Một tháng đã trôi qua từ sau những biến cố ấy.
Một chiều chủ nhật, sau giờ kinh tối, mẹ bề trên của tu viện Sainte - Radegonde ở Peyssac là người cuối cùng ra khỏi nhà nguyện nằm ở cuối khu vườn của tu viện. Thỉnh thoảng bà đưa mắt đỏ vì khó nhiều nhìn về phía một bụi điền ma và thông, ánh mắt nặng trĩu nuối tiếc tưởng chừng như trái tim của bà bị cầm giữ ở nơi ấy và bà không thể nào rời đi được.
Phía trước, một hàng dài các nữ tu mặt che khuất sau tuần khăn voan và câm lặng, trông như một đám rước của các bóng ma trở về với nấm mồ, và còn một bóng ma đang quay mặt đi, nuối tiếc cõi trần.
Dần dần, kẻ trước người sau, các nữ tu biến mất dưới những vòm cửa của tu viện, bà mẹ bề trên đưa mắt nhìn theo cho đến người cuối cùng, rồi bà ngồi xuống một đầu cột thấp với một vẻ tuyệt vọng không thể nào tả hết được.
- Ôi! Lạy Chúa! Lạy Chúa! - Ba nói, đưa một bàn tay lên áp nơi trái tim - Xin người chứng giám cho rằng con không thể nào chịu đựng nổi cuộc sống này nữa, con muốn tìm đến với những bóng tối và cô quạnh trong dòng tu kín này chứ không phải những ánh sáng cứ chăm chăm vào con như thế kia.
Rồi bà đứng dậy và bước một bước về phía lùm thông đằng kia.
- Nói cho cùng - Bà nói - thế gian này đối với ta còn gì là quan trọng nữa khi mà ta đã từ bỏ nó? Thế gian này chỉ làm hại ta thôi, xã hội này thật tàn nhẫn đối với ta, vậy tại sao ta lại bận tâm đến những câu xét đoán của người đời một khi ta đã đến nương nhờ nơi Chúa và chỉ sống vì người? Nhưng có lẽ Chúa lên án mối tình vẫn sống và cắn rứt trong tim ta. Nếu vậy thì ta xin Người hãy lấy nó đi khỏi tim ta, hoặc là hãy lấy hồn ta ra khỏi thân xác này đi.
Nhưng miệng vừa thốt ra những lời ấy thì con người tuyệt vọng đáng thương kia đưa mắt nhìn xuống tấm áo dòn gmình đang mặc, bà kinh hoàng vì câu nói xúc phạm chẳng xứng đáng với tấm áo tinh khiết, bà đưa bàn tay gầy gò lên gạt những giọt nước mắt đang lấp lánh nơi mi, và hướng ánh mắt lên trời, bà dâng lên Thượng Đế lễ vật là những nỗi đau khổ triền miên của mình.
Ngay khi đó, một giọng nói vang lên bên cạnh bà. Mẹ bề trên quay lại, đó là chị nữ tu lo việc tiếp khách.
- Thưa mẹ bề trên - Người nữ tu nói - ngoài phòng khách có một người phụ nữ muốn xin được tiếp chuyện với mẹ.
- Người đó tên gì?
- Bà ấy chỉ muốn nói với mẹ.
- Trông người đó thuộc vào giai cấp nào?
- Có lẽ là giai cấp sang trọng.
- Lại thế gian. - Mẹ bề trên lẩm bẩm.
- Tôi sẽ trả lời như thế nào ạ? - Người nữ tu hỏi.
- Hãy nói rằng tôi đang chờ.
- Ở đâu, thưa mẹ?
- Hãy đưa bà ta vào đây, tôi sẽ tiếp khách ngoài vườn. Tôi đang cần không khí, vào nhà tôi không chịu nổi.
Người nữ tu trở ra và một lát sau quay vào, theo sau là một phụ nữ, chỉ nhìn vào bộ y phục sang trọng mặc dù rất giản dị cũng đủ biết là một người thuộc giai cấp thượng lưu.
Người ấy hơi thấp, dáng đi hơi nhanh có lẽ không được thanh lịch lắm nhưng toát ra một vẻ duyên dáng khó tả. Bà ta mang theo một chiếc hộp bằng ngà, màu trắng nhạt tương phản với màu vải đen của bộ y phục.
- Thưa bà - Người nữ tu nói - đây là mẹ bề trên.
Bà mẹ bề trên hạ tấm khăn voan xuống và quay về phía bà khách lạ.
Người này đưa mắt nhìn xuống, thấy bà nhợt nhạt và run rẩy vì xúc động, bà mẹ bề trên dịu dàng, nhìn bà và nói:
- Chị muốn nói chuyện với tôi à, tôi xin sẵn sàng nghe đây.
- Thưa mẹ bề trên. - Bà khách lạ nói - Tôi đã từng sung sướng đến mức lòng kiêu ngạo của tôi đã tin rằng có lẽ ngay cả Thượng Đế cũng không thể phá hủy được hạnh phúc của tôi. Hôm nay người đấy đã trừng phạt tôi, tôi cần được ăn năn, cần được khóc lóc. Tôi đến xin nương nhờ nơi mẹ để những tiếng khóc than của tôi được chôn vùi giữa những bức tường của tu viện, để những giọt nước mắt của tôi không là trò cười cho người đời, để Thượng Đế có lẽ đang tìm kiếm tôi giữa những cuộc vui, sẽ tìm thấy tôi đang khóc than trong một nơi thánh thiện và đang cầu nguyện nơi chân bàn thờ của Người.
- Tôi thấy rõ là tâm hồn chị đang vô cùng đau khổ bởi vì cả tôi, tôi cũng đã từng biết đau khổ là gì. Nếu chị cần sự yên tĩnh, nếu chị cần sự khổ hạnh, nếu chị cần sự hành tội thì hãy đến đây và cùng chịu khổ hạnh với chúng tôi, nhưng nếu chị tìm một nơi để có thể giải thoát khỏi đau khổ nhờ những tiếng khóc, nếu chị muốn tìm một nơi để thốt ra những tiếng kêu tuyệt vọng, một nơi mà không có ánh mắt nào có thể nhìn thấy chị thì thưa chị... - Mẹ bề trên nói tiếp và lắc đầu - thì chị nên rời khỏi đây, chị hãy giam cầm mình nơi phòng riêng thế gian sẽ tò mò nhìn chị ít hơn là ở đây, và những tấm màn dày của khuê phòng dập tắt những tiếng khóc có hiệu quả hơn là mấy tấm ván của các phòng kín ở đây. Còn Thượng Đế, chỉ trừ khi nào những tội ác nặng nề lắm mới khiến người ngoảnh mặt đi với chị, còn không thì người sẽ nhìn thấy chị ở khắp nơi.
- Thưa mẹ - Bà ta nói - như vậy phải chăng những kẻ đau khổ không nên tìm đến với Thượng Đế, còn nơi đây không phải là nơi nghỉ chân trên con đường về nước trời hay sao?
- Thưa chị, chỉ có một cách để đến với Chúa. - Bà mẹ bề trên trả lời - Chìm đắm vào sự tuyệt vọng của mình, chị nuối tiếc điều gì? Chị than khóc điều gì? Chị hỏi xin điều gì? Thế gian đã làm phật ý chị, tình bằng hữu đã phản lại chị, chị thiếu vàng bạc, một nỗi buồn tạm thời khiến cho chị tin rằng đó là điều đau khổ tột cùng, phải chăng hiện tại chị đang đau khổ và nghĩ rằng sẽ mãi mãi đau khổ như vậy? Như khi trước một vết thương mở rộng, người ta tưởng tượng rằng nó sẽ không bao giờ liền miệng, hãy than khóc đi và để cho đau khổ tuôn tràn, sau đó vết thương sẽ khỏi, và nếu chị đã bị ràng buộc vào với chúng tôi thì sẽ lại bắt đầu một nỗi khổ đau khác, những nỗi khổ này mới thực sự là muôn đời, không bao giờ nguôi và thật là khác thường, chị sẽ được nhìn thấy qua một hàng rào thép thế gian trước kia mà chị không thể nào quay trở lại được nữa, khi đó chị sẽ nguyền rủa cái ngày mà sau lưng chị đóng lại cánh cổng sắt của nơi thánh này, nơi mà chị cho là chốn nghỉ chân trên đường về nước trời. Điều mà tôi nói đây có lẽ không hợp với nội quy của chúng tôi. Tôi làm mẹ bề trên, chưa bao lâu để hiểu rõ vẫn thường xuyên, không phải là trong thâm tâm tôi, nhưng là chung quanh tôi.
- Ôi, không, không! - Người phụ nữ lạ mặt kêu lên - Đối với tôi, thế gian đã chấm dứt rồi, tôi đã mất tất cả những gì đã khiến tôi yêu chuộng thế gian, không, thưa mẹ bề trên hãy an tâm, tôi không bao giờ hối tiếc nó nữa. Ồ, chắc chắn là như vậy... không bao giờ.
- Nếu vậy, điều khiến chị than khóc đó là nặng nề lắm sao? Thay vì một ảo tưởng, chị đã để mất một báu vật hay sao? Chị phải xa cách mãi mãi một người chồng, một người con, một người yêu? Ồ, nếu vậy thì tôi xin chia buồn với chị, bởi vì như vậy trái tim chị đã tổn thương nặng nề và sẽ không bao giờ chữa khỏi! Thôi được, chị hãy đến với chúng tôi, Thượng Đế sẽ an ủi chị, chúng tôi sẽ thay thế, những người thân thích của chị... - Và người mẹ bề trên nhỏ giọng - Nếu điều đó vẫn không an ủi được chị thì sẽ còn một niềm an ủi cuối cùng là hãy đến đây để cùng khóc với tôi bởi vì, cũng như chị, tôi đã đến đây để tìm nguồn an ủi đó, và cũng không tìm được.
- Kìa! - Người khách lạ kêu lên - Cớ sao tôi lại phải nghe những lời tương tự như vậy? Phải chăng đấy là cách nâng đỡ của những kẻ khốn khổ?
- Thưa chị - Bà mẹ bề trên nói vừa đưa bàn tay về phía người thiếu phụ như để tránh câu chê trách - Xin đừng nói đến điều buồn khổ trước mặt tôi, tôi không biết chị là ai, tôi không biết điều gì đã xảy ra với chị, nhưng chị không biết đau khổ là gì đâu.
- Ồ! - Bà khách kêu lên với một âm sắc đau buồn đến nỗi bà mẹ bề trên phải giật mình - Thưa mẹ, mẹ không biết tôi là ai, nếu biết mẹ đã không nói với tôi như vậy, vả lại mẹ không thể phán xét về chiều sâu của nỗi đau nơi tôi, bởi vì muốn vậy thì mẹ cần phải khổ đau như tôi đã từng đau khổ, tạm thời xin hãy tiếp nhận tôi, hãy mở cho tôi cánh cửa của nhà Chúa và qua những tiếng than thở, những giọt lệ của tôi sau này, mẹ sẽ hiểu được là tôi khốn khổ biết chừng nào.
- Phải qua giọng nói của chị, tôi có thể hiểu rằng chị đã mất người chị yêu, có đúng thế không?
- Ồ, vâng, vâng! - Người khách khóc nấc lên, vặn hai tay vào nhau.
- Thôi được, bởi vì chị đã muốn, thì hãy vào đây vậy nhưng tôi xin báo trước với chị những gì mà chị sẽ tìm thấy trong chốn khổ hạnh này, bốn bức tường muôn thuở cay nghiệt sẽ luôn đưa những ý tưởng của chị trở về thế gian này, nơi chị đã muốn rời bỏ, thay vì phải hướng chúng về nước Trời, bởi vì không điều gì có thể bị dập tắt khi máu còn chảy, mạch còn đập, tim còn yêu, bởi vì dù có sống tách biệt và xa lánh như chúng ta vẫn tưởng, những kẻ đã khuất vẫn kêu gọi chúng ta từ đáy mồ của họ, tại sao chị muốn rời nơi yên nghỉ của những người thân của chị?
- Bởi vì tất cả những gì tôi yêu quý đang ở đây. - Người thiếu phụ nói với một giọng nghẹn ngào và quỳ sụp xuống dưới chân bà mẹ bề trên đang hết sức kinh ngạc - Người ấy đã được chôn cất dưới nhà nguyện Peyssac, xin hãy cho tôi ở lại đây để khóc nơi nấm mồ của người ấy.
- Ai ở đây? Nấm mồ nào? Chị muốn nói đến ai? Bà mẹ bề trên kêu lên.
- Khi tôi còn hạnh phúc, sung sướng - Người thiếu phụ nói tiếp, với một giọng rất nhỏ như bị tiếng gió ạt đi - mọi người gọi tôi là Nanon de Lartigues. Bề trên thì tôi là ai và đã hiểu tôi cầu xin điều gì.
- Ôi, thưa bà! - Bà mẹ bề trên lặng đi giây lát rồi nói với một giọng bề ngoài tỏ ra khá bình thản nhưng vẫn còn nhật ra một chút xúc động - Ôi, vậy ra bà cũng không biết tôi là ai để mà lại đến đây muốn được khóc lóc trên nấm mồ đó, vậy ra bà đã không biết rằng tôi đã phải trả giá bằng sự tự do của mình, bằng hạnh phúc trên cõi đời này, bằng tất cả nước mắt của trái tim tôi để có được niềm vui đau buồn mà bà vừa đến đòi chia sẻ cho bà hay sao? Bà là Nanon De Lartigues, còn tôi, khi tôi còn có tên, mọi người gọi tôi là nữ tử tước De Cambes.
Nanon thốt ra một tiếng kêu, đến gần bà mẹ bề trên, nàng giở tấm khăn voan lên và nhận ra kẻ tình định của mình.
- Cô ta! - Nanon lẩm bẩm - Một người đẹp thế kia! Ôi, đáng thương thay.
Nàng bước lùi phía sau một bước, mắt vẫn ngó sững vào nàng tử tước, như không thể nào tin được.
- Ôi! - Đến lượt nàng tử tước kêu lên - Bà vừa thốt ra một tiếng khiến tôi được ít nhiều an ủi. Ôi! Như vậy là tôi đã vô cùng đau khổ, cho nên mới đổi thay đến như vậy, tôi đã khóc rất nhiều, tôi đau khổ rất nhiều, bởi vì bà, bà hãy còn đẹp.
Nanon hãy còn quỳ gối, giấu mặt trong hai tay và bật khóc.
- Hỡi ôi, thưa bà, tôi đã không biết bà là ai bởi vì từ một tháng nay tôi hoàn toàn không biết những gì xảy ra chung quanh nữa, và điều gì đã khiến tôi hãy còn đẹp, bởi vì có lẽ tôi đã gần như điên loạn. Đây, tôi đây, tôi không muốn bà giữ lòng ghen với tôi, tôi xin được vào đây với tư cách là kẻ bề tôi hèn mọn nhất của bà, bà hãy sử dụng tôi theo như ý bà, hãy sử dụng giáo luật và ngục tối nếu được đôi lần đến tuân theo lời bà. Nhưng ít ra, xin hãy cho tôi được đôi lần đến trước nơi yên nghỉ của người mà hai chúng ta cùng yêu.
Bà mẹ bề trên không trả lời, tựa vào thân cây liễu, bà dường như không còn hơi sức nào nữa.
- Ôi, bà ơi! Bà ơi! - Nanon kêu lên - Bà không trả lời tôi sao, bà từ chối tôi? Thôi, thì đây, tôi còn một báu vật cuối cùng, hãy chấp nhận điều tôi cầu xin và nó sẽ thuộc về bà.
Rồi, tháo từ ngực ra một tấm mề đay nhỏ, nàng trao cho bà mẹ bề trên. Claire thốt lên một tiếng kêu và cầm lấy di vật đó, hơn lên những sợi tóc lạnh lẽo khô héo.
- Đấy! - Nanon lại nói - Bây giờ thì bà có tin rằng bà đau khổ hơn là hiện tại tôi đang đau khổ chăng?
- Kìa, chị ơi! - Nàng tử tước nói và kéo Nanon lại gần bên mình - Này, hãy đến đây, giờ đây chị là người tôi yêu quý nhất trên thế gian này, bởi vì chị đã chia sẻ với tôi báu vật đó. Phải! Chị sẽ là người bạn và là người chị em của tôi. Chúng ta sẽ cùng sống và sẽ cùng chết trong những kỷ niệm và những lời cầu nguyện cho người ấy. Chị đã nói đúng, nào, chàng đang yên nghỉ nơi nhà nguyện của chúng tôi.
Nói xong, Claire nắm lấy tay Nanon và cả hai người nhẹ bước trên cỏ đến bên một lùm thông, phía sau là một nhà nguyện nhỏ. Tại một cánh cửa nhà nguyện có một phiến đá cao độ bốn bộ, trên phiến đá ấy có khắc hình một cây thập giá. Bà mẹ bề trên tay chỉ về phía tấm đá ấy.
Nanon quỳ xuống và hôn lên mặt đá hoa cương. Phu nhân De Cambes đưa vào bàn thờ và hôn lên lọn tóc. Một người thì đang cố gắng làm quen với cảnh chết chóc, người kia lại đang muốn mơ tưởng một lần chót về thế gian.
Một lát sau, cả hai cùng trở ra. Họ vẫn chưa nói với nhau một lời nào.
- Chị à! - Phu nhân De Cambes nói - Giờ thì chị đã có phòng của mình trong tu viện này, chị có muốn ở bên cạnh phòng tôi để chúng ta cùng được gần bên nhau không?
- Thưa mẹ bề trên. - Nanon De Lartigues nói - Tôi vô cùng cảm tạ mẹ về ân huệ đó và tôi xin chấp nhận với lòng biết ơn sâu xa. Nhưng trước khi mãi mãi rời cõi thế gian, xin cho tôi được phép chào từ biệt người anh đang đợi tôi ngoài cửa, người ấy cũng đã vô cùng đau khổ.
- Than ôi! - Phu nhân De Cambes thốt lên, sực nhớ lại ngoài ý muốn của mình, sự trốn thoát của Cauvignac đã từng gây nên cái chết của người bạn tù - Chị cứ đi đi!
Nanon trở ra.
Phần V - Chương 2: Hai anh em
Nanon nói đúng, Cauvignac đang ngồi đợi nàng trên một tảng đá, mặt buồn bã nhìn con ngựa cột cách đó hai bước. Trước mặt anh chàng lãng tử là con đường bụi bặm dường như khởi đầu từ tu viện này để kéo dài đến vô tận.
Có thể nói rằng mặc dù không thiên mấy về những tư tưởng triết lý, anh chàng cũng đang nghĩ rằng, kia là thế gian với những ồn ào nhộn nhịp đang tắt dần nơi ngưỡng cửa thánh thiện. Thật vậy, Cauvignac đang đạt đến một độ nhạy cảm để có thể tin rằng y đang suy tư về những vấn đề ấy.
Nhưng, với cá tính con người như y, y không lạc lõng trong những giấc mơ lãng mạn ấy. Y sực nhớ đến tính cách của người đàn ông và hối hận vì đã tỏ ra yếu đuối như vậy.
"Sao! Ta một người vượt xa những kẻ mềm yếu vì đầu óc, ta không thể nào sánh ngang với họ được, ta không có tim! Quỷ thật! Richon chết rồi, điều đó là đúng, Canolles chết rồi, lại thêm một điều đúng nữa, còn ta thì đang sống mà đối với ta, hình như đấy là điều chính.
"Phải, nhưng chính bởi vì ta đang sống mà ta nghĩ ngợi và khi nghĩ ngợi thì ta nhớ lại, rồi khi ta nhớ lại ta cảm thấy buồn. Tội nghiệp Richon! Một viên chỉ huy tài ba như vậy! Tội nghiệp Canolles! Một anh chàng bảnh trai như vậy! Cả hai đều bị treo cổ mà quỷ thật, đều là do lỗi của ta, lỗi của Roland De Cauvignac. Ôi, buồn quá.
"Đó là chưa kể đến em gái ta, vốn chẳng có gì để khen ngợi cả, nay lại càng không có lý do gì để quý mến ta, bởi vì Canolles chết rồi và con bé lại ngu ngốc mà đi cắt đứt mọi liên hệ với ngài D Epernon, đó là chưa kể em ta nó chắc phải giận ta vô cùng, và tỉnh trí lại một chút, thế nào nó cũng sẽ truất quyền thừa hưởng của ta.
"Đấy mới chính là điều xui xẻo quan trọng nhất, chứ không phải là những kỷ niệm quỷ quái đang đeo đuổi ta kia. Canolles, Richon, Richon, Canolles. Hừm! Nhưng mà chẳng phải ta đã từng chứng kiến hàng trăm người chết, mà họ, họ là những thứ gì khác chứ không phải là người hay sao? Ồ! Nói có trời làm chứng, dẫu sao cũng có đôi lúc ta hối tiếc vì đã không được treo cổ cùng với hắn, ít ra ta cũng được chết có bạn có bè, chứ ai mà biết được mai sau ta sẽ chết cùng với ai đây?"
Ngay khi đó, chuông của tu viện gõ bảy tiếng, tiếng động ấy khiến Cauvignac tỉnh trí lại. Y nhớ lại rằng em gái y đã dặn y đợi cho đến bảy giờ, và tiếng chuông ấy báo cho y biết rằng Nanon trở lại và y cần phải đóng cho trọn vai của kẻ an ủi.
Thật vậy, cửa mở ra và Nanon hiện ra. Nàng băng qua khoảng sân nhỏ nơi lẽ ra Cauvignac có thể đến đó chờ nàng nếu y muốn bởi vì khách lạ được quyền vào bên trong khoảng sân ấy, vốn là một nơi không phải là hoàn toàn trần tục mà cũng chưa phải là một nơi thánh.
Nhưng anh chàng lãng tử không muốn vào đó, bảo rằng các tu viện và nhất là tu viện của các bà luôn luôn mang đến cho y những ý nghĩ đen tối, cho nên như chúng ta đã nói, y đứng ngoài cổng chờ.
Nghe tiếng bước chân, Cauvignac quay đầu lại và thấy Nanon bên cánh cổng sắt.
- À! Em đấy à. Mỗi khi anh thấy một trong những cánh cổng sắt dễ sợ như cánh cổng kia đóng sập lại sau lưng một người phụ nữ đáng thương, anh cứ tưởng chừng như tấm bia mộ sập xuống chôn lấp một xác chết.
Nanon buồn bã mỉm cười.
- Tốt! - Cauvignac nói - Em không khóc nữa, vậy là đỡ rồi.
- Đúng đấy! - Nanon nói - Em không còn có thể khóc được nữa.
- Nhưng em hãy còn mỉm cười được, càng tốt. Thôi chúng ta trở về nhé? Anh không hiểu vì sao mà cái chốn này khiến cho anh suy nghĩ lung tung quá.
- Những ý nghĩ có ích?
- Có ích? Em cho là như vậy à? Thôi được, chúng ta không nên bàn cãi thêm về những điều đó nữa và anh lấy làm vui mừng là em cho những ý nghĩ đó là như vậy, anh hy vọng là em đã trở nên bình tĩnh hơn và không cần phải trở lại đây nữa.
Nanon không trả lời, nàng đang suy nghĩ.
- Trong những ý nghĩ có ích đó - Cauvignac bạo dạn hỏi - hy vọng là em đã quên những thiệt hại vừa qua.
- Nhờ vậy mà em đã có thể quên được, nếu không muốn nói là sự tha thứ.
- Anh thì thích em quên đi hơn, nhưng không sao, khi mình là kẻ có lỗi thì không nên tỏ ra khó tính quá; vậy là em đã tha thứ cho anh rồi đấy à, Nanon?
- Vâng.
- Em làm cho anh rất hài lòng, như vậy từ rày về sau em sẽ không chán ghét khi nhìn thấy anh nữa chứ?
- Trái lại, em sẽ vui mừng khi được nhìn thấy anh.
- Như vậy, em sẽ để cho anh được sống gần bên em chứ?
- Ồ! Em không nói như vậy, anh à! - Nanon trả lời - Anh Roland, có những vấn đề mà cả hai chúng ta cần phải tôn trọng.
- Anh hiểu. - Cauvignac nói với một tiếng thở dài - Em muốn để anh đi xa, có đúng thế không? Anh sẽ không bao giờ gặp lại em nữa. Thôi được, mặc dù anh rất buồn vì điều này nhưng anh hiểu là anh đáng bị như vậy và anh cũng đã tự kết án mình. Hơn nữa, anh sẽ làm gì ở nước Pháp này một khi hòa bình đã được vãn hồi, một khi vùng Guyenne đã được ổn định, khi mà hoàng hậu và phu nhân De Condé đã trở thành những người bạn thân thiết nhất? Thế nhưng, anh không dám tự lừa dối mình đến mức tin rằng anh được người nầy hoặc người kia đặc biệt chiếu cố đến. Bây giờ chỉ còn một cách tốt nhất là bỏ đi xa như em vừa nói, như vậy, em gái à, em hãy từ biệt kẻ muôn đời phiêu bạt này. Bên Châu Phi đang có chiến tranh, ngài De Beaufort sẽ chiến đấu chống bọn đạo, anh sẽ cùng đi với ông ta. Nói thật với em, như vậy không nghĩa là bọn ngoại đạo đáng chết hơn những kẻ có đạo, chẳng hề gì, đó là vấn đề giữa các nhà vua chứ không phải là chúng ta. Ở bên đó có thể bị tử trận, đấy là điều anh đang cần. Anh sẽ đi, một khi anh chết rồi thì em sẽ bớt thù ghét anh hơn.
- Có thật vậy không? - Nanon tự nãy giờ vẫn cúi đầu lắng nghe, lên tiếng hỏi.
- Sao?
- Những ý tưởng vừa rồi của anh đó!
Cauvignac bị lôi cuốn vào bài diễn văn của chính mình như một người đã quen nổi hăng lên sau những câu nói hùng hồn, câu hỏi của Nanon nhắc y trở về thực tế, y tự hỏi xem có nên đặt qua một bên những câu khoa trương để trở về với những mưu tính tầm thường hơn.
- Hừm! Thật đấy, em gái à, anh xìn thề, trên cái gì? Anh cũng không biết nữa. Nhưng thực sự là anh rất buồn và đau khổ từ khi cái chết của Richon và nhất là của... Đây, mới lúc nãy, trên phiến đá này, anh đã suy nghĩ rất nhiều để giúp cho mình dày dạn chai đá, trái tim của anh mà từ trước đến giờ anh chưa hề nghe nói tới, đang bắt đầu không chỉ biết đập, mà còn biết nói, biết kêu la, biết khóc. Này Nanon, có phải người ta gọi đó là hối hận không?
- Vâng, đấy chính là hối hận, và anh là một người tốt hơn là em đã tưởng.
- Đấy! - Cauvignac nói - Bởi vì đây là sự hối hận nên anh sẽ đi Giyery, em sẽ cho anh một món nho nhỏ để chi phí cho cuộc đi đường và cho trang phục mới chứ Nanon? Phải chi anh có thể mang theo tất cả nỗi buồn của em cùng với anh.
- Anh sẽ không đi đâu, Cauvignac à! - Nanon nói - Và từ nay về sau, anh sẽ sống trong một cảnh sung túc mà một định mệnh thuận lợi hơn có thể dành cho anh. Mười năm qua anh đã phải chống chọi với khó khăn, em không nói đến những hiểm nguy mà anh đã từng trải qua, đấy là cuộc sống trong khi kẻ khác phải mất đi, đấy là ý muốn của Chúa, là anh sẽ sống và ý định của em là anh sẽ được sống sung sướng.
- Kìa em gái, tại sao em lại nói đến những điều đó? - Cauvignac nói - Em nói vậy nghĩa là sao?
- Em muốn nói là anh hãy đến nhà em tại Libourne, ở đấy trong ngăn tủ ngầm đằng sau tấm kính lớn, anh sẽ tìm thấy...
- Trong ngăn tủ ngầm?
- Phải, anh biết nó mà, có đúng không? - Nanon nói với một nụ cười yếu ớt - Có phải hồi tháng vừa qua anh đã lấy ở đấy hai trăm Pistoles?
- Đúng vậy. Nếu điều đó giúp anh tự cho mình là không có lỗi gì cả, thì em cũng công nhận như vậy. - Cauvignac đỏ mặt, đưa mắt nhìn xuống.
- Thôi, chúng ta đừng nghĩ đến chuyện đó nữa, anh cũng biết là em đã tha thứ cho anh.
- Bằng chứng?
- Bằng chứng là đây: Anh sẽ đến Libourne, anh sẽ mở cái tủ đó, anh sẽ tìm thấy tất cả gia tài mà em đã giữ lại được hai mươi ngàn đồng vàng.
- Anh sẽ làm gì với món tiền đó?
- Anh sẽ giữ nó.
- Nhưng nó sẽ thuộc về ai?
- Thuộc về anh, đấy là tất cả những gì em có bởi vì chắc anh cũng biết rằng khi rời ngài D Epernon, tất cả đất đai và nhà cửa của em đều bị lấy lại.
- Kìa em gái, em đang nói gì đấy? - Cauvignac hoảng hốt kêu lên - Em đang nghĩ gì trong đầu vậy?
- Em muốn nói là anh sẽ giữ lại cho anh món tiền hai mươi ngàn đồng vàng đó.
- Của anh? Thế còn em?
- Em không cần đến món tiền đó.
- À phải! Anh đã hiểu rồi, em còn một món khác nữa, có đúng vậy không? Những món tiền này lớn quá em gái à, em hãy suy nghĩ lại đi, đối với anh có một lúc như vậy thật là quá nhiều.
- Em không còn tiền nào khác nữa, em chỉ còn lại những viên đá quý. Em cũng muốn cho anh cả, nhưng đấy là của hồi môn của em để vào tu viện này.
Cauvignac nhảy dựng lên vì kinh ngạc.
- Tu viện này! - Y kêu lên - Em muốn vào tu viện này?
- Vâng.
- Ôi! Trời ạ, em không nên hành động như vậy. Tu viện! Em không biết là ở đấy buồn chán như thế nào đâu. Anh có thể nói với em như vậy bởi vì anh đã sống trong chủng viện một thời gian rồi. Đi tu! Nanon à, đừng làm như vậy, em sẽ chết mất thôi.
- Em cũng hy vọng được như vậy.
- Em ơi, anh không muốn lấy tiền của em với giá đó đâu. Nó đốt cháy anh mất thôi.
- Anh Roland. - Nanon nói - Em vào đây không phải để cho anh được giàu có, mà để cho em được sung sướng.
- Thật là điên khùng. - Cauvignac nói - Anh là anh của em Nanon, anh không chịu được cảnh đó.
- Trái tim em đã được chôn ở đây, Roland à, vậy thân xác em ở một nơi khác mà làm gì?
- Nghĩ đến điều này thật kinh khủng quá! - Cauvignac nói - Ôi! Em gái của anh ơi, em không nên làm như vậy.
- Anh không nên nói nữa. Anh đã hiểu rõ rồi chứ? Tiền là của anh, hãy sử dụng nó vào điều cần thiết, bởi vì con bé Nanon sẽ không còn ở đấy nữa để cho anh những đồng tiền khác, dù tự ý hay bị bắt buộc đi nữa.
- Em đã tốt với anh quá đỗi, em gái à, thế mà em đã nhận được từ anh cái gì đâu?
- Điều duy nhất mà em có thể mong đợi, mà em cầu vọng, điều quan trọng hơn tất cả là vật mà anh đã mang từ Bordeaux về cho em, chiều hôm người ấy chết...
- À! Phải, anh đã nhớ, lọn tóc...
Y cúi đầu xuống và cảm thấy trong khóe mắt mình một cảm giác khác lạ. Y đưa tay lên đó.
- Một kẻ khác sẽ khóc - Y nói - còn anh, anh không biết khóc, nhưng nói cho đúng, anh cũng đau khổ không kém, có khi còn hơn.
- Vĩnh biệt anh. - Nanon nói tiếp và đưa bàn tay ra.
- Không, không, không! - Cauvignac nói - Anh không bao giờ muốn nói lời từ biệt với em cả. Có phải sợ hãi đã khiến em vào tu viện này? Nếu vậy, chúng ta sẽ cùng rời đất Guyenne, chúng ta sẽ cùng ngao du khắp trái đất này. Cả anh nữa, anh đang mang trong tim một mũi tên, sẽ mang nó theo khắp nơi, và nỗi đau khổ của anh sẽ giúp anh hiểu thấu nỗi đau của em.
Em sẽ kể với anh về người đó, còn anh sẽ nói với em về Richon, em sẽ khóc, và có lẽ anh rồi cũng sẽ khóc được và như vậy sẽ dễ chịu cho anh hơn. Em có muốn chúng ta cùng đến sống nơi một vùng hoang mạc không? Anh sẽ chu đáo lo lắng tất cả cho em, bởi vì em là một kẻ thánh thiện. Em có muốn anh là thầy dòng không? Không, không thể được, anh phải thú nhận như vậy. Nhưng mà em không được vào tu viện, em không được nói câu vĩnh biệt với anh.
- Vĩnh biệt anh.
- Em có muốn ở lại vùng Guyenne mặc cho đám dân Bordeaux, mặc cho đám dân Gascon, mặc cho tất cả? Anh không còn đội quân cũ nữa, nhưng vẫn còn Ferguzon, Barrabas và Carrotel. Với bốn người, bọn anh có thể làm biết bao nhiêu là chuyện. Bọn anh sẽ gìn giữ em và hoàng hậu cũng sẽ không được bảo vệ kỹ như em. Nếu có ai chạm được một sợi tóc của em thì em có thể bảo rằng: Họ đều đã chết cả rồi Requiescant in pace.
- Vĩnh biệt anh.
Cauvignac toan đáp lại bằng một câu van nài nào khác thì nghe có tiếng một cỗ xe đang lăn bánh trên đường.
Phía trước cỗ xe ấy là một tên tùy tùng vận đồng phục của hoàng gia.
- Có chuyện gì vậy nhỉ? - Cauvignac hỏi và quay lại nhìn.
Cỗ xe ấy rất lớn, được kéo bởi sáu con ngựa, chở được tám người cùng với một đoàn phu với người hầu. Phía sau cỗ xe là đám lính đi theo hộ tống và đám cận thần cưỡi ngựa.
- Dang ra! Dang ra! - Tên lính đi đầu ét lên và vung roi quất vào con ngựa của Cauvignac khi đó đang đứng nép vào một bên vệ đường.
Con ngựa hoảng hốt nhảy dựng lên.
- Ê! Này, anh bạn. - Cauvignac kêu lên và buông tay em gái ra - Làm ơn cẩn thận giùm một chút.
- Tránh đường cho hoàng hậu! - Tên lính lại la lớn và tiếp tục con đường.
- Hoàng hậu à! Quỷ thật! - Cauvignac nói - Lại gặp rắc rối gì về mặt đó nữa đây?
Và y nép mình sát vào bên đường, tay nắm lấy dây cương ngựa.
Ngay khi đó, một cái càng xe bị gãy và tên phu xe kéo mạnh dây, buộc sáu con ngựa phải quỵ xuống.
- Có chuyện gì vậy? - Một giọng nói đặc biệt bởi mang âm hưởng tiếng Ý - Tại sao lại ngừng xe?
- Thưa đức ông, một càng xe bị gãy ạ! - Tên phu xe trả lời.
- Mở cửa ra, mở cửa ra! - Giọng nói đó lại vang lên.
Hai tên người hầu chạy vội đến mở cửa xe, nhưng trước khi bậc để chân được hạ xuống, người nói giọng Ý đó đã nhảy xuống đấy.
Sau ông ta là hoàng hậu.
Sau hoàng hậu là ngài De La Rochefoucauld.
Cauvignac dụi mắt.
Sau ngài De La Rochefoucauld là ngài D Epernon.
- Ái chà! Tại sao ông em rể này không bị treo cổ thay cho ông kia nhỉ?
Sau ngài D Epernon là ngài De La Meilleraye.
Sau ngài De La Meilleraye là công tước De Bouillon.
- Ta cũng biết là bọn họ không còn choảng nhau nữa nhưng không ngờ họ lại làm lành với nhau nhanh đến mức như vậy. - Cauvignac lẩm bẩm.
- Thưa các ngài. - Hoàng hậu nói - Thay vì đứng đợi ở đây cho đến khi xe được sửa xong, không khí buổi chiều thật mát, chúng ta hãy đi dạo một lát đi.
- Xin tuân lệnh hoàng hậu! - Ngài De La Rochefoucauld nghiêng mình nói.
- Hãy đi bên cạnh tôi đây, ông công tước. - Mazarin nói với ông công tước De Bouillon - Ông công tước à, và hãy đọc cho tôi nghe vài câu châm ngôn tuyệt đẹp của ông, hình như từ khi chúng ta gặp lại nhau, ông đã viết được khá nhiều rồi thì phải.
- Hãy khoác tay tôi đây, tôi biết là ông bị bệnh phong thấp.
Ngài D Epernon và ngài De La Meilleraye đi sau cùng, vừa đi vừa trò chuyện với hai bà tùy tùng.
Tất cả đám người đó cùng cười nói như một đám bạn hữu họp mặt trong một ngày hội.
- Từ đây đến Phourcy còn xa không nhỉ? - Hoàng hậu hỏi - Ông có biết gì về vấn đề này không, ông De La Rochefoucauld? Ông am hiểu vùng này mà.
- Khoảng ba dặm thưa hoàng hậu, chắc chắn là chúng ta sẽ đến đó trước chín giờ.
- Được lắm, và ngày mai, ông hãy lên đường từ sáng sớm để nói với người chị em họ của ta là phu nhân De Condé rằng chúng ta vui mừng được gặp lại bà ấy.
- Hoàng hậu có thấy chàng kỵ sĩ đẹp trai vừa quay mặt về bức tường rào và người phụ nữ xinh đẹp vừa biến mất khi chúng ta mới bước chân xuống xe không ạ? - Ngài D Epernon hỏi.
- Có! - Hoàng hậu nói - Ta đã thấy tất cả, hình như ở tu viện Sainte - Radegonde De Peyssac người ta khá tự do nhỉ.
Khi đó chiếc xe đã được sửa xong và chạy đến đón vị khách.
- Chúng ta đi thôi, các ông ạ, các ông cũng biết là tối nay đức vua mời chúng ta đến nghe nhạc.
Và tất cả lại trở lên xe với những tiếng cười ròn rã chẳng mấy chốc biến mất trong tiếng bánh xe lăn.
Cauvignac đứng sững nhìn họ hồi lâu rồi lẩm bẩm, khi họ đã khuất hẳn.
- Mặc, ta hài lòng vì biết được một điều rằng dù ta có xấu xa đến đâu, cũng có những kẻ chẳng đáng bằng ta! Mẹ kiếp! Ta phải làm sao cho chẳng còn ai có thể sánh ngang với ta được. Bây giờ thì giàu rồi, thì chuyện đó cũng dễ thôi.
Và y quay lại để từ giả em nhưng Nanon đã biến mất.
Thế là y thở dài leo lên ngựa, ném một cái nhìn cuối cùng về phía tu viện, phóng nhanh trên con đường đến Libourne rồi biến mất nơi khúc quanh đối diện với con đường mà ban nãy cỗ xe ngựa đã đi qua, cỗ xe chở những nhân vật lừng lẫy đã từng đóng một vai trò quan trọng trong câu chuyện này.
Có thể một ngày kia, chúng ta sẽ gặp lại họ, bởi vì nền hòa bình giả tạo đó được hàn gắn một cách vội vã bởi máu của Richon và Canolles vẫn chỉ là một thời gian tạm nghỉ, và chiến tranh giữa các bà phu nhân vẫn chưa chấm dứt.
HẾT