi lên, buộc chúng tôi phải co người lại để không bị thổi phăng vào khoảng không. Chúng tôi sẽ phải ở trong tình trạng này bao lâu nữa? Tôi không biết, nhưng nếu thời tiết xấu đi, chúng tôi sẽ không có cơ may nào để thoát ra một khi màn đêm buông xuống.
- Anh muốn quay lại à? Keira hỏi tôi.
- Không, không phải bây giờ, vả lại anh biết em mà, ngày mai em sẽ lại bắt đầu và anh sẽ không vượt qua đoạn đường vừa rồi dù để đổi lấy bất cứ thứ gì trên đời.
- Vậy thì chúng ta hãy đợi để cơn gió này lặng đi.
Keira và tôi tựa vào nhau. Một cái hốc ngoằn ngoèo trong vách đá cho chúng tôi chỗ trú tạm. Gió quất ràn rạt; từ đằng xa, chúng tôi có thể trông thấy những ngọn thông rạp đi mỗi khi cơn cuồng phong đập vào vách núi.
- Em dám chắc là cơn gió khốn kiếp này sẽ lặng đi thôi, Keira bảo.
Tôi không thể hình dung chúng tôi sẽ hết đời ở đây, không thể hình dung rằng một tờ nhật báo, phát hành tại Luân Đôn cũng như tại Paris, thuật lại trong khoảng vài dòng cái chết của hai vị du khách bất cẩn trên đường thám hiểm đỉnh Hoa Sơn. Tôi vẫn còn nghe văng vẳng giọng Walter bảo rằng tôi vụng về đến mức nào và tôi sẽ không giận nếu hắn có lặp lại câu phê phán ấy vào đúng thời điểm này. Chân Keira bị chuột rút, và cơn đau trở nên không thể chịu nổi.
- Em không thể chịu thêm nữa rồi, em phải đứng dậy đây, cô ấy nói, và tôi chưa kịp nhận thấy chuyện gì đang diễn ra thì chân cô ấy đã trượt đi. Cô ấy kêu một tiếng khô khốc rồi hẫng về phía vực thẳm. Tôi lao tới, tới tận hôm nay tôi vẫn không hiểu phép màu nào đã giúp tôi giữ thăng bằng vào lúc ấy. Tôi tóm lấy cổ áo khoác của cô ấy, và kịp túm lấy cánh tay cô ấy. Cô ấy đu đưa trong không trung; gió thổi mạnh hơn, quất vào chúng tôi. Tôi vẫn còn nghe thấy cô ấy thét lên.
- Adrian, đừng buông em ra!
Tôi đã cố thu hết sức bình sinh kéo cô ấy lên, gió lại thổi văng cô ấy đi. Cô ấy bám vào vách đá. Nằm dài trên mép vực, tôi kéo quần áo cô ấy.
- Em phải giúp anh một chút, tôi kêu lên với cô ấy. Đạp chân lên đi, khỉ thật!
Hành động nguy hiểm. Để có một cơ may thoát ra, cô ấy phải dũng cảm buông một tay ra và bám vào tôi.
Nếu vị thần cai quản các thế giới ấy có tồn tại thì hẳn ngài đã nghe thấy lời cầu nguyện của Keira. Gió ngừng thổi.
Cô ấy đã thả lỏng mấy ngón tay phải, đu đưa trong khoảng không và bám được vào tôi. Lần này, tôi đã có thể kéo cô ấy lên cầu treo.
Phải hơn một tiếng sau chúng tôi mới có thể bình tĩnh lại. Nỗi sợ không biến mất, nhưng leo trở xuống vào lúc này cũng đáng sợ chẳng kém gì việc tiếp tục leo lên. Keira chậm rãi đứng dậy và giúp tôi đứng lên. Khi nhìn thấy vách đá đang đợi phía trước, nỗi sợ quay trở lại, lớn hơn trước. Ban nãy tôi đã ngu ngốc thế nào mà không đồng ý với Keira khi cô ấy đề nghị quay lại thế nhỉ? Tôi có nên hoàn toàn vô ý thức để lôi kéo chúng tôi vào một cuộc phiêu lưu điên rồ đến thế này không? Keira hẳn cũng nghĩ như tôi, cô ấy ngẩng đầu lên và ước lượng khoảng cách từ chỗ chúng tôi đang đứng lên đến đỉnh núi. Ngôi đền nằm trên đỉnh núi cao nhất hẳn vẫn còn xa. Một chiếc thang bằng kim loại treo thẳng đứng. Nếu các bậc thang không trơn đến thế, nếu thung lũng không trải rộng bên dưới cách chỗ chúng tôi đặt chân hai nghìn mét, thì đó cũng chỉ đơn giản là một cái thang, tuy thế cũng có đến năm trăm bậc. Đích đến của hành trình ở cách đầu chúng tôi một trăm năm mươi mét Quan trọng là giữ được bình tĩnh. Keira hỏi liệu bây giờ tôi có thể nói cho cô ấy nghe danh sách những điều tôi thích ở cô ấy không.
- Giờ là lúc thực sự thích hợp rồi đấy, cô ấy bảo. Em sẽ không cưỡng lại việc đổi ý đâu.
Tôi những muốn mình có thể làm thế, danh sách đủ dài để buộc cô ấy phải tập trung chú ý đến khi chúng tôi lên tới ngôi đền thờ đáng nguyền rủa kia, nhưng nhìn xem tay mình phải bám vào đâu là điều duy nhất tôi có thể làm lúc bấy giờ. Chúng tôi tiếp tục leo trong yên lặng tuyệt đối.
Chúng tôi vẫn chưa qua hết khổ nạn. Còn phải vượt qua một cây cầu treo dài nữa, cây cầu rộng không quá một bàn chân.
° ° °
Bấy giờ là gần sáu giờ chiều, màn đêm đang dần buông và tôi chỉ cho Keira rằng nếu ngôi đền không lọt vào tầm mắt trong vòng nửa giờ tới, chúng tôi thực sự sẽ phải bắt tay vào việc tìm một chỗ nghỉ qua đêm. Điều mà tôi vừa nói thật vô lý, chúng tôi đang leo dọc vách núi và không có bất cứ chỗ nghỉ nào hết, trước mặt chẳng có mà sau lưng cũng không.
Keira bắt đầu kiểm soát cơn chóng mặt tốt hơn. Các cử chỉ của cô ấy trở nên uyển chuyển hơn, cô ấy leo lên nhanh nhẹn. Có lẽ cô ấy giỏi che giấu nỗi sợ hơn tôi.
Cuối cùng thì đằng sau sườn núi chúng tôi vừa leo cũng hiện ra ngọn núi trải dài về phía đỉnh cao nhất của dãy núi. Một vùng cao nguyên trông xuống thung lũng nơi hiện ra, như trong một giấc mơ, một ngôi đền lợp ngói đỏ.
Kiệt sức, Keira khuỵu gối xuống sườn dốc dịu mát trong bóng râm của những cây sồi lớn. Không khí trong lành đến nỗi như nung đốt cổ họng chúng tôi.
Ngôi đền trông thật ấn tượng. Nền được tạc vào trong vách đá, mặt tiền hai tầng gồm sáu cửa sổ lớn. Một cầu thang dẫn đến lối vào. Đằng trước mảnh sân hẹp là ngôi đền phần mái trước hơi đổ bóng. Tôi nhớ lại đoạn đường gian nan vừa dẫn chúng tôi tới tận đây và tự hỏi phép màu nào đã giúp con người xây nên một công trình nhưng? Những bức khắc gỗ bao quanh các khung cửa phải chăng đã được gia công tại chỗ trước khi ghép lại?
- Chúng ta đến nơi rồi, Keira nói, mắt ngân ngấn nước.
- Phải, chúng ta đến nơi rồi.
- Nhìn đằng sau anh mà xem, cô ấy bảo.
Tôi quay lại và nhìn thấy một bức điêu khắc đá, một con rồng kỳ lạ có lớp bờm dày trên đầu.
- Đó là một con sư tử, cô ấy nói, một con sư tử đơn độc, và dưới chân nó... quả cầu này!
Keira bật khóc, tôi ôm cô ấy.
- Nhưng em đang nói về cái gì thế?
Cô ấy lấy từ trong túi áo ra một tờ thư, mở nó ra rồi đọc cho tôi nghe: Sư tử ngủ trên hòn đá tri thức.
Chúng tôi lại gần pho tượng. Keira cúi xuống để nhìn ngắm nó kỹ hơn. Cô ấy săm soi quả địa cầu nơi con sư tử đặt chân, như một người lính gác kiêu bạc.
- Em thấy gì không?
- Những rãnh nhỏ xíu quanh quả địa cầu, ngoài ra không có gì khác, nhưng chắc em bỏ qua điểm cốt yếu rồi. Hòn đá bị xói mòn.
Tôi nhìn vầng dương đang lặn phía chân trời, lúc này đã quá muộn để nghĩ đến chuyện leo trở xuống. Chúng tôi phải nghỉ qua đêm tại đây. Ngôi đền thờ sẽ giúp chúng tôi khỏi lạnh; nhưng nó vẫn mở thông thống và tôi e rằng đến giữa đêm chúng tôi sẽ rét cóng. Để mặc Keira nghiên cứu quả địa cầu đang thu hút toàn bộ sự chú ý của cô ấy, tôi bước tới mấy gốc thông trên sườn dốc. Tôi nhặt một ôm cành thông rụng dưới gốc và một vài quả thông vẫn đang tỏa mùi nhựa. Khi quay lại sân, tôi nhóm lên một đống lửa.
- Em mệt quá, Keira nói khi quay trở lại với tôi. Em lạnh nữa, cô ấy nói thêm và xoa xoa tay hơ lên những ngọn lửa đầu tiên. Và nếu anh bảo em là anh có thứ gì ăn được, em sẽ cưới anh!
Tôi đã cẩn thận cất giữ vài chiếc bánh quy khô mà vị trụ trì dúi vào túi áo tôi trước khi chúng tôi lên đường. Tôi đợi thêm lát nữa trước khi đưa cô ấy một chiếc bánh.
Chúng tôi tìm ra chỗ trú trong một căn phòng kín gió hơn. Cả hai đã mệt lử sau cuộc hành trình và chỉ nằm một chốc là ngủ thiếp đi.
Tiếng kêu của một con đại bàng đánh thức chúng tôi vào lúc sáng sớm tinh mơ. Chúng tôi bị ướp lạnh. Túi áo tôi rỗng tuếch hệt như dạ dày chúng tôi, cơn khát bắt đầu dâng lên. Đường leo xuống cũng sẽ nguy hiểm không kém gì đường lên, ngay cả khi lần này trọng lực về phe chúng tôi. Keira muốn nhấc chân con sư tử lên, tịch thu quả địa cầu của nó để tha hồ nghiên cứu. Nhưng con mãnh thú đứng sừng sững, canh gác quả địa cầu như canh gác một kho báu.
Đốm lửa hôm qua chẳng còn lại gì nhiều, chúng tôi không có đủ củi để nhóm lại, tuy thế, cảnh vật nơi đây hài hòa hoàn hảo tới mức tôi không muốn bẻ dù chỉ là một cành cây nhỏ. Keira nhìn đám tro tàn. Cô ấy chạy vội đến rồi quỳ xuống để gạt bỏ đám than vẫn còn nóng sáng.
- Giúp em nhặt lại những mẩu than chưa cháy đi, em cần vài ba mẩu gì đó.
Cô ấy vớ lấy một hòn, to ngang một cây phu danh, và chạy lại chỗ con sư tử. Rồi cô ấy bắt đầu bôi đen hòn đá hình tròn mà con sư tử vẫn ra sức bảo vệ. Tôi nhìn cô ấy vẻ nghi hoặc. Phá hoại văn vật không phải là thói quen của cô ấy, ngược lại mới đúng; tại sao bỗng dưng cô ấy lại dùng cách ấy để bôi bẩn hòn đá cổ như vậy?
- Thời đi học anh chưa bao giờ quay cóp sao? Cô ấy nhìn tôi hỏi.
Thậm chí tôi sẽ không chuyển qua lời thú nhận đầu tiên, đó sẽ là một cực điểm, nếu xét đến tình huống trong lần chúng tôi gặp gỡ.
- Anh có nên hiểu là qua câu nói này em đã tự thú nhận là mình từng quay cóp không nhỉ? Tôi hỏi và lấy lại vẻ mặt giám thị của mình.
- Không hề, em đâu có nói với anh về em.
- Anh chẳng có kỷ niệm nào về gian lận thi cử, không. Và dù anh có làm thế đi chăng nữa, nếu em nghĩ là anh sẽ tiết lộ cho em biết thì đúng là em đang mơ rồi đấy.
- Được lắm, một ngày kia em sẽ đổi lời thú tội này lấy cái danh sách trứ danh liệt kê những điều em thích ở anh. Còn bây giờ, hãy cầm một viên than và tới đây giúp em bôi đen tảng đá này đi.
- Em đang nghịch ngợm gì thế?
Trong khi Keira tỉ mẩn quệt nhọ than lên tảng đá, tôi bỗng nhìn thấy xuất hiện một loạt các đường nét. Hệt như trò chơi ngày còn nhỏ chúng tôi thường chơi ở trường. Phải dùng đầu nhọn của compa khắc các con chữ lên một tờ giấy rồi lướt nhẹ đầu bút chì nét đậm để thấy hiện lên những con chữ như được khảm trên mặt giấy.
- Anh nhìn xem, Keira bảo tôi với giọng bồn chồn hơn bao giờ hết.
Trên nền đen, chúng tôi nhìn thấy hiện ra một loạt những con số đan xen với các dòng và điểm. Tảng đá được canh giữ cẩn mật bởi con sư tử này là một loại mô hình thiên cầu, chứng tỏ kiến thức thiên văn vượt trội của những người đã tạo ra nó hàng thế kỷ trước thời đại của chúng ta.
- Gì thế? Keira hỏi.
- Một dạng bản đồ thế giới, nhưng thay vì mô tả Trái dất, nó lại là bản đồ bầu trời, nói cách khác, nó mô tả hai bầu trời trên đầu chúng ta, bầu trời nhìn từ bán cầu Bắc và bầu trời nhìn từ bán cầu Nam.
Phát hiện vừa rồi của Keira thật tuyệt vời, tôi cần phải giải thích cho cô ấy cặn kẽ từng chi tiết.
- Xung quanh đường trung tuyến mà em đang thấy đây, đường tròn lớn này là chỗ giao nhau của mặt phẳng xích đạo với mặt cầu, gọi là xích đạo của bầu trời, nó chia quả cầu ra làm hai phần: bắc và nam. Ta có thể chiếu bất cứ điểm nào của Trái đất lên quả cầu bầu trời này; tất cả các thiên thể đều được biểu hiện trên đó, kể cả Mặt trời.
Tôi chỉ cho cô ấy hai đường tròn cực, các chí tuyến, thiên thực, con đường xuyên qua Mặt trời, được đánh mốc bằng các chòm sao hoàng đới; chính là các đường xuân phân và thu phân, hạ chí và đông chí.
- Khi Mặt trời cắt ngang mặt phẳng xích đạo, nghĩa là vào thời điểm xuân phân thu phân, độ dài của ngày bằng độ dài của đêm. Vòng tròn em nhìn thấy kia là hình chiếu của quỹ đạo Mặt trời lên địa cầu. Đây là Usrae minoris, ngôi sao anpha, thường được biết đến với tên gọi ngôi sao Cực, nó gần với cực Bắc bầu trời đến mức dường như bất động trên vòm trời. Vòng tròn lớn kia nữa là một kinh tuyến của bầu trời.
Hình ảnh thể hiện này đầy đủ tới mức tôi phải thú thật với cô ấy là trong đời tôi chưa từng được thấy thứ gì tương tự. Những mô hình thiên cầu đầu tiên được người Hy Lạp chế tạo ngay từ thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, nhưng những hình điêu khắc trên tảng đá này còn có niên đại cổ hơn nhiều.
Keira đã lấy bức thư trong túi ra, lật lại và sử dụng mặt sau tờ giấy để sao lại những hình khối hiện lên trên quả cầu. Cô ấy đưa một đường chì thành thạo.
- Anh đang làm gì vậy? cô ấy rời mắt khỏi bức vẽ, ngẩng lên nói với tôi.
Tôi cho cô ấy thấy chiếc máy ảnh tôi đã giấu trong túi từ khi chúng tôi đến Trung Quốc, không hiểu tại sao tôi lịa không dám thú nhận với cô ấy sớm hơn, rằng tôi vẫn hằng mơ được lưu giữ một vài khoảnh khắc trong chuyến đi của chúng tôi.
- Cái gì thế? Cô ấy biết thừa nhưng vẫn hỏi.
- Một ý tưởng của mẹ anh... máy ảnh dùng một lần.
- Mẹ anh xen vào chuyện này làm gì vậy? Anh có chiếc máy ảnh này lâu chưa?
- Anh đã mua tại Luân Đôn trước khi lên đường. Cứ coi nó như một thứ phụ kiện ngụy trang đi. Em đã bao giờ trông thấy khách du lịch không mang máy ảnh theo người chưa?
- Và anh đã dùng nó rồi à?
Tôi nói dối tệ kinh khủng, chi bằng chuyển ngay sang tiết mục thú tội.
- Anh đã chụp ảnh em hai ba lần gì đó, trong lúc em ngủ, cả khi em bị khó ở bên vệ đường, và mỗi lần em không chú ý tới anh. Đừng có làm vẻ mặt đó, anh chỉ muốn có vài kỷ niệm đem về thôi mà.
- Máy còn chụp được bao nhiêu kiểu nữa?
- Thực ra, đây là cái thứ hai, anh đã vứt đi một cái, cái này thì phim vẫn còn nguyên.
- Anh đã mua bao nhiêu cái máy ảnh dùng một lần thế?
- Bốn... năm, có lẽ vậy.
Tôi khá luống cuống và chỉ mong cuộc tranh luận này kết thúc thật nhanh. Tôi tiến đến gần con sư tử và bắt đầu chụp ảnh tảng đá hình tròn, chụp cận cảnh từng chi tiết.
Chúng tôi đã tập hợp đủ hình ảnh để có thể dựng lại toàn bộ những thông tin được chạm khắc trên đá. Tôi đã đo kích thước tảng đá bằng chiếc thắt lưng của mình, để có được một tỷ lệ so sánh khi về đến nhà. Ghép những tấm ảnh tôi vừa chụp với những bức vẽ của Keira, dù không có bản gốc thì chúng tôi vẫn sẽ sẵn có một bản sao chính xác. Đã đến lúc phải xuống núi. Nhìn vị trí của Mặt trời, tôi đoán chừng lúc đó khoảng mười giờ sáng, nếu đường xuống núi không gặp trở ngại gì, chúng tôi sẽ quay lại ngôi chùa phía dưới trước khi trời tối.
Chúng tôi mệt lử người khi xuống đến nơi. Các vị sư trong chùa đã chuẩn bị sẵn cho chúng tôi tất cả những gì cần thiết. Nước nóng để tắm rửa, một bữa ăn chế biến chủ yếu thành dạng xúp để bổ sung nước và nhiều cơm để hồi sức. Tối hôm đó vị trụ trì không xuất hiện. Các đệ tử của ông bảo ông đang tĩnh tâm nên không ai được phép làm phiền.
Sáng hôm sau chúng tôi mới được gặp ông. Ngoài một vài chỗ trầy da, mấy nốt phỏng ở bàn tay bàn chân, hình dạng của chúng tôi còn hơn là khá khẩm.
- Chẳng hay hai vị có hài lòng về chuyến chu du trên tòa kim tự tháp màu trắng không? Vị trụ trì vừa hỏi vừa tiến lại gần chúng tôi. Các vị đã tìm ra thứ gì cần chưa?
Keira liếc mắt nhìn tôi vẻ dò hỏi, có nên tin tưởng người này không? Trước hôm chúng tôi khởi hành, ông đã chứng tỏ cho tôi thấy mối quan tâm cá nhân đối với thiên văn học. Có lẽ ông ấy sẽ giúp chúng tôi sáng tỏ hơn. Tôi nói với vị trụ trì rằng chúng tôi đã tìm thấy thứ gì đó còn lạ lùng hơn những gì đã hình dung. Tôi đã làm cho vị trụ trì phát tò mò, nhưng để giải thích với ông ấy đó là thứ gì thì tôi cần phải rửa những bức ảnh vừa rồi, chúng sẽ tiết lộ được nhiều hơn tất cả những lời tôi giải thích.
- Hai vị làm tôi tò mò đấy, vị trụ trì nói. Nhưng tôi sẽ kiên nhẫn và đợi xem. Các đồ đệ của tôi sẽ dẫn hai vị ra xe. Hãy đi về phía Đông, cách bảy mươi cây số, hai vị sẽ tới Linh Bảo; đó là một trong những thành phố hiện đại đã mọc lên như cỏ dại vài năm gần đây, ở đó các vị sẽ tìm thấy thứ mình cần.
Chiếc xe bò chở chúng tôi tới chỗ đậu chiếc xe hai cầu. Hai tiếng sau khi rời khỏi chùa, chúng tôi tới trung tâm thành phố Linh Bảo. Trên con phố buôn bán sầm uất, các cửa hàng điện tử dành cho cả người Trung Quốc lẫn khách du lịch nối nhau san sát. Chúng tôi chọn ngẫu nhiên một trong số đó. Tôi giao chiếc máy ảnh một lần cho cậu nhân viên phụ trách quầy rửa ảnh và mười lăm phút sau, cậu này giao lại cho chúng tôi một xấp ảnh hai mươi tư kiểu đã chụp trên đỉnh Hoa Sơn, đổi lấy một trăm tệ, kèm đó là một thẻ nhớ lưu ảnh dưới dạng file.
- Anh có thể tranh thủ rửa những tấm ảnh anh chụp lúc em đang ngủ hay đang nôn bên vệ đường... để cho vào cuốn album của anh.
- Em nên nhớ là anh không nghĩ đến chuyện đó, tôi trả lời cô ấy với giọng không kém phần mỉa mai.
Một thứ máy kỳ lạ khiến tôi chú ý. Chiếc máy gồm một màn hình, một bàn phím và có cả những khe cắm đủ kích cỡ nơi ta có thể nhét vào loại thẻ mà cậu nhân viên vừa đưa cho tôi. Sau khi thả vào đó vài đồng tiền lẻ, ta có thể gửi ảnh qua Internet tới bất kỳ đâu trên thế giới. Rõ ràng là châu Á đầy rẫy sự thần tình trong lĩnh vực công nghệ.
Tôi rủ Keira đi theo mình, và trong vài phút đồng hồ, tôi gửi một bức mail đến hai người bạn, Erwan ở Atacama và Martyn ở Anh. Tôi lần lượt nhờ hai người phân tích hình ảnh này với sự chú tâm cao độ nhất và vui lòng nói cho tôi biết chúng gợi cho họ nhớ đến cái gì cũng như những kết luận khả dĩ chấp nhận được. Keira không có ảnh để gửi cho Jeanne, cô ấy đành gửi một tin nhắn, bịa rằng cô ấy vẫn đang ở thung lũng Omo, cam đoan với chị gái là mọi việc đều tốt đẹp và cô ấy nhớ chị gái nhiều.
Chúng tôi đã tranh thủ quãng thời gian ghé qua thành phố để mua vài thứ đồ nhu yếu phẩm. Keira nhất định muốn mua dầu gội; chúng tôi đã mất gần một tiếng đồng hồ để tìm nhãn hiệu phù hợp với cô ấy, tôi lưu ý cô ấy rằng một giờ đồng hồ, như thế có lẽ là hơi lâu nếu chỉ chọn dầu gội. Cô ấy liền vặc lại, nếu cô ấy không cầm tay tôi kéo đi, thì chúng tôi vẫn còn đang ở trong cửa hàng điện tử ấy chứ!
Chúng tôi đã đánh chén no say cơm, nước dùng và bánh kẹp, vậy mà cả Keira lẫn tôi đều không thể cưỡng lại được khi đứng trước quầy kính của một tiệm ăn nhanh nơi người ta phục vụ những chiếc hamburger chính hiệu, với khoai tây chiên và phô mai tan. Năm trăm calori cho mỗi đơn vị thức ăn, cô ấy bảo tôi, và nói thêm rằng kèm theo đó là năm trăm calori niềm vui thú thuần khiết.
Sau khi ăn trưa, chúng tôi về thẳng chùa. Lần này vị trụ trì của chúng tôi không thiền định nữa mà có vẻ như thậm chí ông ấy còn đang nóng lòng chờ chúng tôi quay về.
- Ẳnh rửa xong chưa? Ông ấy hỏi.
Tôi cho trụ trì xem chỗ ảnh và giải thích cho ông biết chúng tôi đã làm thế nào để phát lộ hình cầu thể hiện bầu trời được khắc vào đá.
- Điều hai vị vừa làm quả là một phát hiện ấn tượng. Hai vị có nghĩ đến chuyện trả hòn đá về trạng thái ban đầu không?
- Có chứ, Keira dáp, chúng tôi đã lau sạch nó bằng những phiến lá cũng ướt đẫm sương buổi sớm như chính chúng tôi vậy.
- Quyết định khôn ngoan đấy. Làm thế nào hai vị đến được chỗ con sư tử? vị sư hỏi.
- Đó là cả một câu chuyện dài, một câu chuyện dài không kém gì chuyến hành trình này.
- Chặng tiếp theo sẽ là gì đây?
- Nơi có mảnh sinh đôi của thứ này, Keira vừa đáp vừa cho trụ trì xem chiếc mặt dây chuyền của mình. Và chúng tôi nghĩ rằng tấm bản đồ bầu trời hình cầu phát hiện được trên đỉnh Hoa Sơn sẽ giúp chúng tôi xác định vị trí của nó. Bằng cách nào ư? Chúng tôi còn chưa biết, nhưng thêm một chút thời gian nữa, có lẽ chúng tôi sẽ nhìn thấy sáng rõ hơn.
- Cái vật đẹp đẽ này thực ra có chức năng gì vậy? vị trụ trì hỏi trong khi xem xét chiếc mặt dây chuyền của Keira kỹ hơn.
- Đó là một mảnh của bản đồ bầu trời đã được lập nên từ cách đây lâu hơn nhiều so với bản đồ bầu trời hình cầu mà chúng tôi đã tìm ra dưới chân con sư tử.
Vị trụ trì chăm chú nhìn thẳng vào mắt hai chúng tôi.
- Đi theo tôi, ông ấy nói với chúng tôi và kéo chúng tôi rời xa khỏi ngôi chùa.
Ông ấy dẫn chúng tôi tới tận gốc liễu nơi ba người đã cùng nhau đàm đạo rồi bảo chúng tôi ngồi xuống. Liệu chúng tôi có nên kể cho ông ấy nghe câu chuyện dài đang khiến ông ấy say mê để đổi lấy cách đối xử ân cần hiếu khách? Chúng tôi cảm thấy mình buộc phải làm vậy, và vui lòng thuận theo yêu cầu của trụ trì.
- Nếu tôi không nhầm, ông ấy kết luận, thì vật mà nữ thí chủ đeo trên cổ đây chính là một tấm bản đồ bầu trời của bốn trăm triệu năm trước; điều mà theo các vị là bất khả. Các vị nói rằng còn có những mảnh khác nữa của tấm bản đồ ngay lúc này còn chưa đầy đủ và khi tập hợp được tất cả các mảnh ghép hai vị có thể chứng minh tính xác thực của nó?
- Chính xác là vậy?
- Hai vị có chắc chắn đó là điều duy nhất vật đó có thể chứng minh không? Hai vị đã nghĩ đến những hệ lụy của khám phá này chưa, đến tất cả những chân lý đã được thiết lập trên thế giới này sẽ ngay lập tức bị xét lại?
Tôi thú thật là chúng tôi không có nhiều thời gian để thống kê những chuyện ấy, nhưng nếu việc các mảnh này hợp lại với nhau cho phép chúng ta biết nhiều hơn về nguồn gốc loài người, và biết đâu, thậm chí là về sự hình thành của Vũ trụ, vậy thì khám phá này quả là vô giá.
- Hai vị chắc chắn đến thế ư? Vị trụ trì hỏi. Hai vị đã tự hỏi tại sao thiên nhiên đã chọn xóa bỏ khỏi trí nhớ của chúng ta tất cả những kỷ niệm thời bé dại nhất không? Tại sao chúng ta không hề biết gì về những giây phút đầu tiên ta xuất hiện trên Trái đất này?
Dĩ nhiên Keira và tôi không thể trả lời được câu hỏi vị trụ trì vừa nêu.
- Hai vị có biết gì về những khó khăn mỗi linh hồn gặp phải khi nhập vào một thể xác và mang lại sự sống hồi sinh dưới dạng chúng ta thường thấy không? Thí chủ đây là nhà thiên văn, tôi có thể hình dung thí chủ đam mê tìm hiểu sự hình thành Vũ trụ đến mức nào, những khoảnh khắc đầu tiên, vụ nổ Big Bang nổi tiếng, vụ nổi năng lượng kỳ lạ tạo ra vật chất. Thí chủ có tin là những khoảnh khắc đầu tiên của một sự sống khác đến thế không? Sẽ không chỉ là một vấn đề quy mô? Vũ trụ rộng lớn vô cùng, còn chúng ta lại nhỏ bé vô cùng. Và biết đâu hai thời điểm bắt đầu ấy lại giống nhau ở một điểm nào đó? Tại sao con người lại luôn tìm kiếm ở tận xa xôi điều vẫn gần gũi với mình đến thế?
Có lẽ tự nhiên chọn xóa bỏ ký ức của chúng ta về những khoảnh khắc đầu tiên và bảo vệ chúng ta khi không cho chúng ta nhớ lại những khổ đau đã kinh qua để chiếm lĩnh sự sống. Và biết đâu, để không bao giờ chúng ta có thể tiết lộ bí mật của những khoảnh khắc đầu tiên ấy? Tôi thường tự hỏi điều gì sẽ xảy ra cho nhân loại nếu chúng ta thực sự hiểu được cả quá trình này? Con người tự cho mình là thần thánh hay sao? Cái gì sẽ ngăn con người khỏi phá hủy tất cả nếu họ biết cách sáng tạo ra sự sống theo ý muốn? Chúng ta sẽ tôn trọng cuộc sống này thế nào nếu chúng ta khám phá được bí ẩn của quá trình sáng tạo ra nó?
Tôi không có nghĩa vụ bảo các vị phải dừng chuyến đi này lại, cũng không thể phán xét cách thức tiến hành. Cuộc gặp của chúng ta có lẽ chỉ là duyên số. Vũ trụ này vẫn còn gây cảm hứng cho các vị chừng nào nó còn sở hữu những phẩm chất không thể nghi ngờ và chúng ta còn lâu mới biết được thế nào mới thực sự là duyên số. Tôi chỉ yêu cầu hai vị cân nhắc dọc đường đi, về điều hai vị đang thực sự tiến hành. Nếu chuyến đi này đã tác hợp cho hai vị gặp nhau, vậy thì có lẽ đó chính là ý đồ đầu tiên của nó, có lẽ khôn ngoan nhất là nên dừng lại tại đây.
Vị trụ trì trả lại chúng tôi xấp ảnh. Ông đứng dậy, chào từ biệt rồi quay về chùa.
Hôm sau, chúng tôi quay lại Linh Bảo. Chúng tôi tìm ra một quán cà phê internet, nơi chúng tôi có thể truy cập mạng và lần lượt đọc thư điện tử của từng người. Keira nhận được thư của chị gái cô ấy, còn tôi nhận được thư từ hai người bạn là nhà thiên văn học, cả hai đều yêu cầu tôi gọi ngay cho họ.
Tôi liên lạc với Erwan trước.
- Lần này tôi không biết cậu đang dính vào vụ gì nữa, anh ấy bảo, nhưng cậu thực sự bắt đầu khiến tôi tò mò rồi đấy. Tôi cũng không biết tại sao mình lại dành ra ngần ấy tiếng đồng hồ hùng hục làm cho cậu trong khi cậu chẳng nói gì với tôi cả, nhưng tôi đoán rằng sở dĩ có chuyện đó là bởi vì tôi là bạn cậu. Chuyện là thế này, tôi đang cương quyết chờ cậu ở đây với những lời giải thích, và cậu cũng sẽ trả cho tôi một bữa ăn ngon cho đêm trắng thứ hai liên tiếp mà cậu bắt tôi phải trải qua.
- Anh đã phát hiện ra điều gì hả Erwan?
- Bản đồ bầu trời hình cầu của cậu được kẻ trên một trục xác định. Tôi đã tiến hành một phép đạc tam giác, nối các tọa độ xích đạo, xích đạo và kinh tuyến trên mô hình thiên cầu cậu gửi lại với nhau để xác định độ thẳng và độ lệch. Tôi đã mất nhiều giờ để tìm vì sao nào được đánh dấu, nhưng tôi không tìm thấy gì hết, bạn thân mến ạ. Tôi thấy cậu cũng đã yêu cầu anh bạn Martyn chú ý đến vấn đề này, thử hỏi xem cậu ấy có phát hiện ra điều gì không, còn tôi thì tắc tị rồi.
Sau khi gác máy với Erwan, tôi gọi cho Martyn. Cậu ta vừa thức dậy và tôi xin lỗi vì đã làm phiền bạn lúc sáng sớm.
- Cái thứ cậu gửi cho tớ đúng là một trò ghép hình chết tiệt, bạn thân mến ạ. Nếu cậu tin là đã lừa được tớ như thế, thì tớ lật tẩy được trò bẫy của cậu rồi đấy.
Tôi để mặc cho cậu ta nói mà cảm thấy tim mình mỗi lúc một đập mạnh hơn.
- Dĩ nhiên rồi, Martyn tiếp, không có các tọa độ giờ đê đo các góc, tớ tự hỏi cậu đang chơi trò gì vậy. Đó là một mô hình thiên cầu tinh xảo. Mô hình đầy đủ nhất tớ từng thấy và nhất là lại chính xác vô cùng. Lại còn rõ ràng đến khó tin. Nào, giờ thì quay lại vấn đề nhé. Tớ tự hỏi nó đánh dấu ngôi sao nào, cho đến khi tớ hiểu ra rằng hình cầu này chỉ cho chúng ta một điểm, nhưng trái ngược với từ bầu trời nó chỉ một điểm trên Trái đất. Điểm mấu chốt duy nhất, tớ đã nhập tọa độ hiện thời vào và những tính toán của tớ cho thấy điểm này nằm giữa nơi trống không, giữa khơi Andaman thuộc miền Nam Myanma.
- Cậu có cách nào thực hiện lại các phép tính sau khi thay đổi tọa độ giờ tồn tại cách đây ba nghìn năm trăm năm không?
- Tại sao lại là khoảng thời gian đặc biệt ấy? Martyn hỏi.
- Bởi vì đó là niên đại của tảng đá nơi tớ tìm được những tọa độ này.
- Tớ phải tính toán lại nhiều tham số, tớ sẽ thử phóng thích một máy tính, nhưng tớ không dám hứa trước gì đâu, đợi tớ đến mai nhé.
Tôi cảm ơn cậu bạn vì đã vất vả giúp đỡ rồi gọi ngay cho Erwan để báo cho anh biết tin và nhờ anh làm cùng một phép tính với Martyn. Erwan cự nự một chút, nhưng anh vốn là tạng người luôn càu nhàu như thế, rồi anh cũng hứa với tôi ngày hôm sau sẽ báo kết quả.
Tôi kể cho Keira nghe những bước tiến đã đạt được trong khoảng thời gian ít ỏi như thế. Tôi còn nhớ chúng tôi đã mừng vui xiết bao, hăng hái xiết bao, cả hai đều ngây ngất với lời hứa đang chờ đơi. Chúng tôi không nghe theo những lời cảnh báo của vị trụ trì. Chỉ có khoa học là đáng kể, và nhu cầu được thỏa mãn khát khao khám phá mạnh hơn tất thảy.
- Em không muốn quay lại Giường và Bữa sáng kiểu tu hành của chúng ta nữa đâu, Keira bảo tôi. Không phải vì trụ trì tiếp đãi không chu đáo, ngược lại thì đúng hơn, nhưng các bài học đạo đức của ông ấy hơi phiền phức. Vì đằng nào cũng phải đợi đến mai, chi bằng anh và em, chúng ta chơi trò du khách thực sự? Đông Hoàng Hà ngay gần đây, chúng ta tới tham quan đi, anh có thể chụp ảnh, ngay cả khi em đang chú ý đến anh, bởi nếu anh tìm ra cho chúng ta một góc nhỏ yên tĩnh nào đó để tắm, em định sẽ dành cho anh nhiều sự quan tâm hơn là anh có thể hình dung đấy.
Buổi chiều hôm đó, chúng tôi bơi mình trần trên sông. Keira hạnh phúc, tôi cũng hạnh phúc không kém. Tôi đã quên khuấy cao nguyên Atacama, Luân Đôn và bầu không khí êm dịu của khu phố nơi tôi ở khi mưa chảy ròng ròng trên đỉnh đồi Primrose, tôi đã quên khuấy Hydra, mẹ tôi, dì Elena, Kalibanos và đàn lừa có hai tốc độ của lão. Tôi quên khuấy rằng tôi có thể mất toàn bộ cơ hội giảng dạy năm tiếp theo tại Học viện, nhưng tất cả những điều này đối với tôi không nhằm nhò gì. Keira đang ở trong vòng tay tôi, chúng tôi làm tình dưới làn nước Hoàng Hà trong vắt và không điều gì khác là đáng kể.
Chúng tôi không quay trở lại chùa; chúng tôi đã quyết định tìm một phòng khách sạn tại Linh Bảo. Keira mơ ước một chầu tắm ra trò còn tôi mơ một bữa tối thịnh soạn.
Một buổi tối tình tứ tại Linh Bảo; viết về nó cũng khiến tôi mỉm cười. Chúng tôi bước trên những con phố của thành phố dường như bất khả này. Keira tự cho là mình có tài chụp ảnh. Đến bờ sông, chúng tôi đã chụp gần hết phim của một chiếc máy ảnh, Keira đã mua một chiếcmáy khác để chụp ảnh chúng tôi trên đường phố. Cô ấy không muốn chúng tôi rửa ảnh ngay tại đây, cô ấy bảo như thế sẽ làm hỏng toàn bộ thú vui ngắm lại những khoảnh khắc này khi chúng tôi trở về Luân Đôn.
Tại sân hiên của một nhà hàng, Keira hỏi liệu tôi có thể liệt kê danh sách những gì tôi thích ở cô ấy không. Tôi hỏi lại liệu cô ấy có sẵn lòng nói cho tôi biết khi chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên trong phòng thi, cô ấy có đang quay cóp hay là không. Cô ấy từ chối, và tôi trả lời rằng, trong trường hợp này, cái danh sách trứ danh kia vẫn sẽ nằm trong vòng bí mật.
Chiếc giường tiện nghi trong phòng khách sạn đã khiến chúng tôi quên đi sự thô ráp của những manh chiếu trong chùa. Nhưng đêm hôm đó chúng tôi không dành nhiều thời gian để ngủ.
Chúng tôi ở cách Chilê mười hai múi giờ. Bây giờ là mười giờ sáng tại Linh Bảo, mười giờ tối tại Atacama. Tôi gọi cho Erwan.
Vẫn còn một chiếc kính viễn vọng bị hỏng, và tôi hiểu là mình đang làm phiền anh giữa một đợt bảo dưỡng. Tuy vậy anh vẫn nhận cuộc gọi của tôi và giải thích rằng trong khi tôi lặng lẽ đến Trung Quốc, thì anh ấy phải nằm dài trên một tảng đá kim loại, đang đánh vật với một đai ốc vẫn quyết liệt kháng cự anh. Tôi nghe thấy anh thở dài một tiếng rồi bật ra một tràng rủa xả. Anh vừa tự làm mình đứt tay, anh đang bực bội.
- Tôi đã thực hiện các phép tính cậu giao, anh bảo, và không biết tại sao tôi lại bực mình đến mức này, tôi bảo để cậu biết, đây là lần cuối cùng đấy! Các tọa độ của cậu vẫn ở biển Andaman, nhưng với những điều chỉnh mà tôi đã thực hiện, lần này thì cậu sẽ ở trên đất liền. Cậu có gì để ghi chép không?
Tôi vớ lấy một cây bút và tờ giấy rồi cuống cuồng kiểm tra xem cây bút còn mực không.
- 13o26'50" vĩ độ Bắc, 94o15'52" kinh độ Đông. Tôi đã xác minh cho cậu rồi, đó là đảo Narcondam, bốn cây số trên ba và không có người sinh sống. Về vị trí chính xác của các tọa độ, nó sẽ dẫn cậu đến đáy một ngọn núi lửa; tôi giữ tin tốt lành để báo cho cậu sau cùng đây, núi lửa này đã tắt! Giờ thì tôi có việc bận và tôi để mặc cậu với cơm và đũa của cậu đấy.
Erwan gác máy, thậm chí trước khi tôi kịp cảm ơn anh. Tôi tra giờ trên đồng hồ đeo tay, Martyn thường làm việc cả đêm, sự nôn nóng trong tôi lớn đến mức tôi đánh liều đánh thức anh.
Anh cung cấp cho tôi cùng những tọa độ đó.
Keira chờ tôi trong xe. Tôi kể cho cô ấy nghe từ đầu chí cuối hai cuộc điện thoại. Và khi cô ấy hỏi xem chúng tôi đi đâu, tôi nói đùa bằng cách nhập vào thiết bị định vị trên bảng điều khiển xe những con số mà Erwan và Martyn vừa cung cấp: 13o26'50" B, 94o15'52" Đ, trước khi tiết lộ với cô ấy chặng dừng chân tiếp theo của chúng tôi là ở miền Nam Myanma, trên một hòn đảo mang tên Giếng địa ngục.
Đảo Narcondam nằm cách mười giờ đi biển nếu tính từ mũi Nam của Myanma. Chúng tôi đã nghiên cứu trên một tấm bản đồ những cách khác nhau để tới đó, nhưng tất cả các con đường đều không dẫn tới Rangoon. Chúng tôi vào một hãng lữ hành để hỏi thông tin một nam nhân viên nói tiếng Anh tương đối chuẩn.
Sau hai giờ đường, chúng tôi có thể đi tới Tây An, chiều đáp máy bay đi Hà Nội và đợi đến ngày hôm sau sẽ có chuyến bay thường xuyên hai chuyến mỗi tuần tới Rangoon. Một khi đã tới miền Nam Myanma, chúng tôi phải tìm thuê một con tàu. Trong trường hợp thuận lợi nhất, chúng tôi sẽ mất từ ba đến bốn ngày để đến đảo.
- Phải có cách nào đó đơn giản hơn và nhanh hơn chứ nhỉ. Nếu chúng ta quay lại Bắc Kinh thì sao?
Nhân viên hãng lữ hành không bỏ sót lời nào trong cuộc trao đổi giữa chúng tôi. Ông ta cúi xuống quầy và hỏi liệu chúng tôi có ngoại tệ không. Từ lâu tôi đã học được chiêu là luôn phải mang theo đô la mỗi khi đi du lịch. Vài tờ bạc màu xanh có hình của Benjamin Franklin giải quyết được nhiều vấn đề tại đa số các nước trên thế giới. người nhân viên kể với chúng tôi về bạn của ông ta, một cựu phi công tiêm kích của không quân Trung Quốc đã mua lại của người chủ cũ một chiếc Lisunov cổ.
Ông này chuyên phục vụ các du khách thích cảm giác mạnh. Những lần bay của ông ta thực hiện trên phiên bản Nga của chiếc DC3 này thực ra dùng làm vỏ bọc cho một chuyến chở lậu hàng hóa đủ loại.
Từ Nam Á, đông đảo các công ty lậu thuê các cựu phi công quân đội về hưu vì thấy như thế chi phí sẽ rẻ hơn đôi chút. Thuốc phiện, rượu, vũ khí, ngoại tệ vận chuyển quá cảnh ngay trước mắt các nhà chức trách hải quan, giữa Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia và Myanma. Các máy bay được sử dụng vào những chuyến bay này không đáp ứng bất cứ tiêu chuẩn hiện hành nào, nhưng ai bận tâm đến chuyện đó cơ chứ? Người nhân viên hãng lữ hành cam đoan là có thể thu xếp vụ này giúp chúng tôi. Sẽ tốt hơn nhiều nếu đến Rangoon nơi chúng tôi còn phải lênh đênh trên biển mười tiếng lượt đi cũng như lượt về, người bạn phi công đó có thể cho máy bay hạ cánh xuống Cảng Blair, hòn đảo nhỏ nơi chúng tôi muốn đến sẽ chỉ còn cách bảy mươi hải lý. Một khách hàng bước vào tiệm, để chúng tôi vài phút ngẫm nghĩ.
- Chúng ta suýt thì nằm lại trên núi kia, em có muốn chúng ta thử vận may trên một chiếc máy bay cũ rích không? Tôi hỏi Keira.
- Chúng ta cũng có thể lạc quan và nhìn mọi việc theo hướng tích cực; chúng ta không ngã gãy cổ, trong khi chúng ta từng bị treo lủng lẳng như hai kẻ ngốc cách vực thẳm hai nghìn năm trăm mét, thì có gì là liều lĩnh khi bước lên một chiếc máy bay nhỉ, dù nó có xập xệ thế nào chăng nữa?
Quan điểm của Keira quả nhiên tỏ rõ thái độ lạc quan nào đó, nhưng không phải là hoàn toàn vô nghĩa. Đi theo cách này không phải là không nguy hiểm - chúng tôi không hề hay biết về nguồn gốc lô hàng bay cùng chuyến, cũng không biết những nguy cơ sẽ chuốc lấy nếu máy bay của chúng tôi bị đội tuần tra bờ biển chặn lại - nhưng giả sử mọi chuyện diễn ra suôn sẻ, ngay tối ngày hôm sau chúng tôi sẽ có mặt trên đảo Narcondam.
Vị khách hàng đã rời khỏi, chỉ còn lại chúng tôi với người nhân viên kia. Tôi đưa ông ta hai trăm đô tiền đặt cọc; ông ta nhìn đồng hồ đeo tay của tôi không rời mắt, tôi suy ra là nó sẽ trả công môi giới cho ông ta; tôi liền tháo nó ra, ông ta lập tức đeo vào cổ tay, sung sướng hết mức. Tôi hứa sẽ dốc sạch túi đưa cho người bạn phi công của ông ta, nếu đưa chúng tôi đến nơi an toàn. Tiền sẽ được thanh toán một nửa lúc đi, nửa còn lại thanh toán lúc về đến nơi.
Vụ làm ăn đã thỏa thuận xong. Ông ta khóa cửa tiệm lại rồi dẫn chúng tôi ra ngoài bằng lối cửa sau. Một chiếc xe máy dựng trong sân, ông ta ngồi lên, xếp Keira ngồi giữa, tôi chỉ còn một mẩu yên xe bé tẹo và cái đèo hàng để vịn tay. Chiếc xe máy nổ bình bịch trong khoảng sân nhỏ rồi chúng tôi rời thành phố và mười lăm phút sau vẫn phóng hết tốc lực trên con đường làng. Sân bay nhỏ nơi chúng tôi cất cánh chỉ là một con đường đất được vạch ra giữa cánh đồng với lán đỗ máy bay cũ kỹ gỉ sét nơi hai chiếc máy bay kiểu cổ đang nằm im lìm. Chúng tôi sẽ bay bằng chiếc lớn hơn.
Viên phi công có vẻ mặt của một tay cướp biển. Tôi thấy lẽ ra ông ta phải đóng một vai trong Pháo thuyền trên dòng Trường Giang. Gương mặt khắc khổ, một vết sẹo dài trên má, ông ta đúng là có dáng vẻ của một tay cướp biển miền Nam. Nhân viên hãng lữ hành có phần hơi đặc biệt của chúng tôi trao đổi với ông ta. Người đàn ông lắng nghe mà không tỏ ý phản đối, ông ta đến gặp tôi và chìa tay để tôi trả phần tiền công của mình. Hài lòng, ông ta chỉ cho tôi khoảng một chục hòm xiểng nằm ở cuối lán và ra hiệu cho tôi rằng, nếu muốn máy bay cất cánh, tôi nên giúp ông ta một tay. Mỗi lần chuyển cho ông ta một kiện hàng, mỗi lần nhìn thấy khoang đằng sau của máy bay khuất lấp dần, tôi lại cố gắng không nghĩ đến loại hàng hóa sẽ bay cùng với chúng tôi.
Keira ngồi ở ghế phụ lái còn tôi ngồi ở ghế hoa tiêu. Đúng ra là nhã nhặn, viên phi công cướp biển của chúng tôi nghiêng sang Keira nói với cô ấy, bằng một thứ tiếng Anh sơ đẳng, rằng chiếc máy bay này sản xuất từ thời hậu chiến. Cả Keira lẫn tôi đều không dám hỏi ông ta muốn nói cuộc chiến nào.
Ông ta yêu cầu chúng tôi thắt dây an toàn; tôi xin lỗi vì không tôn trọng hiệu lệnh an toàn này, thắt lưng an toàn trang bị cho chỗ ngồi của tôi đã biến mất. Bảng điều khiển bật sáng, hay đúng hơn là vài mặt đồng hồ, trong khi những cái kim khác vẫn nằm trơ khấc. Viên phi công kéo hai tay gạt, gạt một cơ số nút - ông ta có vẻ thạo việc - và hai động cơ Pratt & Whiney - nhãn hiệu có ghi trên nắp đậy - khạc ra một làn khói dày. Một chùm lửa tóe ra và các chong chóng bắt đầu quay tít. Đuôi máy bay xoay quanh; trượt như thể chúng tôi đang ở trên băng, máy bay xoay dọc theo đường băng. Tiếng động trong buồng lái trở nên đinh tai, mọi thứ rung chuyển. Tôi nhìn qua cửa sổ máy bay thấy người nhân viên hãng lữ hành đang khua khoắng ra hiệu với chúng tôi, tôi chưa bao giờ căm ghét ai đó như căm ghét gã này. Bị lay lắc mạnh, chúng tôi tăng tốc. Đoạn cuối đường băng sát lại gần theo cách đáng lo ngại. Tôi bỗng cảm thấy đuôi máy bay nhấc bổng lên, rốt cuộc chúng tôi cũng trồi lên cao. Tôi dám chắc chúng tôi vừa đẽo mất vài centimét ngọn cây bị bỏ lại đằng sau, nhưng chúng tôi đã lấy được độ cao qua từng phút một.
Viên phi công giải thích rằng chúng tôi sẽ không bay cao quá, để không lọt vào bán kính rađa. Ông ta vừa nói thế vừa cười nên tôi rút ra kết luận rằng không cần phải lo lắng chuyện đó.
Trong giờ bay đầu tiên, chúng tôi bay trên một thảo nguyên; viên phi công bay cao một chút khi phần địa hình hơi cao hiện ra đằng trước chúng tôi, hai tiếng sau, chúng tôi đang ở phía Đông Bắc Vân Nam. Viên phi công chuyển hướng, rẽ sang hướng chếch Nam. Đường đi sẽ dài hơn, nhưng cách tốt nhất để rời khỏi Trung Quốc là đi dọc theo biên giới Lào, hệ thống giám sát hàng không tại đó hầu như không tồn tại. Tôi không thể nói rằng, cho tới lúc đó, chuyến bay thực sự thoải mái, nhưng như thế không là gì nếu so sánh với điều xảy tới khi chúng tôi lọt vào một vùng hỗn loạn khi bay qua sông Mêkông. Gần tới con sông, viên phi công điều khiển máy bay bổ nhào xuống để bay là là mặt nước. Keira thấy như thế thật tuyệt. Có lẽ cảnh vật đẹp tuyệt vời, tôi không biết gì chuyện đó, mắt tôi gắn chặt vào cao kế. Tôi tự hỏi tại sao, bởi mỗi lần viên phi công chở chúng tôi vỗ vỗ lên trên, kim liền co giật và hạ xuống ngay lập tức. Chúng tôi bay trên lãnh thổ Lào trong vòng mười lăm phút trước khi lọt vào lãnh thổ Myanma. Hai mặt đồng hồ khác thu hút toàn bộ sự chú ý của tôi, dung tích nhiên liệu. Theo những gì tôi quan sát thấy, hai bình chứa chỉ còn một phần tư. Tôi hỏi viên phi công liệu bao lâu nữa chúng tôi sẽ đến nơi. Ông ta hiên ngang giơ hai ngón tay và gập nửa ngón thứ ba. Nếu xét đến lượng nhiên liệu tiêu hao từ lúc xuất phát, nếu thực sự chúng tôi còn bay hai tiếng rưỡi nữa, theo logic chúng tôi sẽ hết sạch xăng trước khi đến đích. Tôi chia sẻ sự suy diễn số học của mình với Keira, cô ấy chỉ nhún vai. Tôi chỉ thấy toàn núi là núi và không có nơi nào để chúng tôi hạ cánh tiếp thêm nhiên liệu. Tôi đã quên khuấy là người nhân viên hãng lữ hành đã nói rõ rằng bạn ông ta là một cựu phi công tiêm kích. Trong khi chúng tôi bay qua giữa hai con đèo, máy bay liệng đi trước khi thực hiện một cú treo cánh khiến dạ dày chúng tôi nhộn nhạo. Các động cơ kêu lọc xọc, khoang lái rung chuyển tứ phía, máy bay lấy lại thế gần như cân bằng và chúng tôi thấy đằng trước buồng lái một thứ từa tựa như đường đi dọc theo một con sông. Keira nhắm mắt lại; máy bay tiếp đất như một bông hoa rồi bất động. Viên phi công tắt công tắc điện, cởi dây an toàn ra và yêu cầu tôi đi theo ông ta. Ông ta dẫn tôi ra đằng sau khoang lái, tháo các dây đai chằng hai thùng phuy và ra hiệu cho tôi là giờ tôi phải giúp ông ta lăn chúng đến dưới hai cánh máy bay. Không còn gì để nói lại, khoản phục vụ trên máy bay đầy sáng tạo! Tôi đang đẩy cái thùng phuy mình phụ trách về phía cánh phải máy bay thì bỗng nhận ra một luồng bụi đang bốc lên ở cuối con đường. Hai chiếc xe jeep đang phóng về phía chúng tôi. Khi đã đến chỗ chúng tôi, bốn người đàn ông bước xuống xe. Họ trao đổi vài lời với viên phi công chở chúng tôi, đưa ông ta một xấp bạc mà tôi không kịp xác minh là loại ngoại tệ và dỡ trong vòng vài phút các hòm xiểng mà chúng tôi đã mất nhiều thời gian hơn thể để chất lên máy bay. Họ bỏ đi hệt như lúc đến, không chào hỏi, cũng không buồn giúp chúng tôi tiếp nhiên liệu.
Việc đổ đầy bình nhiên liệu được thực hiện với sự trợ giúp của một chiếc bơm điện nhỏ và mất khoảng nửa tiếng đồng hồ. Keira tranh thủ sưởi ấm đôi chân. Chúng tôi lại chất các thùng phuy rỗng lên đằng sau máy bay, chúng tôi cần chúng cho chuyến khứ hồi, và ai nấy trở về chỗ của mình trên máy bay. Bất chấp đám khói đen, bất chấp luồng lửa phụt ra, các chong chóng lại quay, và máy bay lao lên không trung, lách vừa đủ giữa hai con đeo nơi chúng tôi lao xuống ban nãy.
Chuyến bay trên không phận Myanma diễn ra suôn sẻ, ở độ cao còn thấp hơn để tránh bị phát hiện. Viên phi công chỉ cho chúng tôi thấy chút nữa máy bay sẽ hạ cánh xuống bờ biển, và chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ khám phá khoảng xanh rộng lớn của biển Andaman. Máy bay chuyển hướng chếch Nam. Chúng tôi bay là là trên mặt sóng. Lực lượng tuần tra bờ biển của nước này đề cao cảnh giác hơn nhiều so với những người hàng xóm Myanma. Keira chỉ cho tôi thấy một điểm ở chân trời. Viên phi công nhìn thiết bị định vị di động được treo bằng đai lủng lẳng trên bảng điều khiển, một mẫu mạnh và chính xác hơn những cái người ta mua để trang bị cho xe hơi.
- Mặt đất, viên phi công ngồi trong buồng lái hét lên.
Chúng tôi lại chuyển hướng lần nữa để vòng tránh bờ biển phía Đông của đảo, và sau khi đã thực hiện một chuyến là là mặt đất đầu tiên, máy bay ngoan ngoãn hạ cánh giữa một cánh đồng.
Cảng Blair cách đó mười phút cuốc bộ xuyên qua đồng ruộng. Viên phi công thu dọn đồ đạc cá nhân và đi cùng chúng tôi. Ông ta biết một nhà trọ nhỏ cho thuê phòng. Chúng tôi có thời gian còn lại trong ngày để dạo chơi trên biển, chuyến bay khứ hồi được ấn định vào sáng hôm sau. Viên phi công nhất định muốn trở lại lãnh thổ Trung Quốc vào buổi trưa. Khi các chuyên viên phụ trách rađa ăn trưa, họ thường không theo dõi màn hình kiểm soát của mình.
***
Cảng Blair
Chúng tôi lại lên đường, ngồi vào bàn tại sân hiên của một quán kem và mời viên phi công cùng thưởng thức.
Đầu thế kỷ hai mươi, Cảng Blair trở thành điểm neo đậu của các chiến hạm Hoàng gia hộ tống lính của họ về phía mặt trận trong cuộc chiến Anh-Myanma đầu tiên. Thủy thủ đoàn của các tàu cập bờ thường bị những thổ dân trên đảo nổi dậy chống lại quân xâm lược tấn công. Khi đế chế thực dân Anh bắt đầu tan rã, các lực lượng quân phản nghịch người Ấn cung cấp cho chính phủ của Bệ hạ nhiều tù binh hơn là các nhà tù của ngài có thể chứa. Một nhà giam cải tạo được xây dựng trên cảng nơi chúng tôi đang đứng. Các đồng hương của tôi đã bắt người dân đảo này chịu bao điều tủi nhục, và họ đã trút lên những người bị họ bắt giữ bao nhiêu hung bạo? Những đòn tra tấn, cách đối xử tàn bạo và giá treo cổ là số phận thường ngày của những tù nhân của nhà giam cải tạo; phần lớn tù nhân bị giam giữ vì duy nhất lý do chính trị. Nền độc lập của nước sở tại đã chấm dứt những điều ghê gớm này. Giữa biển Andaman, Cảng Blair đã trở thành một điểm nghỉ mát dành cho du khách bản địa. Phía trước chúng tôi có hai đứa trẻ đang đánh chén cây kem ốc quế trong khi hai bà mẹ tìm trong các cửa hiệu một chiếc mũ hay một chiếc khăn tắm biển. Khi liếc nhìn cái nhà giam cải tạo này, vì trên cảng vẫn hiện lên mấy bức tường nhà giam, tôi tự hỏi có ai còn nhớ đến những người đã chết tại đây nhân danh tự do.
Đến cuối bữa ăn, viên phi công giúp chúng tôi tìm một chiếc thuyền nhỏ sẽ chở chúng tôi tới Narcondam. Một chủ tàu đồng ý cho chúng tôi thuê một trong những thuyền máy cao tốc. May thay, ông ta cũng chấp nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng. Keira lưu ý là cứ đà này chuyến đi rốt cuộc sẽ khiến tôi phá sản và cô ấy có lý.
Trước khi ra khơi, tôi hỏi viên phi công liệu có thể cho tôi mượn thiết bị định vị được không, tôi viện cớ không thạo vùng này và sợ rằng chiếc la bàn gắn trên tàu là không đủ. Ý nghĩ cho tôi mượn thiết bị định vị chẳng khiến viên phi công thích thú gì, ông ta đáp rằng, nếu tôi đánh mất nó, chúng tôi sẽ không thể quay về Trung Quốc. Tôi hứa sẽ hết sức thận trọng.
Thời tiết thật lý tưởng và biển lặng sóng; với hai động cơ ba trăm mã lực trang bị cho chiếc thuyền, chúng tôi sẽ cập đảo Giếng địa ngục lâu nhất là trong vòng hai tiếng nữa.
Keira ngồi ở mũi thuyền. Ngồi vắt vẻo trên thành thuyền, cô ấy tận hưởng ánh nắng và làn gió mơn man. Cách bờ biển vài hải lý, sóng nổi lên và buộc cô ấy phải vào khoang lái với tôi. Chiếc thuyền lao nhanh, lướt trên ngọn sóng. Khi chúng tôi nhìn thấy bờ biển đảo Narcondam hiện ra trước mắt đã là sáu giờ chiều. Tôi vòng quanh hòn đảo nhỏ xíu và phát hiện bãi biển ở cuối một vũng nơi có thể đẩy thuyền lên bờ cát.
Tại chân ngọn núi lửa, Keira dẫn đầu. Chúng tôi phải leo bảy trăm mét xuyên qua các bụi cây trước khi đến được đỉnh. Chuyện này không dễ dàng gì. Tôi bật thiết bị định vị và nhập vào đó tọa độ mà Erwan và Martyn đã cung cấp.
***
Luân Đôn
13o26'50"B, 90o15'52"Đ.
Sir Ashton gập tờ giấy người trợ lý vừa đưa cho lại.
- Cái này nghĩa là gì?
- Tôi không rõ, thưa ngài, và tôi phải thú nhận là mình chẳng hiểu gì cả. Xe của họ đang đỗ trong một con phố tại Linh Bảo, phía bắc Trung Quốc và nó nằm chết gí ở đó từ sáng hôm qua. Họ chỉ nhập các tọa độ này vào thiết bị định vị gắn trên xe, nhưng tôi không cho là họ đến địa điểm này bằng đường bộ.
- Tại sao?
- Bởi vì tọa độ này sẽ dẫn họ tới một hòn đảo nhỏ nằm giữa biển Andaman; không dễ gì tới đó bằng ô tô, ngay cả với một chiếc xe hai cầu.
- Hòn đảo đó có gì đặc biệt?
- Đúng ra là chẳng có gì hết, thưa ngài, đó chỉ là một hòn đảo nhỏ xíu có núi lửa. Ngoại trừ vài con chim, đảo hoàn toàn không có người sinh sống.
- Và ngọn núi lửa trên đảo còn hoạt động không?
- Không, thưa ngài, nó đã không phun trào thêm lần nào kể từ hơn bốn nghìn năm nay.
- Chúng đã rời Trung Quốc để đến hòn đảo khốn kiếp ấy ư?
- Không, chưa đâu, thưa ngài, chúng tôi đã xác minh tại tất cả các hãng hàng không, không hề có dấu vết gì của họ; hơn nữa, theo thiết bị theo dõi chúng tôi đã gắn lên đồng hồ đeo tay của nhà vật lý thiên văn thì họ vẫn ở trung tâm thành phố Linh Bảo.
Sir Ashton đẩy chiếc ghế bành đang ngồi lùi lại rồi đứng dậy.
- Trò đùa này kéo dài đủ rồi đấy! Đặt cho tôi một vé trên chuyến bay đầu tiên tới Bắc Kinh. Cứ một chiếc ô tô và hai người nữa đón tôi tại sân bay Bắc Kinh. Đã đến lúc chấm dứt toàn bộ chuyện này trước khi quá muộn.
Sir Ashton lấy sổ chi phiếu từ trong ngăn kéo bàn làm việc và rút ra một cây bút từ túi áo vest.
- Cậu cứ thanh toán tiền mua vé máy bay bằng thẻ tín dụng cá nhân, tôi để cậu tự ghi trên tấm séc này số tiền cần thiết để trả lại cậu. Tôi muốn người ta không biết tôi đi đâu. Nếu có ai tìm cách gặp tôi, nhớ ghi lại lời nhắn, nói với họ rằng tôi đang mệt và tôi về nông thôn nghỉ ngơi tại nhà bạn.
***
Đảo Giếng địa ngục
Tôi đã tính toán là bốn tiếng nữa màn đêm sẽ buông xuống. Tôi không muốn đi biển trong đêm tối, vậy là chúng tôi sẽ không còn nhiều thời gian. Keira là người đầu tiên lên đến đỉnh núi.
- Anh nhanh lên, tuyệt lắm, cô ấy giục.
Tôi rảo bước leo để lên gặp cô ấy. Cô ấy không quá lời chút nào, một hệ thực vật phong phú phủ đầy miệng núi lửa. Một chú chim tu căng bị chúng tôi làm phiền vút bay lên trời. Tôi kiểm tra thiết bị định vị, độ chính xác của nó là năm mét. Điểm đang nhấp nháy gần sát vị trí trung tâm màn hình, chúng tôi không còn xa đích mấy nữa.
Tôi ngắm nhìn cảnh vật bên dưới và phát hiện ra rằng mình có thể bỏ qua thiết bị định vị mượn của viên phi công. Chính giữa núi lửa hiện ra một khoảnh đất nhỏ không hề có cỏ mọc.
Keira bước vội tới đó. Tôi không được phép lại gần.
Cô ấy quỳ xuống và bới đất. Cô ấy cầm một hòn đá nhọn, vạch ra một hình vuông và bắt đầu đào; các ngón tay cô ấy xới lên toàn bụi, nữa và nữa.
Một tiếng đồng hồ trôi qua, Keira vẫn chưa ngừng đào bới. Một gò đất nhỏ đã mọc lên cạnh cô ấy. Cô ấy đã thấm mệt, trán nhễ nhại mồ hôi, tôi muốn đào tiếp thay Keira nhưng cô ấy ra lệnh cho tôi không được lại gần; thế rồi, cô ấy bỗng gào lên gọi tên tôi.
Trong bàn tay cô ấy lấp lảnh một mảnh vật liệu trơn nhẵn và cứng như gỗ mun, hình dạng gần như tam giác, màu sắc cũng giống gỗ mun. Keira tháo sợi dây đang đeo quanh cổ, đưa chiếc mặt dây chuyền gần sát lại và hai mảnh hút vào nhau trước khi nhập thành một.
Vừa khít vào nhau, chúng liền đổi màu. Từ màu đen của gỗ mun ngả sang màu xanh lơ của trời đêm. Bỗng nhiên hàng triệu điểm phát sáng lấp lánh trên bề mặt của hai mảnh vừa hợp lại, hàng triệu ngôi sao, như cách chúng hiện ra trên bầu trời cách đây bốn trăm triệu năm.
Tôi cảm thấy dưới những ngón tay mình hơi ấm của đồ vật. Các điểm đó ngày càng lấp lánh và trong số chúng, có một điểm lấp lánh rõ hơn các điểm khác. Phải chăng đó là ngôi sao của ngày đầu tiên, ngôi sao mà tôi đã rình đợi từ thuở ấu thơ, ngôi sao tôi đã đi tìm trong lúc lưu lạc lên các cao nguyên của Chilê?
Keira nhẹ nhàng đặt đồ vật xuống đất. Cô ấy ôm tôi rồi hôn tôi. Trời vẫn sáng, tuy nhiên, dưới chân chúng tôi vẫn lấp lánh cái đêm đẹp nhất mà chúng tôi chưa từng thấy trong đời.
Không dễ gì tách hai mảnh ra làm đôi lần nữa. Chúng tôi đã chia nhau mỗi người cầm một mảnh mà kéo thật lực nhưng vô ích, món đồ vẫn không suy suyển.
Rồi độ lấp lánh giảm đi và tắt hẳn. Lần này, chỉ cần dùng sức một chút là tách được hai mảnh ra.
Keira lại đeo sợi dây lên cổ, còn tôi cất mảnh kia vào túi áo.
Chúng tôi nhìn nhau, ai nấy đều tự hỏi sẽ xảy ra chuyện gì, nếu một ngày nào đó chúng tôi tập hợp đủ năm mảnh ghép.
***
Linh Bảo, Trung Quốc
Chiếc Lisunov hạ cánh xuống đường băng và chạy trên bánh xe đến lán đỗ riêng. Viên phi công giúp Keira xuống máy bay. Tôi trả cho ông ta những đồng đô la cuối cùng và cảm ơn ông ta đã đưa chúng tôi trở về bình yên vô sự. Người nhân viên hãng lữ hành đang chờ chúng tôi cùng chiếc mô tô. Ông ta thả chúng tôi xuống chỗ đậu xe và hỏi chúng tôi có hài lòng về chuyến đi không. Tôi liền hứa sẽ không quên giới thiệu khách cho hãng lữ hành của ông ta. Vui mừng, ông ta niềm nở cúi chào từ biệt chúng tôi rồi quay về cửa hiệu.
- Anh còn sức để lái xe không? Keira vừa hỏi tôi vừa ngáp.
Tôi không dám thú nhận với cô ấy là mình đã thiu thiu ngủ từ lúc bay qua Lào.
Tôi xoay chìa khóa và chiếc xe hai cầu khởi động.
Chúng tôi phải đi lấy hành lý vẫn để lại chùa và tranh thủ dịp đó để cảm ơn vị trụ trì đã đón tiếp chu đáo. Chúng tôi ngủ lại chùa một đêm cuối cùng rồi lên đường trở lại Bắc Kinh ngay ngày hôm sau. Chúng tôi muốn quay về Luân Đôn càng sớm càng tốt, sốt ruột được xem hình ảnh mà mảnh ghép mới sẽ chiếu lên một khi được để dưới ánh đèn laser. Chúng tôi sẽ khám phá ra chòm sao nào đây?
Trong khi lái xe dọc sông Hoàng Hà, tôi ngẫm nghĩ về tất cả các chân lý mà vật kỳ lạ này sẽ tiết lộ cho chúng tôi. Dĩ nhiên là tôi đã có sẵn vài ý tưởng trong đầu, nhưng trước khi cho Keira biết tôi muốn chờ đến lúc về lại Luân Đôn và tận mắt chứng kiến hiện tượng đã.
- Ngay ngày mai, anh sẽ gọi cho Walter, tôi bảo Keira. Cậu ấy sẽ phấn khích chẳng kém gì chúng ta đâu.
- Em sẽ phải nhớ gọi cho Jeanne, cô ấy đáp.
- Em không liên lạc với chị ấy lâu nhất là bao lâu?
- Ba tháng ạ! Keira thú nhận.
Một chiếc xe hòm to đùng theo sát xe chúng tôi. Tài xế đã nháy đèn pha xin vượt nhưng vô ích, con đường hình chữ chi quá hẹp. Một bên là vách núi, bên kia là lòng sông Hoàng Hà, tôi giơ tay ra hiệu cho hắn, tôi sẽ rẽ cho hắn vượt ngay khi có thể.
- Không gọi điện cho ai đó không có nghĩa là ta không nghĩ tới họ, Keira tiếp.
- Vậy thì tại sao lại không gọi cho họ? tôi hỏi.
- Đôi khi khoảng cách không cho phép tìm ra lời lẽ thích đáng.
***
Paris
Ivory thích quãng thời gian này trong tuần khi ông đến chợ quảng trường Aligre. Ở đó ông quen từng chủ hiệu, Annie chủ hiệu bánh, Marcel chủ hiệu pho mai, Étienne hàng thịt, ông Gérald hiệu ngũ kim, người từ hai mươi năm nay vẫn luôn bày trên quầy hàng của mình một sự mới lạ tuyệt vời. Ivory yêu Paris, hòn đảo nơi ông sinh sống nằm giữa sông Seine, và khu chợ, quảng trường Aligre, với kiến trúc hình vỏ tàu úp ngược.
Khi trở về nhà, ông đặt cái túi mang theo lên bàn bếp, tỉ mẩn sắp xếp số hàng ít ỏi mua được rồi vừa sang phòng khách vừa gặm một củ cà rốt. Điện thoại đổ chuông.
- Tôi muốn chia sẻ cùng ông một thông tin đang khiến tôi phiền lòng, Vackeers nói.
Ivory đặt củ cà rốt xuống mặt bàn thấp và lắng nghe người bạn thường chơi cờ cùng ông.
- Sáng nay chúng tôi đã họp lại, hai nhà khoa học đã khiến hội đồng phải tò mò. Họ đang ở Linh Bảo, một thành phố nhỏ của Trung Quốc, nhiều ngày qua họ không có động tĩnh gì. Không ai hiểu họ tới đó làm gì, nhưng họ đã nhập vào thiết bị định vị các tọa độ kể ra cũng hơi khác thường.
- Tọa độ nào thế? Ivory hỏi.
- Một hòn đảo nhỏ vô danh tiểu tốt ngoài khơi Andaman.
- Có phải trên đảo này có một ngọn núi lửa không? Ivory hỏi.
- Quả vậy, sao ông biết?
Ivory không đáp.
- Chuyện gì khiến ông phiền lòng hả Vackeers?
- Sir Ashton cáo mệt, ông ta không dự họp. Tôi không phải là người duy nhất lo lắng về điều này, không ai bị bịp và thái độ chống đối của ông ta đối với bản kiến nghị đã được hội đồng bỏ phiếu thông qua.
- Ông dựa vào đâu mà nghĩ là ông ta nắm được nhiều thông tin hơn chúng ta?
- Sir Ashton có nhiều bạn bè ở Trung Quốc, Vackeers đáp.
- Ban nãy ông nói thành phố đó là Linh Bảo phải không?
Ivory cảm ơn Vackeers đã gọi cho mình. Ông ra đứng tì khuỷu tay vào ban công và ở lại đó một lúc để suy nghĩ. Bữa ăn ông định nấu sẽ phải chờ vậy. Ông vào phòng ngủ và ngồi xuống trước màn hình máy tính. Ông đặt chỗ trên chuyến bay tới Bắc Kinh cất cánh lúc bảy giờ tối và vé tàu liên vận tới Tây An. Rồi ông chuẩn bị một túi hành lý và gọi một chiếc taxi.
***
Đường Tây An
- Lẽ ra anh nên để hắn vượt lên cho xong.
Tôi đồng ý với Keira, nhưng chiếc xe đang bám sát chúng tôi chạy quá nhanh để tôi có thể phanh lại mà đường thì vẫn quá hẹp để nó vượt lên trước. Gã tài xế nóng vội kia nên chờ thêm một lúc nữa, tôi quyết định lờ những hồi còi của gã đi. Đến một chỗ rẽ, đường đang dốc mà gã thì sáp lại gần một cách nguy hiểm và tôi nhìn thấy cửa tản nhiệt của chiếc xe hòm đang to dần lên trong gương chiếu hậu.
- Em cài dây an toàn vào đi, tôi bảo Keira, thằn đần này sắp cho chúng ta xuống rãnh rồi.
- Lái chậm lại đi, Adrian, em van anh đấy.
- Anh không thể chậm lại được, hắn đang theo sát chúng ta!
Keira quay lại và nhìn vào kính xe.
- Họa là điên mới chạy xe thế này!
Lốp nghiến kèn kẹt và chiếc xe hai cầu hơi lạng đi. Tôi điều chỉnh được hướng xe và ấn lên nút tăng tốc để bỏ lũ điên ấy lại đằng sau.
- Không thể thế được, chúng vẫn đăng sau chúng ta, Keira nói, gã đang lái xe vừa ra hiệu cho em khá bất nhã.
- Em đừng nhìn chúng nữa, bám cho chắc vào. Em cài dây an toàn chưa?
- Rồi ạ.
Dây an toàn của tôi chưa cài nhưng tôi không thể buông vô lăng ra được.
Chúng tôi cảm thấy một cú va chạm mạnh đẩy bắn xe mình ra đằng trước. Những kẻ truy đuổi chúng tôi đang chơi trò ô tô đụng, các bánh sau của xe trượt sang một bên và vách núi cào vào cửa bên Keira ngồi. Cô ấy bám thật chặt đai cầm đến nỗi các đốt ngón tay chuyển màu trắng bệch. Chiếc xe hai cầu bám đường được chăng hay chớ, tới mỗi chỗ ngoặt chúng tôi lại bị văng đi. Một cú húc mạnh nữa lại khiến chúng tôi chệch hướng, chiếc xe đang bám sát chúng tôi cuối cùng cũng lùi lại phía sau trong gương chiếu hậu, nhưng tôi vừa mới đưa xe trở lại trục đường thì chiếc xe hòm lại sáp tới gần. Thằng đểu lại chiếm được ưu thế. Kim trên công tơ mét xe chúng tôi tiến lại gần vạch bảy mươi dặm, một vận tốc không thể kham nổi trên một con đường địa hình khúc khuỷu quanh co thế này. Chúng tôi sẽ không bao giờ qua được chỗ ngoặt tiếp theo.
- Phanh lại đi, Adrian, em van anh đấy.
Cú húc thứ ba còn mạnh hơn hai lần trước, cánh phải xe cọ vào vách đá, đèn pha vỡ toang hoác vì cú va chạm. Keira lùi sâu vào lòng ghế. Chiếc xe hai cầu bắt đầu xoay nghiêng và quay ngược lại. Tôi trông thấy lan can cầu vỡ vụn khi chúng tôi đâm vào nó; trong thoáng chốc tôi có cảm tưởng chúng tôi đang từ dưới đất vươn đậy, chúng tôi bất động, bị treo lủng lẳng giữa trời, thế rồi các bánh trước dấn xuống vực. Vòng lộn nhào đầu tiên khiến ô tô lật ngửa, xe trượt dọc theo con dốc về phía sông. Chúng tôi đụng phải một mỏm đá, vòng lộn nhào tiếp theo khiến xe lại đứng trên bốn bánh, nóc xe đã bẹp dúm và xe tiếp tục trượt về phía vực sông mà tôi không thể làm gì để cứu vãn tình thế. Thân một cây thông đang gần sát lại với tốc độ chóng mặt, chiếc xe hai cầu lại xoay nghiêng, vừa kịp tránh thân cây; dường như không gì có thể khiến chúng tôi dừng lại. Chúng tôi đang lao về phía một sườn đất dốc, cửa tản nhiệt của xe bị hất tung lên trời, chiếc xe lượn một vòng rồi tôi nghe thấy một tiếng động inh tai, tiếp đó là một chấn động mạnh. Chiếc xe hai cầu vừa lao xuống sông Hoàng Hà.
Tôi lập tức quay sang Keira, trán cô ấy có một vết cứa sâu đang tứa máu, nhưng cô ấy vẫn tỉnh táo. Chiếc xe vẫn nổi lềnh bềnh, nhưng chuyện này sẽ không kéo dài lâu, nước đã ngập nắp máy rồi.
- Phải ra khỏi đây thôi, tôi kêu lên với Keira.
- Em bị kẹt rồi, Adrian.
Sau cú va chạm, ghế hành khách đã trượt ra khỏi rãnh, không thể với tới chuôi của đai an toàn. Tôi thu hết sức lực kéo ra nhưng không thể thay đổi được gì. Chắc là xương sườn của tôi đã gãy, mỗi lần hít thở, một cơn đau dữ dội lan khắp lồng ngực, tôi đau không tả nổi, nhưng nước đang dâng cao và cần phải giúp Keira thoát khỏi gọng kìm đang siết chặt lấy cô ấy.
Nước vẫn dâng cao, chúng tôi cảm thấy nó ở bàn chân, kính chắn gió bắt đầu biến mất.
- Đi đi, Adrian, đi đi trong khi còn kịp.
Tôi quay lại để tìm thứ gì đó có thể xé toạc cái đai này. Cơn đau nhói lên, tôi hụt hơi, nhưng tôi sẽ không bỏ cuộc. Tôi cúi xuống đầu gối của Keira để cố thử mở hộc đựng găng. Cô ấy đặt tay lên gáy tôi và vuốt ve tóc tôi.
- Chân em tê cứng rồi, anh không thể đưa em ra khỏi đây đâu, cô ấy thì thầm, giờ anh phải đi đi.
Tôi ôm đầu cô ấy trong tay mình và chúng tôi hôn nhau. Tôi sẽ không bao giờ quên hương vị của nụ hôn ấy.
Keira nhìn chiếc mặt dây chuyền của mình và mỉm cười.
- Hãy giữ nó, cô ấy nói với tôi. Chúng ta đã không mất ngần ấy công sức vô ích.
Tôi không cho cô ấy tháo nó ra khỏi cổ, tôi sẽ không đi đâu hết, tôi sẽ ở lại đây cùng cô ấy.
- Em đã muốn gặp lại Harry một lần cuối, cô ấy nói.
Nước vẫn tiếp tục ngập khoang xe, dòng nước chậm rãi cuốn lấy chúng tôi.
- Trong phòng thi hôm ấy em không hề quay cóp, cô ấy bảo tôi. Em chỉ muốn thu hút sự chú ý của anh, bởi vì ngay từ lúc đó em đã thích anh rồi. Ở Luân Đôn, đi đến đầu phố là em quay lại; nếu một chiếc taxi không đi ngang qua đó thì em đã quay lại nằm ngủ bên anh rồi; nhưng em sợ, sợ vì đã quá si tìn, bởi lẽ, anh biết đấy, em đã quá yêu anh.
Chúng tôi ôm riết lấy nhau. Chiếc xe tiếp tục chìm sâu. Ánh sáng ban ngày cuối cùng cũng biến mất. Giờ thì nước đã dâng đến vai chúng tôi. Keira rùng mình, nỗi sợ vừa nhường chỗ cho nỗi muộn phiền.
- Anh đã hứa với em một danh sách, giờ anh phải nói thật nhanh cho em biết đi.
- Anh yêu em.
- Vậy thì đây đúng là một danh sách hay ra trò, anh không thể tìm ra danh sách nào hay hơn đâu.
Tôi sẽ ở lại bên em, tình yêu của tôi, tôi sẽ ở lại bên em đến cùng, và cả sau đó nã. Tôi sẽ không bao giờ rời xa em. Tôi đã ôm hon em trong khi nước sông Hoàng Hà nhấn chìm chúng tôi, và trao em hơi thở cuối cùng của tôi. Không khí trong phổi của tôi là không khí của em. Em đã nhắm mắt khi nước phủ kín mặt hai ta; tôi đã giữ mắt mình mở cho đến giây phút cuối cùng. Tôi đã lên đường tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi thời thơ ấu ở tận cùng thế giới, về phía những ngôi sao xa xôi nhất, và em ở đây, ngay bên cạnh tôi. Em đã mỉm cười, hai cánh tay em bám vào vai tôi và tôi không còn cảm thấy đau nữa, tình yêu của tôi. Vòng ôm của em lỏng dần, và đó là những khoảnh khắc cuối cùng tôi lưu giữ về em, những ký ức cuối cùng của tôi, tình yêu của tôi, tôi đã bất tỉnh sau khi mất em.
***
Hydra
Tôi đã viết kín đặc những trang vở này từ Hydra, ngồi trên khoảng sân hiên này, nơi tôi thường quan sát biển.
Tôi đã tỉnh lại trong một bệnh viện thuộc Tây An, năm ngày sau vụ tai nạn. Tôi được nghe thuật lại rằng các ngư phủ đã cứu mạng tôi khi đưa tôi ra khỏi chiếc xe hai cầu vừa kịp lúc, trước đó họ đã trông thấy chiếc xe lao xuống sông. Chiếc xe đã bị nước cuốn đi; người ta không tìm thấy xác của Keira. Đó là chuyện cách đây ba tháng. Không một ngày nào trôi qua tôi không nghĩ đến cô ấy. Không đêm nào tôi nhắm mắt mà không có cô ấy nằm bên cạnh. Tôi chưa từng biết đến nỗi đau nào lớn bằng nỗi đau thiếu vắng cô ấy. Mẹ tôi không còn lo lắng về chuyện gì nữa, như thể bà đoán được rằng không nên chồng chất thêm nỗi buồn phiền đã tràn ngập ngôi nhà của hai mẹ con tôi. Buổi tối, hai mẹ con cùng nhau dùng bữa trên khoảng sân hiên nơi tôi viết lách. Tôi viết, bởi đó là cách duy nhất tôi có để làm Keira sống lại. Tôi viết bởi mỗi lần tôi nói về Keira, cô ấy liền hiện ra, như một vong linh thủy chung. Tôi sẽ không bao giờ còn ngửi thấy mùi da thịt cô ấy khi cô ấy ngủ kề bên, tôi sẽ không còn nghe thấy tiếng cô ấy cười lanh lảnh khi cô ấy giễu sự vụng về của tôi, tôi sẽ không còn nhìn thấy cô ấy đào bới đất tìm kiếm một kho báu, cũng không còn được thấy cô ấy nuốt vội vàng những thứ kẹo bánh như thể người ta sắp tịch thu của cô ấy đến nơi, nhưng tôi có hàng nghìn kỷ niệm về cô ấy, hàng nghìn kỷ niệm chung về chúng tôi. Chỉ cần tôi khép mắt là cô ấy lại hiện ra.
Thỉnh thoảng, dì Elena đến thăm chúng tôi. Ngôi nhà nói đúng ra là vắng vẻ và hàng xóm láng giềng tỏ ra kín đáo. Thỉnh thoảng, Kalibanos đi qua con đường trước nhà, để thăm con lừa của lão, lão nói thế, nhưng tôi biết không phải vậy. Chúng tôi ngồi xuống một băng ghế và cùng nhìn ra biển. Lão cũng từng yêu, chuyện cách đây lâu rồi. Không phải một dòng sông ở Trung Quốc đã mang người phụ nữ của lão đi mất, mà chỉ là một cơn bệnh, nhưng nỗi đau mà chúng tôi chia sẻ cùng nhau là một và tôi nghe được trong sự im lặng của lão là lão vẫn còn yêu bà ấy.
Ngày mai Walter sẽ từ Luân Đôn tới đây, từ khi tôi về đây tuần nào hắn cũng gọi cho tôi. Tôi không thể quay lại Luân Đôn. Tản bộ trên con phố nhỏ nơi bước chân Keira vẫn còn vang vọng, đẩy cánh cửa kính của căn nhà, đẩy cánh cửa phòng ngủ nơi chúng tôi đã ngủ, là việc quá sức tôi. Keira nói đúng, chi tiết nhỏ nhất cũng đánh thức nỗi đau.
Keira là một phụ nữ lạ lùng, cương quyết, đôi khi bướng bỉnh, cô ấy ngốn ngấu cuộc sống với sự ngon miệng có một không hai. Cô ấy yêu nghề nghiệp của mình và trân trọng các cộng sự. Cô ấy có một bản năng không thể mắc sai lầm và một tính cách hết sức khiêm nhường. Cô ấy là bạn tôi, là người tình, người phụ nữ mà tôi yêu thương. Tôi đã đếm những ngày chúng tôi được ở cùng nhau, ngay cả khi con số đó quá ít ỏi, tôi biết chúng sẽ đủ để lấp đầy quãng đời còn lại của tôi, giờ thì tôi muốn thời gian trôi thật nhanh.
Khi đêm đến, tôi nhìn lên bầu trời và nhìn nó theo một cách khác. Có lẽ một ngôi sao nữa vừa được hình thành trong chòm sao xa vời vợi. Một ngày kia tôi sẽ lại tới Atacama và sẽ tìm ra nó trong thấu kính của kính viễn vọng, dù nó có ở đâu trong vòm trời rộng này tôi cũng sẽ tìm ra và đặt tên cho nó.
Tôi sẽ viết cho em danh sách ấy, tình yêu của tôi ạ, nhưng để sau này, bởi để làm thế cần phải sống đời tôi trọn vẹn đã.
Walter đã đi tàu cao tốc đến hồi trưa. Tôi ra cảng đón hắn. Chúng tôi lao vào ôm nhau và khóc rưng rức như hai thằng nhóc con. Dì Elena đang đứng trên bậc tam cấp cửa hàng, và khi ông chủ quán cà phê kế bên hỏi dì xem cả hai chúng tôi bị làm sao vậy, dì bảo ông ta đi mà lo cho khách hàng của mình ấy, ngay cả khi sân hiên của quán cà phê vắng tanh vắng ngắt.
Walter không hề quên cách cưỡi lừa. Trên đường, hắn chỉ ngã có hai lần, mà lần đầu tiên thực ra không phải do lỗi của hắn; khi chúng tôi về đến nhà, mẹ tôi đã chào đón hắn như thể thằng con thứ của bà mới bước vào nhà. Bà ghé tai hắn thì thầm, nghĩ là tôi không nghe thấy, rằng dù sao thì hắn cũng nên nói cho bà biết sớm hơn. Walter hỏi bà đang nói đến chuyện gì. Bà nhún vai rồi thì thầm tên của Keira.
Walter là một gã hài hước. Dì Elena đến dùng bữa cùng chúng tôi, trong bữa ăn hắn đã làm cho bà ấy cười đến mức rốt cuộc tôi cũng phải bật cười theo. Nụ cười ấy đã thổi bùng lên sắc màu cuộc sống trên gương mặt mẹ tôi. Bà đứng dậy, lấy cớ đi dọn bàn, và khi đi ngang qua chỗ tôi ngồi, bà vuốt má tôi.
Sáng hôm sau, và cũng là lần đầu tiên kể từ khi cha tôi mất, bà kể với tôi nỗi buồn đau của bà. Chính bà cũng chưa viết xong danh sách của mình. Rồi bà nói với tôi một câu mà tôi sẽ không bao giờ quên. Mất ai đó ta yêu thương là điều thật kinh khủng, nhưng điều tệ nhất là chưa bao giờ gặp được một ai như thế.
Đêm buông xuống Hydra. Dì Elena ngủ lại trong phòng dành cho khách tới thăm, mẹ đã lui về phòng riêng. Tôi dọn sẵn chiếc tràng kỷ ở phòng khách cho Walter. Chúng tôi ngồi trong sân hiên và uống một ly ouzo.
Hắn hỏi tôi cảm thấy thế nào và tôi đáp rằng tôi cảm thấy khá hơn tôi có thể. Tôi vẫn còn sống. Walter nói hắn vui gặp tôi. Hắn cũng nói hắn đem đến cho tôi một thứ, một kiện hàng được gửi đến Học viện cho tôi. Kiện hàng đến từ Trung Quốc.
Đó là một thùng các tông to, đóng dấu bưu điện Linh Bảo. Bên trong là hành lý chúng tôi đã để lại chùa. Một chiếc áo len chui đầu Keira thường mặc, một chiếc lược chải đầu, một vài thứ quần áo và hai túi nhỏ đựng ảnh.
- Có hai chiếc máy ảnh dùng một lần, Walter nói với tôi bằng giọng ngập ngừng. Tôi đã mạn phép rửa ảnh ra. Tôi không biết liệu có nên đưa lại cho anh tất cả chỗ ảnh này không, có lẽ thời điểm này là quá sớm.
Tôi đã mở túi đựng đảnh đầu tiên. Keira đã cảnh báo tôi, chi tiết nhỏ nhất cũng khơi lại nỗi đau. Walter tế nhị để tôi lại một mình. Hắn đi ngủ. Tôi đã mất gần hết đêm để xem những kỷ niệm mà Keira và tôi lẽ ra phải khám phá sau khi trở về Luân Đôn. Giữa đám ảnh này, có một vài bức ảnh chụp vào cái ngày chúng tôi bơi mình trần trên sông Hoàng Hà.
Hôm sau, tôi dẫn Walter ra cảng, tôi đã mang theo bên mình những bức ảnh. Tại sân hiên của quán cà phê, tôi đã cho hắn xem ảnh, tôi phải kể cho hắn nghe lai lịch của từng bức. Câu chuyện mà tôi và Keira đã trải qua, từ Bắc Kinh cho tới đảo Narcondam.
- Vậy là hai người đã tìm ra mảnh ghép thứ hai.
- Mảnh thứ ba, tôi đáp. Những kẻ đã sát hại Keira cũng đang giữ một mảnh.
- Biết đâu họ không phải là kẻ gây tai nạn?
Tôi cầm đồ vật trong túi áo và đưa cho hắn xem.
- Không thể tin được, hắn thì thầm. Khi nào anh đủ dũng khí quay lại Luân Đôn, cần phải nghiên cứu kỹ nó.
- Không, làm thế chẳng ích gì đâu, vẫn luôn thiếu một mảnh, nó đang yên nghỉ ở đáy sông rồi.
° ° °
Walter cầm lại túi nhỏ đựng ảnh rồi xem từng tấm một hết sức chăm chú. Hắn đặt hai tấm ảnh cạnh nhau trên mặt bàn và hỏi tôi một câu lạ lùng.
Trên hai bức ảnh, Keira đang tắm, tôi nhận ra địa điểm chụp. Hắn lưu ý tôi là trên một trong hai bức, bóng của hàng cây bên bờ sông đổ về bên phải, còn trên bức ảnh kia, bóng cây đổ sang trái. Trên bức ảnh đầu tiên, khuôn mặt Keira không tì vết, trên bức thứ hai, trán cô ấy có một vết sẹo lớn. Tim tôi ngưng đập.
- Anh có nói với tôi là chiếc ô tô đã bị dòng chảy cuốn đi và người ta không tìm thấy xác của cô ấy đúng không? Vậy thì tôi không muốn gợi ra trong anh những hy vọng gây nên nỗi xót xa, tuy vậy, tôi tin là anh nên quay lại Trung Quốc càng sớm càng tốt, Walter gợi ý.
Tôi sửa soạn hành lý ngay trong buổi sáng hôm đó. Chuyến tàu tốc hành đi Athene khởi hành lúc mười hai giờ trưa, và chúng tôi đã kịp ngồi lên tàu vào phút cuối. Tôi đã tìm được một chuyến bay tới Bắc Kinh khởi hành vào cuối ngày. Tôi đi Trung Quốc, Walter trở lại Luân Đôn, hai chúng tôi khởi hành gần như cùng giờ.
Tại sân bay, hắn bắt tôi hứa sẽ gọi cho hắn ngay khi biết thêm tin tức gì về Keira.
Trong khi chúng tôi nói lời từ biệt trên lối đi, hắn tìm thẻ lên máy bay. Hắn lục hết các túi rồi nhìn tôi với vẻ rất lạ.
- À phải rồi, hắn nói với tôi, suýt thì tôi quên. Một nhân viên chạy vặt đã gửi cái này đến Học viện cho anh. Rõ ràng là tôi đang đóng vai bưu tá đến cùng mà. Anh sẽ đọc cái này trên máy bay.
Hắn giao lại cho tôi một phong bì gắn xi có đề tên tôi và khuyên tôi nên chạy thật nhanh nếu không muốn lỡ chuyến bay.
Nguồn: http://vietmessenger.com/