Chương 01
Mùa hè 1996
Trên chiếc bàn đầu giường làm bằng gỗ màu sáng, cái đồng hồ báo thức nhỏ vừa mới reo lên. Năm giờ rưỡi sáng, căn phòng tràn ngập một ánh sáng vàng óng ả mà chỉ những buổi bình minh ở San Francisco mới có.
Cả nhà đang ngủ, con chó Kali nằm trên tấm thảm to, Lauren cuộn tròn trong chăn bông trên chiếc giường rộng.
Vẻ ấm áp dịu dàng lan tỏa làm cho căn hộ của Lauren đẹp một cách bất ngờ. Nằm trên tầng cao nhất của môt ngôi nhà xây kiểu thời Victoria ở Green Street, căn hộ có một phòng khách liền bếp kiểu Mỹ, một phòng thay quần áo, môt phòng ngủ rộng và một buồng tắm thênh thang có cửa sổ. Sàn nhà lát bằng những phiến gỗ to màu vàng, sàn trong phòng tắm thì được sơn trắng kẻ ô đen. Những bức tường trắng được trang hoàng bằng các bức hoạ cũ mua ở các galerie Union Street, trần nhà viền một đường kẻ chỉ bằng gỗ chạm trổ rất thanh thoát bởi bàn tay của một người thợ mộc tài năng hồi đầu thế kỷ và được Lauren sơn lại thành màu caramen.
Vài tấm thảm dừa bện sợi đay đặt quanh mấy góc phòng khách, phòng ăn và cạnh lò sưởi. Đối diện lò sưởi một chiếc đivăng to đùng bọc vải mộc như mời mọc ngồi vào nghỉ ngơi. Trên tủ tường, giá sách có đặt mấy chiếc đèn xinh xắn với những chụp đèn xếp nếp, những đồ được mua trong vòng ba năm qua.
Đêm trôi qua thật nhanh. Là sinh viên y khoa nội trú tại bệnh viện Memorial San Francisco, Lauren đã phải kéo dài ca trực của cô lâu hơn hẳn hai mươi tư giờ thường lệ, do lúc đêm khuya có các nạn nhân của một đám cháy lớn được đưa đến. Những chiếc xe cứu thương đầu tiên lao vào khu cấp cứu mười phút trước lúc đổi ca và cô đã lập tức tiến hành phân loại để chuyển những nạn nhân trước nhất vào các phòng khác nhau, trong khi những người cùng ê kíp với cô nhìn nhau chán nản. Bằng một phương pháp điêu luyện, cô khám mỗi bệnh nhân mất có vài phút rồi phát cho họ những mảnh giấy thay đổi màu sắc tuỳ theo tình trạng trầm trọng hay ít hay nhiều của họ, sơ thảo chẩn đoán bệnh trạng, viết đơn cho họ đi làm những xét nghiệm ban đầu và hướng dẫn các hộ lý đưa bệnh nhân vào những phòng thích hợp. Công việc phân loại mười sáu người nhập viện từ mười hai giờ đêm đến mười hai giờ mười lăm kết thúc vào đúng mười hai giờ rưỡi đêm, và các bác sĩ phẫu thuật, được gọi đến khẩn cấp, đã có thể tiến hành những ca mổ đầu của cái đêm dài này từ lúc một giờ kém mười lăm.
Lauren làm phụ tá cho bác sĩ Fernstein trong hai ca mổ liên tiếp, cô chỉ chịu về nhà khi bác sĩ ra lệnh dứt khoát bằng cách cảnh cáo cô rằng sự mệt mỏi có thể làm cô lầm lẫn và điều đó rất nguy hiểm cho người bệnh.
Nửa đêm, cô ngồi vào sau tay lái của chiếc xe Triumph, rời bãi đậu xe của bệnh viện, phóng như bay về nhà qua những đường phố vắng tanh, vắng ngắt. “Mình quá mệt và mình phóng quá nhanh”, chốc chốc cô lại tự nhủ như vậy để chống lại cơn buồn ngủ, nhưng chỉ cần nghĩ đến chuyện trở lại khoa cấp cứu giữa những phòng bệnh ồn ào là cô lại thấy người tỉnh táo.
Cô bấm điều khiển từ xa để mở cửa gara, cất chiếc xe ôtô cũ vào đó. Đi xuyên qua hành lang bên trong, cô nhảy bốn bậc lên cầu thang chính và bước vào nhà, thở phào nhẹ nhõm.
Kim đồng hồ quả lắc phía trên lò sưởi chỉ hai giờ rưỡi. Lauren cởi bỏ quần áo ngay giữa phòng khách. Không mặc gì trên người, cô vào bếp pha một cốc chè. Những chiếc lọ đặt trên giá đựng đủ loại chè khác nhau, như thể mỗi một thời điểm trong ngày phải có một hương vị riêng của nó. Cô đặt chén chè lên chiếc bàn đầu giường, chui vào trong chăn và ngủ thiếp đi ngay. Ngày mới qua quá dài, và ngày sắp tới lại có việc cần dậy sớm. Lợi dụng hai ngày được nghỉ tình cờ rơi vào đúng cuối tuần, cô đã nhận lời mời đến chơi chỗ mấy người bạn ở Carmel. Mặc dù sự mệt mỏi tích tụ cho cô cái quyền hết sức chính đáng được dậy trưa, nhưng không điều gì có thể làm cô bỏ thói quen dậy sớm. Lauren rất mê những buổi bình minh ở nơi này, trên con đường chạy ven biển Thái Bình Dương và nối San Francisco với vịnh Monterey. Nửa thức nửa ngủ, cô quờ tay ấn nút tắt chuông đồng hồ báo thức. Đưa cả hai tay nắm chặt lên giụi mắt, cô nhìn con chó Kali đang nằm trên tấm thảm.
- Đừng có nhìn tao như thế, tao không còn là người hành tinh này nữa đâu.
Nghe thấy giọng nói của cô, con chó vội vã chạy lăng xăng quanh giường rồi đặt đầu lên bụng cô chủ. “Này con gái, tao bỏ rơi mày hai ngày nhé. Quãng mười một giờ mẹ tao sẽ ghé qua đón mày. Dịch ra nào, tao dậy đây, tao sẽ cho mày ăn”.
Lauren duỗi chân, vươn tay, ngáp rõ dài rồi chụm nhảy bật dậy.
Vừa lấy tay vuốt tóc, cô vừa đi vào bếp, mở tủ lạnh, ngáp cái nữa rồi lấy ra bơ, mứt, bánh mì, hộp đồ ăn cho chó, một gói giăm bông Parme đã mở sẵn, một miếng phomát Hà Lan, một hộp mứt quả táo, hai hộp sữa chua, một ít ngũ cốc rang giòn, nửa quả bưởi; nửa quả còn lại thì để ở ngăn dưới của giá đựng đồ ăn. Kali vừa nhìn cô chủ vừa lắc đầu nhiều lần. Lauren trợn mắt dọa con chó và kêu lên :
- Tao đói!
Như thường lệ, cô bắt đầu bằng việc chuẩn bị bữa sáng cho con vật cưng trong một cái gamen to bằng đất nung.
Sau đó, cô xếp đồ ăn cho mình vào một cái khay rồi mang ra bàn làm việc. Từ chỗ này, cô có thể khẽ quay đầu để ngắm nhìn Saussalito và những ngôi nhà mọc trên những quả đồi của nó, cầu Golden Gate kéo dài như một vạch nối giữa hai phía của vịnh, cảng đánh cá Tiburon và những mái nhà nối tiếp nhau như những bậc thang ra đến tận khu Marina. Cô mở toang cửa sổ, thành phố yên tĩnh tuyệt đối. Chỉ có tiếng còi u u của những chiếc tàu lớn chở hàng đi Trung quốc hòa với tiếng kêu của lũ hải âu là đệm nhịp cho không khí mơ màng uể oải của buổi sáng này. Lauren vươn vai lần nữa rồi tấn công vào bữa sáng ngồn ngộn đồ ăn với vẻ ngon miệng hết sức. Hôm qua cô không ăn tối do không có thời gian. Tranh thủ mấy phút giữa ba đợt tiếp nhận bệnh nhân, cô đã định ăn vội một miếng xăng wuých, nhưng lần nào cái máy nhắn tin của cô cũng réo lên gọi cô đến một ca cấp cứu mới. Chả thế mà lỗi lần có người hỏi Lauren về nghề nghiệp của cô, bao giờ cô cũng trả lời bằng đúng một câu: “cấp tốc”. Ngốn ngấu xong gần hết bữa đại tiệc của mình; cô đặt cái khay rửa bát rồi đi vào buồng tắm.
Cô lấy ngón tay vuốt lên những chớp cửa để khép lại, cởi chiếc sơ mi vải bông trắng ra rồi đứng vào dưới vòi hoa sen. Tia nước ấm phun mạnh làm cô tỉnh hẳn ngủ.
Tắm xong, cô lấy một chiếc khăn bông cuộn quanh mình, để hở đùi và ngực.
Đứng trước gương, cô bĩu môi, quyết định chỉ trang điểm nhẹn nhàng, mặc vào người một cái quần bò, áo polo, rồi cởi quần bò ra, mặc váy ngắn, cởi váy ngắn, mặc lại quần bò. Cô mở tủ lấy ra một cái túi bằng vải bạt, ném vào đó vài thứ lặt vặt, những đồ vệ sinh cá nhân, và cảm thấy đã hoàn toàn sẵn sàng cho chuyến đi chơi cuối tuần. Quay người lại, cô nhìn quang cảnh bừa bộn trong nhà, quần áo vứt trên sàn, khăn tắm quẳng mỗi nơi một cái, bát đĩa bẩn trong bồn rửa bát, chăn đệm lộn xộn; bằng một vẻ hết sức dứt khoát, cô hướng về tất cả những đồ vật này, cất tiếng nói to, dõng dạc :
- Không ý kiến, không than phiền gì hết, ngày mai ta sẽ về sớm và sẽ dọn dẹp đâu ra đấy!
Rồi cô chộp lấy một cái bút chì và một mảnh giấy, thảo ra mẩu thư sau rồi dính nó lên trên cửa tủ lạnh bằng một cục nam châm to hình con ếch :
Mẹ giữ hộ con chó nhé, nhớ đừng có dọn dẹp gì đấy, khi nào về con sẽ làm tất.
Con sẽ đi thẳng đến chỗ mẹ để đón Kali vào quãng 5 giờ ngày chủ nhật. Yêu mẹ, cô bác sĩ cưng của mẹ.
Cô khoác áo măng tô, dịu dàng xoa đầu con chó, thơm lên trán nó rồi dập cửa khóa nhà lại.
Cô bước xuống những bậc cầu thang to, đi ra phía ngoài để ra gara, và gần như nhảy phóc vào cỗ xe cũ kỹ của mình.
- Đi rồi, thế là đi được rồi đây. - Cô lặp đi lặp lại - Thật không thể tin được, cứ như có phép màu, bây giờ chỉ cần cái xe này nó vui lòng khởi động cho thôi. Nếu mày lại giở trò ho khụ lên một tiếng rồi tắt ngấm thì tao sẽ tưới xi rô vào động cơ của mày rồi ném mày ra đống sắt vụn, tao sẽ thay mày bằng một cái ôtô mới chạy hoàn toàn bằng điện, không cần bộ phận khởi động và không nhõng nhẽo lúc sáng sớm trời lạnh, hy vọng là mày hiểu rồi chứ? Nổ máy.
Rõ ràng là những lời của cô chủ đã gây ấn tượng rất mạnh cho chiếc xe Ănglê cũ kỹ, bởi vì động cơ của nó nổ vang ngay lập tức. Một ngày tốt đẹp hứa hẹn bắt đầu.
Chương 02
Lauren bắt đầu lái xe đi chầm chậm để khỏi làm hàng xóm thức giấc. Green Street là một phố xinh xắn có cây cối và những ngôi nhà nhỏ hai bên đường. Ở đây, mọi người quen biết nhau như trong một cái làng. Qua sáu ngã tư rồi ra tới Van Nees, một trong hai trục đường lớn chạy xuyên qua thành phố, cô chuyển sang tốc độ cao hơn. Ánh sáng ban mai nhợt nhạt mỗi lúc lại hồng lên làm lộ ra dần dần cảnh sắc rực rỡ của thành phố. Chiếc xe lao đi vun vút trên những đường phố vắng tanh. Lauren nhấm nháp cảm giác say ngây ngất của khoảnh khắc này. Những con đường dốc của San Francisco tạo điều kệin hết sức thuận lợi cho cái cảm giác chóng mặt ấy.
Một chỗ rẽ ngoặt gấp khúc ở Sutter Street. Có tiếng két lên rồi những tiếng lạch cạch trong bộ lái. Đường dốc đứng xuống phía Union Square, lúc đó là 6 giờ rưỡi, đài ôtô bật lên một điệu nhạc đinh tai nhức óc, Lauren cảm thấy hạnh phúc, lâu lắm rồi không hạnh phúc được như vậy. Hết stress, hết bệnh viện, hết cả mọi nghĩa vụ. Một cuối tuần hoàn toàn thuộc về cô đang bắt đầu và không nên bỏ phí một phút nào. Union square tĩnh lặng. Vài tiếng đồng nữa thì các vỉa hè sẽ đầy những người du lịch và những người dân thành phố đi mua sắm trong những cửa hàng lớn nằm dọc bên quảng trường. Những chiếc cable-cars sẽ nối đuôi nhau; những tủ kính sẽ sáng rực, những chiếc ôtô sẽ xếp hàng dài ở lối vào bãi đậu xe ngầm phía dưới những khu vườn, nơi mà các ban nhạnc rong thường đổi vài nốt nhạc, dăm ba điệp khúc lấy mấy đồng tiền.
Trong lúc chờ đợi, vào cái khoảnh khắc tinh mơ này sự yên tĩnh ngự trị. Các cửa hàng tối om, vài người vô gia cư đang ngủ trên những chiếc ghế băng. Người gác bãi đậu xe ngủ gà ngủ gật trong chòi gác. Chiếc xe Triumph ngốn đường theo nhịp điệu giật cục của cái cần sang số. Các ngã tư toàn đèn xanh, Lau ren giảm tốc độ xuống số hai để chuẩn bị rẽ sang Polk Street, một trong bốn phố bao quanh quảng trường. Người lâng lâng, đầu quấn một chiếc khăn như một giải băng để giữ tóc, cô bắt đầu rẽ ngoặt trước mặt tiền rộng mênh mông của tòa nhà Macy’s. Một đường cong hoàn hảo, bánh xe khẽ kêu kèn kẹt, một tiếng động lạ tai, những tiếng lạch cạch lạch cạch, tất cả diễn ra rất nhanh, những tiếng lạch cạch hòa vào nhau, lẫn lộn, rồi lại đối chọi nhau.
Một cú va đập đột ngột! Thời gian ngưng lại. Hoàn toàn không còn đối thoại giữa bộ lái và các bánh xe nữa, sự liên lạc bị đứt đoạn hẳn. Chiếc ôtô đi vẹo sang một bên và trượt dài trên mặt đường hãy còn ẩm ướt. Mặt Lauren nhăn nhúm lại. Hai tay cô bám chặt lấy cái tay lái đã trở nên dễ sai khiến, chấp nhận quay không ngừng vào một khoảng trống khủng khiếp cho đến hết ngày. Chiếc xe Triumph tiếp tục trượt, thời gian dường như bỗng trở nên thanh thản và thư giãn như trong một cái ngáp dài. Đầu óc Lauren quay cuồng, đúng ra là khung cảnh quay cuồng xung quanh cô với một tốc độ ghê người. Chiếc ôtô biến thành một con quay. Bánh xe húc mạnh vào vỉa hè, phần trước xe bật tung lên, ôm lấy cái ống nước chữa cháy. Mui xe tiếp tục lao về phía trời cao. Bằng một nỗ lực cuối cùng, chiếc xe xoay tròn, hất tung ra ngoài người lái xe đã trở nên quá nặng đối với cái con quay bất chấp luật sức hút này. Người Lauren bị ném lên không trung rồi rơi đập vào mặt trước của một cửa hàng lớn. Tấm kính to của cửa hàng vỡ tung và toé ra thành một tấm thảm thủy tinh vụn. Lớp thủy tinh ấy đón nhận vào nó cô gái trẻ đang lăn dưới đất rồi dựng lại bất động, mái tóc xoã xượi giữa những mảnh vỡ, trong lúc chiếc xe Triumph cũ kỹ đang kết thúc cuộc chay đua và sự nghiệp của nó, nằm chổng ngược, một nửa xe ghếch lên vỉa hè. Một làn khói mỏng thoát ra từ trong lòng chiếc xe và nó trút hơi thở cuối cùng, chấm dứt trò đỏng đảnh cuối cùng của “bà lão Ănglê”.
Lauren nằm bất động. Trông cô như đang nghỉ ngơi, bình thản. Nét mặt cô thư thái, hơi thở chầm chậm và đều đặn. Miệng hơi hé mở như khẽ cười, mắt nhắm lại, cô có vẻ đang ngủ. Mái tóc dài viền quanh khuôn mặt cô, tay phải cô đặt trên bụng.
trong chòi gác, người gác bãi đỗ xe chớp mắt, anh ta nhìn thấy hết, “hệt như trong phim”, nhưng đây “rõ ràng là thật”, sau này anh kể lại như vậy. Anh đứng dậy, chạy ra ngoài rồi thay đổi ý kiến và quay trở lại. Run lên như trong cơn sốt, anh nhấc máy điện thoại, bấm số 911. Anh gọi cấp cứu, và đội cấp cứu lên đường.
Nhà ăn của bệnh viện San Francisco là một gian phòng rộng lát đá hoa trắng, tường quét vôi vàng. Một lô bàn hình chữ nhật làm bằng formica được xếp rải rác dọc hai bên của một lối đi chính dẫn đến chỗ đặt các máy bán đồ ăn thức uống tự động. Bác sĩ Philip Stern nằm ngủ gà ngủ gật bên một chiếc bàn, tay cầm một chén cà phê nguội. Cách đó một chút, người cùng êkíp với anh đang lắc lư trên một chiếc ghế, mắt mơ màng nhìn vào chỗ trống. Máy nhắn tin chợt réo lên trong túi áo của bác sĩ. Anh mở mắt, vừa nhìn đồng hồ vừa càu nhàu; chỉ mười lăm phút nữa thôi là anh hết phiên trực. “Sao lại thế được nhỉ, mình đúng là chẳng may tí nào cả; Frank, gọi cho tổng đài hộ cái xem”. Frank chộp lấy cái máy điện thoại treo trên tường ngay cạnh đó, ngeh thông tin mà trong máy truyền đạt lại cho anh, đặt lại điện thoại rồi quay về phía Stern. “Đứng dậy thôi ông bạn, có việc cho chúng mình rồi, ở Union square, hình như trầm trọng đấy...” Hai bác sĩ nội trú thuộc đội cấp cứu của San Francisco đứng dậy đi về phía có chiếc xe cấp cứu đang đợi họ, động cơ lập tức nổ vang, đèn pha sáng chói. Còi xe hú lên hai hồi ngắn gọn, báo hiệu đội cấp cứu số 2 lên đường. Lúc đó là bảy giờ kém mười lăm, Mark Street vắng tanh vắng ngắt, chiếc xe cấp cứu phóng như bay trong buổi sáng tinh mơ.
- Khỉ thật, thế mà hôm nay lại đẹp trời cơ chứ
- Việc gì mà cậu cứ ca cẩm thế?
- Tại vì mình hết hơi rồi, mình sẽ lăn ra ngủ và chẳng hưởng thụ được cái ngày đẹp trời thế này
- Rẽ trái thôi, mình đi ngược chiều.
Frank thực hiện, chiếc xe cấp cứu rẽ vào Polk Street, đi về phía Union Square. “Đây rồi, phóng nhanh lên, mình nhìn thấy rồi đây”. Đến nơi, hai bác sĩ nhận thấy trước hết là bộ khung của chiếc xe Triumph cũ kỹ, nằm rúm ró bên ống nước chữa cháy. Frank ngắt còi xe cấp cứu.
- Này, cũng chẳng phải vừa đâu - Stern vừa nhảy từ trên xe xuống vừa nhận xét. Hai cảnh sát đã có mặt tại chỗ, một người vẫy Philip về phía cửa kính vỡ.
- Nạn nhân đâu? - Bác sĩ hỏi viên cảnh sát.
- Đây, ngay trước mặt anh, đó là một phụ nữ, cô ấy là bác sĩ, hình như ở khoa cấp cứu thì phải. Có lẽ anh biết cô ấy chứ?
Quỳ xuống bên cạnh thân thể Lauren, Stern hét lên gọi người bạn cùng êkíp chạy đến. Dùng kéo, anh rạch chiếc quần bò và cái áo chui cổ của cô gái, để phơi ra làn da. Dọc theo bên đùi trái có một chỗ biến dạng rõ rệt, máu đọng thâm quầng bên trong, dấu hiệu bị gãy xương. Phần còn lại của cơ thể bề ngoài không có chỗ nào có vẻ bị giập nát.
- Chuẩn bị làm điện tim và truyền thuốc đi, mạch yếu lắm, chưa đo được huyết áp, nhịp thở 48, vết thương ở đầu, gãy xương đùi kèm chảy máu bên trong, cậu chuẩn bị cho mình 2 quilô (đơn vị truyền thuốc hoặc truyền máu). Bọn mình có biết cô này không nhỉ? Cô ấy có làm việc ở chỗ mình không?
- Mình đã từng gặp cô ấy, cô ấy là bác sĩ nội trú ở khoa cấp cứu, làm việc với ông Fernstein. Chỉ có cô ấy là dám trái ý ông ta
Philip không đáp lại nhận xét này. Frank đặt bảy cái núm nhỏ lên trên ngực cô gái, nối từng núm một với máy điện tim; mỗi núm được nối bằng 1 sợi dây điện có màu khác nhau, sau đó anh bật máy. Màn hình sáng lên ngay tức khắc.
- Điện tâm đồ trông thế nào? anh hỏi người bạn cùng êkíp.
- Không có gì khả quan cả, cô ấy đang xỉu đi. Huyết áp 8/6, mạch 140, môi tím nhợt, mình chuẩn bị cho cậu một ống thuốc endotracheal 7, chúng mình sẽ đặt nội khí quản cho cô ấy.
Bác sĩ Stern vừa mới nối được xong ống thông, anh đưa chai huyết thanh cho một viên cảnh sát.
- Cẩn thận hộ tôi, tôi cần rảnh cả hai tay.
Quay lại phía người bạn, anh yêu cầu bạn tiêm vào ống truyền thuốc 5mg adrenaline, 125mg Solu-Medrol và chuẩn bị ngay tức khắc máy sốc điện. Đúng lúc đó, nhiệt độ Lauren hạ xuống đột ngột, trong khi điện tâm đồ trở nên dao động thất thường. Phía dưới chiếc màn hình màu xanh lá cây, cái đèn đỏ hình trái tim bắt đầu nhấp nháy, báo hiệu sắp có một cơn rung thất.
- Nào, cô gái, cố lên nào! Cô ấy có lẽ bị chảy máu dữ lắm ở bên trong người. Bụng cô ấy ra sao?
- Bụng mềm, chắc chảy máu phía trong ở đùi thôi. Cậu sẵn sàng để đặt nội khí quản chưa?
Chưa đầy một phút, Lauren đã được đặt nội khí quản và cái ống được nối vào một máy hô hấp. Stern hỏi các hằng số tình trạng nạn nhân. Frank trả lời là nhịp thở ổn định, huyết áp hạ xuống còn có 5. Anh chưa kịp nói xong thì tiếng bíp bíp đều đều ở máy đã chuyển thành một tiếng rít chói tai.
- Rung thất rồi, cậu nạp cho mình 300 jun.
Philip cọ cọ hai tay cầm của máy sốc điện vào nhau.
- Được rồi, có điện rồi đấy - Frank kêu lên.
- Tránh ra, mình làm sốc điện đây!
Do tác dụng của máy sốc điện, cơ thể nạn nhân bật cong lên đột ngột, bụng oằn lên rồi lại rơi phịch xuống.
- Không, chưa được.
- Thử để ở 360 xem, làm lần nữa nào.
- 360 rồi, làm đi.
- Tránh ra!
Tấm thân nhảy dựng lên rồi lại rơi xuống bất động. “Cho mình 5mg adrenaline và nạp lại ở 360. Tránh ra!”. Điện lại phóng ra, cơ thể nạn nhân nảy lên lần nữa. “Vẫn cứ rung thất! Hỏng mất rồi, tiêm vào ống truyền một đơn vị Lidocaine và nạp lại máy sốc điện. Tránh ra”. Tấm thân lại nảy lên. “Tiêm 500mg Beryllium và nạp lại ngay 380!”
Lauren được làm sốc điện thêm một lần nữa, quả tim cô dường như có chịu tác dụng của những loại thuốc được truyền vào, nó bắt đầu đập lại với nhịp điệu ốn định, nhưng chỉ được chốc lát: tiếng rít lên ở máy chỉ bặt đi vài giây rồi lại vang lên to hơn... “Tim ngừng đập” Frank thốt lên.
Ngay lập tức Philip tiến hành thao tác mát xa tim mạch - hô hấp với vẻ kiên quyết khác thường. Vừa cố sức để cứu sống cô gái, anh vừa nói khẩn thiết với cô: “Đừng có ngốc nghếch thế, hôm nay trời đẹp lắm, trở lại đi, đừng làm như vậy”. Rồi anh ra lệnh cho bạn chuẩn bị máy sốc điện một lần nữa. Frank thử làm cho bạn bình tĩnh lại: “Thôi nào, Philip, không ích gì nữa đâu”. Nhưng Stern không chịu thôi, anh hét lên, đòi chuẩn bị máy sốc điện. Frank thực hiện. Philip lại yêu cầu mọi người tránh ra; không biết là lần thứ bao nhiêu rồi. Cơ thể nạn nhân uốn cong lên lần nữa, nhưng điện tâm đồ vẫn là một đường thẳng. Philip lại làm mát xa, trán anh đã lấm tấm mồ hôi. Vẻ mệt mỏi làm lộ rõ nỗi tuyệt vọng của người bác sĩ trẻ trước sự bất lực của mình. Frank hiểu rằng Philip đã không còn tỉnh táo nữa. Lẽ ra Philip đã phải ngừng cấp cứu nạn nhân từ nãy để tuyên bố thời điểm nạn nhân qua đời, vậy mà anh lại cứ tiếp tục làm mát xa tim.
- Truyền thêm nửa mg adrenaline và tăng máy sốc điện lên thành 400.
- Philip, thôi đi, thật là vô nghĩa, cô ấy chết rồi. cậu làm gì vớ vẩn thế.
- Im mồm và làm ngay đi!
Viên cảnh sát ném một cái nhìn dò hỏi về phía người bác sĩ trẻ đang quỳ bên Lauren, nhưng anh chẳng mảy may chú ý đến điều đó. Frank nhún vai, tiêm thêm một liều thuốc nữa vào ống truyền, nạp điện lại vào máy sốc điện. Anh thông báo là dòng điện đã đạt đến 400mA. Stern chẳng buồn yêu cầu mọi người tránh ra nữa, anh làm sốc điện ngay. Lồng ngực nạn nhân bị dòng điện với cường độ cao hất tung lên khỏi mặt đất. Điện tâm đồ vẫn cứ thẳng băng một cách tuyệt vọng. Philip không nhìn điện tâm đồ, anh đã đoán được trước kết quả từ khi chưa làm sốc điện lần cuối này. Anh đập tay vào ngực Lauren. “Mẹ kiếp, mẹ kiếp!”, Frank túm lấy vai bạn, xiết chặt.
- Thôi nào, Philip, cậu mất tự chủ rồi, bình tĩnh lại đi! Cậu tuyên bố nạn nhân tắt thở rồi chúng mình chuồn. Cậu đang suy sụp rồi, đi nghỉ thôi.
Philip đầm đìa mố hôi, mắt nhìn đờ đẫn. Frank cao giọng thêm và dùng hai tay kéo đầu bạn, bắt bạn nhìn thẳng vào mình.
Anh ra lệnh cho Philip phải bình tĩnh lại, và không thấy Philip có bất cứ phản ứng gì, anh bèn tát cho bạn một cái. Philip tiếp nhận cái tát. Giọng nói của Frank bèn trở nên dịu lại: “Trở lại với mình đi, Philip, tỉnh trí lại nào”. Rồi kiệt sức, anh buông bạn ra, đứng dậy, cũng vô hồn như thế. Mấy viên cảnh sát sững sờ nhìn hai bác sĩ. Frank đi đi lại lại, vẻ hoang mang ra mặt. Philip vẫn quỳ trên nền đất, người rúm lại, từ từ ngẩng đầu lên, há miệng nói bằng một giọng trầm trầm: “Bảy giờ mười, tắt thở”. Và quay về phía viên cảnh sát vẫn cầm chai huyết thanh một cách hết sức thận trọng, anh nói: “Các anh đưa cô ấy đi, thế là hết rồi, chúng tôi không còn làm gì cho cố ấy được nữa”. Anh đứng dậy, nắm vai Frank và kéo bạn đi về phía xe cứu thương. “Đi về thôi”. Hai viên cảnh sát đưa mắt nhìn theo họ khi họ trèo lên xe cứu thương. “Hai ông đốc này có vẻ kì quặc nhỉ!”, một người cảnh sát nói. Người kia chăm chú nhìn vào mặt bạn đồng nghiệp.
- Cậu đã bao giờ tham dự một phi vụ trong đó người quân ta bị giết chưa?
- Chưa
- Thế thì cậu không hiểu được cái mà hai bác sĩ kia vừa trải qua. Nào, giúp tôi một tay, ta nhấc cô ấy lên rồi đặt vào băng ca trong khoang xe.
Chiếc xe cứu thương đã rẽ vào chỗ ngoặt cuối phố. Hai viên cảnh sát nâng tấm thân bất động của Lauren dậy, đặt lên băng ca rồi lấy một cái chăn phủ lên. Vài người xem hiếu kỳ cũng bỏ đi vì chẳng còn gì mà xem nữa. Bên trong xe cứu thương, hai bác sĩ ngồi lặng thinh từ lúc xe lăn bánh. Frank phá vỡ sự im lặng.
- Lúc nãy cậu bị cái gì ám thế Philip?
- Cô ấy chưa đến 30 tuổi, là bác sĩ, quá đẹp để mà chết.
- Đúng vậy, thế nhưng đó lại chính là cái mà cô ấy làm đấy! Cô ấy đẹp và là bác sĩ thì có khác gì? Cô ấy có thể xấu và làm việc trong một siêu thị. Đó là số phận, cậu chẳng có thể làm được gì hết, đó là giờ của cô ấy. Bây giờ chúng mình về nhà, cậu đi ngủ và cố quên hết tất cả những chuyện đó.
Đi sau họ một quãng, chiếc ôtô cảnh sát đến một ngã tư đúng vào lúc một chiếc xe taxi vượt qua đường, khi đèn hiệu đã chuyển sang màu đỏ. Viên cảnh sát tức giận phanh két lại và cho còi cảnh sát rú lên, người lái taxi “Limo Service” dừng xe lại và xin lỗi rối rít. Thân thể của Lauren vì cú phanh này nên bị rơi khỏi băng ca. Hai người cảnh sát trèo ra phía sau, người trẻ nâng chân Lauren, người đứng tuổi hơn thì kéo hai cánh tay cô. Mặt ông đờ ra khi ông nhìn vào ngực cô gái.
- Cô ấy thở!
- Cái gì?
- Cô ấy thở, ngồi ngay vào tay lái rồi phóng về phía bệnh viện đi.
- Anh đã thấy chưa! Dù thế nào đi nữa thì hai ông đốc này cũng có vẻ kỳ quặc sao đó.
- Im đi và phóng nhanh lên. Tôi không hiểu gì cả, nhưng bọn này sẽ phải nghe nói đến tôi.
Chiếc xe cảnh sát bất thần vượt qua xe cứu thương và lao đi vun vút dưới con mắt sửng sốt của hai bác sĩ. Đó chính là xe cảnh sát “của họ”. Philip muốn để còi cứu thương rồi phóng theo xe cảnh sát, nhưng Frank không chịu, anh đã kiệt sức rồi.
- Tại sao họ lại phóng như thế kia?
- Mình không biết gì hết, mà chưa chắc đó đã là họ. Cảnh sát thì ai cũng giống nhau.
Mười phút sau, họ đỗ xe bên cạnh chiếc xe cảnh sát, các cửa xe vẫn để mở. Philip xuống xe và đi vào khu cấp cứu. Anh bước về phía thường trực, mỗi bước một vội vã hơn. Không kịp chào cô thường trực, anh hỏi cô luôn :
- Cô ấy ở phòng nào?
- Ai cơ hả bác sĩ Stern? - Cô y tá trực hỏi.
- Cô gái vừa được đưa đến ấy.
- Cô ấy ở phòng mổ số 3, Fernstein đã vào đó rồi. Hình như cô này làm việc trong ê kíp của ông ấy.
Từ phía sau lưng Stern, viên cảnh sát đứng tuổi khẽ đập vào vai anh.
- Đầu óc ông thế nào đấy, ông bác sĩ?
- Xin lỗi ông.
Xin lỗi, cứ tưởng xin lỗi là xong à. Làm sao anh ta lại có thể tuyên bố là một cô gái trẻ đã chết khi cô ấy còn thở trong thùng xe? “Anh có hiểu được là không có tôi thì cô gái đã bị ướp sống trong nhà lạnh không?” Anh ta sẽ phải nghe nói đến viên cảnh sát này. Đúng lúc đó bác sĩ Fernstein đi ra khỏi phòng mổ, làm ra vẻ không hề chú ý đến viên cảnh sát, ông hướng thẳng về phía anh bác sĩ trẻ: “Stern, anh truyền cho nạn nhân bao nhiêu adrenaline?” “Bốn lần,mỗi lần 5 mg” Stern trả lời. Ngay lập tức, giáo sư Fernstein quở trách Stern rằng cung cách cứu chữa nạn nhân của anh thật là dai dẳng thái quá. Sau đó quay về phía viên cảnh sát, ông khẳng định rằng Lauren đã chết từ trước lúc bác sĩ Stern tuyên bố giờ cô tắt thở.
Giáo sư nói thêm rằng lỗi của đội cấp cứu hẳn là đã quá cố gắng kéo dài những biện pháp vô ích để cứu trái tim của nạn nhân này, mà tất cả phí tổn cho chuyện ấy thì đổ lên đầu những người đóng bảo hiểm. Để chấm dứt mọi tranh luận, ông giải thích rằng lượng thuốc truyền vào đã ứ đọng lại xung quanh màng ngoài tim: “Khi các ông phanh ôtô lại một cách đột ngột thì lượng thuốc ấy chuyển vào quả tim. Quả tim liền phản ứng một cách thuần túy hóa học và bắt đầu đập lại”. “Chuyện ấy đáng buồn là chẳng thay đổi được gì đối với việc bộ óc của nạn nhân đã chết. Còn về quả tim thì khi nào thuốc tiêu hết nó cũng ngừng đập ngay thôi, chưa biết chừng nó đã ngừng đập chính vào lúc tôi nói chuyện với các ông đây”. Giáo sư đề nghị viên cảnh sát xin lỗi bác sĩ Stern về sự bực tức hoàn toàn không chính đáng đối với bác sĩ, và yêu cầu Stern trước khi về thì rẽ qua phòng của giáo sư. Viên cảnh sát quay về phía Philip, giọng gắt gỏng: “Tôi thấy rõ là ngành cảnh sát chúng tôi không giữ độc quyền về chủ nghĩa nghiệp đoàn. Tôi không chúc ông một ngày tốt đẹp đâu”. Ông ta quay gót rời bệnh viện. Mặc dù hai cánh cửa bệnh viện đã khép lại sau khi ông ta đi qua, người ta vẫn còn nghe rõ tiếng dập đánh ình một cái cửa xe ôtô cảnh sát.
Stern đứng lặng, hai tay vẫn đặt trên quầy thường trực, mắt nheo lại băn khoăn nhìn cô ý tá trực. “Nhưng mà tất cả câu chuyện này có nghĩa là gì?” Cô y tá nhún vai và nhắc anh rằng giáo sư Fernstein đang đợi anh.
Anh gõ vào cánh cửa có móc khóa xích ở bên trong nơi thủ trưởng của Lauren làm việc. Giáo sư mời anh vào.. Đứng ở phía sau bàn làm việc, ông quay lưng nhìn qua cửa sổ, rõ ràng đang đợi Stern nói trước, anh bèn cất tiếng luôn. Anh thú nhận với ông là anh không hiểu những điều nói với viên cảnh sát. Fernstein ngắt lời anh một cách khô khan.
- Nghe kỹ tôi nói đây, Stern, điều mà tôi nói với viên sĩ quan ấy là cái đơn giản nhất có thể giải thích cho ông ta để ông ta khỏi làm một báo cáo về anh và làm tiêu sự nghiệp của anh. Cách cư xử của anh thật không chấp nhận được đối với một người có kinh nghiệm như anh. Cần phải biết chấp nhận cái chết khi ta không còn cách nào khác. Chúng ta không phải thánh thần và không chịu trách nhiệm về số phận. Cô gái này đã chết khi anh đến, và sự ngoan cố của anh suýt nữa đã làm anh phải trả giá đắt đấy.
- Nhưng giáo sư giải thích thế nào về việc cô ấy lại thở?
- Tôi không giải thích và tôi không việc gì phải giải thích. Chúng ta không biết hết tất cả mọi điều. Cô ấy đã chết, bác sĩ Stern. Anh không thích điều đó là một chuyện, nhưng cô ấy quả thực đã từ giã cuộc đời. Tôi chẳng cần chuyện là phổi cô ấy phập phồng và tim cô ấy tự đập, điện não đồ của cô ấy thẳng băng. Bộ não cô ấy chết hẳn rồi. Chúng ta sẽ đọi những bộ phận còn lại chết theo rồi đưa cô ấy xuống nhà xác. Chấm hết.
- Nhưng giáo sư không thể làm một chuyện như vậy được, không thể khi có bao nhiêu điều hiển nhiên như thế!
Fernstern biểu lộ sự bực bội của ông bằng một cái lắc đầu và nói cao giọng hơn. Ông không việc gì phải nghe dạy dỗ cả. Stern có biết giá tiền phải trả cho một ngày làm hồi sức cấp cứu không? Anh tưởng bệnh viện sẽ giữ riêng một giường bệnh để duy trì cuộc sống nhân tạo cho một “cây rau” à? Ông hết sức yêu cầu anh trưởng thành lên một chút.
Ông từ chối việc buộc cá gia đình phải trải qua hàng tuần lễ liền bên giường bệnh của một người bất động và mất trí, chỉ còn sống nhờ máy móc. Ông từ chối chịu trách nhiệm về cái loại quyết định chỉ cốt để thảo mãn cái tôi của bác sĩ như thế này.
ông ra lệnh cho Stern đi tắm cho tỉnh người và biến đi cho khuất mắt ông. Người bác sĩ trẻ vẫn đứng ì ra trước mặt giáo sư, anh tiếp tục lập luận mỗi lúc một hùng biện hơn. Khi anh tuyên bố là cô ấy đã chết, người bệnh này của anh đã ở trong trạng thái ngừng tim mạch - hô hấp được mười phút rồi. Tim cô và phổi cô đã ngừng hoạt động. Đúng là anh có cố sức dai dẳng một cách thái quá thật, bởi vì lần đầu tiên trong đời làm bác sĩ của anh, anh cảm thấy rằng cô gái này không hề muốn chết. Anh kể cho gaío sư nghe qua đôi mắt hé mở của cô gái, anh cảm thấy cô chống chọi và không chịu để bị cuốn chìm đi.
Vì vậy, anh đã cùng với cô chống chọi quá mức bình thường, và thế là mười phút sau, trái với mọi logíc, ngược lại tất cả những điều mà anh đã học, trái tim cô bắt đầu đập lại và phổi cô lại hít thở khí trời, hít thở nguồn sống. “Giáo sư có lý khi nói rằng chúng ta chỉ là bác sĩ và không phải cái gì cũng biết - Anh tiếp tục - Cô gái này cũng là bác sĩ”. Anh van xin giáo sư cho cô gái một cơ hội. Người ta đã nhìn thấy những bệnh nhân chìm trong hôn mê đến hơn sáu tháng trời rồi bỗng nhiên tỉnh lại mà chẳng ai hiểu được là vì sao. Điều vừa xảy ra với cô gái chưa từng xảy ra với người nào cả, vậy thì nếu phải tốn tiền để cứu cô ấy cũng có sao đâu. “Đừng để cô ấy chết, cô ấy không muốn, đó là điều cô ấy nói với chúng ta”. Giáo sư im lặng một chút rồi trả lời anh :
- Bác sĩ Stern, Lauren là học trò tôi, tính cách không phải dễ nhưng rất có tài, tôi rất quý mến cô ấy và đã hy vọng nhiều về sự nghiệp của cô ấy, cũng như tôi hy vọng nhiều về sự nghiệp của anh; cuộc nói chuyện này kết thúc ở đây.
Stern bước ra khỏi phòng làm việc của giáo sư mà không khép cửa lại. Frank đứng đợi anh trong hành lang.
- Cậu đứng đây làm gì?
- Đầu óc cậu làm sao thế Philip, cậu có biết cậu vừa nói bằng cái giọng như thế với ai không?
- Thế thì sao?
- Người mà cậu nói chuyện là giáo sư của cô gái ấy, ông ta biết rõ cô ấy và làm việc cùng với cô ấy suốt mười lăm tháng nay, ông ta đã cứu sống nhiều người hơn là cậu có thể làm trong suốt cuộc đời bác sĩ của cậu. Cậu cần phải học cách tự chủ, quả thực là đôi khi cậu nói năng rất nhảm nhí.
- Để cho mình yên, Frank, hôm nay mình nghe giảng đạo đức thế là đủ rồi.
Chương 03
Bác sĩ Fernstein đi ra khép lại cửa phòng, ông nhấc máy điện thoại, lưỡng lự đặt máy xuống, bước vài bước về phiá cửa sổ, rồi lại đột ngột nhấc điện thoại lên. Ông yêu cầu cho ông nói chuyện với phòng mổ. Ngay lập tức có một giọng máy trả lời ở đầu máy bên kia.
- Fernstein đây, các anh chuẩn bị đi, mười phút nữa ta có một ca mổ, tôi sẽ bảo mang bệnh án đến cho các anh.
- Ông nhẹ nhàng đặt máy điện thoại xuống, lắc đầu, và đi ra khỏi phòng làm việc.
Vừa bước ra, ông xô ngay phải giáo sư Williams.
- Tình hình anh thế nào? - Giáo sư Williams hỏi - Đi uống chén cà phê với tôi nhé?
- Không, tôi không đi được đâu.
- Anh có việc gì thế?
- Một việc ngớ ngẩn, tôi đang chuẩn bị làm một việc ngớ ngẩn. Tôi phải đi ngay đây, tôi sẽ gọi điện cho anh sau.
Fernstein bước vào phòng mổ, người khoác chiếc áo blu màu xanh lá cây có dây buộc lại ở thắt lưng. Một cô y tá đeo vào cho ông đôi găng tay đã khử trùng. Căn phòng rộng mênh mông, kíp mổ đã đứng bao quanh chỗ Lauren nằm. Phía sau đầu cô gái có một cái máy dao động theo nhịp thở và nhịp tim đập của cô.
- Các hằng số thế nào? - Fernstein hỏi bác sĩ gây mê.
- Ổn định, ổn định không ngờ. Sáu mươi nhăm và 12/8. Cô ấy đang ngủ thiếp đi, huyết khí bình thường, giáo sư có thể tiến hành.
- Phải, anh nói đúng, cô ấy đang ngủ thiếp đi.
Lưỡi dao mổ rạch một đường dài dọc theo vết thương đùi. Vừa bắt đầu tách những lớp cơ ra, giáo sư vừa nói với cả kíp mổ. Gọi họ là “các bạn đồng nghiệp thân mến”, ông giải thích cho họ rằng họ sắp chứng kiến một giáo sư phẫu thuật với hai mươi năm kinh nghiệm thực hiện một ca mổ chỉ đáng để cho sinh viên y nội trú năm thứ năm làm: nắn lại xương đùi.
- Các anh chị có biết vì sao tôi lại làm không?
Đó là bởi vì không có một sinh viên nội trú năm thứ năm nào sẽ chấp nhận nắn lại xương đùi cho một người mà bộ não đã chết được hơn hai tiếng đồng hồ. Ông cũng đề nghị đừng ai hỏi ông gì hết, họ chỉ có mười lăm phút là cùng thôi và ông cám ơn tất cả đã sẵn sàng vào cuộc. Nhưng Lauren là học trò của giáo sư nên tất cả mọi người có mặt trong phòng đều hiểu ông và đồng tình với ông thực hiện ca mổ. Một bác sĩ điện quang bước vào và chiếu cho mọi người xem mấy tấm phim. Trên phim thấy hiện rõ một bọc máu ở thuỳ xương chẩm. Quyết định được đưa ra là phải chọc hút để giải phóng sức ép. Một lỗ chọc được thực hiện phía sau đầu, một chiếc kim mảnh được luồn qua đó rồi xuyên qua màng não, dưới sự giám sát bẳng màn hình. Chiếc kim được bác sĩ phẫu thuật điểu khiển đến tận nơi có bọc máu. Bản thân bộ não thì dường như không bị ảnh hưởng gì. Một dòng máu chảy qua ống thông. Gần như ngay lập tức, sức ép trong sọ giảm đi. Bác sĩ gây mê lập tức tăng lưu lượng ôxygen truyền vào não bằng con đường đặt nội khí quản. Được giải phóng khỏi sức ép, các tế bào lấy lại được sự chuyển hóa bình thường, loại dần đi những độc tố tích tụ. dần dần từng phút một, ca mổ thay đổi trạng thái tinh thần. Cả êkíp phẫu thuật quên đi là họ đang mổ cho một người đã chết lâm sàng. Mọi người bị cuốn hút vào cuộc, những thao tác điêu luyện nối tiếp nhau. Chụp X quang xương sườn, khôi phục lại những đoạn xương gãy, chọc hút màng phổi... Ca mổ được thực hiện rất có phương pháp và chuẩn xác. Năm tiếng đống hồ sau, giáo sư Fernstein tháo găng tay ra đập khẽ vào nhau. Ông yêu cầu kíp mổ làm nốt việc khâu lại vết mổ rồi chuyển bệnh nhân vào phòng hồi sức. Ông ra lệnh tháo hết các máy móc trợ giúp hô hấp ngay khi thuốc mê hết hiệu lực.
Một lần nữa, ông cám ơn kíp mổ về sự có mặt của họ và về việc họ sẽ kín tiếng sau này. Trước khi rời khỏi phòng mổ, ông yêu cầu một cô y tá, Betty, khi nào tháo các máy móc ra khỏi người Lauren thì báo ngay cho ông biết. Ông đi ra khỏi phóng mổ và bước nhanh về phía thang máy. Đi ngang qua tổng đài, ông gọi điện hỏi cô thường trực và muốn biết xem bác sĩ Stern có còn ở trong bệnh viện hay không. Cô gái trả lời là không, anh ấy đã đi về rồi, vẻ mặt mệt mỏi lắm. Giáo sư cám ơn cô gái và nói là ông đi nghỉ, nếu có ai hỏi thì nói là ông ở trong phòng làm việc của ông.
Từ phòng mổ, Lauren được đưa vào phòng hồi sức. Betty lắp máy kiểm tra tim, máy điện não và một ống thông nối vào máy thở nhân tạo. Được trang bị như vậy, trông Lauren lúc này không khác gì một phi công vũ trụ. Cô y tá trích một ít máu của Lauren để xét nghiệm rồi rời khỏi căn phòng. Lauren nằm ngủ yên, trên mi mắt như hiện lên bóng dáng của một xứ sở khác trong giấc ngủ dịu dàng và sâu thẳm. Nửa tiếng đồng hồ trôi qua, Betty gọi điện cho giáo sư Fernstein.Cô báo cho giáo sư là thuốc gây mê đã hết tác dụng đối với Lauren. Ông bèn hỏi cô về các hằng số cơ bản. Cô xác nhận với ông điều mà ông đang chờ đợi, các hằng số vẫn ổn định như trước. Cô xin ông khẳng định lại việc phải làm tiếp theo.
- Cô tháo máy hô hấp ra đi. Lát nữa tôi sẽ đến.
Nói rồi giáo sư dập máy. Betty đi vào phòng, cô tháo ống thông ra khỏi máy, thử để cho bệnh nhân tự thở. Một lát sau cô rút hẳn ống thông ra khỏi bệnh nhân, giải phóng cho khí quản khỏi vướng víu. Cô vuốt lại một mảng tóc của Lauren về phía sau, âu yếm nhìn cô gái rồi tắt đèn, và đi ra khỏi phòng. Căn phòng chìm trong ánh sáng màu xanh lá cây phát ra từ máy điện não. Biểu đồ trên máy vẫn thẳng băng. Lúa đó là gần 21h30 phút, xung quanh tĩnh lặng.
Gần một giờ sáng, tín hiệu ở máy hiện sóng bắt đầu dao động, lúc đầu chỉ rất khẽ khàng. Đột nhiên, điểm cuối biểu đồ bỗng nhảy vọt lên, vạch thành một đỉnh khá cao, sau đó lại nhào đến chóng mặt xuống phía dưới rồi lại trở về thành một đường kẻ ngang.
Không ai chứng kiến sự bất thường này. Điều ngẫu nhiên đã xảy ra như vậy, phải một tiếng đồng hồ sau đó, Betty mới trở lại căn phòng. Cô đến lấy những chỉ số của Lauren, mở xem băng giấy in biểu đồ tuôn ra từ máy, phát hiện ra cái đỉnh cao bất thường, cô nhướn lông mày và tiếp tục đọc thêm vài cm nữa. Nhận thấy đoạn biểu đồ tiếp theo vẫn là một đường thẳng, cô ném tờ giấy đi mà không đặt thêm câu hỏi nào khác. Cô nhấc máy điện thoại treo ở tường lên và gọi điện cho giáo sư Fernstein.
- Tôi đây, thưa giáo sư, bệnh nhân chìm sâu trong hôn mê với những hằng số ổn định. Tôi làm gì tiếp bây giờ?
- Cô tìm một giường bệnh ở tầng năm, cám ơn Betty.
Fernstein dập máy.
Nguồn: http://alobooks.vn/