NHÀ ĐẠI TƯ SẢN
Năm 1831 , ông Gillenormand ngụ tại khu phố Marais, đường Filles-du-calvaire số 6.
Ông Gillenormand mang đặc tính tư sản cũ kỹ của mình bằng dáng vẻ của các hầu tước thế kỷ XVIII khi mang cái tước hầu của họ. ông đã quá tuổi 90, ông bước thẳng, nói to, trông rõ, uống rượu không pha nước. Ông còn đủ ba mươi hai cái răng và chỉ mang kính khi phải đọc ông còn một lợi tức khoảng mười lăm nghìn đồng frăng. Trong mọi câu chuyện, ông luôn lớn tiếng quát tháo, khi người ta nói trái ý ông, ông giơ gậy đánh bừa vào những người nhà của ông, như ở thời đại của vua Jouis XIV. Ông sống với một trong những người con gái của ông đã năm mươi tuổi và chưa hề lập gia đình, và mỗi khi giận, ông vẫn thường thẳng tay quất roi lên cô con gái già : Cô này cho ông cái cảm giác cô mới tám tuổi.
Người con gái khác của ông đã chết khi sinh một bé trai. Ông Gillenormand đòi nuôi dưỡng đứa cháu ngoại của mình đồng thời hăm dọa truất quyền thừa kế của nó nếu người ta không cho ông làm việc đó. Vì quyền lợi của đứa con, người cha đành nhượng bộ với cõi lòng tan nát và còn phải chấp nhận những điều kiện nghiệt ngã của lão tư sản già nua cao ngạo và cứng đầu : ông đã không bao giờ tìm cách gặp lại cậu con trai Marius của mình và làm cho cậu yêu thương mình. Một mối ác cảm không khắc phục ngăn cách ông Gillenormand và người con rể ông. Ông Gillenormand ngưỡng mộ dòng Bourbons và căm ghét cách mạng 1789.ông nói một cách quyền uy : "Cuộc cách mạng Pháp gồm toàn bọn vô lại".
Ông chỉ gọi người con rể ông là " tên cướp sông Loire ? " Người con rể ông đã từng là một trong những người anh hùng trong quân đội cách mạng và đế chế. Napoléon đã gắn huy chương cho ông tại Auterlitz, sắc phong cho ông cấp bậc đại tá và phẩm trật nam tước trên chiến trường Waterlo. Với ông, Gillenormand là một lão già ngớ ngẩn. Ông sống tại Vernon và vì không được gần con, ông bắt đầu yêu hoa.
Người con gái khác của ông đã chết khi sinh một bé trai. Ông Gillenormand đòi nuôi dưỡng đứa cháu ngoại của mình đồng thời hăm dọa truất quyền thừa kế của nó nếu người ta không cho ông làm việc đó. Vì quyền lợi của đứa con, người cha đành nhượng bộ với cõi lòng tan nát và còn phải chấp nhận những điều kiện nghiệt ngã của lão tư sản già nua cao ngạo và cứng đầu : ông đã không bao giờ tìm cách gặp lại cậu con trai Marius của mình và làm cho cậu yêu thương mình. Một mối ác cảm không khắc phục ngăn cách ông Gillenormand và người con rể ông. Ông Gillenormand ngưỡng mộ dòng Bourbons và căm ghét cách mạng 1789.ông nói một cách quyền uy : "Cuộc cách mạng Pháp gồm toàn bọn vô lại".
Ông chỉ gọi người con rể ông là " tên cướp sông Loire ? " Người con rể ông đã từng là một trong những người anh hùng trong quân đội cách mạng và đế chế. Napoléon đã gắn huy chương cho ông tại Auterlitz, sắc phong cho ông cấp bậc đại tá và phẩm trật nam tước trên chiến trường Waterlo. Với ông, Gillenormand là một lão già ngớ ngẩn. Ông sống tại Vernon và vì không được gần con, ông bắt đầu yêu hoa.
Như thế, Marius Pontmercy sống gần ông ngoại. Cậu có đôi mắt to màu nâu sẫm, dịu dàng và đầy tự tin trên một khuôn mặt xinh đẹp. Cậu run rẩy trước ông Gillenormand luôn nói chuyện với cậu bằng một giọng nghiêm khắc.
- Đây này nhóc tì, ông bảo cậu. Đồ xỏ lá, ba que, đến đây! Hãy trả lời đi, ranh con! Tao phải thấy mày, đồ vô lại!
Ông rất cưng chiều cháu ngoại của mình. ông dẫn cậu tới các phòng khách bảo hoàng nơi ông vẫn lui tới. Tại những nơi đó, Marius thường nghe nói tới "chằn tinh đảo Corse" hoặc "hầu tước Bonaparte", vị trung tướng quân đội nhà vua. Những người theo chủ nghĩa bảo hoàng cuồng tín đó đòi xóa sạch những trang đẹp nhất của lịch sử nước Pháp, đang ngắm dấu vết của họ trong tâm hồn đang rộng mở kia.
Sau những năm trung học, khi vào trường luật, Marius theo chủ nghĩa quân chủ và sống khắc khổ. Cậu không thích ông ngoại cậu lắm bởi sự vui vẻ và tính vô liêm sĩ của ông khiến cậu thương tổn và cậu cũng không vui gì đối với cha cậu. Dù sao cậu vẫn là một chàng trai cuồng nhiệt và thanh cao, quảng đại và tự hào, đường hoàng và trong sáng đến nghiệt ngã.
Ngày cậu vừa được mười bảy tuổi, buổi chiều khi trở về nhà, cậu thấy ông ngoại cậu cầm một lá thư trong tay.
- Cha cháu bịnh, ông Gillcnormand nói, cha cháu mong gặp cháu. Ngày mai cháu đi Vernon.
Được tin đó Marius không xúc động lắm. Đối với cậu, ý tưởng về cha cậu chỉ thể hiện qua hai lá thư mỗi năm. Những lá thư vì bổn phận do dì cậu đọc cho cậu viết vào ngày một tháng giêng và vào ngày Sinh- Georges và người ta bảo là được ghi trong tập công thức nào đó. Do đó mà cậu không vội vã gì với lời kêu gọi của đại tá Pontmercy. Đến đỗi ngày sau, khi tới chỗ trọ tại Ve mon, cậu được một bà giúp việc già tiếp trong nước mắt ràn rua, ông đại tá đã chết hai giờ trước đó, ông đã ngồi dậy trên giường bịnh dù người làm ngăn cản, và ông kêu lên : "Con trai tôi không đến! Tôi phải đi đón nó".
Rồi ông bước ra khỏi phòng và ông đã ngã xuống trút hơi thở cuối cùng trên nền lát gạch vuông của phòng đợi.
Bên thi thể của người lính già, một vị linh mục già, người bạn độc nhất của ông, đang canh thức. Marius nhìn rất lâu người đàn ông, cha cậu, mà cậu trông thấy lần đầu và lần cuối. Khuôn mặt khả kính và uy nghi đó, thân thể nhiều nơi đầy những vết sẹo dọc ngang đó, chính cha cậu đó Vị linh mục và người tớ gái đều khóc. Mắt cậu vẫn khô khốc. Cậu chỉ thấy mình xúc động đôi chút bởi cha cậu quá xa lạ với cậu.
ông đại tá không để lại gì. Tiền bán mớ đồ đạc chỉ xấp xỉ đủ trang trải việc chôn cất. Người tớ gái tìm thấy một mảnh giấy lộn trong một ngăn kéo và trao cho Marius. Trên đó có những dòng này, tự tay ông đại tá viết :
" Cho con trai tôi - Hoàng đế đã phong tước nam cho tôi trên chiến trường Waterloo. Bởi chế độ vương chính chống đối tôi trong tước hiệu này mà tôi đã phải trả giá bằng máu, con trai tôi sẽ nhận nó và giữ lấy. Chắc chắn nó sẽ xứng đáng với tước hiệu đó".
Phía sau mảnh giấy, ông đại tá viết thêm : " Cũng trong trận Waterloo một trung sĩ đã cứu mạng tôi. Người đó tên là Thénardier. Thời gian sau này dường như ông có một cái quán nhỏ trong một ngôi làng thuộc vùng lân cận Paris, tại Chelles hay tại Montèrmeil gì đó. Nếu con trai tôi gặp ông ấy nó sẽ làm tất cả những gì có thể cho ông ấy".
Marius cho mảnh giấy vào ví. Sau đám ma cậu trở về Paris và tiếp tục việc học luật, không nghĩ gì tới cha cậu nữa. Không còn thứ gì của ông đại tá nữa. ông Gillenormand sai đem thanh kiếm và bộ lễ phục của ông cho người buôn đồ cũ. Marius chỉ còn lại miếng băng tang nơi mũ, thế thôi.
Nhưng sự lãng quên đó chỉ kéo dài được vài tháng. Một ngày nọ khi Marius đi xem lễ mi sa tại St-sulpice, trung thành với tập quán tôn giáo thời thơ ấu, một lão già trông giữ nhà thờ đến bên cậu :
- Xin lỗi cậu, ông nói. Cậu đã ngồi trên ghế tôi. Và khi người thanh niên vội vàng đứng dậy, ông tiếp lời :
Tôi rất gần bó với chỗ này, nó gợi cho tôi nhiều kỷ niệm. chính nơi gần cây cột này, trong hàng chục năm trời, thường xuyên cứ trong khoảng hai, ba tháng tôi vẫn trông thấy một người cha dũng cảm tìm đến, ông không có dịp nào khác để gặp con mình. Những cuộc dàn xếp gia đình đã ngăn cản ông chuyện đó. ông đến vào giờ khắc mà ông biết người ta dẫn người con trai của ông đến xem lễ mi sa. Cậu trai không ngờ cha mình đang có mặt ở đó.
Thậm chí có thể cậu cũng không biết mình có một người cha, cậu trai ngây thơ đó! Còn người cha thì vẫn lẫn khuất. ông nhìn đứa con và không cầm được giọt lệ, bởi ông yêu quý cậu. Tôi đã trông thấy cảnh đó. Với tôi đây là nơi chốn đã trở nên linh thiêng. Người cha đó đã hy sinh thân mình để có ngày đứa con trai của ông được giàu có và hạnh phúc. Người ta ngăn cách ông với cậu vì chính kiến! Đó là một vị đại tá của Bonaparte. ông có cái tên tương tự là Pontmarie hay Pontmercy gì đó... ông ở tại Vernon, nơi tôi có một người em là linh mục.
- Thưa ông, Marius nói trong cơn dao động, đó chính là cha tôi.
- à! Cậu là con của ông ấy! lão già trông giữ nhà thờ kêu lên, hai bàn tay chấp lại. Thế thì, người con đáng thương, cậu có thể nói rằng cậu có một người cha rất đỗi yêu cậu.
Marius đưa cánh tay ra cho lão già nắm và đưa lão về chỗ trọ.
Từ hôm ấy cuộc sống chàng trai đã thay đổi sâu sắc Cậu gặp lại lão già trông giữ nhà thờ và cha xứ Vernon. Cậu yêu cầu được kể lại từng chi tiết nhỏ nhặt về ngày cuối đời của người đàn ông quý hiếm, cao cả và dịu dàng đã là cha cậu. Trong tủ sách " Người thầy " cậu đọc tất cả nhũng câu chuyện về nền cộng hòa và nền đế chế, cậu hào hứng với những trang báo cáo về quân đội vĩ đại trong đó thường xuất hiện tên tuổi Pontmercy. Cậu tìm gặp những vị tướng mà cha cậu từng phục vụ dưới quyền.
Việc nghiên cứu đó chiếm hết thì giờ cũng như tâm trí cậu, gần như không cho cậu còn thì giờ gặp những người trong gia đình Gillenormand. Khi cậu xuất hiện trong giở ăn với vẻ mặt xanh xao và lo lắng, ông ngoại và dì cậu càu nhàu và nói với nhau :
- Marius đang bận tâm chuyện gì, nó học hành không được nghiêm túc như trước.
Marius đang ngưỡng vọng cha mình, và qua cha mình, cậu bất đầu ngưỡng vọng đất nước cậu.
Cho tới bấy giờ nền cộng hòa và nền đế chế đối với cậu chỉ là những từ quái lạ. Việc tìm hiểu các giai đoạn lịch sử đó của nước Pháp giúp cậu tỉnh táo xem xét các cuộc biến động cùng các nhân vật. Cậu thấy từ cuộc cách mạng hiện ra khuôn mặt vĩ đại của nhân dân và từ nền đế chế, khuôn mặt vĩ đại của nước Pháp. Trong thâm tâm của mình, cậu tuyên bố tất cả những điều đó đều tốt đẹp.
Tất cả những sự đảo lộn đó diễn ra trong cậu và gia đình cậu không hay biết về chuyện đó. Cậu âm thầm vứt bỏ lớp da bảo hoàng cũ kỹ của mình. Cậu trở nên cách mạng hoàn toàn và dân chủ một cách triệt để. Cậu đến một người thợ khắc và đặt làm một trăm cái thẻ mang tên " hầu tước Marius Pontmercy " .
Càng đến gần cha cậu, với ký ức về ông và những gì mà ông đã chiến đấu để bảo vệ trong hai mươi lăm năm, cậu càng rời xa ông ngoại cậu. Vả chăng tính khí của ông Gillenormand luôn gây thương tổn cho cậu. Giữa họ có tất cả những mối bất hoà của chàng trai trẻ uy nghiêm đối với lão già phù phiếm. Lại nữa, Marius cảm thấy lòng mình dâng trào những tình cảm nổi loạn không tả hết được khi nghĩ rằng chính ông Gillenormand, vì những động cơ ngu xuẩn, đã tách cậu khỏi cha cậu một cách không thương tiếc.
Thỉnh thoảng Marius vẫn vắng nhà nêu ly do tham dự những buổi đi săn với bạn.
- Cháu cứ vui chơi, cháu cứ vui chơi ! ông ngoại cậu bảo. Tuổi trẻ phải đi qua thôi.
Những buổi đi săn đó có nghĩa là tới Vernon cầu nguyện và khóc trên mộ ông đại tá. Một lần Marius đã tới tận Monttermeil và hỏi thăm ông cựu trung sĩ Thénardier của trận Waterloo, người mà cha cậu đã chịu một cái ơn quá lớn. Với Marius, cái tên Thénardier sáng rực khí phách anh hùng và lòng tận tụy. Thật ra ông chủ quán ác độc không phải là trung sĩ mà là kẻ đi tuột lại sau đoàn quân và là kẻ trấn lột xác chết. ông ta đã lục lạo một cách tàn nhẫn trên người ông đại tá tường đâu đã chết nên bị bỏ lại nơi con lộ trũng Ohann tại Waterloo.
Chính lúc kéo ông ra từ dưới một đống xác chết để dễ dàng cướp tiền của, đồ đạc của ông hơn, Thénardier không ngờ giúp ông đại tá tỉnh lại. Nhưng cả Pontmercy lẫn Marius đều không thể nào biết được rằng một sự trớ trêu của định mệnh đã biến tên trộm ươn hèn đó thành một người cứu nạn tận tụy. Và Thénardier cứ chiếm lĩnh vị trí của mình trong trái tim nồng nhiệt của chàng trai trẻ. Marius rất đỗi buồn phiền khi biết được tại Monttẻrmeil rằng quán đã đóng cửa, rằng Thénardier bị phá sản và người ta không biết ông ra sao.
Trở về sau chuyến đi Vernon, cuộc sống của Marius chợt đổi sang một hướng đi khác với hướng đi của cậu cho tới bây giờ.
Mệt mỏi sau hai đêm hộc tốc, chàng trai trẻ thấy cần lấy lại sức sau những giờ thiếu ngủ bằng cách đi bơi, cậu vội vã lên phòng mình, chỉ kịp cởi chiếc áo rây đanh gột mặc đi đường của mình và đi tắm. Nhưng trong cơn hối hả cậu đã bỏ lại trên giường mình một chiếc hộp bọc da lừa màu đen giống như một miếng mề đay mà cậu vẫn buộc giây đeo lủng lẳng nơi cổ. Cậu đã cất trong chiếc hộp đó lá thư cuối cùng của đại tá Pontmercy.
Ông Gillnormand nghe tiếng người cháu ngoại trở về rồi lại đi. ông vội chạy vào phòng cậu trên đôi chân già yếu của ông. Vật đầu tiên ông bắt gặp trên giường là chiếc hộp bọc da lừa màu đen. ông mở chiếc hộp và lấy ra một tờ giấy xếp cẩn thận .
- Đây là một mảnh giấy thân thương, ông nói với cô Gillnormand mà ông đã gọi tới. Nó giữ mảnh giấy này trên trái tim đó. à! Những người trẻ tuổi.
- Chúng ta hãy đọc nó xem sao, cha, người dì vừa nói vừa mang kính.
Và họ đọc : "Cho con trai tôi - Hoàng đế đã phong tước nam cho tôi trên chiến trường Waterloo. Bởi chế độ vương chính ...".
Khi đọc xong lá thư đó, ông Gillenormand nói nhỏ như nói với chính mình :
Đây là chữ viết của tên lính quê mùa đó.
Cô Gillenormand nắn cái túi áo rây đanh gết của Marius. CÔ lấy ra một cái gói nhỏ bọc giấy xanh. Đó là những tấm thẻ của " hầu tước Marius Pontmercy " .
- Đẹp lắm! người dì nói. Và hai cha con lặng nhìn nhau trong một tiếng đồng hồ, không ai nói gì.
Cuối cùng Marius trở về. Cậu thấy ông ngoại cậu đang cầm trong tay một tấm thẻ của cậu và khi trông thấy cậu, ông kêu lên, giọng nhạo báng :
- Nào! Bây giờ cháu là hầu tước đấy à? ông xin chúc mừng cháu. Thế là cái quái gì?
Marius hơi đỏ mặt, cậu đáp :
Điều đó có nghĩa cháu là con của cha cháu.
Ông Gillenormand dứt tiếng cười và nói giọng cứng cỏi :
- Cha của cháu chính là ông đây.
Cha cháu, Marius tiếp lời, mắt nhìn xuống, nhưng giọng cương quyết, đó là một con người khiêm tốn nhưng anh hùng đã phục vụ một cách vẻ vang nền cộng hòa và nước Pháp, đã bảo vệ hai ngọn cờ, đã nhận hai mươi vết thương, đã chết trong quên lãng và trong sự ruồng rẫy, và chỉ có một điều ngộ nhận trong đầu là đã quá yêu hai thứ bất nghĩa, đất nước của người và cháu.
Thật là quá đáng đối với ông Gillenormand. Mỗi lời nói của Marius càng làm cho lão già theo chủ nghĩa bảo hoàng thêm đỏ mặt tía tai :
Thằng bé ghê tởm? ông kêu lên. Cha mày là cái giống gì tao chẳng cầm biết. Nhưng những cái mũ đỏ đó, tất cả đều là bọn khốn kiếp, bọn sát nhân. Tao nói tất cả, mày có nghe không? Tất cả bọn ăn cướp đều phục vụ Robespierre và Bonaparte, tất cả những tên phản bội đã phản nhà vua hợp pháp. Nếu có thằng cha mày trong đó cũng mặc xác, tao căm giận nó; thằng cha tôi tớ của mày.
Marius xúc động đến tái mặt. Cha cậu vừa bị lăng nhục trước mặt cậu. Và lăng nhục bởi ông ngoại cậu!
Làm sao trả thù cho người này mà không tổn hại tới 'người kia? Trong giây phút cậu lảo đảo như đang có một cơn lốc trong đầu mình, rồi cậu ngước mắt nhìn đăm đăm vào ông ngoại cậu và hét lên giọng rền vang :
- Đả đảo bè lũ Bourbons và con heo mập Louis XVIII.
Louis XVIII đã chết từ bốn năm trước nhưng cậu bất chấp điều đó.
Mặt ông Gillenormand trở nên trắng bệt như tóc của ông. ông quay về phía một pho tượng bán thân của quận công Berry đặt trên lò sưởi và kính cẩn chào nó với một vẻ uy nghi khác thường. Rồi nghiêng về phía con gái, ông nói với cô, miệng mỉm cười bình thản :
- Một hầu tước như cậu này đây và một người tư sản như cha không thể sống dưới cùng một mái nhà được.
Rồi bất ngờ ông đứng thằng, người run rẩy, mặt ông tái đi vì giận dữ, ông dang hai cánh tay về phía Marius và hét vào cậu :
Mày cút đi.
Marius rời khỏi nhà.
Ngày hôm sau ông Gillenormand nói với con gái :
- Mỗi sáu tháng con sẽ gởi sáu mươi đồng pixton cho kẻ uống máu đó và đừng bao giờ nói với cha chuyện đó
Marius ra đi trong phẫn uất, cậu không nói lời nào và cũng không biết mình đi đâu. Cậu có trong người 30 frăng. Cậu bước lên một chiếc xe độc mã và đi cầu âu về phía khu La tinh. Trong khi xe lăn bánh trên quảng trường Si.-Miche một cách chậm chạp như thiếu dứt khoát, bất chợt Marius nghe một giọng nói kêu lên :
Ngài Marius Pontmercy
Xe dừng lại. Một người sinh viên tuổi trạc hai mươi lăm đội mũ lệch, mặt tươi vui, tiến đến gần.
- Tôi trông thấy cái tên này trên túi xách của anh, anh ta nói với Marius.
- Anh tìm tôi, Marius nói giọng kinh ngạc, nhưng tôi không biết anh.
Tôi cũng thế. hôm kia, anh không vào trường. Tôi cũng là sinh viên luật như anh và tôi có mặt ở đó. ồ? đó chỉ là chuyện tình cờ thôi. ông giáo sư đang điểm danh.
Ông Blondeau ấy mà. Anh biết ông ta nham hiểm nhường nào. ông ta bắt đầu bằng chữ P. Việc điểm danh cũng êm xuôi, không ai vắng mặt. Blondeau có vẻ buồn.
Bỗng đâu ông ta gọi "Marius Pontmercy". Không ai lên liếng trả lời. Blondeau tràn trề hy vọng, lập lại hy vọng giọng to hơn : " Marius Pontmercy " và ông ta cầm viết.
lôi nghĩ thầm, ông ta sắp gạch tên một chàng trai dũng cảm đây, coi chừng. Và tôi lên tiếng trả lời : "Có mặt".
Do đó mà anh không bị gạch tên.
- Thưa anh! Marius nói giọng biết ơn.
Còn tôi thì bị gạch tên, người sinh viên tiếp lời.
Bởi bất ngờ Blondeau, với cái mũi tinh ranh, nhảy từ chữ P tới chữ L. Tôi tên Lesgle. Khi nghe gọi đến tên tôi, tôi Hô "Có mặt" - Này cậu, bấy giờ Blondeau vừa nói với tôi vừa mỉm cười một cách hung ác, cậu hãy chọn đi. hoặc cậu là Pontnlercy thì cậu không là Lesgle. Nói xong ông ta gạch tên tôi. Người trẻ tuổi, ông ta tiếp lời, đây sẽ là bài học cho cậu; trong tương lai hãy đúng mực.
Tôi rất buồn..., Marius nói.
- Còn tôi thì rất hoan hỉ, Lesgle vừa nói vừa phá lên cười. Tôi sẽ không là luật sư, chính anh là người mà tôi nợ cái hạnh phúc đó. Tôi muốn đến thăm anh một cách trịnh trọng để cảm ơn. Anh ở đâu?
Trong chiếc xe độc mã này, Marius vừa nói vừa mỉm cười buồn bã.
Dấu hiệu phong lưu đấy... Nhưng tôi vừa thấy một người bạn. Ê Courfeyrac ? Đây là Pontmercy, một luật sư tương lai có một lợi tức chín nghìn trăng mỗi năm và có vẻ không hài lòng về chuyện đó..
Người sinh viên được gọi tên bước về phía Marius và xiết chặt tay cậu.
Các bạn không biết đi đâu, cậu nói, xin hãy đến tôi tại khách sạn Porte-st-jacques. Các bạn đừng từ chối.
Sinh viên phải tương trợ nhau. Lại nữa, anh bạn có một khuôn mặt cảm tình. anh có một chính kiến nào không?
Anh là ai?
- Người theo chủ nghĩa dân chủ Bonaparte.
- Độ xám đáng tin cậy, Courfeyrac vừa nói vừa mỉm cười. Chúng ta vẫn là bạn thôi. Tôi sẽ giới thiệu anh với hội A.B.C tại quán cà phê Musain, cậu ta thấp giọng, điều này sẽ giúp anh đi vào cách mạng. .
Ngay buổi chiều, Courtèyrac dẫn Marius tới quán cà phê nơi một số sinh viên và thợ thuyền họp mặt để nói về chính trị để ngấm ngầm chuẩn bị một cuộc nổi dậy chống lại những người bạn của chính quyền, hội A.B.C. Có mục đích giáo dục trẻ em, thực tế là cải tạo người lớn.
Nhóm cách mạng này đáng chú ý nhờ tính sáng giá của những thành viên của nó. Thủ lãnh của nhóm là Enjobras, một thanh niên tuấn tú, như Antinoùs, con của một gia đình giàu có, chiến sĩ đích thực của nạn dân chủ và giáo sĩ của lý tưởng, tiếp đến là Combetene, triết gia ôn hòa và nghiệt ngã thích từ "công dân" nhưng lại thích từ "con người " hơn ; Jean Prouvaire, một nhà thơ dịu dàng bận tâm tới những áng mây không kém gì những biến động xã hội, dễ đỏ mặt nhưng cũng rất dũng cảm.
Feuilly, người thợ làm quạt, kiếm sống vất vả với ba trăng mỗi ngày và chỉ có một tư tưởng là học tập một hoài bão là giải phóng thế giới; Courtèyrac, chàng trai gan dạ với vẻ ngoài của một tư sản và trái tim của một hiệp sĩ; Bahorel, người sinh viên trường luật luôn trốn học để lê la qua các quán cà phê; Lesgle với tính lạc quan yêu đời bất tận, sớm tiêu tới đồng xu cuối cùng nhưng tiếng cười thì không tắt bao giờ; Joly, học y khoa, được lời với tư cách bịnh nhân hơn là y sĩ; Grantaire, con người hoài nghi và uống rượu như hũ chìm, nhạo báng tất cả những hành động tận tụy, hy sinh trong các đảng phái và nói : " Chỉ có một điều chắc chắn là ly rượu đầy của tôi .
Tất cả những con người trẻ tuổi rất khác biệt nhau đó có cùng một tôn giáo : sự tiến bộ. Tất cả đều là con đẻ của cuộc cách mạng Pháp. Những con người hời hợt nhất cũng trở nên trịnh trọng khi thốt lên cái năm đó : 89? Là những người trong hội và những người am hiểu, họ bí mật phác thảo lý tưởng:
Coufeyrac giới thiệu Marius với các bạn của mình một cách giản dị.
- Một thư sinh.
Marius rơi vào một tổ ong trí tuệ. Cho tới bây giờ vẫn sống cô độc vì thói quen và sở thích, cậu phần nào e ngại đám người chung quanh cậu. Cậu nghe nói về triết học, văn chương, nghệ thuật, lịch sử, tôn giáo một cách hào hứng, bất ngờ. Khi rời bỏ những quan niệm của ông ngoại cậu để đến với những quan niệm của cha cậu, cậu ngờ đâu mình đã cố định. Giờ đây cậu nghi ngờ, một cách bồn chồn lo lắng mà không dám thú thật, rằng cậu chưa hẳn thế. Góc độ qua đó cậu nhìn mọi vật lại bắt đầu đi chuyển. Cậu phần nào khổ tâm về điều đó.
Quanh cậu, không một ai trong đám người trẻ đó nói : "hoàng đế". Chỉ có Jean Prouvaire thỉnh thoảng nói Napoléon. Mọi người khác đều nói Bonaparte. Enjobras thì phát âm : Buonaparte.
Một ngày nọ trong một câu chuyện ồn ào, Lesgle kết thúc một câu nói của Combeferre bằng cái ngày này khiến Marius rùng mình :
18 tháng sáu 1815 :Waterloo ?
- Đúng thế, Coufeyrac kêu lên, con số 18 là con số định mệnh của Bonaparte. Hãy đặt ngày 18 sương mù trước Louis XVIII các anh có tất cả định mệnh của con người.
- Đúng, Enjobras cho tới bây giờ vẫn im lặng bỗng trịnh trọng nói. án mạng và hình phạt.
Từ "án mạng" không thể chấp nhận được đối với Marius. Cậu đứng dậy, bước về phía một tấm bản đồ nước Pháp trên tường và phía dưới người ta trông thấy một hòn đảo trong một ngăn cách biệt.
- Đảo Corse, cậu nói. Một hòn đảo nhỏ đã làm nên nước Pháp vĩ đại làm sao.
Câu nói như một luồng không khí giá băng. Mọi người im bặt trong câu chuyện của họ. Enjobras đáp giọng ôn tồn.
Nước Pháp không cần một đảo Corse nào mới vĩ đại Nước Pháp vĩ đại bởi nó là nước Pháp.
Marius quay sang Enjobras và bằng một giọng rung vang :
- Người ta không làm nước Pháp giảm sút chút nào khi kết hợp nó với Napoléon. Anh khiến tôi kinh ngạc.
Chúng ta hãy giải thích cho nhau nghe về hoàng đế. Anh nói về điều đó ngạo mạn như bọn bảo hoàng. Tuy nhiên anh ngưỡng vọng ai nếu không ngưỡng vọng con người khổng lồ đó đã có trong não mình số lập phương những tài năng con người? Luật học, hùng biện, lịch sử, thi ca, khoa học, ngài biết tất cả. Ngài làm đảo lộn châu âu.
Dưới uy lực của ngài, tất cả những ngai vàng phải lung lay. Các anh hãy công bằng. Được làm đế quốc của một vị hoàng đế như thế, còn định mệnh nào huy hoàng hơn cho một dân tộc ! Chiến thắng, chinh phục, nổi sấm sét, được làm một đất nước vàng son đầy vinh quang tại châu âu gióng lên hồi kèn của những con người khổng lồ qua lịch sử chinh phục thế giới, thử hỏi còn gì vĩ đại hơn.
- Được tự do, Combelerre nói.
Marius cúi đầu. Các từ đó xuyên qua lời lẽ tuôn trào một cách hùng tráng của cậu như một lưỡi dao thép :
cậu cảm thấy nó tắt ngấm nơi cậu. Enjobras đặt bàn tay lên vai cậu :
- Này người công dân, anh ta nói, mẹ của tôi là nền cộng hòa.
Buổi tối đó để lại trong lòng Marius một chuyển động sâu sắc. Cậu trở nên âm u, buồn bã. Những tư tưởng mới mẻ mà người ta nhồi nhét vào đầu cậu rồi sẽ đưa cậu về đâu? Những cái dốc đứng dàn ra quanh cậu. Cậu không đồng tình với ông ngoại cậu lẫn các bạn cậu. Cậu càng thừa nhận mình càng cô đơn gấp bội và không đến quán cà phê Musain nữa.
Nhưng những phương diện nghiêm túc của cuộc sống bất chợt tìm đến, nhắc nhở cậu những thực tại.
Để chi trả những món chi tiêu tại khách sạn Porte- St-jacques cậu đã phải bán đi chiếc đồng hồ vàng của cậu cùng mớ quần áo để thay. Cậu còn lại món tiền mười frăng. Tìm ra địa chỉ của cậu, dì Gillenormand của cậu đã gởi đến cậu 60 đồng piston, tức là 600 đồng trăng bằng vàng, của ông ngoại cậu cấp. Nhưng Marius đã gởi trả lại người dì số tiền đó với một lá thư đầy cung kính trong đó cậu tuyên bố đã có phương tiện để sống và tự hậu đã có thể chu toàn mọi nhu cầu của mình. Lúc đó, cậu còn ba trăng.
Người thanh niên rời khách sạn vì không muốn vướng nợ.
Đã có một giai đoạn trong đời Marius phải mua một xu phô mát Bric nơi bà bán hoa quả, phải sống ba ngày với một khúc xương sườn giá 7 xu, phải chỉ ra ngoài vào buổi sụp tối với chiếc áo độc nhất đã hóa lục và vá víu nhiều mảnh, phải chấp nhận mọi công việc miễn sao chúng lương thiện.
Qua tất cả những nỗi nhọc nhằn đó, Marius đã trở thành luật sư. Chàng đinh mình sẽ đến phòng Couteyrac ở vốn khá lịch sự và là nơi có một số sách luật, lại thêm những quyển tiểu thuyết, mỗi bộ tạo thành một thư viện đúng qui định. Chàng biên thư tới Couteyrac. Chàng vẫn ở trong ngôi nhà tồi tàn nơi chúng ta đã trông thấy Jean
valjean và Cosette đến ở khi họ tới Paris. Cái nghèo và cái sợ tìm ra những chỗ ở giống nhau. Được món tiền 30 trăng hàng năm, chàng được ở một phòng lụp xụp không có lò sưởi nên chàng chỉ bày biện mớ đồ đạc cần thiết nhất. Chàng trả ba trăng mỗi tháng cho người ở trọ chính để bà đến quét dọn và sáng sáng mang đến cho chàng một chút nước nóng, một quả trứng tươi và một ổ bánh mì một xu dùng làm bữa ăn trưa của chàng. Vào 6 giờ chiều chàng đi ăn tại tiệm Rousseau, đường St-jacques, một đĩa thịt một dĩa rau và một món tráng miệng. Chàng uống nước. Chàng trả mười sáu xu.
Trong ba năm, nhở lòng dũng cảm, sự làm việc nhọc nhằn, sự kiên trì và ý chí sắt đá, chàng đã bước ra khỏi ngõ ngách khốn cùng. Chàng đã học tiếng Đức và tiếng Anh. Coufeyrac đã giới thiệu chàng với một hiệu sách nơi chàng đảm trách một công việc khiêm tốn.
Chàng viết những giấy quảng cáo, dịch những tờ báo ngày, chú thích những tác phẩm xuất bản, nhờ đó hàng năm chàng trả sáu trăm năm mươi trăng việc ăn, ở, mua sắm quần áo, giặt giũ. Chàng cảm thấy mình giàu có, nhân đó chàng cho một người bạn mượn mười trăng.
Khi nhớ lại những năm tháng nghiệt ngã mà chàng đã sống qua, chàng nhận ra mình không nợ ai một xu nào.
Chàng gìn giữ lòng tự hào của mình một cách đố kỵ. Chàng sống cô độc. Chàng cương quyết không gia nhập tổ chức do Enjobras đứng đầu. Chàng vẫn giữ mối giao hảo tốt đẹp, nhưng chàng chỉ có một người bạn là Coufeyrac. Vả chăng dù đã là luật sư, chàng vẫn không biện hộ. Chàng thích được tự do trong công việc nhọc nhằn tại hiệu sách hơn. Khi sửa xong những bản in thử của nhà in, chàng đi dạo và mơ mộng.
Chàng chỉ nghĩ về Gillenormand một cách nhẹ nhàng bởi sự khốn khổ đã tước khỏi chàng sự cay đắng nhưng chàng quyết không nhận thứ gì của người đã xử tệ với cha chàng. Bởi luôn bị ông ngoại chàng ngược đãi, chàng không thể tưởng tượng rằng lão già chỉ nghĩ tới chàng.
Chương 6
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI
Trong những chuyến đi dạo quanh các lối đi vắng vẻ trong vườn Luxembourg, Marius, vào thời bấy giờ đã là một thanh niên đẹp trai hai mươi tuổi, chú ý tới một người đàn ông luống tuổi và một cô gái rất trẻ lúc nào cũng ngồi bên nhau nơi lối đi vắng vẻ nhất.
Người đàn ông tuổi khoảng 60, có vẻ buồn bã và đức độ, trọn người ông toát ra vẻ tráng kiện và mỏi mệt của những người chiến binh đã xong nhiệm vụ, trở về ẩn dật. Trang phục của ông tươm tất và sạch sẽ. ông có mái tóc bạc phơ.
Con gái của ông đã mười lăm tuổi. Mái tóc tuyệt vời màu hung vàng viền quanh một khuôn mặt với những nét thuần khiết, với làn da mịn màng. Trang phục của nàng thanh lịch một cách giản dị và phong phú, nhưng một vài chi tiết trong cách ăn mặc cho thấy nàng không có mẹ. Quả nhiên mẹ chàng đã từng bảo một cô gái không nên mặc một chiếc áo dài bằng nhiễu.
Marius mơ tưởng nhiều đến cô gái đó. Hình ảnh của nàng đã nhẹ nhàng bước vào tâm hồn chàng tự bao giờ chàng không hay biết. Và dần dần chàng có thói quen chỉ đến vườn Luxembourg với những bộ quần áo mới hợp với chàng và làm nổi bật vẻ duyên dáng của vóc người chàng.
Khi đi qua trước chiếc ghế dài nơi cô gái và cha nàng đang ngồi, chàng cố tạo ra một thái độ tự nhiên, không bước nhanh hơn hay bước chậm hơn. Nhưng chàng khó lòng vượt qua cơn bối rối lạ thường khiến tim chàng đập mạnh và chàng đi qua, mặt đỏ rần, mắt không dám liếc nhìn người thiếu nữ xinh đẹp.
Tuy nhiên nhiều lần họ vẫn gặp nhau trong ánh mắt, và những hôm đó, Marius trốn ra khỏi khu vườn, tim đập mạnh, thái dương lùng bùng. Chàng có cảm tưởng cô gái nhìn chàng với vẻ thích thích chớ không dửng dưng lấm.
Những cuộc đi dạo hằng ngày đó kéo dài được hơn hai tháng thì ông lão cuối cùng nhận ra sự lân la của Marius nên không dẫn cô con gái đến chính xác như trước nữa. Những hôm đó, thay vì đi dạo trong nhiều giờ liền, Marius đã bỏ đi, cõi lòng dằn vặt.
Chàng muốn biết " nàng " ở đâu và một ngày nọ chàng đã đi theo họ đến tận một ngôi nhà ở đường phía Tây. Cảm thấy khó chịu, ông lão lo ngại về sự táo bạo của chàng nên dọn đi ở chỗ khác và không xuất hiện tại vườn Luxembourg nữa.
Đối với Marius, đó là một đòn khủng khiếp. Trong đầu chàng chỉ còn một ý tưởng gặp lại khuôn mặt dịu hiền và tuyệt vời đó. Chàng tìm kiếm nó khắp nơi mà không thấy. Chàng rơi thỏm vào một nỗi buồn đen tối.
Chàng chán ngắt công việc, chàng buồn nản mọi điều, ngày nào thiên nhiên rộng lớn rực rỡ sắc màu và rộn ràng âm thanh xiết bao giờ đây đã trở nên trống rỗng trước
mắt chàng.
Tại sao mình theo đuổi nàng, chàng tự nhủ. Mình trông thấy nàng, mình hạnh phúc. Nàng nhìn mình. Nàng có vẻ yêu mình. Tại sao mình còn muốn hơn thế nữa?
Chàng đắm sâu trong nỗi buồn. Mùa hạ và mùa thu trôi qua.
Một buổi chiều khi trở về căn phòng lụp xụp của mình, chàng phần nào bị xô đẩy bởi hai cô gái ăn mặc rách rưới, một cô cao lớn và mảnh khảnh, cô kia nhỏ người hơn, đang chạy vội qua ngưỡng cửa.
Bọn cớm tới, một cô nói giọng nhỏ và khàn. Họ không tóm được tôi, tôi đã thoát được.
Marius đừng bước một hồi, lòng tràn ngập chán chường và thương xót. Qua thứ tiếng lóng đó, chàng biết rằng bọn cảnh sát thành phố suýt bắt được các cô gái này
và họ đã chạy thoát.
Chàng sắp sửa bước tiếp thì trông thấy dưới chân chàng một cái gói nhỏ xam xám giống như một phong bì đựng giấy tờ. Chắc hẳn các cô gái bất hạnh đó đánh rơi cái này, chàng tự nhủ.
Chàng trở về phòng và mở cái gói hầu tìm ra một cái tên cho phép chàng hoàn trả mớ giấy tờ cho người đã đánh mất chúng. Chàng bắt gặp bốn lá thư không niêm
phong và cùng một nét chữ. Chúng toát ra một mùi thuốc lá gớm ghiếc. Những người ký tên "Don Alvares, đại úy Tây Ban Nha tị nạn", Bà Balizard, một người mẹ bốn
con " , " Gentlot, nhà văn " và " P.Fatanbon, diễn viên bi kịch", cả bốn người đều có cùng một phong cách rườm rà và cùng thứ chính tả sai sót, và cả bốn người đều cầu xin sự cứu trợ của những con người nhân đức mà họ gởi thư tới
Marius cho các tờ giấy trở vào phong bì. Chàng quá buồn phiền để có thể mỉm cười trước sự lừa dối nhảm nhí mà chàng tìm thấy. Chàng ném nó vào một góc và đi ngủ.
Khoảng bảy giờ sáng, chàng vừa thức giấc và ăn sáng xong, và chàng thử bắt đầu công việc thì có tiếng ai khẽ gõ cửa.
Mời vào! Marius nói. Tưởng đâu đó là bà lão lo việc nội trợ của mình, chàng lên tiếng hỏi mà không rời mắt khỏi mớ bản thảo trên bàn chàng. Bà có chuyện gì cần không, bà Burgon?
Một giọng nói không phải của bà lão đáp lại :
- Xin lỗi ông.
Đó là một giọng trầm đục, rạn và rè rè, một giọng đàn ông lớn tuổi khàn khàn vì rượu. Marius vội vàng quay lại và trông thấy một cô gái.
Đó là một con người xanh xao và gầy gò, dáng vẻ bơ phờ, mắt lờ đờ, trơ tráo, ti tiện.
Tuy nhiên vẻ duyên dáng của tuổi mười sáu nơi cô vẫn còn chống trả với sự già cỗi đến sớm vì sự trác táng và nghèo khó. CÔ chỉ mặc một chiếc áo sơ mi và một chiếc váy buộc vào người bằng một sợi dây.
- CÔ cần gì? Marius hỏi vào khuôn mặt có vẻ như không hoàn toàn xa lạ.
- Một lá thư cho ông, thưa ông Marius, cô gái trả lời bằng giọng người tù khổ sai nát rượu của mình. Và cô đưa ra cho chàng một bức thư mà bọt niêm phong vẫn còn ướt.
Marius đọc.
" Người láng giềng đáng yêu, con gái lớn của tôi sẽ nói với ông rằng từ hai ngày nay chúng tôi không có một miếng bánh mì, bốn người và vợ tôi đang bịnh. Tôi hi vọng tấm lòng nhân hậu của ông sẽ xúc động trước lời trần tình này và thuyết phục được ông trong ước muốn giúp tôi.
Với lòng kính trọng đặc biệt dành cho những bậc ân nhân của nhân loại, Jondrette".
A! Marius nghĩ thầm, lá thư này có cùng nguồn gốc với bốn lá thư kia. Cùng chữ viết, cùng phong cách, cùng thứ chính tả, cùng thứ giấy, cùng mùi thuốc lá.
Cái tên Jondrette khiến Marius nhớ lại một câu chuyện gẫu của người đàn bà lo việc nội trợ cho chàng.
Bà đã nói rằng gia đình Jondrette, những con người khá khốn khổ và có nhiều "dáng vẻ", họ ở trong gian phòng tồi tàn tiếp cận với phòng chàng.
Trong lúc Marius đang nhìn cô gái bằng một cái nhìn kinh ngạc và buồn phiền thì cô đi đi lại lại trong phòng, xê dịch những cái ghế, xáo trộn những tờ giấy. CÔ cầm lên một quyển sách đang mở ra trên bàn :
Tôi biết đọc mà, cô nói.
Và cô đọc khá trôi chảy.
"Tướng Bauduin được lệnh đưa lữ đoàn của ông chiếm lâu đài Hougomont tọa lạc giữa đồng bằng Waterloo..."
- à! Waterloo! Cô nói. Tôi biết chuyện này. Đó là trận đánh trước đây mà.Cha tôi đã tham dự trận đó. ông phục vụ trong quân đội. Tôi đọc rành rẽ chứ hả? Tôi cũng biết viết nữa. Tôi sẽ viết một câu thử xem.
Cô châm ngòi bút vào bình mực và viết trên một tờ giấy trắng ở giữa bàn. " Bọn cớm tới kia rồi ! ".
- Này cô, Marius nói, chàng đã bắt đầu sốt ruột vì sự xâm nhập này, tôi có một cái gói ở chỗ kia mà tôi nghĩ là của cô.
Cô chập hai bàn tay vào nhau và kêu lên :
- May quá? Chúng tôi đã tìm nó khắp nơi.
Cô mở ra một trong những bức thư gửi " Con người nhân đức ở nhà thờ Saint-jacques-du-haut-pas".
- Này, cô nói, đây là thư gửi cho lão già nọ đang đi xem lễ mi sa. Tới giờ rồi. Tôi sẽ mang nó tới lão. Có thể lão sẽ cho chúng tôi cái gì để ăn trưa nay đây. Hai ngày rồi chúng tôi chằng ăn uống gì cả. Câu nói khiến Marius sực nhớ điều cô gái bất hạnh đến tìm tại phòng chàng.
Lục túi mãi, chàng cuối cùng gom được năm frăng mười sáu xu Chàng giữ lại mười sáu xu cho bữa ăn tối trong ngày và cho cô gái năm trăng. CÔ ta chộp ngay :
Tốt lắm, cô nói. Có ánh sáng mặt trời rồi đây. Tôi sẽ vừa ăn vừa đi. Cũng thế thôi, tôi sẽ đi gặp lão già của tôi Chào!
Và cô đi ra.
Marius vừa ngắm bức vách ngăn cách chàng với gia đình Jondrette vừa nghĩ ngợi. Bức vách này là một lớp thạch cao mỏng chống đỡ bằng những cái nan xuyên qua đó tiếng nói có thể nghe trót lọt. Bất chợt chàng thanh niên chú ý thấy ở gần trần nhà nơi bức vách ngăn có một cái lỗ hình tam giác do ba cái nan tạo nên một khoảng trống ở giữa. Khi đứng trên cái tủ có ngăn kéo người ta có thể qua đó nhìn thấy gian phòng của gia đình Jondrette.
Marius nghĩ, mình hãy ngó qua một chút xem những con người đó ra sao.
Chàng leo lên cái tủ ngăn kéo, ghé mắt vào chỗ hở và nhìn :
Điều Marius trông thấy là một gian phòng tồi tàn, so với nó, gian phòng được giữ gìn rất đỗi sạch sẽ của chàng có vẻ sung túc. Hai cái giường tồi tàn không thể tả, một cái bàn thiếu chân, một cái ghế nhồi rơm, vài mảnh sành, một cửa sổ trên mái nhà với bốn tấm kính phủ đầy mạng nhện, một .lò sưởi trên đó có một cái lò, một cái nồi, những tấm ván gẫy, những mảnh nóc vào đinh, tro và có cả chút lửa với que củi cháy dở nhả một làn khói ảm đạm. Dưới đất, dọc theo bức vách, là một cái pa nô bằng gỗ lật ngược.
Một người đàn ông khoảng 60 tuổi, ốm, nước da xanh tái, đôi mắt hung ác, một hạng người đê tiện gớm ghiếc, ông ta mặc một chiếc áo sơ mi đàn bà và một cái quần dài nhem nhuốc, đang ngồi vào bàn. ông ta đang viết và hút thuốc. Một người đàn bà mập bự, tuổi có thể bốn mươi hoặc một trăm, đang ngồi xổm cạnh lò sưởi trên hai gót chân trần của mình. Một cô bé cao lớn đang nằm trên một cái giường.
Bất chợt cửa phòng mở toang. Cô con gái lởn xuất hiện trên ngưỡng cửa. Cô hét lên đến hụt hơi.
- Lão già đến, cái lão nhân từ ở nhà thờ St-jacques! lão đến bằng xe ngựa với cô con gái ! Con đã đợi lão xem lễ mi sa ra, con đã đưa thư cho lão, lão đã đọc thư.
Ban đầu lão có vẻ ngập ngừng, sau đó lão nói được rồi, lão sẽ đến. Con phải chạy về báo cho cha biết.
Con là một cô gái khôn lanh, người cha nói.
Nhưng thế chưa đủ. Nơi này trông chưa khốn khổ lắm. Mẹ tụi nhỏ đâu, tắt lửa đi ! Còn con, hãy tháo rơm độn ra khỏi ghế. Trời có lạnh không? .
- Rất lạnh, có tuyết mà. .
Người cha quay sang cô gái nhỏ, hét :
Nhanh lên! Rời khỏi giường, đồ ăn hại. Hãy đập một tấm kính. Đúng, đập nó đi. Tao muốn thế.
Đứa trẻ lấm lét vâng lời, vung tay đấm một tấm kính cửa sổ vỡ tan và rơi xuống đắt.
Trong lúc đó, người cha với vẻ nhanh nhẹn của một người làm trò xiếc, đã đổ nước vào mấy que củi đang cháy và chộp chiếc ghế dùng gót chân tháo tung lớp rơm độn của nó.
Bà lên giường đi ? ông ta ra lệnh cho bà vợ giọng sang sảng khiến bà ta ríu ríu vâng lời và nặng nề gieo mình trên một trong hai cái giường.
Tuy nhiên người ta nghe có một tiếng khóc nức nở trong góc :
Chuyện gì thế? người cha hét lên. .
Cô con gái nhỏ đang ngồi co ro trong bóng tối, đưa ra nắm tay bết máu. Cô bị thương khi đập vỡ kính cửa sổ.
Người vợ nhổm dậy và kêu lên.
- ông thấy những trò bậy bạ ông làm chưa? Khi đập vỡ tấm kính của ông nó đã đứt tay.
Càng tốt, người đàn ông nói. Đã tính trước hết rồi. Bây giờ thì chúng ta có thể tiếp lão già nhân từ được rồi.
ông ta xé toạc chiếc áo sơ mi mà bà vợ đang mặc trên người và lấy một mảnh vải quấn quanh cổ tay đầy máu của cô con gái.
Marius quan sát cảnh tượng đó với một sự kinh ngạc chán chường. Chàng muốn bước trở xuống từ tủ ngăn kéo nhưng một nỗi tò mò bí ẩn giữ chàng lại, như để chờ đợi một điều gì đó khó tin xảy ra. và chàng suýt kêu lên một tiếng, bởi lúc bấy giờ cửa phòng Jondrette chợt mở trước một ông lão và một cô gái.
Đó là nàng.
Đó chính là nàng. Marius chỉ thoáng nhận ra nàng xuyên qua luồng hơi lấp lánh chợt tỏa ra trước mắt chàng. Chính con người xa vắng dịu hiền đó, ảo ảnh lồng lộng khuất lánh đó. Nàng lại xuất hiện? Dường như Marius vừa mới gặp lại linh hồn thất lạc của mình.
Nàng vẫn thế, chỉ hơi xanh xao một chút. Nàng bước vào gian phòng và đặt một cái gói khá to lên bàn.
- Này ông, người khách nói với Jondrette. ông sẽ tìm thấy trong cái gói này mớ quần áo cũ còn tốt, vớ và mền len. Tôi thấy ông phàn nàn là đúng, ông Fatanbon ạ.
Học trò cũ của Talma, vị ân nhân thánh thiện của tôi Jondrette kêu lên bằng giọng người lái đò chợ phiên.
xưa kia thời vận đã mỉm cười với tôi, giờ đây đến lượt sự bất hạnh. ông thấy đấy, không bánh mì, không củi lửa, cái ghế độc nhất của tôi đã tháo rơm, một tấm kính cửa sổ đã vỡ vì thời tiết, vợ tôi bịnh liệt giường, con tôi thì bị thương.
Cô bé được khuây khỏa vì có những người lạ mặt, bất đầu ngắm "cô nương" và đã im tiếng khóc.
Khóc đi chứ! La hét đi chứ ! Jondrette nói nhỏ với cô
Cùng lúc, ông ta véo mạnh bàn tay đau của cô một cách nhanh gọn như làm quỷ thuật. Cô bé hét vang.
- Cô nương hãy xem cổ tay của nó, Jondrette nói với cô khách trẻ, một tai nạn đã đến với nó khi nó làm việc dưới một cỗ máy để lãnh sáu xu mỗi ngày. Rồi đây có thể chúng tôi buộc phải cưa cánh tay của nó.
Đúng thế sao? ông lão nói giọng hoảng hốt.
- Hãy nhìn lão ta kìa ? Jondrette thì thầm với bà vợ. Giữa mùa đông giá rét! ông ta tiếp lời lớn giọng, chỉ có những manh áo tả tơi này ! Rồi ngày mai là hạn chót ông
chủ tôi buộc tôi phải trả món tiền theo kỳ hạn. Nếu chiều nay tôi không trả sáu mươi frăng thiếu một năm cả gia đình bốn người chúng tôi sẽ bị tống ra ngoài cửa.
ông lão móc năm frăng từ trong túi và ném chúng lên bàn. Sau đó ông cởi chiếc áo rây đanh gết rộng màu nâu ông mặc bên trên chiếc rây đanh gột màu xanh của ông và đặt nó trên ghế :
- ông Fatanbon, ông nói, tôi chỉ còn món tiền này trong người. Tôi sẽ đưa con gái tôi về nhà. Nhưng tôi sẽ có mặt tại đây vào lúc sáu giờ và tôi sẽ mang đến ông sáu mươi trăng.
Vị ân nhân màu nhiệm của tôi, Jondrette kêu lên.
Tôi đang ứa nước mắt đây. ông hãy cho phép tôi đưa ông
Marius suýt nhảy khỏi cái tủ để theo người con gái đáng yêu, nhưng chàng nghĩ người cha hoặc Jondrette có thể trông thấy chàng và cuối cùng chàng sẽ sớm bị bỏ lại bởi cỗ xe ngựa chạy nhanh.
Thế là chàng tứ bỏ ý định, nhưng chàng bị khuấy động không yên, chàng run lên trên cơn nôn nóng khi phải lẩn tránh. Chàng nhủ thầm rằng người cha sẽ trở lại lúc sáu giờ, bảy giờ chàng sẽ thu xếp để theo ông đến tận nhà ông để gặp lại nàng. Nàng!
Jondrette vội vã trở về phòng. Mắt ông ta sáng quắc như mắt thú rừng.
- Bà có nhận ra hắn không? ông ta hỏi vợ. Và ông ta cúi sát vào tai bà. Hãy ra ngoài cả đi, ông ta bảo hai cô gái, nhưng hãy có mặt tại đây vào lúc năm giờ. Cả hai đứa. Tao cần đến chúng mày.
Marius càng thêm chú ý.
Còn lại một mình với vợ, Jondrette bắt chéo tay và kêu lên.
- Chính hắn, cũng vóc người cao to đó, cũng giọng nói đó, nhưng ăn mặc lịch sự hơn, thế thôi. Còn cô gái... thì cũng chính là con nhỏ đó, con Sơn Ca.
Trọn cuộc đời của Marius đều dồn vào đôi tai của chàng.
Sự bùng nổ của cơn phẫn nộ nơi bà Jondrette sau những lời lẽ đó của chồng bà khiến chàng càng kinh hồn hoảng vía khi giọng nói người đàn bà trở nên gớm ghiếc : Khi tôi nghĩ hai đứa con gái tôi phải đi chân trần và không có một chiếc áo dài để mặc. Rồi sao chứ, con bé xinh đẹp ghê tởm đó nhìn chúng vẻ thương hại lại chính là con bé khốn khổ đó à? ồ, tôi muốn dùng guốc mà đạp cho bể bụng nó ra.
Và bà muốn nghe điều này không, Jondrette tiếp lời giọng ông ta thấp xuống nhưng nghe còn ghê rợn hơn những tiếng hò hét của vợ ông ta. Là thời vận tôi đã tới rồi. Tôi muốn thành triệu phú như mọi người. Tôi chán cảnh đói khát lắm rồi. Hấn ta sẽ tới đây chiều nay vào lúc sáu giờ. Đó là giờ mà tên ở bên cạnh đi ăn tối. Không có người nào trong nhà: Hai đứa nhỏ thì lo rình. Bà sẽ giúp chúng tôi. Hắn sẽ thực hiện thôi.
Nếu hắn không thực hiện thì sao? Người đàn bà hỏi. Jondrette nở một nụ cười ghê sợ và nói :
Chúng ta sẽ giết hắn... Bây giờ tôi ra ngoài đây.
Tôi cần gặp mấy người bạn. Đây là một vố hấp dẫn. Bà hãy lo giữ nhà... Bà có biết rằng hắn hạnh phúc đến nỗi đã không nhận ra tôi? Chính chòm râu đã cứu tôi đấy,
chòm râu cằm xinh xắn lãng mạn của tôi... Hắn đã để lại chiếc áo khoác của hắn cho tôi, tên già ngốc ấy. .Không có nó, có lẽ tôi không thể ra đường được và mọi việc có
thể hỏng bét! Thế mới được việc đấy.... à quên, bà hãy mua hai đấu thanh để đốt lò. Hãy lấy đồng trăm xu của con người nhân đức. Nhưng hãy mang về tiền lẻ cho tôi
đấy, Tôi cần mua mấy thứ ở tiệm bán đồ lạt son ở đường Mouffetard. Hôm khác chúng ta sẽ đi ăn. Hôm nay còn nhiều điều cần phải làm hơn.
Sau đó Marius nghe tiếng Jondrette khuất dần trong hành lang và vội vã bước xuống cầu thang.
Bấy giờ chuông một giờ đã đổ tại St-médard.
Phải chân bọn người khốn nạn này lại, Marius nghĩ thầm trong cơn khiếp đảm. Phải cứu nàng, và cha nàng nữa. Phải báo cảnh sát.
Marius lặng lẽ rời khỏi phòng. Rồi chàng bước vội về phía đồn cảnh sát gần nhất, ở đường Pontoise.
Lúc đang đi trên đường Petit-banquier chàng nghe có tiếng nói vọng ra từ những khu đất trống ven con đường. Chàng đi chậm lại, tuyết làm cho bước chân chàng bớt gây tiếng động. Tường khá thấp, chàng nghiêng người và trông thấy hai người đàn ông có vẻ là dân lang thang. Một người có râu mặc áo bờ lu, người kia tóc tai bờm xờm ăn mặc rách rưới.
- với atron-minette, vụ này không thể thất bại được Phần mỗi người là năm trăm trăng đấy, và trong trường hợp rủi ro thì năm năm, mười năm là cùng. Chưa tính cỗ xe ngựa của lão Chose.
Marius vừa tiếp bước vừa nghĩ ngợi. Chàng thấy câu chuyện của hai người đàn ông đang ngồi trên tuyết kia có phần liên quan đến những ý đồ ghê tởm của Jondrette.
Chàng tới đường Pontoise và khi bước vào đồn cảnh sát chàng xin được nói chuyện với ông cảnh sát trưởng.
ông ấy không có ở đây, một thầy đội nói, nhưng có một thanh tra thay ông ấy. Anh hãy theo tôi.
ông thanh tra cảnh sát là một con người cao lớn. Râu dày và xám viền một khuôn mặt vuông với đôi mắt sáng quắc. ông gây cho người khác cảm giác sợ sệt lẫn tin cậy. Marius kể ông nghe câu chuyện, tất cả những gì chàng biết về âm mưu.
- Có phải trong cái phòng cuối hành lang không?
ông thanh tra hỏi bằng một giọng chứng tỏ rằng ông biết rõ ngôi nhà. Chắc Patron-minette có liên quan ít nhiều tới câu chuyện phải không?
Đúng là tôi có nghe nhắc tới cái tên kỳ dị đó mới đây, chàng trai nói. Và chàng kể lại mẩu chuyện trao đổi giữa hai kẻ lang thang trên đường Petit-banquier.
Người tóc tai bờm xờm chắc hẳn là Brujon, và người có râu là Demi-liard, ông thanh tra nói sau phút nghĩ ngợi. Còn lão Chose dường như tôi đã trông thấy lão Anh có trông thấy một tên ăn mặc sang, lượn qua đó không? Một tên to lớn đồ sộ trông như một con voi trong thảo cầm viên? Một tên ác ôn mũi lệch?
- Dạ không, Marius nói, những người đó là ai?
Anh có sợ những người đó không? ông thanh tra hỏi thay vì trả lời.
- Không sợ hơn ông đâu! Marius đáp giọng hơi gay gắt vì chàng bắt đầu để ý thấy viên cảnh sát vẫn chưa gọi chàng bằng "ngài".
- Anh có chìa khóa ngôi nhà không? ông thanh tra vừa hỏi vừa nhìn đăm đăm vào Marius nhưng với một vẻ ngưỡng vọng. Tốt, hãy đưa nó cho tôi. Còn anh hãy giữ
lại hai khẩu súng này. Chúng đã nạp đạn. Anh hãy quay về điểm quan sát của anh. Bọn đó sẽ đến. Hãy cứ để cho chúng vào. Khi phán đoán tình hình đã đúng lúc, anh hãy bắn một phát chỉ thiên. Tôi và mọi người sẽ có mặt tại đó Hẹn sáu giờ nhé? Tôi có đủ thì giờ. Anh đừng quên đấy. Pằng! Một phát súng.
ông hãy yên tâm, Marius đáp.
Và khi chàng trai đặt tay lên chốt cửa để bước ra ngoài, ông thanh tra gọi chàng :
Nhân tiện, từ đây đến lúc đó có cần gì tôi, anh hãy đến hoặc cho người đến đây. Anh cứ hỏi thanh tra Javert.
Nguồn: http://vnthuquan.net/