18/4/13

Những đứa con của tự do (P1-C6-10)

6


Tháng Sáu trôi đi theo dòng các hoạt động của chúng tôi, đã gần hết tháng. Những cần trục do thuốc nổ của chúng tôi nhổ bật lên đã nghiêng xuống dòng kênh, không bao giờ có thể đứng thẳng lại, những đoàn tàu đã trật bánh khi lăn trên các đường ray bị chúng tôi dịch chuyển, những con đường mà các đoàn xe Đức qua lại bị chặn ngang vì các cột điện đổ gục. Vào giữa tháng, Jacques và Robert đặt được ba quả bom ở sở Hiến binh Đức, gây thiệt hại rất lớn. Giám đốc sở cảnh sát địa phương lại một lần nữa kêu gọi dân chúng; bản thông điệp thảm hại, xúi giục ai nấy hãy tố cáo bất kỳ người nào có thể thuộc một tổ chức khủng bố. Trong tờ cáo thị của y, tay chỉ huy lực lượng cảnh sát Pháp miền Toulouse đả kích những kẻ nhận mình thuộc một lực lượng tự xưng là Kháng chiến, những kẻ phiến loạn làm hại đến trật tự công cộng và đến sự an lạc của người dân Pháp. Những kẻ phiến loạn được nói đến, chính là chúng tôi, và chúng tôi mốc cần biết tay giám đốc cảnh sát nghĩ g

Hôm nay, chúng tôi đã cùng Émile lấy lựu đạn ở chỗ Charles với nhiệm vụ đến quăng chúng vào bên trong một trung tâm điện thoại của Quân lực Đức 1.

Chúng tôi đi bộ trong phố, Émile chỉ cho tôi những ô cửa sổ cần nhắm trúng, và khi cậu ra hiệu, chúng tôi đã phóng ra những quả lựu đạn của mình. Tôi nhìn thấy chúng tung mình lên cao, tạo một đường cong gần như hoàn hảo. Thời gian dường như đông cứng lại. Tiếp đó là tiếng kính vỡ và thậm chí tôi ngỡ nghe thấy tiếng lựu đạn lăn trên sàn và bước chân những tên Đức chắc hẳn đang lao đến cánh cửa ra vào đầu tiên. Hai người làm loại công việc này thì tốt hơn; một mình, có vẻ khó thành công.

Vào giờ này, tôi cho rằng việc điện đàm liên lạc của bọn Đức phải một quãng thời gian khá lâu nữa mới khôi phục được. Nhưng chẳng có gì trong những điều ấy khiến tôi vui thích, em tôi phải chuyển nhà.

Giờ đây Claude đã gia nhập đội. Jan quyết định rằng việc anh em tôi ở cùng nhau quá nguy hiểm, không phù hợp với quy tắc an toàn. Mỗi chiến hữu phải sống một mình, để tránh làm liên lụy bạn cùng nhà nếu mình bị bắt. Sao tôi nhớ đến thế sự hiện diện của thằng em, và từ nay buổi tối tôi không thể đi nằm mà không nghĩ đến nó. Nếu nó đang hành động, tôi cũng không biết được tin nữa. Thế là, nằm dài trên giường, tay để sau đầu, tôi cố ngủ song chẳng bao giờ thiếp đi được hoàn toàn. Cô đơn và cái đói là bạn đồng hành tồi tệ. Thỉnh thoảng tiếng òng ọc của dạ dày phá rối sự thinh lặng bao quanh tôi. Để thay đổi ý nghĩ, tôi đăm đăm nhìn bóng đèn trên trần nhà và chẳng mấy chốc, nó biến thành một ánh sáng trong khuôn của kính chiếc phi cơ tiêm kích Anh của tôi. Tôi đang lái một chiếc Spitfire của Không lực Hoàng Gia. Tôi bay lượn trên biển Manche, tôi chỉ cần nghiêng máy bay là nhìn thấy ở đầu đôi cánh đỉnh những con sóng cũng như tôi đang lướt nhanh về phía nước Anh. Chỉ cách vài mét, máy bay của em tôi kêu vù vù, tôi liếc nhìn động cơ của nó để biết chắc là không có làn khói nào gây nguy hiểm cho việc nó quay về, nhưng phía trước chúng tôi đã in hình bờ biển và những dốc đá trắng. Tôi cảm nhận làn gió đang thổi vào khoang lái và vi vu quanh những bắp chân tôi. Hạ cánh rồi, chúng tôi sẽ ăn uống thỏa thích quanh một bàn nhiều thức ngon ở câu lạc bộ sĩ quan... Một đoàn xe tải Đức đi qua trước cửa sổ nhà và tiếng máy nổ giòn đưa tôi trở lại với căn phòng và nỗi cô đơn của mình.

Nghe tan dần trong đêm tiếng đoàn xe tải Đức, bất kể cái đói quái quỷ đang giày vò mình, cuối cùng tôi tìm được đủ can đảm tắt ngọn đèn trên trần nhà. Trong bóng tối mờ, tôi tự nhủ mình đã không bỏ cuộc. Có lẽ tôi sẽ chết nhưng tôi sẽ không bỏ cuộc, dù sao tôi từng nghĩ rằng mình chết sớm hơn thế sẽ tôi vẫn còn sống, vậy ai mà biết được? Có thể rốt cuộc, Jacques đúng, một ngày nào đó mùa xuân sẽ trở lại.
° ° °
Tảng sáng, Boris đến gặp tôi, một nhiệm vụ khác đang chờ chúng tôi. trong khi chúng tôi đạp xe đến nhà ga cũ kỹ Loubers để lấy vũ khí, thì luật sư Arnal tới Vichy để biện hộ cho Langer. Cục trưởng cục hình sự và ân xá tiếp ông. Quyền hành của ông ta rất lớn và ông ta biết như vậy. Ông ta nghe vị luật sư một cách lơ đãng, đầu óc ông ta để ở nơi khác, kỳ nghỉ cuối tuần sắp đến và ông ta băn khoăn về chuyện mình sẽ qua kỳ nghỉ như thế nào, liệu ả tình nhân ucả mình có đón nhận mình hay không giữa cặp đùi ấm nóng của ả tại một tiệm ăn trên phố. Cục trưởng cục hình sự đọc lướt rất nhanh hồ sơ mà Arnal khẩn cầu ông ta xem xét. Các sự kiện ở đó, rõ rành, và nghiêm trọng. Bản án không khắc nghiệt đâu, ông ta nói, nó công bằng. Không trách cứ được các quan tòa điều gì hết, họ đã làm phận sự của họ khi thi hành pháp luật. Ý ông ta đã quyết, nhưng Arnal vẫn nằn nì, thế thì ông ta chấp nhận, vì vấn đề tế nhị, sẽ triệu tập Hội đồng ân xá.

Sau đó, trước các ủy viên Hội đồng, ông ta sẽ luôn phát âm tên họ của Marcel theo cách để mọi người hiểu rằng đây là một người ngoại quốc. Và trong lúc vị luật sư già Arnal rời Vichy, thì Hội đồng phủ quyết việc ân xá. Và trong lúc vị luật sư già Arnal lên chuyến tàu đưa ông trở lại Toulouse, thì một công văn cũng thực hiện chuyến đi nho nhỏ của nó; nó đến chỗ bộ trưởng bộ Tư pháp, ông ta lập tức cho đem nó đến văn phòng của Thống chế Pétain. Thống chế ký vào biên bản, số phận của Marcel từ nay đã được xác nhận, anh sẽ bị xử chém.
° ° °
Hôm nay, ngày 15 tháng Bảy năm 1943, cùng với Boris, ở quảng trường Carmes chúng tôi đã phá hoại trụ sở của nhóm "Hợp tác". Ngày kia, Boris sẽ tấn công một gã Rouget nào đó, kẻ hợp tác năng nổ và là một trong những tên chỉ điểm lợi hại nhất của Gestapo.
° ° °
Trong lúc rời Pháp viện để đi ăn trưa, viên biện ý Lespinasse hết sức vui vẻ. Nếp mòn hành chính sáng nay đã đến nơi cần tới. Bản phủ quyết đề nghị ân xá cho Marcel đang ở trên bàn giấy của y, có chữ ký của Thống chế. Lệnh hành quyết đi kèm. Cả buổi sáng Lespinasse ngắm nghía mảnh giấy rộng vài centimet vuông này. Tờ giấy hình chữ nhật ấy đối với y như một phần thưởng, một giải thưởng hạng ưu mà các bậc quyền cao chức trọng nhất Quốc gia tặng cho y. Đây không phải phần thưởng đầu tiên y giành được. Ngay từ trường tiểu học, năm nào y cũng đem về cho cha y một giấy khen, đạt được nhờ ân huệ của sự học hành chăm chỉ, nhờ ân huệ của niềm quý mến nơi các thầy giáo... ân huệ đặc xá... đó là điều Marcel sẽ không đạt được. Lespinasse thở ra một hơi dài, y nhấc lên vật trang trí nhỏ bằng sứ ngụ trên bàn giấy, trước tấm lót tay bằng da. Y luồn tờ giấy vào rồi đặt vật trang trí lên trên. Không nên để tờ giấy đó làm mình lãng trí; y phải thảo xong bài diễn văn cho buổi thuyết giảng sắp tới, nhưng đầu óc y lãng đãng hướng về cuốn sổ tay. Y mở sổ, lật các trang, một ngày, hai, ba, bốây rồi, ở chỗ này. Y ngần ngại khi định ghi mấy chữ "hành quyết Langer" bên trên "ăn trưa Armande", vì trang sổ đã đầy những cuộc hẹn. Thế là y chỉ vẽ một dấu thập. Y gấp cuốn sổ lại rồi soạn tiếp bài nói. Được vài dòng và thế là y cúi xuống tờ công văn trồi ra ngoài chiếc đế của vật trang trí. Y mở lại cuốn sổ tay và, trước hình chữ thập, ghi con số 5. Đó là giờ y sẽ phải có mặt trước cửa nhà ngục Saint-Michel. Cuối cùng Lespinasse cất sổ vào túi áo, đẩy chiếc rọc giấy bằng vàng trên bàn, xếp nó lại cho thẳng hàng, song song với cây bút máy. Đã mười hai giờ trưa và bây giờ viên biện lý cảm thấy đói. Lespinasse đứng lên, vuốt thẳng nếp quần và bước ra hành lang Pháp viện.

Ở đầu bên kia thành phố, luật sư Arnal đặt xuốg bàn của ông cũng tờ giấy ấy, ông nhận được sáng nay. Bà giúp việc bước vào phòng. Arnal nhìn bà đăm đăm, không một âm thanh nào có thể phát ra khỏi cúông họng. Bà giúp việc khẽ nói:

- Ông khóc ư, thưa luật sư?

Arnal cúi xuống chiếc giỏ đựng giấy vụn và nôn ra mật đắng. Người ông rung lên vì những cơ ho thắt. Bà ngần ngại, bà già Marthe, bà chẳng biết phải làm gì. Thế rồi lương tri thắng thế, bà đã có ba con hai cháu, bà già Marthe, nghĩa là bà từng biết, những chuyện nôn mửa ấy. Bà lại gần và đặt bàn tay lên trán vị luật sư già. Và mỗi lần ông cúi xuống chiếc giỏ, bà cũng làm theo động tác của ông. Bà chìa cho ông một khăn tay bằng vải bông trắng, và trong lúc ông chủ lau miệng, ánh nhìn của bà đưa xuống mảnh giấy và lần này chính đôi mắt của bà già Marthe đẫm lệ.
° ° °
Tối nay, chúng tôi sẽ gặp lại nhau trong ngôi nhà của Charles. Ngồi xệp ngay xuống đất, Jan, Catherine, Boris, Émile, Claude, Alonso, Stefan, Jacques, Robert, tất cả chúng tôi quây thành một vòng tròn. Một bức thư được chuyền tay nhau, mỗi người tìm kiếm những từ ngữ mình không tìm ra. Viết gì đây cho một người bạn sắp chết? "Chúng mình sẽ không quên bạn", Catherine thì thầm. Đó là điều mỗi người ở đây đang nghĩ. Nếu cuộc chiến đấu của chúng ta dẫn chúng ta đến chỗ khôi phục được tự do, nếu chỉ một người trong chúng ta sống sót, người ấy sẽ không quên bạn, Marcel, và một ngày kia người ấy sẽ nói lên tên của bạn. Jan lắng nghe chúng tôi, anh cầm bút và nguệch ngoạc bằng tiếng yiddish 2 mấy câu chúng tôi vừa nói. Như vậy, những người canh ngục dẫn bạn lên đoạn đầu đài sẽ không hiểu được. Jan gấp thư lại, Catherine cầm lấy, luồn thư vào áo ngực. Ngày mai, cô sẽ giao nó cho ông giáo sĩ Do Thái.

Không chắc thư của chúng tôi có đến được với người tử tù. Marcel không tin Chúa và có lẽ anh sẽ khước từ sự hiện diện của linh mục tuyên úy, cũng như của giáo sĩ Do Thái. Nhưng rốt cuộc, ai mà biết được? Một chút xíu may mắn trong toàn bộ sự khốn khổ này sẽ không thừa. Sao cho cái may mắn khiến bạn đọc được mấy chữ viết ra để nói với bạn rằng nếu một ngày kia chúng ta lại được tự do, thì cuộc đời của bạn sẽ được đóng góp vào đó rất nhiều.

--------------------------------
1. Wehrmacht: Quân lực của nhà nước quốc xã Đức.
2. Ngôn ngữ của các cộng đồng Do Thái ở Trung Âu và Đông Âu.

7


Lúc ấy là năm giờ cái buổi sáng buồn thảm ngày 23 tháng Bảy năm 1943. Trong một văn phòng tài nhà ngục Saint-Michel, Lespinasse đang giải khát cùng các quan tòa, giám đốc nhà tù và hai đao phủ. Cà phê cho những ai mặc đồ đen, một cốc vang trắng không pha để làm dịu cơn khát của những người đã nóng bức vì lắp đặt máy chém. Lespinase không ngừng xem đồng hồ. Y đợi chiếc kim xoay hết vòng của nó. Y nói: "Đến giờ rồi, hãy đi báo cho Arnal". Vị luật sư già không muốn ở cùng họ, ông nhẫn nại chờ một mình ngoài sân. Họ đi tìm ông, ông đến với đoàn người, ra hiệu cho người canh ngục và đi trước một quãng xa.

Giờ báo thức còn chưa điểm nhưng tất cả tù nhân đã dậy hết. Họ biết, khi một người trong số họ sắp bị hành quyết. Một tiếng rì rầm cất lên; giọng những người Tây Ban Nha hòa vào giọng những người Pháp mà chẳng bao lâu giọng những người Italia cũng đến nhập hội, tới lượt những người Hungary, người Ba Lan, người Tiệpười Rumani. Tiếng rì rầm đã trở thành tiếng hát cất lên cao và mạnh mẽ. Mọi âm sắc hòa trộn và cùng ca vang những lời giống nhau. Đó là bài Marseillaise 1 đang vang vọng trong những bức tường ngục tối của nhà tù Saint-Michel.

Arnal bước vào phòng giam; Marcel thức giấc, anh nhìn bầu trời màu hồng qua khuôn cửa trổ trên mái, và hiểu ngay tức khắc. Arnal ôm lấy anh trong vòng tay. Qua vai ông, Marcel lại nhìn bầu trời và mỉm cười. Anh thì thầm bên tai vị luật sư già "Cháu từng rất yêu cuộc sống."

Đến lượt người cắt tóc bước vào, phải làm gáy người tử tù hở ra. Tiếng kéo lách cách và những lọn tóc nhẹ rơi xuống nền đất nện. Đoàn người tiến bước, trong hành lang Bài ca của những người kháng chiến đã thay thế Marseillaise. Marcel dừng bước ở trên cầu thang, anh quay lại, thong thả giơ cao nắm tay và hô: "Vĩnh biệt các đồng chí." Toàn thể nhà ngục im lặng trong một khoảnh khắc ngắn. "Vĩnh biệt đồng chí và nước Pháp muôn năm", các tù nhân đồng thanh đáp lại. Và bài Marseillaise lại tràn ngập không gian, nhưng bóng hình Marcel đã khuất rồi.

Vai kề vai, Arnal choàng áo khoác rộng, Marcel mặc sơ mi trắng, bước về phía điều không tránh khỏi. Nhìn họ từ phía sau, không biết rõ được người nào đang đỡ người nào. Giám thị trưởng rút từ trong túi ra một bao thuốc lá. Marcel cầm điếu thuốc người ấy đưa, một que diêm bật lên và ánh lửa rọi sáng phần dưới khuôn mặt anh. Vài dòng khói phả ra từ miệng anh, nhóm người tiếp tục đi. Đến ngưỡng cửa trông ra sân, giám đốc nhà ngục hỏi xem anh có muốn một cốc rượu mạnh hay không. Marcel đắt nhìn Lespinasse và lắc đầu. Anh nói:

- Đưa cho con người kia thì hơn, hắn cần cái đó hơn tôi.

Điếu thuốc lăn xuống đất, Marcel ra hiệu anh đã sẵn sàng.

Giáo sĩ bước lại gần, nhưng qua một nụ cười, Marcel tỏ ra cho ông thấy anh không cần ông.

- Cảm ơn giáo sĩ, nhưng tôi chỉ tin vào một thế giới tốt đẹp hơn cho con người tại nơi đây mà thôi, và chỉ con người một ngày kia có lẽ mới quyết định sáng tạo ra thế giới ấy. Cho họ và cho con cái họ.

Giáo sĩ biết rõ Marcel không muốn sự giúp đỡ của ông, nhưng ông có một nhiệm vụ phải hoàn thành và thời gian thúc bách. Thế là, chẳng đợi thêm nữa, con người của Chúa xô đẩy Lespinasse và giơ cho Marcel quyển sách ông cầm trong tay. Ông khẽ nói với anh bằng tiếng yiddish: "Trong ấy có một thứ cho con."

Marcel ngần ngại, anh sờ nắn cuốn sách và lật giở. Giữa các trang, anh thấy bức thư do Jan nguệch ngoạc. Marcel lướt qua những dòng chữ, từ phải sang trái; anh khép mi mắt lại và trả sách cho giáo sĩ.

- Hãy nói với các bạn ấy là tôi cảm ơn các bạn và nhất là, tôi tin vào chiến thắng của các bạn.

Lúc ấy là năm giờ mười lăm, cửa mở ra một trong những sân nhỏ âm u của nhà ngục Saint-Michel. Máy chém dựng ở phía bên phải. Vì tế nhị, các đao phủ đã lắp đặt máy tại đây, để người tử tù chỉ nhìn thấy nó vào khoảnh khắc cuối cùng. Từ trên các chòi gác, những tên lính canh Đức thú vị vì cảnh tượng khác thường đang diễn ra dưới mắt chúng. "Dù sao đó cũng là những gã kỳ cục, những người Pháp ấy, về nguyên tắc thì chúng ta mới là kẻ địch chứ, đúng không?" một tên châm biếm. Tên đồng hương với y nhún vai và cúi xuống để nhìn cho rõ hơn. Marcel trèo lên các bậc máy chém, anh ngoảnh lại Lespinasse lần cuối: "Máu của ta sẽ lại nhỏ xuống đầu các người", anh mỉm cười, rồi nói thêm: "Ta chết cho nước Pháp và cho một nhân loại tốt đẹp hơn."

Không cần ai giúp, Marcel nằm duỗi người trên tấm ván và lưỡi dao hạ xuống. Arnal nín thở, mắt đăm đăm nhìn lên bầu trời dăng dăng những đám mây mỏng nhẹ, cứ như là lụa. Dưới chân ông, những viên đá lát sân nhuộm máu đỏ. Và trong khi người ta đặt thi hài Marcel vào quan tài, những người đao phủ đã đang bận rộn lau rửa cỗ máy của họ. Người ta rắc ít mùn cưa xuống đất.

Arnal sẽ đưa tiễn bạn mình đến nơi yên nghỉ cuối cùng của anh. Ông trèo lên phía trước xe tang, cổng nhà tù mở ra và cỗ xe khởi hành. Ở góc phố, ông đi qua bóng hình của Catherine mà thậm chí chẳng nhận ra cô.

Nép mình vào một khuôn cửa, Catherine và Marianne dõi theo đám tang. Tiếng vọng của móng ngựa tắt dần chốn xa xa. Trên cánh cổng nhà tù, một người canh ngục niêm yết bản thông cáo hành hình. Chẳng còn gì để làm nữa. Người nhợt nhạt, các cô rời chỗ nấp và đi bộ ngược lên phố. Marianne giữ trước miệng một chiếc khăn tay, phương tiện thảm hại chống cơn buồn nôn, chống nỗi đau. Vừa mới bảy giờ khi các cô đến gặp chúng tôi ở nhà Charles. Jacques chẳng nói năng gì, anh siết chặt hai nắm tay. Boris lấy đầu ngón tay vẽ một vòng tròn trên mặt bàn gỗ, Claude ngồi vào tường, nó nhìn tôi. Jan nói:

- Ngày hôm nay phải diệt một tên địch.

- Không chuẩn bị gì sao? Catherine hỏi.

- Mình thì mình đồng ý, Boris nói.
° ° °
Tám giờ tối, vào mùa hè, trời hãy còn sáng rõ. Mọi người đi dạo, tranh thủ lúc thời tiết dịu mát trở lại. Hiên trước các quán giải khát đông chật, vài đôi tình nhân hôn nhau ở góc phố. Giữa đám đông này, Boris có vẻ là một thanh niên như những thanh niên khác, hiền lành vô hại. Tuy nhiên, anh nắm chặt báng khẩu súng tay trong túi. Đã một giờ đồng hồ anh tìm kiếm con mồi, không phải bất cứ con mồi nào, anh muốn tìm sĩ quan để trả thù cho Marcel, tìm lon mạ vàng, tìm áo khoác quân phục có gắn sao. Nhưng lúc này anh chỉ mới gặp hai nhãi thủy thủ Đức chuếnh choáng say và các gã trai non nớt ấy không đủ ác để đáng chết. Boris băng qua quảng trường Lafayette, ngược lên phố Alsace, sải những bước dài trên lề đường quảng trường Esquirol. Xa xa nghe thấy tiếng kèn đồng của một đội nhạc. Thế là Boris để cho nhạc dẫn dắt mình.

Một đội nhạc Đức đang chơi dưới một mái nhà bát giác. Boris kiếm được một chiếc gựa và ngồi xuống. Anh nhắm mắt lại và tìm cách làm dịu những tiếng đập của tim mình. Không có chuyện trở về tay trắng, không có chuyện làm các chiến hữu thất vọng. Chắc chắn, đây không phải là loại phục thù xứng với Marcel, nhưng đã quyết định rồi. Anh mở mắt, Thượng đế phù hộ anh, một viên sĩ quan bảnh bao vừa ngồi vào hàng ghế đầu. Boris nhìn chiếc mũ lưỡi trai mà gã quân nhân đang phe phẩy quạt mát. Trên ống tay áo y, anh thấy dải băng đỏ của chiến dịch tại nước Nga. Hẳn y phải giết nhiều người lắm, viên sĩ quan này, để có quyền nghỉ ngơi ở Toulouse. Hẳn y đã đưa binh lính đến chỗ chết để được hưởng một cách hết sức an bình một buổi tối mùa hè êm dịu ở miền Tây Nam nước Pháp.

Buổi hòa nhạc kết thúc, viên sĩ quan đứng dậy. Boris theo sau y. Cách đó vài bước chân, ở giữa phố, năm phát súng nổ, lửa tóe ra từ nòng súng bạn tôi. Đám đông xô đến, Boris bỏ đi.

Ở một đường phố Toulouse, máu một viên sĩ quan Đức đang chảy xuống cống. Cách đó vài cây số, dưới mặt đất một nghĩa trang Toulouse, máu của Marcel đã khô rồi.
° ° °
Tờ Điện tín đưa tin về hành động của Boris; cũng trong số ra hôm ấy, báo thông cáo việc hành quyết Marcel. Mọi người trong thành phố sẽ nhanh chóng liên kết hai vụ việc. Những kẻ có dính líu sẽ hiểu ra rằng máu một người kháng chiến chẳng đổ xuống mà không có hình phạt, những người khác sẽ biết rằng sát bên họ một số người đang chiến đấu.

Giám đốc sở cảnh sát địa phương vội vã ra một cáo thị để làm kẻ chiếm đóng an tâm về thiện chí phục vụ của y đối với chúng. Y công bố: "Ngay sau khi biết tin vụ sát hại, tôi đã bày tỏ niềm công phẫn của dân chúng với vị tướng chỉ huy bộ tham mưu và với chỉ huy trưởng sở Mật thám Đức." Phó giám đốc cảnh sát địa phương đã thò cẳng góp phần vào thứ văn chương hợp tác: "Một phần thưởng rất lớn bằng tiền sẽ được các nhà chức trách trao cho bất kỳ người nào giúp nhận dạng kẻ hay những kẻ gây ra vụ sát hại ghê tởm bằng súng vào buổi tối 23 tháng Bảy đối với một quân nhân Đức ở phố Bayard tại Toulouse." Chấm dứt viện dẫn! Phải nói rằng y vừa mới được bổ nhiệm, tên Barthener phó giám đốc cảnh sát. Mấy năm năng nổ phục vụ các cơ quan Vichy 2 đã khiến y nổi tiếng là con người đắc lực cũng như đáng gờm và làm y được thăng cái chức mà y xiết bao mơ ước này. Tay ký giả của tờ Điện tín đã nghênh tiếp việc y được bổ nhiệm bằng lời chào mừng y trên trang nhất tờ nhật báo. Chúng tôi cũng thế, theo cách của mình, chúng tôi vừa chào mừng y "kiểu chúng ta". Và để nghênh tiếp y chu đáo hơn, chúng tôi rải một truyền đơn trong toàn thành phố. Qua vài dòng, chúng tôi thông báo đã diệt một sĩ quan Đức để trả thù cho cái chết của Marcel.

Chúng tôi sẽ không đợi lệnh của ai hết. Vị giáo sĩ Do Thái đã kể cho Catherine điều Marcel nói với Lespinasse trước khi chết trên máy chém. "Máu của ta sẽ l xuống đầu các người." Thông điệp đã giáng thẳng vào chúng tôi, như một di chúc do chiến hữu của chúng tôi để lại, và tất cả chúng tôi đều đã giải mã được ý muốn cuối cùng của anh. Chúng tôi sẽ lấy mạng của Lespinasse. Công việc cần chuẩn bị lâu. Người ta không diệt một viên chưởng lý ngay giữa đường phố. Con người của pháp luật chắc chắn được bảo vệ, y hắt chỉ đi lại trên xe hơi có tài xế lái và trong đội chúng tôi không có chuyện một hành động gây chút nguy hiểm nào cho dân chúng. Ngược lại với những kẻ công khai hợp tác cùng bọn quốc xã, với những kẻ tố cáo, những kẻ bắt giữ, những kẻ tra tấn, bắt đi đày, những kẻ kết án, xử bắn, những kẻ, không vướng bận bất kỳ trở ngại nào, lương tâm xúng xính khoác tấm áo choàng của một thứ mạo xưng là bổn phận, đang thỏa thuê niềm căm ghét mang tính phân biệt chủng tộc ở chúng, ngược lại với tất cả những kẻ đó, nếu chúng tôi sẵn sàng để tay mình nhúng chàm, những bàn tay ấy sẽ vẫn sạch sẽ.
° ° °
Do Jan yêu cầu, từ vài tuần lễ nay Catherine thành lập một tổ tình báo. Em hãy hiểu điều đó có nghĩa là cùng với một vài bạn gái, Damira, Marianne, Sophie, Rosine, Osna, tất cả những thiếu nữ mà chúng tôi bị cấm yêu, song dù thế chúng tôi vẫn yêu, cô đi lượm lặt những thông tin cần thiết cho việc chuẩn bị nhiệm vụ của chúng tôi.

Những tháng sắp tới, các thiếu nữ trong đội sẽ chuyên trách ông việc theo dõi, việc chụp lén những bức ảnh, tường kê các hành trình, quan sát các thời gian biểu, điều tra các láng giềng. Nhờ các cô, chúng tôi sẽ biết được tất cả hay gần như tất cả hành vi và hình tích của những kẻ mà chúng tôi nhằm vào. Không, chúng tôi sẽ không đợi lệnh ai hết. Từ nay trở đi đứng đầu danh sách những kẻ đó là viên biện lý Lespinasse.

--------------------------------
1. Quốc ca Pháp.
2. Thành phố có suối nước nóng. Từ 10/7/1940 đến 20/8/1944, Chính phủ của Pétain đóng tại đây, do đó thường được gọi là chính quyền Vichy.

8


Jacques đã yêu cầu tôi tìm gặp Damira trong thành phố, tôi phải chuyển cho cô một mệnh lệnh công tác. Cuộc hẹn được định trong cái quán giải khát nơi các chiến hữu gặp gỡ nhau hơi quá thường xuyên, cho đến lúc Jan cấm chúng tôi đặt chân đến đó, vẫn vì lý do an toàn như trước nay.

Chấn động biết mấy, lần đầu tôi nhìn thấy cô. Tôi thì tôi có tóc đỏ hoe, nước da trắng chi chít tàn nhang, đến mức mọi người hỏi xem có phải tôi đã nhìn mặt trời qua một cái rây hay không, và tôi đeo kính kè kè. Damira là người Italia, và điều quan trọng hơn hết thảy trước đôi mắt cận thị của tôi, là cả cô nữa, tóc cô không đỏ hoe. Tôi kết luận rằng điều này sẽ tạo nên giữa chúng tôi những mối gắn bó đầu tiên không sao tránh k. Nhưng thôi, tôi đã từng lầm lẫn trong việc đánh giá lợi ích của những kho vũ khí do các chiến khu theo De Gaulle lập nên, thì về những gì liên quan đến Damire cũng thế, tôi chẳng chắc chắn được điều gì hết.

Ngồi trước đĩa đậu tằm, chắc chúng tôi phải giống một đôi tình nhân trẻ, trừ chuyện Damira không có tình ý gì với tôi, còn tôi thì dù sao cũng đã hơi mê cô rồi. Tôi nhìn cô như thể, sau mười tám năm sống trong cái lốt một gã sinh ra với túm cà rốt trên đầu, tôi phát hiện một sinh thể giống mình và thuộc giới đối lập; sự đối lập lần này lại là một tin cực kỳ tốt lành.

- Tại sao cậu nhìn mình như vậy? Damira hỏi.

- Chẳng tại sao hết!

- Họ theo dõi chúng ta ư?

- Không, không, không hề!

- Cậu chắc chứ? Vì qua cách cậu nhìn mình chòng chọc, mình ngỡ cậu ra hiệu cho mình là có nguy hiểm.

- Damira, mình hứa với cậu là chúng mình an toàn!

- Thế tại sao trán cậu lại đổ mồ hôi?

- Trong phòng nóng như thiêu ấy.

- Mình không thấy thế

- Cậu là người Italia còn mình là dân Paris, chắc cậu phải quen chịu nóng hơn mình.

- Cậu muốn chúng mình ra ngoài đi bộ không?

Giả sử Damira rủ tôi đi tắm trong dòng kênh, có lẽ tôi cũng ừ ngay lập tức. Cô chưa nói hết câu tôi đã đứng dậy rồi, và dịch chiếc ghế của cô để giúp cô đứng lên.

- Một người đàn ông phong nhã, thật là hay, cô vừa nói vừa mỉm cười.

Nhiệt độ bên trong thân thể tôi vừa mới lên cao hơn nữa và, lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh bắt đầu, mọi người có thể tưởng là tôi có sắc mặt tươi tắn khỏe mạnh, vì hai má tôi hẳn phải đỏ lắm.

Cả hai chúng tôi cùng bước về phía dòng kênh nơi tôi tưởng tượng mình đang nô đùa với cô gái Italia lộng lẫy tóc hoe đỏ của mình trong những trò té nước tình tứ. Chuyện ấy hoàn toàn nực cười vì tắm giữa hai cần trục và ba sà lan chở nặng hợp chất hydro cacbon chưa khi nào có cái gì thực sự lãng mạn. Đúng thế, song ở khoảnh khắc ấy, không gì trên đời có thể ngăn cản tôi mơ mộng. Vả chăng, trong lúc chúng tôi băng qua quảng trường Esquirol, thì tôi đậu chiếc Spitfire của mình (mà động cơ đã hỏng trong một chuyến lượn chúc đầu xuống đất) trên một cách đồng ven ngôi biệt thự nhỏ đẹp mê hồn nơi Damira và tôi ở tại nước Anh từ khi em có mang đứa con thứ hai của chúng tôi (chắc nó cũng có mái tóc đỏ hoe như đứa con gái đầu của chúng tôi). Và, hạnh phúc tột độ, lại đúng giờ dùng bữa tiữa chiều. Damira đi đến với tôi, cất trong túi tấm áo tạp dề kẻ ô đỏ và xanh lục mấy chiếc bánh xốp nóng vừa ra lò. Thây kệ, tôi sẽ lo sửa máy bay của mình sau bữa trà; bánh ngọt của Damira ngon tuyệt vời, chắc em đã phải rất vất vả để làm bánh cho riêng tôi. Chỉ một lần thôi, tôi có thể quên đi chốc lát bổn phận sĩ quan của mình và tôn vinh em. Ngồi trước ngôi nhà của chúng tôi, Damira đã tựa đầu vào vai tôi và thở dài, hài lòng vì khoảnh khắc hạnh phúc giản dị này.

- Jeannot, mình cho là cậu đã ngủ thiếp đi.

- Thế nào cơ? tôi vừa giật nảy mình vừa nói.

- Đầu cậu ngả vào vai mình!

Đỏ mặt tía tai, tôi thẳng người dậy. Máy bay Spitfire, biệt thự nhỏ, trà và bánh ngọt đã tan biến và chỉ còn lại ánh phản chiếu âm u của dòng kênh, và chiếc ghế trên đó chúng tôi đang ngồi.

Trong khi tuyệt vọng kiếm tìm một vẻ vững vàng giả tạo, tôi húng hắng ho và, tuy không dám nhìn cô bạn ngồi bên, song dù sao tôi vẫn tìm cách hiểu rõ cô hơn.

- Cậu gia nhập đội như thế nào?

- Cậu không phải chuyển cho một lệnh công tác sao? Damira trả lời thật lãnh đạm.

- Có, có, nhưng chúng mình có thì giờ

- Cậu thì có lẽ, chứ mình thì không.

- Cậu hãy trả lời mình rồi sau đó, xin hứa, chúng mình nói chuyện công việc.

Damira do dự một lát, cô mỉm cười, và đồng ý trả lời tôi. Chắc chắn cô biết là tôi hơi cảm cô, con gái bao giờ cũng biết điều ấy, thường thường trước cả khi tự chúng tôi biết được. Chẳng có gì là thiếu tế nhị trong cách cô xử sự, cô biết rằng nỗi cô đơn đè nặng biết mấy lên tất cả chúng tôi, có lẽ cả cô nữa, nên cô nhận lời chỉ để làm tôi vui và để nói chuyện đôi chút. Chiều đã buông xuống rồi, nhưng đêm còn lâu mới tới, chúng tôi có được vài giờ trước khi giới nghiêm. Hai đứa trẻ ngồi trên một ghế dài, dọc một con kênh, giữa thời Chiếm đóng, chẳng có gì là xấu khi lợi dụng thời gian đang trôi. Ai có thể bảo được chúng tôi còn bao nhiêu thời gian, người nọ cũng như người kia? Damira nói:

- Mình không nghĩ là chiến tranh sẽ đến tận gia đình mình. Nó tới vào một buổi chiều, qua con đường nhỏ trước nhà: một ông đang đi, ăn mặc giống cha mình, giống một công nhân. Cha đã đến gặp ông và họ nói chuyện hồi lâu. Rồi người ấy lại ra đi. Cha vào bếp, cha trò chuyện với mẹ. Mình thì mình thấy rõ là mẹ khóc, mẹ bảo cha "Chúng ta chịu như thế này còn chưa đủ sao?". Mẹ nói thế vì anh trai mẹ đã bị bọn Sơ mi đen tra tấn ở Italia. Sơ mi đen là cái tên mà mọi người bên nước mình đặt cho bọn phát xít của Mussolini, giống như bọn Dân binh ở đây.

Tôi đã không qua được kỳ thi tú tài vì những lý do mà mọi người biết rồi, nhưng tôi hiểu rất rõ bọn Sơ mi đen là thế nào. Tuy nhiên, tôi ưng dừng mạo hiểm ngắt lời Damira.

- Mình hiểu vì sao người ấy lại nói chuyện với cha mình ngoài vườn; còn cha, với ý thức của ông về danh dự, ông chỉ chờ có thế. Mình biết là ông đã bảo đồng ý, cho ông, và cho cả các anh em trai của mình nữa. Mẹ khóc vì mọi người sắp tham gia đấu tranh. Mình thì mình tự hào và vui sướng, nhưng mọi người đã đuổi mình về phòng. Ở nhà chúng mình, con gái không có quyền như con trai. Ở nhà chúng mình, có cha, có các anh em trai đần độn của mình rồi sau đó, và chỉ sau đó, mới đến mẹ và mình. Khác nào nói với cậu rằng về bọn con trai, thì mình thuộc làu làu, mình có bốn gã con trai trong nhà.

Khi Damira nói thế, tôi ngẫm nghĩ lại cách cư xử của mình từ khi chúng tôi gặp lại nhau bên bàn ăn ở quán Đĩa Đậu tằm và tôi tự nhủ rằng xác suất của việc cô không phát hiện ra điều tôi cảm thấy với cô còn hơn một sự phải lòng rất nhiều, xác suất ấy chắc chắn phải ở giữa số không và số không thêm dấu chấm. Tôi nghĩ đến chuyện ngắt lời cô, giả sử thế tôi cũng chẳng phát âm nổi một tiếng nào. Thế là Damira tiếp tục.

- Mình thì mình có tính cách của cha, không phải tính cách của mẹ; hơn nữa mình biết rõ rằng cha mình thích thế, thích mình giống ông. Mình cũng như ông... là một kẻ nổi loạn. Mình không chấp nhận sự bất công. Mẹ bao giờ cũng muốn dạy mình nín lặng, cha thì hoàn toàn ngược lại, bao giờ ông cũng thúc đẩy mình đáp trả, đừng buông xuôi không chống cự, dù ông chỉ thúc đẩy khi không có các anh em trai mình ở đấy, vì trật tự đã xác lập trong gia đình.

Cách chúng tôi vài mét, một sà lan khởi hành; Damira im tiếng, cứ như những người chèo th có thể nghe được chúng tôi. Thật là ngốc vì gió thổi qua các cần trục, nhưng tôi để cô nghỉ lấy hơi. Chúng tôi đợi sà lan đi ra xa về phía cửa cống, và Damira nói tiếp.

- Cậu có biết Rosine không?

Rosine, người Italia, âm sắc hơi véo von, giọng nói khơi gợi những cơn rùng mình khó kiểm soát, cao khoảng 1m70, tóc nâu mắt xanh, mái tóc dài, vượt ra ngoài huyễn tưởng.

Vì thận trọng, tôi đáp rụt rè:

- Có, mình cho là chúng mình đã gặp nhau một hoặc hai lần.

- Bạn ấy chưa bao giờ nói với mình về cậu.

Điều này chẳng khiến tôi quá ngạc nhiên, tôi nhún vai. Thường thường đó là điều người ta làm một cách ngu xuẩn khi phải đối mặt với một định mệnh.

- Tại sao cậu lại nói với mình về Rosine?

- Vì nhờ bạn ấy mà mình có thể gia nhập đội, Damira nói tiếp. Một buổi tối, có cuộc họp tại nhà mình, bạn ấy ở đó. Khi mình muốn hai đứa đi nằm, bạn ấy bảo bạn ấy không ở đây để ngủ, mà để dự họp. Mình đã bảo cậu là mình ghê sợ sự bất công phải không?

- Ừ, ừ, mới cách đây chưa đầy năm phút, mình nhớ rõ lắ

- Thế thì đấy, thật là quá lắm. Mình hỏi tại sao mình không thể tham gia cuộc họp, cha bảo mình còn quá ít tuổi. Mà Rosine với mình cùng tuổi. Thế là mình quyết định tự đoạt lấy số phận và mình vâng lời cha lần cuối cùng. Khi Rosine vào phòng với mình, mình không ngủ. Mình đã đợi bạn ấy. Chúng mình chuyện phiếm suốt đêm. Mình thú thật với bạn ấy là mình muốn được như bạn ấy, như các anh em trai của mình, và mình vai nài bạn ấy cho mình gặp chỉ huy đội. Bạn ấy phá lên cười và bảo rằng chỉ huy đang ở trong nhà mình, chú ấy ngủ ngay trong phòng khách. Chỉ huy, đó là bạn của cha mình, người một hôm đã đến gặp cha ngoài vườn, cái hôm mà mẹ khóc.

Damira ngừng một chút, như muốn biết chắc là tôi vẫn theo sát cô trong câu chuyện, song điều đó hoàn toàn vô ích, vì lúc này tôi sẽ theo cô đến bất cứ nơi nào nếu cô yêu cầu tôi làm thế, và chắc hẳn vẫn theo, ngay cả nếu cô không yêu cầu tôi làm thế.

- Ngày hôm sau mình đến gặp chú chỉ huy trong lúc mẹ và cha bận việc. Chú ấy nghe mình nói và bảo mình rằng trong đội cần tất cả mọi người. Chú nói thêm là dầu mọi người sẽ giao cho mình những nhiệm vụ không khó lắm và sau đó sẽ xem thế nào. Đấy, cậu biết hết rồi. Nào, bây giờ cậu nói cho mình lệnh công tác chứ?

- Thế còn cha cậu, ông bảo sao?

- Thời gian đầu, ông chẳng nghi ngờ gì, thế rồi cuối cùng ông đoán ra. Mình nghĩ là mình biết ông đã đến gặp chỉ huy và cả hai đã vặc nhau dữ lắm. Cha làm thế chỉ vì vấn đề uy quyền người bố, bởi mình vẫn được ở trong đội. Từ đó, chúng mình làm như chẳng có chuyện gì, nhưng mình tảm nhận rõ là cha con mình còn gần gũi nhau hơn nữa. Nào, Jeannot, cậu tuồn cho mình cái lệnh công tác ấy chứ? Quả thật mình phải về đây.

- Damira này?

- Ừ?

- Mình có thể thổ lộ với cậu một bí mật chứ?

- Mình làm trong bộ phận tình báo ngầm, Jeannot ạ, vậy nên nếu đúng là có ai đó mà ta có thể thổ lộ một bí mật, thì đấy là mình!

- Mình đã hoàn toàn quên bẵng mất lệnh công tác nói gì...

Damira nhìn tôi đăm đăm và cô thoáng mỉm một nụ cười lạ lùng, như thể đồng thời vừa vui vừa cáu giận tôi ghê gớm.

- Jeannot này, quả thật cậu quá ngu.

Dù sao cũng không phải lỗi của tôi nếu tay tôi dấp dính ướt đã một giờ đồng hồ, miệng không còn lấy một giọt nước bọt còn hai đầu gối thì gây sự vặt với nhau. Tôi cố biện giải hết mức có thể.

- Mình tin chắc rằng điều này chỉ là nhất thời nhưng thế đấy, mình như bị mắc một chứng đãng trí kinh khủng.

- Được, mình về đây, Damira nói; còn cậu thì đêm nay cậu cố kục trí nhớ và chậm nhất là sáng mai, mình muốn biết xem là việc gì. Quái thật, chúng mình đang chiến đấu, Jeannot ạ, chuyện nghiêm chỉnh đấy!

Trong tháng vừa qua, tôi đã cho nổ một số bom, hủy diệt những cần trục, một trung tâm điện thoại Đức và vài kẻ ở trung tâm đó; các đêm tôi của tôi hãy còn bị ám ảnh vì cái xác của một viên sĩ quan địch vừa cười gằn vừa nhìn chằm chằm vào một nhà tiểu, nếu đúng là có ai đó biết những gì chúng tôi làm là nghiêm chỉnh, thì đấy là tôi; những những rối loạn trí nhớ, cứ nói rằng những rối loạn, gọn lỏn thế thôi, chuyện ấy đâu có tự kiểm soát được. Tôi đề nghị Damira để tôi đi thêm vài bước cùng cô, có thể trong khi đi bộ, tôi nhớ lại được chăng.

Khi lại đi qua quảng trường Esquirol, đường về của chúng tôi phải tách khỏi nhau ở đó, Damira đứng lại đối diện với tôi, vẻ cương quyết.

- Nghe này, Jeannot, những chuyện giữa con trai con gái bị cấm ở chỗ chúng mình, cậu nhớ chứ?

- Nhưng cậu bảo cậu phản kháng mà!

- Mình không nói với cậu về cha mình, gã đần ạ, mà về đội, đó là chuyện cấm và nguy hiểm, thế thì ta gặp nhau trong khuôn khổ nhiệm vụ và ta quên những cái khác đi, đồng ý chứ?

Cô ấy lại còn thẳng thắn nữa chứ! Tôi lúng búng rằng tôi hiểu rất rõ và dù thế nào, tôi cũng không nhận thức khác về mọi điều. Cô bảo tôi rằng bây giờ khi tất cả đều rõ ràng, có lẽ tôi sẽ khôi phục được trí nhớ.

- Cậu phải đến mạn phố Pharaon đi dạo, mọi người quan tâm đến một gã Mas nào đó, chỉ huy Dân binh, tôi nói; và giờ đây tôi xin thề rằng tôi bỗng nhớ lại như thế đấy, liền một mạch!

- Ai sẽ hành động? Damira hỏi.

- Vì đó là một dân binh, nên có nhiều phần chắc là Boris lo công chuyện, nhưng lúc này không có gì chính thức hết.

- Dự liệu là bao giờ?

- Giữa tháng Tám, mình nghĩ thế.

- Mình chỉ còn được vài ngày, thời gian ngắn quá, mình sẽ nhờ Rosine giúp một tay.

- Damira này?

- Ừ?

- Nếu chúng mình không... rốt cuộc... nếu không có những quy tắc an toàn?

- Thôi đi, Jeannot, với màu tóc giống hệt nhau, chúng mình sẽ có vẻ là anh em, với lại...

Damira không nói hết câu, cô lắc đầu và bỏ đi. Tôi ở lại đó, hai cánh tay đu đưa, bỗng cô ngoảnh lại và quay trở về bên cô.

- Cậu có đôi mắt xanh rất đẹp, Jeannot ạ, và ánh nhìn cận thị của cậu sau cặp kính khiến con gái dễ đổ lắm. Thế thì hãy cố cứu lấy đôi mắt ấy khỏi cuộc chiến tranh này và mình không nghi ngờ một chút nào rằng cậu sẽ là một người hạnh phúc trong tình yêu. Chúc một đêm tốt lành, Jeannot.

- Chúc một đêm tốt lành, Damira.

Chia tay Damira tối hôm ấy, tôi đâu biết rằng cô phải lòng đắm đuối một chiến hữu tên là Marc. Họ gặp nhau giấu giếm, hình như họ còn cùng nhau đi lượn các nhà bảo tàng. Marc có học thức, cậu dẫn Damira đến thăm các nhà thờ và nói với cô về hội họa. Chia tay cô tối hôm ấy, tôi cũng đâu biết rằng mấy tháng sau Marc và Damira sẽ cùng bị bắt và Damira bị đưa đến trại tập trung Ravensbrüuck.

9


Damira đi thu thập tin tức về tên dân binh Mas. Jan đã đồng thời yêu cầu Catherine và Marianne theo dõi Lespinasse. Dù điều này có vẻ lạ lùng đến mấy, song Jan đã tìm ra địa chỉ trong cuốn danh bạ. Tay biện lý sống trong một ngôi nhà trung lưu mạn ngoại thành kề cận Toulouse. Thậm chí có cả một biển đồng mang tên y, gắn vào cổng vườn. Hai cô bạn của chúng tôi sững sờ vì điều này, gã đàn ông không sử dụng một biện pháp an ninh nào hết. Y ra ra vào vào không có hộ tống, một mình lái xe lấy, như thể chẳng nghi hoặc điều gì hết. Ấy thế mà, các tờ nhật báo đã tường thuật qua nhiều bài báo khác nhau rằng nhờ có Lespinase mà một tên khủng bố khả ố đã bị vô hiệu hóa không còn gây hại được nữa. Ngay cả Đài Luân Đôn cũng kể lại trách nhiệm của Lespinase trong việc xử tử hình Marcel. Từ nay trở đi không một người khách nào trong quán giải khát, không một công nhân nào trong các nhà máy lại không biết tên y. Phải u mê cực kỳ mới không ngờ vực một lúc nào rằng lực lượng Kháng chiến căm giận y. Trừ phi, như hai cô gái nghĩ sau mấy ngày theo dõi, thói huênh hoang, sự ngạo mạn ở y quá quắt đến mức y thấy dường như không thể hình dung được có ai đó dám xâm hại đến mạng sống của y.

Việc ẩn nấp chẳng dễ dàng cho hai nữ đồng chí của chúng tôi. Con phố thường hay vắng vẻ không người, điều này lúc chuyển sang hành động sẽ là một lợi thế chắc chắn, nhưng một phụ nữ lẻ loi ở đây lại quá dễ bị phát hiện. Thỉnh thoảng náu mình sau một thân cây, còn phần lớn thời gian trong ngày, như hết thảy các cô gái tình báo, là bước đi, Catherine và Marianne dò xét suốt một tuần lễ.

Công chuyện càng phức tạp hơn vì con mồi của họ dường như không có một chút đều đặn quy củ nào trong thời gian biểu. Y chỉ đi lại bằng chiếc Peugeot 202 màu đen, thành ra không thể hteo dõi y vượt ra ngoài con phố. Chẳng có thói quen, trừ một điều mà hai cô nhận xét được: ngày nào y cũng rời khỏi vào khoảng ba giờ rưỡi chiều. Vậy đó sẽ là thời điểm trong ngày mà ta cần hành động, các cô đã kết luận trong báo cáo. Tiếp tục điều tra thêm nữa là vô bổ. Không thể theo dõi y, vì chiếc xe hơi; ở Tòa án chẳng bao giờ tìm lại được vết tích của y và rồi nếu ráo riết quá thì các cô có nguy cơ bị phát hiện.

Sau khi Marius đến vào một buổi sáng thứ Sáu để thực hiện một sự định vị cuối cùng và quyết định lộ trình rút lui, hành động được lên chương trình vào thứ Hai tùan sau. Càng phải làm nhanh. Jan cho rằng nếu như Lespinase sống bình thản đến thế, chắc hẳn y được cảnh sát bảo vệ ngầm. Catherine thề là cô không ghi nhận được điều gì như vậy hết, Marianne cùng quan điểm với cô, nhưng Jan nghi hoặc mọi điều, một cách chính đáng. Một lý do nữa để làm gấp là vào dịp hè này, cái kẻ của chúng tôi có thể đi nghỉ bất cứ lúc nào.
° ° °
Mệt mỏi vì các nhiệm vụ thực hiện trong tuần, bụng rỗng hơn bao giờ hết, tôi tưởng tượng ngày Chủ nhật mình nằm dài trên mà mơ mộng. May mắn một chút thì tôi sẽ gặp được thằng em. Cả hai anh em sẽ đi dạo dọc bờ kênh; như hai chú nhóc tung tăng tận hưởng mùa hè; như hai chú nhóc chẳng đói chẳng sợ hãi, hai gã trai mới lớn chếnh choáng say hương thơm của phụ nữ giữa những hương thơm của mùa hạ. Và nếu được làn gió chiều đồng lõa, có khi gió vui lòng vén tà váy mỏng nhẹ mà các thiếu nữ vẫn mặc, chỉ hơi hơi gọi là để thoáng thấy được một đầu gối, nhưng cũng đủ để xúc động và mơ màng thêm đôi chút khi tối đến thấy lại không khí dấp dính ướt trong những căn phòng ảm đạm của chúng tôi.

Tất cả những điều này không tính đến lòng nhiệt thành của Jan. Jacques vừa gõ cửa làm cho các hy vọng của tôi điêu đứng. Tôi đã thề với mình sẽ đánh một giấc vào sáng mai, thế là hỏng bét và có lý do chính đáng... Jacques giở một tấm bản đồ thành phố và dùng ngón tay chỉ cho tôi một ngã ba. Đúng năm giờ chiều mai, tôi phải bắt liên lạc với Émile và giao cho cậu một bọc hàng mà trước đó tôi sẽ đến lấy ở nhà Charles. Tôi không cần biết gì thêm. Tối mai, họ sẽ hành động cùng một người mới tuyển, cậu ta sẽ đảm bảo việc rút lui, một câu Guy nào đó, mười bảy tuổi chẵn, nhưng là một gã guồng xe đạp rất cừ. Tối mai, không một người nào trong chúng tôi nghỉ ngơi khi các chiến hữu chưa trở về bình an vô sự.
° ° °
Sáng thứ Bảy, trời quang, chỉ có đôi ba gợn mâốp như bông. Em thấy đó, nếu đời được sắp xếp hoàn hảo, tôi sẽ ngửi thấy mùi của một bãi cỏ mềm nước Anh, tôi sẽ kiểm tra lại lớp cao su của lốp máy bay, người thợ máy sẽ ra hiệu với tôi là tất cả đều ổn. Thế là tôi trèo vào khoang của phi công, đóng cửa vòm lại và cất cánh bay tuần tra. Nhưng tôi nghe thấy bà lão Dublanc đi vào bếp, và tiếng bước chân bà đưa tôi ra khỏi giấc mơ màng. Tôi xỏ tay vào áo vét, nhìn đồng hồ, bảy giờ. Tôi cần đến nhà Charles và lấy bọc hàng mà tôi phải giao cho Émile. Hướng ngoại ô. Đến Saint-Jean, tôi đi ngược theo con đường sắt như thường lệ. Đã lâu rồi tàu không còn chạy trên những thanh ray cũ kỹ dẫn đến khu Loubers. Một làn gió nhẹ thổi vào gáy, tôi kéo cổ áo lên và huýt sáo bài Gò đất Đỏ. Xa xa, tôi nhìn thấy nhà ga nhỏ bỏ hoang. Tôi gõ cửa và Charles ra hiệu bảo tôi vào.

- Cậu ún tí cà phây hôn? anh hỏi tôi với âm sắc líu lo trọ trẹ tuyệt nhất của anh.

Tôi hiểu anh ngày một nhiều hơn, anh bạn Charles, chỉ cần pha trộn một từ Ba Lan, một từ yiddish, một từ của Tây Ban Nha, đưa thêm vào chút giai điệu Pháp và thế là ổn. Charles đã học được cái ngôn ngữ kỳ cục của anh dọc những nẻo đường di cư.

- Boọc hàng cuớ cậu đễ dứi cầu xang, chẵn bao dừ bít ai tín lới. Cậu bão Jacques dằn tui đá nhùi ký. Mọi ngời xé nghe thái hằn độn từ cắt xa nhều cây xố. Bão cậu ới cần cúi í, xau ắn chớp, có hai phuúc, hôn nhìu hơng, có khi coòng íc hơng môộc tí.

Một khi đã phiên dịch xong, không thể ngăn nổi đầu óc tôi làm phép tính. Hai phút, coi như hai mươi milimet ngòi nổ ngăn cách sự sống với cái chết cho các bạn tôi. Hai centimet để châm các khối thuốc, đặt chúng xống và tìm ra đường rút. Charles nhìn tôi và cảm thấy nỗi lo lắng của tôi.

- Bao dừ tui cún đễ môộc khoãn cắt ang toàng nho nhõ cho các bạng, anh vừa nói thêm vừa mỉm cười, như để làm tôi bình tâm.

Thật ngộ, cái nụ cười của anh bạn Charles. Anh đã mất gần hết răng cửa trong một vụ máy bay ném bom, điều này, tôi cần nói để biện hộ cho anh, chẳng giúp cho cách phát âm của anh được ổn chút nào. Ăn mặc bao giờ cũng luộm thuộm, nói năng phần lớn là khó hiểu, ấy thế mà trong hết thảy bạn bè, anh là người khiến tôi an lòng hơn cả. Có phải do sự khôn ngoan đức độ dường như có trong anh? Quyết tâm của anh? Nghị lực của anh? Niềm vui sống nơi anh? Anh làm thế nào để còn trẻ tuổi đến thế mà đã trưởng thành? Anh đã trải nghiệm cực nhiều, anh bạn Charles. Ở Ba Lan chúng đã bắt giữ anh, vì cha anh là công nhân, còn anh là cộng sản. Anh đã sống nhiều năm trong nhà tù. Được thả, anh ra đi cũng như một số bạn bè, để sang Tây Ban Nha chiến đấu cùng Marcel Langer. Từ đến dãy Pyrénées, bước đường không đơn giản, nhất là khi người ta chẳng có giấy tờ cũng chẳng có tiền. Tôi thích lắng nghe khi anh nhắc lại chuyến đi của anh qua nước Đức quốc xã. Không phải là lần đầu tôi đòi anh kể cho tôi câu chuyện của anh. Charles biết rõ điều đó, nhưng nói về đời mình đôi chút, với anh đó là một cách để thực hành tiếng Pháp và để làm tôi vui, cho nên Charles ngồi xuống một chiếc ghế dựa và những từ ngữ đủ mọi màu sắc tuôn ra từ miệng anh.

Anh lên một chuyến tàu, không vé và mang theo cái gan góc táo tợn đặc trưng của mình, anh đã liều rủi may tới mức ngồi ở hạng nhất, trong một khoang đầy sĩ quan và những bộân phục. Suốt cuộc hành trình, anh đã chuyện trò với họ. Đám nhà binh thấy anh khá dễ thương còn người soát vé tránh không hỏi han bất cứ điều gì với bất kỳ ai trong cái khoang này. Đến Berlin, họ còn chỉ dẫn cho anh làm thế nào để băng qua thành phố đến nhà ga nơi có tàu đi Aix-la-Chapelle. Sau đó là Paris, rồi lên xe ca đến Pergignan, cuối cùng anh đi bộ qua núi. Sang bên kia biên giới, những chiếc xe ca khác đưa các chiến sĩ đến tận Albacete, hướng chiến trận Madrid, trong đội những người Ba Lan.

Sau thất bại, cùng hàng ngàn người tị nạn, anh vượt dãy Pyrénées theo chiều ngược lại và quay về biên giới, đón anh nơi đó là các hiến binh. Hướng trại giam Bernet.

- � đơới tui nhàm bếp cho tâấc cã tù nhơơng và ai cúng có phâầng ăn hàng ngài! anh nói, không khỏi có phần tự hào.

Tất cả là ba năm giam giữ, cho đến hiệu lệnh vượt ngục. Anh đã đi bộ hai trăm cây số đến tận Toulouse.

Không phải giọng nói của Charles làm tôi an lòng, đó là những gì anh kể cho tôi. Trong câu chuyện của anh có một mảnh nhỏ hy vọng, nó đem lại một ý nghĩa cho đời tôi. Cả tôi nữa tôi cũng muốn thuần dưỡng cái sự may mắn mà anh muốn tin tưởng. Bao nhiêu người khác sẽ bỏ cuộc? Nhưng ngay cả trong bước đường cùng, Charles sẽ vẫn không tự nhận là mình bị cầm tù. Anh sẽ chỉ trì hoãn vừa đủ để suy nghĩ về cách đi vòng.

- Cậu phãi đi dồi, Charles nói, và dờ ăng bứa chưa đơờng phố yêng tíng hơng.

Charles bước về phía gian xép dưới cầu thangấy bọc hàng rồi đặt nó lên bàn. Thật ngộ là anh lại gói bom trong những tờ giấy báo. Ta óc thể đọc trên đó câu chuyện về một hành động do Boris thực hiện, tay nhà báo gọi anh là tên khủng bố, hắn kết tội tất cả chúng tôi là những kẻ gây rối loạn trật tự chung. Tên dân binh là nạn nhân, chúng tôi là đao phủ; một cách lạ lùng để xem xét Lịch sử đang tự viết ra hàng ngày trên đường phố ở những thành phố bị chiếm đóng của chúng ta.

Có người gại khẽ vào cửa. Charles thản nhiên, tôi thì nín thở. Một bé gái bước vào phòng và mặt bạn tôi rạng rỡ. Anh vui vẻ nói:

- Cô dáo dại tui tíng Pháp đơới.

Cô bé nhảy vào vòng tay anh và ôm hôn anh. Em tên là Camille. Mẹ em, Michèle, cho Charles trú ngụ ở nhà ga bỏ không này. Cha Camille bị tù bên Đức từ đầu cuộc chiến và Camille không bao giờ đặt ra các câu hỏi. Michèle vờ như không biết Charles là một người kháng chiến. Với chị cũng như với tất cả dân cư địa phương, anh là một người làm vườn đang trồn vườn rau đẹp nhất trong vùng. Thỉnh thoảng, ngày thứ Bảy, Charles hy sinh một trong các con thỏ của anh để làm cho mẹ con chị một bữa ăn ngon. Tôi rất muốn được ăn món thỏ hầm rượu này, nhưng tôi phải đi. Charles ra hiệu cho tôi, thế là tôi chào cô bé Camille và mẹ cô rồi ra đi, bọc hàng cắp nách. Không chỉ có lũ dân binh và bọn hợp tác, còn có những người như Michèle, nnng biết rõ điều chúng tôi làm là tốt, và mạo hiểm để giúp đỡ chúng tôi, mỗi người theo cách của mình. Sau cánh cửa gỗ, tôi còn nghe thấy Charles phát âm những từ mà một cô bé năm tuổi đang hết lòng tập cho anh nhắc lại, "bò, gà, cà chua", và bụng tôi sôi réo trong lúc tôi đi xa dần.
° ° °
Đúng năm giờ. Tôi gặp Émile, ở địa điểm đó Jacques chỉ định theo bản đồ thành phố, và tôi giao bọc hàng cho cậu. Charles đã để thêm vào giữa những quả bom hai trái lựu đạn. Émile thản nhiên, tôi muốn bảo cậu "Hẹn tối nay nhé" nhưng, có lẽ vì mê tín, tôi nín lặng.

- Cậu có điếu thuốc nào không? Émile hỏi.

- Cậu hút thuốc ư?

- Để châm ngòi.

Tôi lục túi quần và đưa cho cậu một bao thuốc gauloise nhàu nhĩ. Còn hai điếu. Bạn tôi chào tôi rồi khuất dạng ở góc phố.

Đêm buông xuống và làn mưa nhẹ cùng buông theo. Mặt đường bóng loáng và trơn nhẫy. Émile an tâm, bom của Charles không bao giờ sai trật. Thiết bị thật đơn giản, ba chục centimet ống gang, một đoạn ống máng lấy trộm thật nhanh. Một cái nút siết đinh ốc ở mõỗ đầu, một lỗ và một ngòi thọc vào chất nổ. Họ sẽ đặt bom trước cửa quán bia, rồi họ sẽ ném lựu đạn qua cửa sổ, và những kẻ thoát ra ngoài được sẽ gặp trận pháo hoa của Charles.

Tối nay ba người hành động, Jacques, Émile và cậu lính mới đảm bảo việc rút lui với một khẩu súng nạp đạn để trong túi, sẵn sàng bắn chỉ thiên nếu những người qua đường đến gần, bắn theo chiều ngang nếu bọn quốc xã đuổi theo. Họ đang ở con phố nơi hành động sẽ diễn ra. Các ô cửa sổ tiệm ăn nơi đang có một bữa tiệc của các sĩ quan địch sáng rực ánh đèn. Miếng đòn quan trọng đây, có khoảng ba chục tên trong đó.

Ba chục sĩ quan, vô khối là vạch trên những áo khoác màu xanh của Quân lực Đức treo trong phòng để áo. Émile ngược lên con phố và lần thứ nhất đi qua trước cánh cửa ra vào lắp kính. Cậu chỉ hơi quay đầu một chút, không có chuyện để mình bị phát hiện. Chính lúc ấy cậu nhìn thấy cô phục vụ. Phải tìm ra một cách bảo vệ cô ta, nhưng trước đó, phải vô hiệu hóa hai tên cảnh sát đứng đó để canh gác. Jacques đột nhiên tóm lấy một tên và siết họng hắn; anh dẫn hắn đến con phố nhỏ gần đấy và ra lệnh cho hắn cuốn xéo, gã cớm run rẩy chuồn vội. Cái gã do Émile phụ trách không chịu. Émile bèn thúc khuỷu tay làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của hắn và nện cho hắn một báng súng. Đến lượt tên cảnh sát bất tỉnh bị lôi vào ngõ hẻm. Hắn sẽ tỉnh dậy với máu dính trên trán và một trận nhức đầu. Còn lại cô gái đang phục vụ trong phòng. Jacques phân vân. Émile đề nghị ra hiệu cho cô ta qua cửa sổ, nhưng như vậy chẳng khỏi mạo hiểm. Cô ta có thể báo động. Chắc chắn, hậu quả sẽ tai hại, nhưng tôi chẳng đã nói với em rồi sao? chúng tôi chưa bao giờ giết một người vô tội, ngay cả một kẻ ngu ngốc cũng không, thế thì phải miễn cho cô ta, dù cô ta có phục vụ bọn sĩ quan quốc xã những thực phẩm mà chúng tôi đang hết sức thiếu thốn.

Jacques đến gần cửa kính; từ trong phòng ngó ra, chắc anh phải giống một gã tội nghiệp đói khát đang nhìn một cái cho nó. Một gã đại úy trông thấy anh, mỉm cười với anh và nâng cốc. Jacques mỉm cười đáp lại y và đăm đăm nhìn cô phục vụ. Thiếu phụ tròn trĩnh, chắc chắn lương thực của tiệm ăn làm lợi cho cô, cho cả gia đình cô cũng nên. Nói cho cùng, xét đoán thế nào đây? Rất cần phải sống sót trong thời buổi khó khăn này; mỗi người có cách làm của mình.

Émile sốt ruột; ở đầu con phố tối đen, chú nhỏ giữ những chiếc xe đạp giữa hai bàn tay dấp dính ướt. Cuối cùng, ánh mắt của cô phục vụ gặp ánh mắt Jacques, anh ra hiệu cho cô, cô gật đầu, ngần ngại rồi quay trở lại. Cô ta đã hiểu lời nhắn, cô phục vụ tròn trĩnh. Bằng chứng là khi chủ tiệm đi vào phòng, cô giữ lấy cánh tay ông ta và, độc đoán, kéo ông ta về phía nhà bếp. Bây giờ, mọi sự diễn ra rất nhanh. Jacques phát tín hiệu cho Émile; các ngòi nổ ánh lên màu đỏ, các chốt lăn xuống rãnh nước, kính cửa sổ vỡ ra và lựu đạn đã lăn trên sàn tiệm ăn. Émile không cưỡng nổi thèm muốn nhỏm dậy, chỉ để nhìn một tí cảnh tán loạn.

- Lựu đạn! Tếch ngay! Jacques hét lên.

Luồng khí hất Émile xuống đất. Cậu hơi choáng váng nhưng không phải lúc để ngất xỉu. Mùi khói hắc nồng làm cậu ho khục khặc. Cậu nhổ ra; máu đặc chảy xuống bàn tay. Chừng nào chân cậu chưa quỵ, thì hãy còn cơ hội. Jacques nắm lấy cánh tay cậu và thế là cả hai chạy về phía chú nhỏ với ba chiếc xe đạp của chú. Émile đạp xe, Jacques phóng bên cạnh anh, cần phải chú ý, mặt đường trơn nhẫy. Có sự ồn ào kinh khủng đằng sau họ. Jacques ngoảnh lại, thằng bé vẫn đi theo họ chứ? Nếu anh đếm đúng, thì còn chưa đầy mười giây nữa trước tiếng nổ long trời 1. Đây rồi, bầu trời sáng rực lên, hai quả bom vừa nổ. Cậu bé trên xe đạp ngã xuống, bị hất nhào vì tiếng sét, Jacques vòng xe lại, nhưng binh lính đã tỏa ra từ khắp nơi và hai tên trong bọn đã bắt lấy thằng bé đang vùng vẫy cố thoát.

- Jacques, đểu chưa kìa, nhìn đằng trước xem! Émile kêu to.

Ở đầu phố, bọn cảnh sát chặn đường, chắc cái gã vừa rồi họ để cho chuồn đi đã tìm người tăng viện. Jacques rút súng khỏi bao, bóp cò nhưng chỉ nghe thấy một tiếng cạch nhỏ. Liếc nhanh một cái nhìn vũ khí, không mất thăng bằng, không rời mục tiêu, ổ đạn lõng thõng, nó không rơi thật là điều kỳ diệu. Jacques gõ mạnh súng xuống tay lái và ấn ổ đạn vào lại được báng súng; anh bắn ba phát, bọn cớm bỏ chạy và nhường đường. Xe đạp của Jacques lại ngang tầm với xe Émile.

- Cậu đang chảy máu đấy, cậu cả.

- Đầu tớ như sắp nổ ra, Émile lúng búng.

- Thằng bé bị ngã, Jacques thổ lộ.

- Ta quay lại chứ? Émile vừa hỏi vừa dợm đặt chân xuống đất.

- Đạp đi! Jacques ra lệnh, bọn chúng đã tóm thằng bé rồi mà tớ chỉ còn có hai viên đạn.

Xe cảnh sát từ khắp nơi đổ đến. Émile chúc đầu xuống và cố tiế hết mức có thể. Nếu không có bóng tối ban đêm che chở, máu đang chảy trên mặt cậu sẽ làm cậu bị lộ ngay tức khắc. Émile thấy đau, cái đau đang tràn ngập mặt cậu thật khủng khiếp, nhưng cậu muốn lờ đi nỗi cực của mình. Cậu bạn ngã dưới đất sẽ đau đớn hơn cậu rất nhiều; bọn chúng sẽ tra tấn cậu ấy. Khi bọn chúng đánh đập cậu, hai thái dương cậu sẽ bầm dập hơn thái dương Émile rất nhiều.

Ở đầu lưỡi, Émile cảm nhận thấy mảnh kim loại xuyên qua má mình. Một mảnh từ quả lựu đạn của chính mình, thật ngu xuẩn biết mấy! Cần phải ở gần sát sạt, đó là cách duy nhất để đánh trúng mục tiêu.

Nhiệm vụ đã hoàn thành, thế thì thây kệ nếu mình phải toi mạng, Émile nghĩ vậy. Đầu óc cậu quay cuồng, một tấm màn đỏ tràn ngập tầm nhìn của cậu. Jacques thấy chiếc xe lảo đảo, anh lại gần, vừa tầm với, rồi nắm lấy vai bạn.

- Giữ vững nhé, sắp đến nơi rồi!

Họ gặp những gã cảnh sát đang chạy về phía đám khói. Chúng chẳng để ý đến họ. Một con phố nhỏ nằm ngang, con đường thoát không còn xa lắm, vài phút nữa họ có thể giảm tốc độ.

Vài tiếng gõ dồn ngoài cửa, tôi mở ra. Mặt Émile vấy máu. Jacques nắm cánh tay đỡ cậu. Anh hỏi:

- Cậu có chiếc ghế dựa nào không? Émile hơi mệt.

Và khi Jacques đóng cánh cửa lại sau lưng họ, tôi hiểu là điểm danh thiếu một chiến hữu.

- Phải lấy ra mảnh lựu đạn găm vào cậu ấy, Jacques nói.

Jacques hơ lưỡi dao trên ngọn lửa của chiếc bật lửa rồi rạch vào má Émile. Thỉnh thoảng, khi cái đau quá mạnh, nó dội ngược lên ngực đến mức buồn nôn, thế là tôi giữ lấy Émile lúc đầu cậu gục xuống. Émile đang đấu tranh, cậu không chịu ngất xỉu, cậu nghĩ đến tất cả những ngày sắp tới, tất cả những đêm mà anh bạn ngã xuống trong khi hành động sẽ bị khảo đả; không, Émile muốn lịm đi. Và trong lúc Jacques nhổ mảnh kim loại ra, Émile cũng nhớ lại cả tên lính Đức, nằm sóng soài giữa phố, người bị xé nát vì quả bom của cậu.

--------------------------------
1. Nguyên văn: big-bang (vụ nổ long trời toạ ra nguồn gốc của vũ trụ).

10


Đã qua ngày Chủ nhật. Tôi đã gặp em trai, nó còn gầy đi thêm nhưng nó không nói về cái đói của mình. Tôi không thể gọi nó là chú em nhỏ như trước đây được nữa. Mới vài ngày, nó đã già đi bao nhiêu. Chúng tôi không có quyền kể với nhau các hành động của mình vì quy tắc an toàn, nhưng tôi đọc được nơi mắt nó sự khắc nghiệt trong cuộc sống của nó. Chúng tôi đang ngồi ở bờ kênh; để qua thời gian, chúng tôi nói về nhà, về cuộc sống như trước đây, nhưng điều ấy vẫn không giúp ánh mắt nó được ổn. Thế là chúng tôi cùng thinh lặng hồi lâu. Cách chúng tôi không xa, một cần trục chân cong oằn, đung đưa trên mặt nước, cứ như thể nó đang hấp hối. Có lẽ Claude đã chơi vố ấy, nhưng tôi không có quyền hỏi nó. Claude đoán được ý tôi và cười:

- Anh đã làm cái cần trục đấy hả?

- Không, anh lại nghĩ có lẽ là em.

- Em đã lo cái cửa cống ở phía trên một chút, và em có thể bảo anh rằng cống chẳng sớm hoạt động được đâu, nhưng còn cần trục thì em thề với anh là em chẳng dính dáng gì hết.

Chỉ cần vài phút ngồi đấy, người nọ bên người kia, vài phút mà chúng tôi cuối cùng tìm lại được nhau, thếlà nó lại thành chú em nhỏ của tôi rồi. Nghe giọng nó nói, thì gần như nó xin lỗi đã làm một trò dại dột khi cho nổ tung máy móc vận hành cửa cống. Ấy thế mà, biết bao ngày đình đốn sẽ chất chồng trong việc vận chuyển trọng pháo hải quân mà quân đội Đức chuyên chở qua dòng kênh, từ Đại Tây Dương đến Địa Trung Hải? Claude cười, tôi xoa mái tóc rối bù của nó và cả tôi cũng cười vui. Đôi khi, giữa hai anh em, sự đồng lõa còn mạnh hơn mọi cấm đoán trên đời rất nhiều. Trời đẹp và cái đói vẫn cứ ở đó. Thế thì, cấm đoán đáp lại cấm đoán, thây kệ

- Một cuộc đi dạo về phía quảng trường Jeanne-d'Arc, em thấy thế nào?

- Để làm gì chứ? Claude hỏi với vẻ láu lỉnh.

- Ăn một đĩa đậu lăng, chẳng hạn.

- Quảng trường Jeanne-d'Arc ư? Claude nhấn mạnh, phát âm rõ rành từng tiếng một.

- Em biết một chỗ khác hay sao?

- Không, nhưng nếu chúng mình bị Jan vớ được, anh biết mình mạo hiểm thế nào chứ?

Tôi những muốn làm bộ ngây thơ nhưng Claude lập tức cảu nhảu:

- Thế thì em bảo cho anh biết nhé, chúng mình có nguy cơ nếm trải một ngày Chủ nhật rất rất tồi tệ!

Cần phải biết rằng toàn đội đã bị Jan khuyến cáo nghiêm khắc vì cái quán ở quảng trường Jeanne-d'Arc. Chính Émile, tôi nghĩ vậy, đã khám phá ra chỗ này. Tiệm ăn có hai cái lợi, ăn ở đấy rẻ như bèo, chỉ sơ sơ mấy đồng lẻ, nhưng hơn nữa, ta ra khỏi tiệm no nê và chỉ riêng cảm giác ấy giá trị bằng mọi thực phẩm trên đời. Émile đã không chậm trễ truyền lại cho bạn bè mối này và, dần dần, quán bắt đầu đông khách.

Một hôm, đi qua trước cửa kính, Jan kinh hãi phát hiện gần như toàn thể thành viên trong đội của anh đang ăn trưa ở đó. Một vụ càn quét của đội cảnh sát là chúng tôi bị tóm hét. Ngay tối hôm ấy, chúng tôi được triệu tập manu militari 1 đến nhà Charles, và mỗi người đều bị quở mắng. Địa điểm gọi là Đĩa Đậu tằm từ nay dứt khoát bị cấm đối với chúng tôi, nếu không sẽ bị phạt nặng.

- Em đang nghĩ một điều, Claude nói khẽ. Nếu không ai được quyền đến đấy nữa, có nghĩa là không ai trong bọn mình sẽ có mặt ở đấy?

Cho đến chỗ ấy, thì lý lẽ của thằng em tôi vững. Tôi để nó tiếp tục.

- Mà nếu không ai trong bọn mình có mặt ở đấy, thì nếu anh với em đến, chúng mình chẳng gây cho đội một nguy hiểm nào phải không?

Không chỉ trích được gì hết, vẫn vững như thường.

- Và nếu anh em mình cùng đến, thì sẽ không ai biết chuyện và Jan sẽ không trách mắng chúng mình được.

Em thấy đó, trí tưởng tượng của người ta thật là điên rồ khi người ta mang cái bụng rỗng cùng cái đói khốn kiếp đang giày vò nó. Tôi khoác cánh tay thằng em và, quên ngay con kênh, chúng tôi chạy nước rút hướng quảng trường Jeanne-d'A

Bước vào quán, cả hai chúng tôi đều bị một chấn động kỳ cục. Xem ra, tất cả các chiến hữu trong đội đều đã lập luận giống như chúng tôi; và còn nhiều hơn một sự xem ra, vì ai nấy đều đang ăn trưa ở đó, thành thử chỉ còn hai chiếc ghế trống trong phòng. Hãy thêm vào đó, là các chỗ trống lại ở đúng bên cạnh chỗ ngồi của Jan và Catherine, mà cảnh mặt đối mặt riêng tư tình tứ rành rành là làm hại thanh danh, và lý do thì ai cũng biết! Mặt Jan dài thuỗn ra và tất cả cố kìm giữ được đến đâu hay đến đấy trận cười như nắc nẻ. Chủ nhật ấy, chắc ông chủ quán phải tự hỏi vì sao đùng một cái, toàn thể khách ăn của ông lại cười lăn lộn, trong khi rõ ràng là không một ai có vẻ quen biết nhau.

Tôi là người đầu tiên kiểm soát được trận cười như nắc nẻ của mình; không phải vì tôi thấy tình thế ít kỳ cục hơn các bạn khác, nhưng đó là vì ở phía trong cùng của quán, tôi vừa nhìn thấy Damira và Marc cũng đang ngồi ăn riêng với nhau. Và bởi Jan đã để mình bị bắt gặp trong quán bị cấm cùng với Catherine, nên Marc chẳng có một lý do gì phải chịu thiệt; tôi nhìn thấy cậu cầm tay Damira và cô để yên.

Trong khi những hy vọng yêu đương của tôi tiêu tan trước một đĩa đậu lăng giả, thì các bạn, đầu cúi xuống đĩa ăn, đang lau nước mắt. Catherine giấu mặt sau khăn quàng, nhưng cô không đừng được và đến lượt cô bật lên một tràng cười như nắc nẻ khơi lại trạng thái tươi vui trong phòng; ngay cả Jan và ông chủ cuối cùng cũng hòa theo.

Cuối buổi chiều, tôi tiễn Claude về. Chúng cùng ngược lên con phố nơi em ở. Trước khi đi đến bến tàu điện ngầm của mình, tôi ngoảnh lại, chỉ đúng một lần, để nhìn cái mặt non choẹt của nó trước khi lại ra đi về phía nỗi cô đơn. Nó thì không ngoảnh lại, và rốt cuộc như thế lại hay hơn. Vì không phải chú em nhỏ của tôi đang về nhà nữa, mà là người đàn ông mà nó đã trở thành. Và tối Chủ nhật ấy, tôi thấy sầu muộn ghê gớm.

--------------------------------
1. Tiếng La tinh: bằng biện pháp quân sự.


Nguồn: http://vietmessenger.com/