10/3/12

Tấm Cám

Ở hiền thì lại gặp lành, những người ở ác tan tành như tro. Cô Tấm mồ cô cha mẹ, hiền lành, bị dì ghẻ độc ác hành hạ đủ điều, nhưng cô lại được Trời thương.

1. Ngày xưa, có Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Hai chị em gần bằng tuổi nhau. Tấm là con vợ cả. Cám là con vợ lẽ. Mẹ Tấm đã chết từ hồi Tấm còn bé. Sau đó mấy năm thì cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là người rất cay nghiệt. Ngày qua ngày, Tấm phải làm lụng luôn chân tay, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo, đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc. Trong khi đó thì Cám được mẹ nuông chiều, được ăn ngon mặc đẹp, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng.

Một hôm dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ, bảo ra đồng bắt tôm bắt tép. Mụ ta hứa hẹn: "Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ". Ra đồng, Tấm nhờ mò cua bắt ốc đã quen nên chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tôm, còn Cám thì đủng đỉnh dạo hết ruộng nọ sang ruộng kia, mãi đến chiều vẫn không bắt được con gì.
Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị :
- Chị Tấm, chị Tấm ơi!

Đầu chị lấm, chị rửa cho sạch,

chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng.
Tin là thật, Tấm bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Cám thừa dịp, trút hết tôm tép của Tấm vào giỏ mình, rồi ba chạy lẹ về trước. Lúc Tấm bước lên bờ, nhìn lại chỉ còn giỏ không, bèn ngồi xuống bưng mặt khóc hu hu.

Bấy giờ Bụt đang ngồi trên toà, bỗng nghe tiếng khóc của Tấm, liền hiện xuống hỏi :
- Tại sao con khóc ?
Tấm kể lể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:
- Thôi hãy nín đi ! con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không?
Tấm nhìn vào giỏ rồi nói :
- Chỉ còn một con cá bống.
- Bụt bảo: Con đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai, còn một bát đem thả xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn, con nhớ gọi như thế này :
Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.
Không gọi đúng như thế thì nó không lên, con nhớ lấy. Nói xong Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ mỗi bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe tiếng gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày càng lớn lên trông thấỵ
Thấy Tấm sau mỗi bữa ăn thường mang cơm ra giếng, mụ dì ghẻ sinh nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống, bèn nhẩm lấy cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe.
Tối hôm ấy mụ dì ghẻ bảo Tấm sáng mai dậy sớm chăn trâu, và dặn:
- Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.
Tấm vâng lời, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa nhà, mẹ con Cám mang bát cơm ra giếng cũng gọi bống lên ăn y như Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước. Mẹ Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về nhà làm thịt nấu cháo ăn.
Đến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng, Tấm gọi nhưng chả thấy bống ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy cục máu nổi lên mặt nước. Biết là có sự chẳng lành cho bống, Tấm òa lên khóc. Bụt lại hiện ra, hỏi:
- Làm sao con lại khóc ?
Tấm kể sự tình cho bụt nghe, Bụt bảo:
- Cá bống của con, người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi ! Rồi về nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.
Tấm trở về theo lời Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm:
- Cục te cục tác ! Cho ta nắm thóc, ta bưới xương cho !
Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời Bụt dặn.

Ít lâu sau nhà vua mở hội trong mấy đêm ngàỵ Già trẻ gái trai các làng đều nô nức đi xem, trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bẩy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi chẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài, sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm:
- Hãy nhặt xong chỗ gạo này, rồi đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở, về không có gạo thổi cơm, mà nhừ đòn.
Nói xong, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường. Tấm ngồi nhặt một lúc, thấy suốt ruột, nghĩ rằng không biết bao giờ mới nhặt xong, bèn ngồi khóc một mình. Giữa lúc ấy Bụt hiện ra, hỏi:
- Con làm sao lại khóc?
Tấm chỉ vào cái thúng, thưa:
- Dì con bắt phải nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội, lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi còn gì mà xem.
Bụt bảo:
- Con đừng khóc nữa. Đem thúng ra giữa sân, để ta sai chim sẻ xuống nhặt giúp.
- Nhưng nếu chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ bị đòn.
- Con cứ bảo chúng nó thế này:
"Rặt rặt (chim sẻ) xuống nhặt cho tao
ăn mất hột nào thì tao đánh chết".
Nói thế, chúng nó sẽ không ăn của con đâu.
Tự nhiên ở trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đàng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không mất một hạt. Nhưng khi chim sẻ bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại bảo:
- Con làm sao lại khóc?
- Con rách rưới quá, người ta không cho con vào xem hội.
- Con hãy đào những cái lọ xương bống, con đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ thứ cho con chẩy hội.

2. Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất, lấy ra được một cái áo mới tứ thân, một cái áo xống lụa, một cái yếm lụa đỏ và một cái khăn đội đầu bằng nhung. Đào lọ thứ hai lấy ra được một đôi giầy thêu. Đào lọ thứ ba thấy một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuống đất bỗng chốc nó đã hí vang lên và biến thành ngựa thật. Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn.
Tấm mừng quá vội tắm rửa rồi mặc áo quần mới, cỡi ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một một chỗ lội, Tấm đánh rơi một chiếc giầy xuống nước không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội, Tấm lấy khăn gói chiếc giầy còn lại rồi chen vào biển người.
Giữa lúc ấy thì đoàn voi nhà vua vừa tiến đến chỗ lội. Hai con voi đầu đoàn đến đấy tự nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên, không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem, họ nhặt ngay được một chiếc giầy thêu của Tấm lúc nãy rơi xuống đó. Vua ngắm nghía chiếc giầy không chán mắt. Bụng bảo dạ: "Chà, một chiếc giầy thật xinh! Người đi giầy này hẳn phải là thiếu nữ đẹp tuyệt trần".
Lập tức Vua hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái xem hội ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giầy thì vua sẽ lấy làm vợ. Đám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giầy. Cô nào cô nấy lần lượt kéo vào lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm một tí cầu may. Nhưng chẳng có một chân nào đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng ở trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm, Cám mách mẹ:
- Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử giầy đấy!
Mụ dì ghẻ bĩu môi:
- Con nỡm, "chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!"
Nhưng khi Tấm đặt chân vào giầy thì vừa như in. Nàng mở khăn lấy luôn chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc giầy giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn tỳ nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám.

3. Tuy sống sung sướng trong hoàng cung. Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nàng xin phép vua trở về nhà để soạn cỗ cúng giúp dì. Mẹ con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng. Nay thấy Tấm về, lòng ghen ghét lại bùng lên. Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm:
- Trước đây con quen trèo cao, con hãy trèo lên bẻ một buồng cau để cúng bố.
Tấm vâng lời trèo lên cây cau, lúc lên đến ngọn cây, thì ở dưới này mụ dì ghẻ cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi:
- Dì làm gì dưới gốc thế ?
- Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.
Nhưng Tấm chưa kịp chặt cau thì cây cau đã đổ. Tấm ngã lộn cổ xuống ao mà chết.

Mụ dì ghẻ vội vàng lột áo quần của Tấm cho Cám mặc, và vào cung nói dối vua rằng: "Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị". Vua nghe nói trong bụng không vui, nhưng vẫn không nói gì cả.

4. Sau khi chết, Tấm hoá thành chim oanh vàng, chim bay một mạch về đến vườn nhà vua trong kinh đô. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, oanh vàng dừng lại trên cành cây, bảo nó:
- Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào,

chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.
Rồi chim oanh vàng bay thẳng vào cung, đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Vua đang nhớ Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo:
- Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh , chui vào tay áo.
Chim vàng anh bay lại đậu vào tay vua rồi rúc vào tay áo. Vua yêu quý vàng anh quên ăn quên ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm vua chỉ mải mê với chim, không tưởng đến Cám.
Cám vội về mách mẹ. Mẹ nó bảo, cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm cớ nói dối vua. Lúc vua đi vắng, Cám bắt chim làm thịt nấu ăn rồi vứt lông chim ở ngoài vườn.
Thấy mất vàng anh, vua hỏi, Cám đáp:
- Thiếp có thai, thèm ăn thịt chim, nên trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi.
Vua không nói gì cả. Lông chim vàng anh chôn ở vườn hoá ra hai cây xoan đào. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của chúng sà xuống che kín thành bóng, như hai cái lọng. Vua thấy cây đẹp rợp bóng, sai lính hầu mắc võng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào Vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào.
Cám biết chuyện ấy lại về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo, cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm cớ nói dối vua. Một hôm gió bão, Cám sai thợ chặt cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp:
- Cây bị đổ vì gió lớn quá, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.
Nhưng khi khung cửi đóng xong. Cám ngồi vào dệt lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình :
Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra.
Thấy vậy Cám sợ hãi, vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi, rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Về đến cung, Cám làm như lời mẹ nói. Nó đem tro đã đốt đem đi đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Đống tro bên đường mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xum xuê. Đến mùa có quả, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng mùi thơm ngát toả ra khắp nơi. Một bà lão hàng nước gần đó một hôm đi qua dưới gốc, ngửi thấy mùi thơm, ngẩng đầu nhìn lên thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ bị ra nói lẩm bẩm:
- Thị ơi thị, rụng vào bị bà,

bà để bà ngửi chứ bà không ăn.
Bà lão nói vừa dứt lời, thì quả thị rụng ngay xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu đem về nhà cất trong buồng, thỉnh thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm.
Ngày nào bà lão cũng đi chợ làng. Từ trong quả thị chui ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay, nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm. Tấm vừa bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh giúp bà. Làm xong, Tấm lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào quả thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon, canh ngọt sẵn sàng, thì lấy làm lạ.
Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, Tấm từ quả thị chui ra rồi cũng làm việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại nhìn vào khe cửa. Khi thấy cô gái xinh đẹp, bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người thương nhau như hai mẹ con. Hàng ngày Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm, nấu nước, gói bánh, têm trầu để cho bà bán hàng.

Một hôm vua đi chơi ra khỏi hoàng cung, Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ, bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Thấy trầu têm cánh phượng, vua sực nhớ tới trầu Tấm vợ mình têm ngày trước cũng y như vậy, liền hỏi :
- Trầu này ai têm?
- Trầu này con gái lão têm.
- Con gái của bà đâu, gọi ra đây cho ta xem mặt.
Bà lão gọi Tấm ra. Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà lão hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung.

5. Tấm trở về cung, xinh đẹp hơn xưa, và được vua yêu thương hơn trước. Cám theo dõi, thấy ngày nào Tấm cũng tắm bằng nước sôi, Cám bắt chước. Vừa khi dội nước sôi lên người, Cám bị bỏng chết tại chỗ.

Mẹ Cám nghe tin con chết, buồn bã khóc lóc đêm ngày, sau hoá ra mụ điên, đi lang thang khắp nơi, rồi chết đói.

(Nguồn Đoàn Xuân )