28/11/12

A Mạch tòng quân (C96-97)

Chương 96: Nghị hòa

A Mạch gật đầu, xoay người quay trở về doanh trại. Trong doanh, mặc dù từ miệng của Trương Sĩ Cường, mọi người đã biết A Mạch bình an trở về, nhưng khi thực sự nhìn thấy nàng vẫn không nén được một phen hoan hô kích động, ngay cả Hắc Diện ngày thường vốn rất kiệm lời, hôm nay cũng cười ngoác cả miệng, nói gì đến đám người Lý Thiếu Hướng và Vương Thất, tất cả mọi người đều cười hì hì vây quanh A Mạch, hỏi han nàng chuyện trải qua mấy ngày vừa rồi, A Mạch lại đem những lời nửa thật nửa giả đã nói ở trong trướng của Vệ Hưng nói lại một lần nữa, mọi người nghe xong đều vừa sợ lại vừa thán phục, nói rằng A Mạch đúng là có số cát nhân thiên tướng, lần này đại nạn không chết tất sẽ được hưởng phúc đến cuối đời.

A Mạch chỉ cười, rồi tiễn mọi người ra ngoài, lúc này mới sai Trương Sĩ Cường chuẩn bị quân trang cho nàng thay, lại dặn: “Ta ngủ một lát, một lúc nữa cho người đến gọi ta dậy, ngươi cũng không phải canh gác đâu, đi ngủ đi, khoảng đầu giờ chiều thì đến đây.”

A Mạch quả nhiên đoán không sai, đến đầu buổi chiều, quân Giang Bắc đã chuẩn bị đâu vào đấy, bắt đầu lui về phía đông.

Trên núi Nhạn Sơn, Thường Ngọc Tông được quân sĩ hồi báo rằng quân Giang Bắc bắt đầu rút quân, trong lòng kinh ngạc, liền hỏi Thường Ngọc Thanh: “Thất ca, bọn mọi rợ rút quân như thế liệu có trá không?”

Thường Ngọc Thanh im lặng không nói gì, anh ta trở về sớm hơn so với A Mạch, thừa dịp đêm tối liền lẻn lên núi Nhạn Sơn, vừa lên đến nơi đã tiến hành an bài lại tuyến phòng ngự, không ngờ quân Giang Bắc lại rút quân. Thường Ngọc Tông thấy anh ta trầm mặc cũng không dám quấy rầy, chỉ yên lặng đứng một bên, đợi lát sau mới nghe Thường Ngọc Thanh nói: “Trước cứ quan sát cho kỹ rồi hẵng hay.”

Hai người đi đến điểm cao nhìn, quả nhiên thấy dưới núi, quân Giang Bắc đã nhổ trại đi về hướng đông. Là A Mạch sự thật muốn thủ tín thả anh ta xuống núi hay là nàng lại có quỷ kế gì khác đây? Thường Ngọc Thanh nhất thời cũng không có cách nào xác định được.

Thường Ngọc Tông thấy quân Giang Bắc đúng là rút lui thật, không khỏi ngạc nhiên nói: “Thất ca, đúng là bọn mọi rợ Nam Hạ rút lui thật.”

Thường Ngọc Thanh nghĩ nghĩ, rồi nói với Thường Ngọc Tông: “Ngươi chọn lấy một ít tướng sĩ khỏe mạnh truy kích phía sau quân Giang Bắc.”

Trong lòng Thường Ngọc Tông cảm thấy vô cùng kỳ lạ, thầm nghĩ quân Giang Bắc rời đi như vậy như vậy, ta thắp hương cầu trời khấn phật còn chẳng được, giờ lại còn truy kích bọn họ làm gì? Nhỡ đâu làm thế lại khiến bọn chúng quay lại thì sao? Chẳng lẽ lại đem ngót nghét một vạn tàn binh bại tướng chạy lên núi lần nữa? Lại nói viện quân Dự Châu đúng là sẽ đến, nhưng chúng ta là kẻ cầm quân đánh giặc, trong lòng đều biết điểm chí tử này, cho dù chúng ta có thể cầm cự đợi được viện quân, thì có đến ngàn cái miệng sợ là cũng không đủ thanh minh, tự mình làm đá kê chân cho kẻ khác, hỏi rằng có mệt hay không!

Thường Ngọc Tông do dự một chút rồi nói: “Nếu mọi rợ Nam Hạ cố ý lừa chúng ta mắc mưu thì làm sao bây giờ? Chúng ta xuống núi truy kích, chẳng phải sẽ rơi vào quỷ kế của bọn họ sao?”

Thường Ngọc Thanh khẽ cười cười, giải thích: “Ngươi chỉ đuổi theo nhưng không cần giao chiến, yên tâm, nếu quân Giang Bắc quay lại thì ngươi cứ đem binh quay trở về.”

Thường Ngọc Tông lại càng hồ đồ, hỏi: “Vì sao phải làm thế?”

Thường Ngọc Thanh quan sát quân Giang Bắc đang rút đi dưới núi, khẽ cười nói: “Người lắm mưu nhiều kế nhất định cũng là người đa nghi, ngươi truy kích ở phía sau, hắn tất nhiên nghĩ là ngươi cố ý dây dưa, sợ là sẽ càng chạy nhanh hơn.”

Tuy Thường Ngọc Tông bán tín bán nghi, nhưng cũng không dám trái ý thất ca, lập tức tuyển ra năm trăm tinh binh truy kích quân Giang Bắc. Trên đùi Thôi Diễn bị chém một đao, vốn đang ở trong trướng dưỡng thương, nghe được tin này liền vội vội vàng vàng tới tìm Thường Ngọc Thanh, vừa mở miệng đã kêu lớn: “Đại ca, cho ta dẫn quân đi truy kích!”

Thường Ngọc Thanh đang cẩn thận lau thanh chủy thủ của A Mạch, nghe vậy không buồn ngẩng đầu lên, chỉ thản nhiên nói: “Không được.”

Thường Ngọc Tông lại cả giận nói: “Còn muốn đuổi sao! Ngươi ba lần bảy lượt đều bị bắt, nếu không phải tại ngươi, thất ca sao phải chịu khốn đốn nhiều ngày như vậy, chúng ta cũng không bị thiệt hại mất mấy ngàn nhân mã, cũng không phải lưu lạc ở đây!”

Thôi Diễn gân cổ cãi: “Cái này đâu thể trách ta, ta đã sớm nói từ trước là cứ một đao chém quách Mạch Tuệ đi cho xong việc, nhưng đại ca…”

Thường Ngọc Thanh ngẩng phắt đầu lên nhìn Thôi Diễn, Thôi Diễn bị ánh mắt sắc bén của anh ta chiếu vào thì phát sợ, nửa câu nói còn lại mắc nghẹn trong cổ họng không sao thoát ra được, chỉ cúi đầu nhỏ giọng ngập ngừng nói: “Dù sao… cũng không thể trách một mình ta được.”

Thường Ngọc Thanh lại cúi đầu, chậm rãi lau thanh chủy thủ, nói: “Ngọc Tông, ngươi dẫn quân truy kích, nhớ lấy, không cần giao chiến.”

Thường Ngọc Tông lĩnh mệnh mà đi. Thôi Diễn liếc mắt nhìn trộm Thường Ngọc Thanh, thấy trên mặt anh ta không biểu lộ là vui hay giận, trong lòng càng hối hận, đang cân nhắc xem nên mở miệng như thế nào, lại nghe Thường Ngọc Thanh đột nhiên nói: “Ngươi nói đúng.”

Thôi Diễn sửng sốt, thận trọng nói : “Đại ca, kỳ thật…”

Thường Ngọc Thanh ngẩng đầu lên nhìn Thôi Diễn, khuôn mặt bình tĩnh nói: “Thật ra ngươi nói đúng, nếu ta vừa gặp liền giết nàng ngay thì đã không rơi vào quỷ kế của nàng, về sau cũng không xảy ra nhiều chuyện như vậy.” Thường Ngọc Thanh nhẹ nhàng đứng dậy, đi được vài bước, giơ thanh chủy thủ trong tay lên, xoay người cười nói với Thôi Diễn: “A Diễn, lần sau nếu ngươi thấy nàng, thì cứ thẳng tay mà giết.”

Thôi Diễn nhất thời trố mắt nói không ra lời……

Thịnh Nguyên mùa xuân năm thứ tư, quân Giang Bắc vây Nhạn Sơn không thành liền rút quân về hướng tây, ngoài dự đoán của mọi người, Thường Ngọc Tông vậy mà lại mang binh đuổi theo, đại tướng quân Vệ Hưng quân Giang Bắc nghĩ Thường Ngọc Tông cố ý muốn đeo bám theo nên cũng không để ý tới, chỉ mang binh quay về phía tây, tới một thành nhỏ là Thuận Bình liền cho đại quân nghỉ ngơi hồi phục. Ai ngờ vừa đến Thuận Bình được hai ngày, lại nhận được thánh chỉ từ triều đình.

Vệ Hưng cho gọi A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa vào trong trướng, đưa thánh chỉ ra, lúc này mới nói: “Vừa mới nhận được thánh chỉ trong triều, muốn chúng ta lập tức lui về Thái Hưng.”

Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch nghe vậy đều sửng sốt, không khỏi hỏi: “Lui về Thái Hưng?”

“Không sai,” Vệ Hưng gật đầu, chậm rãi nói: “Triều đình và Bắc Mạc nghị hòa.”

“Ở Thái Hưng nghị hòa?” Đường Thiệu Nghĩa hỏi.

Vệ Hưng đáp: “Đúng vậy, cho nên muốn quân ta lập tức lui về Thái Hưng. Bắc Mạc vì muốn thể hiện thành ý nghị hòa nên đã đồng ý cho đại quân của Chu Chí Nhẫn rút lui về phía bắc Thái Hưng, quân ta tiến vào thành Thái Hưng cùng quân giữ thành đợi sứ đoàn hai nước đến đó nghị hòa.”

A Mạch cụp mắt xuống không nói gì, nhưng trong lòng lại không ngừng dấy lên từng cơn sóng to gió lớn, nghị hòa, đúng là nhất định sẽ nghị hòa ư! Nếu nghị hòa, nàng làm sao có thể thay phụ thân đánh bại Trần Khởi? Nếu nghị hòa, hai năm vất vả liều mạng của nàng để làm gì? A Mạch đột nhiên nhớ tới trước khi đưa quân ra khỏi núi Ô Lan, Từ Tĩnh từng hỏi mình: “A Mạch, vì sao ngươi lại tòng quân?” A Mạch biết nếu nói là vì trung quân ái quốc sẽ không thể lừa được lão hồ ly Từ Tĩnh, đang muốn biên soạn một chút lý do hợp lý để trả lời Từ Tĩnh thì ông ta lại hỏi tiếp: “Nếu quân Giang Bắc ra trận mà không đánh, nếu quân Giang Bắc không còn tồn tại nữa, thì ngươi sẽ làm thế nào? Ngươi sẽ cảm thấy ra sao?”

A Mạch nhất thời bị ông ta hỏi vậy thì nghẹn họng lại nhìn trân trối, một nửa vùng Giang Bắc đều nằm dưới gót sắt của thát tử, vì sao ra trận mà lại không đánh? Quân Giang Bắc lập được nhiều chiến công, thanh thế đang vô cùng mạnh mẽ, sao lại không còn tồn tại nữa? Từ Tĩnh nhìn A Mạch nở nụ cười, nói: “Ngươi không cần trả lời ta, cứ tự mình suy nghĩ cho cẩn thận, ngày khác tất sẽ dùng đến.”

Lúc ấy, A Mạch còn có chút buồn bực không hiểu vì sao Từ Tĩnh lại hỏi những câu kỳ quái như thế, hiện giờ nghĩ lại, thì ra ông ta đã sớm đoán được là sẽ có chuyện ngày hôm nay.

Lại nghe Đường Thiệu Nghĩa căm phẫn nói: “Còn muốn nghị hòa ư? Chẳng lẽ chỉ cần bàn bạc là có thể khiến lũ thát tử tự mình rời khỏi Tĩnh Dương quan sao? Nếu không phải vì triều đình nghị hòa, thì từ năm thứ hai Thịnh Nguyên chúng ta đâu bị thát tử công phá cửa khẩu Tĩnh Dương! Hiện giờ thát tử đã chiếm một nửa vùng Giang Bắc của ta, trong triều lấy cái gì để cùng thát tử nghị hòa?”

Sắc mặt Vệ Hưng bình tĩnh, chỉ nhìn Đường Thiệu Nghĩa chằm chằm, lạnh lùng nói: “Quân lệnh như sơn!”

Đường Thiệu Nghĩa đón ánh mắt của Vệ Hưng, gằn từng tiếng đáp: “Tướng bên ngoài biên ải, quân lệnh có điều không thể nghe theo!”

Trong mắt Vệ Hưng lóe tinh quang, hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Chẳng lẽ Đường tướng quân muốn kháng chỉ sao? Hay là muốn dấy binh tạo phản?”

Đường Thiệu Nghĩa bị Vệ Hưng hỏi thì nghẹn lời, anh ta từ nhỏ đã chịu sự giáo dục về một tinh thần trung quân ái quốc, hai tội danh lớn như vậy không khác gì sấm nổ bên tai, khiến anh ta không thể nói nên lời.

Vệ Hưng thấy Đường Thiệu Nghĩa không cách nào chống đỡ, lại nói tiếp: “Trong triều muốn nghị hòa cũng có đạo lý của họ, thủy quân của Chu Chí Nhẫn đã luyện thành, hùng cứ ở Thái Hưng, đối với Giang Nam khác nào hổ rình mồi, việc bình định Vân Tây vẫn chưa có kết quả, trong triều thật sự không có cách nào dụng binh từ hai mặt, Giang Bắc tuy có đại quân của chúng ta, nhưng chúng ta đang chịu cảnh bao vây và bị cô lập từ bốn phía, thật khó có thể tạo nên sự chuyển biến lớn. Ta thấy triều đình nghị hòa chẳng qua là kế sách thích ứng tạm thời mà thôi, thừa dịp quân ta vừa đánh bại hai lộ quân, trước mắt cứ tạm thời bảo tồn thực lực, đợi sau khi bình định Vân Tây xong sẽ bàn bạc kỹ hơn!”

Vệ Hưng nói xong, lại nhìn về phía A Mạch vẫn đang cúi đầu trầm mặc, hỏi: “Mạch tướng quân, ngươi thấy thế nào?”

A Mạch lập tức dấu đi cảm xúc trong mắt, ngẩng đầu đáp: “Đại tướng quân nói có lý, tình huống hiện giờ của quân ta quả thật không nên tiếp tục cùng thát tử đối kháng trực diện, nếu như có thể vào Thái Hưng nghỉ ngơi hồi phục, thật ra đối với quân ta chỉ có lợi chứ không có hại!”

Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy thì vô cùng sửng sốt, còn Vệ Hưng thì mừng rỡ, khen A Mạch đôi câu, lại quay đầu nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa, hỏi: “Ý Đường tướng quân thế nào?”

Đường Thiệu Nghĩa nhẫn nhịn, hướng về phía Vệ Hưng ôm quyền nói: “Mạt tướng tuân theo sự sắp sếp của đại tướng quân!”

Vệ Hưng cười cười, hạ lệnh đại quân sau khi tạm thời nghỉ ngơi hồi phục, liền xuất phát tiến về Thái Hưng.

Đường Thiệu Nghĩa từ chỗ của Vệ Hưng đi ra, sắc mặt vẫn không tốt, cũng không để ý tới A Mạch, chỉ bước nhanh ở phía trước. A Mạch đuổi theo mấy bước tiến lên ngăn Đường Thiệu Nghĩa lại, kéo anh ta đến một chỗ không có người, lúc này mới thử hỏi: “Đại ca, chẳng lẽ ngươi muốn tạo phản?”

Đường Thiệu Nghĩa nghe xong cả giận: “A Mạch, tại sao ngươi cũng hỏi như thế?”

A Mạch trong lòng hơi thất vọng, trên mặt cũng không biểu lộ ra, chỉ khuyên nhủ: “Huynh không muốn tạo phản, thánh chỉ cũng đã đến, huynh còn muốn như thế nào nữa? Chẳng lẽ kháng chỉ sao? Nhưng đó lại là tội danh chu di cửu tộc.”

Đường Thiệu Nghĩa nghiêm nghị nói: “Diệt trừ thát tử, khôi phục lại non sông là bổn phận của ta, tận trung báo quốc đâu lý nào lại sợ chết!”

A Mạch lại nói: “Không chịu tuân theo quân lệnh đó chính là kháng chỉ, vì thế cũng vẫn tạo mối nghi là có mầm phản loạn, về sau nếu có đuổi thát tử ra khỏi cửa khẩu Tĩnh Dương thì cũng sẽ bị tru di cửu tộc. Huynh có thể không sợ chết, nhưng thân nhân gia quyến đại tướng quân đều ở Thịnh Đô, huynh muốn anh ta phải làm thế nào?”

Đường Thiệu Nghĩa biết A Mạch nói có lý, nhưng trong lòng vẫn tức giận, dùng chân đá một cước vào góc tường, không cam lòng nói: “Nghị hòa như vậy thật khiến cho người ta phải uất nghẹn!”

A Mạch lo nghĩ, hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, nếu triều đình đem vùng Giang Bắc giao cho thát tử, thì huynh tính thế nào?”

Đường Thiệu Nghĩa không nghĩ đến vấn đề này, lập tức có chút kinh ngạc, hỏi lại A Mạch: “Triều đình đâu thể nào đem Giang Bắc giao cho thát tử? Nếu như vậy, thì quân Giang Bắc của chúng ta phải làm sao bây giờ?”

A Mạch lạnh nhạt đáp: “Nếu như tặng thật, có lẽ sẽ điều quân Giang Bắc về phía nam.” Nàng đưa mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa, tiếp tục hỏi: “Đại ca, huynh sẽ tính thế nào? Có theo quân đi về phía nam không?”

Đường Thiệu Nghĩa không rõ A Mạch vì sao phải kiên trì hỏi vấn đề này, chỉ yên lặng nhìn A Mạch, kiên định đáp: “Nếu triều đình thật sự muốn nhượng lại vùng Giang Bắc cho thát tử, ta liền từ quan không làm nữa, ở lại Giang Bắc chiêu tập tráng sĩ có chí khí phất cờ khởi nghĩa, diệt trừ thát tử!”

Nghe anh ta trả lời như vậy, trong lòng A Mạch hơi có chút an ủi, trên mặt không khỏi khẽ mỉm cười, Đường Thiệu Nghĩa nhất thời nhìn đến thất thần, chờ đến khi A Mạch gọi một hồi anh ta mới hồi phục lại tinh thần, lập tức thẹn thùng, vội dời tầm mắt đi, có chút bối rối hỏi A Mạch: “Ngươi thì sao? A Mạch, ngươi sẽ làm thế nào?”

A Mạch lại nhướn mày, cười nói: “Ta khó khăn lắm mới làm được tới chức quan này, đâu thể dễ dàng từ bỏ như vậy!”

Nhiệt tình đầy ắp của Đường Thiệu Nghĩa không khác gì bị A Mạch hắt cho một bát nước lạnh, trong lòng chỉ cảm thấy vô cùng lạnh lẽo, cố gắng mỉm cười, nói: “Mỗi người một chí hướng.”

A Mạch thấy thần sắc trên mặt Đường Thiệu Nghĩa thay đổi, biết trong lòng anh ta đang thất vọng đến cực điểm, cũng không nói toạc ra, chỉ cười nói: “Được rồi, đại ca, đừng vội nghĩ về chuyện sau này sẽ như thế nào nữa, cứ chờ đến khi quay trở lại Thái Hưng xem tình hình thế nào đã rồi nói sau.”

Chương 97: Dạ yến

Trung tuần tháng năm, tiết trời đã vào hạ, cuối cùng quân Giang Bắc cũng đã đến ngoại thành Thái Hưng. Bắc Mạc vì muốn thể hiện thành ý nghị hòa, nên đã cho Chu Chí Nhẫn lãnh binh lui về phía bắc một trăm dặm, để quân Giang Bắc vào thành Thái Hưng. Nhưng Vệ Hưng lại chưa vội vàng đưa đại quân vào thành, mà làm theo đề nghị của A Mạch, hạ lệnh cho đại quân đóng quân ở phía tây thành Thái Hưng, đồng thời lưu những tướng lĩnh tâm phúc đóng ở trong doanh trại, chỉ dẫn theo vài vị tướng lĩnh cao cấp cùng vài thuộc hạ văn chức tiến vào Thái Hưng.

Thành Thái Hưng, là thành lớn nhất vùng Giang Bắc của Nam Hạ, từ năm Thịnh Nguyên thứ hai đến nay đã bị Bắc Mạc vây khốn gần hai năm! Trong thành vốn dự trữ sung túc nên không hề xuất hiện thảm kịch người ăn thịt người, nhưng dân chúng trong thành cũng đã sớm quen với việc nhìn cửa thành đóng chặt mà lo lắng đề phòng từng ngày. Nay cửa thành đột nhiên được mở ra, lập tức mọi người đều có chút ngây ngốc, đợi đến khi thấy đoàn quân tiến vào là quân Nam Hạ, dân chúng tưởng rằng chiến trận bấy lâu nay cuối cùng đã giành được thắng lợi, vui sướng không kìm nén được mà hoan hô ầm lên, lại có người lấy pháo ra đốt thả bên đường, nào ngờ khi âm thanh tiếng pháo vẫn còn nổ giòn bên tai, lại thấy người Bắc Mạc cũng tiến vào cửa thành…

Lần này, dân chúng Thái Hưng đúng là trợn tròn mắt mà nhìn.

Nghị hòa vốn là hai bên đều phải phái sứ thần đến cùng bàn bạc, năm Thịnh Nguyên thứ hai, Nam Hạ và Bắc Mạc đã từng cùng nghị hòa một lần, nên lần này hai sứ đoàn vừa thấy mặt nhau, hắc hắc! Quả thật đều là chỗ quen biết cũ! Thế nên, ngay cả màn giới thiệu cũng miễn, cả hai phái đoàn liền ngồi luôn vào bàn đàm phán!

Trọng tâm nghị hòa lần này, đơn giản là thông qua đàm phán mà đem tình hình tiến thủ trên chiến trường ra đặt lên bàn cân, tuy rằng mồm mép đôi bên không ngừng đùa bỡn với nhau, nhưng dựa vào thực lực sau lưng, những gì ở trên chiến trường không chiếm được thì trên bàn đàm phán, theo thông lệ cũng không thể chiếm được. Hiện giờ tại vùng Giang Bắc, ngoại trừ thành Thái Hưng đang trong trạng thái bấp bênh, còn lại hầu như đã rơi vào tay người Bắc Mạc, vậy thì thử nói xem chữ “Hòa” này nên đàm pháp như thế nào?

Sứ đoàn nghị hòa của Nam Hạ chịu áp lực rất lớn! Trước khi lâm trận, hoàng đế đã có mật chỉ rằng: Không được để mất đất, tiền cống hàng năm không ngại nhiều hay ít, có tăng tới trăm vạn cũng không tiếc. Lời này nói trắng ra chính là, chỉ cần không cắt đất, còn bồi thường bao nhiêu tiền ta cũng không quan tâm! Nhưng vấn đề ở chỗ, người ta chẳng những muốn ngươi nhất định phải bồi thường tiền, mà còn muốn ngươi đem nửa vùng Giang Bắc cũng phải nhượng lại cho anh ta! Mục tiêu của hai bên quá khác xa nhau, thật đúng là không có cách nào để đàm phán!

Cao Cát xoa tay bối rối, ái chà chà, đây chẳng phải là muốn lấy mạng của hắn ta sao! Chẳng có cách nào, chỉ có thể đem tình huống trước mắt mà hồi tấu lên triều đình vậy. Đợi nửa tháng sau, trong triều cuối cùng cũng có hồi âm, nói rằng có thể giao Dự Châu cho Bắc Mạc, nhưng Thái Hưng thì quyết không thể. Cao Cát được triều đình tin tưởng, lại tiếp tục cùng sứ thần Bắc Mạc biện luận, nhưng sứ thần Bắc Mạc là Trương Vương lại mồm miệng xảo quyệt, thế nào cũng kiên trì đòi Nam Hạ phải nộp cống. Cao Cát bất đắc dĩ đành phải lần nữa hồi tấu lên triều đình.

Lần này hồi âm của triều đình lại mất rất nhiều thời gian, chư tướng chỉ biết trong triều cùng thát tử nghị hòa, lại không biết việc nghị hòa diễn ra như thế nào. A Mạch hộ tống Vệ Hưng ở trong thủ phủ thành Thái Hưng, song rất ít khi nhàn rỗi, mỗi ngày đều luyện võ trong sân, đồng thời cũng ở cùng với các tướng lãnh khác vừa đến thành Thái Hưng. Chư tướng trong quân Giang Bắc được nghe chuyện A Mạch lập kì công, cứu quân Giang Bắc từ thoát khỏi nguy nan, hiện nay lại thấy nàng không hề cậy công mà kiêu ngạo, ngôn từ cử chỉ vô cùng bình dị gần gũi, vì thế càng trở nên kính trọng.

Người Nam Hạ tự xưng là đất nước của lễ nghi, luôn dùng lễ để đối đãi với người ngoài, nên đối với sứ đoàn Bắc Mạc cùng tướng lãnh hộ vệ lại càng tương kính như tân. Nhưng quân Giang Bắc và Bắc Mạc giao chiến đã lâu, mọi người trong quân đối với thát tử có nhiều nỗi phẫn hận, mỗi lần ở trong thành Thái Hưng nhìn thấy thát tử đều khó tránh khỏi tức giận, nhất thời nóng nảy không kiềm chế được liền rút đao xông vào, mặc dù Vệ Hưng ban nghiêm lệnh ngăn cấm, nhưng trong thành, tướng sĩ hai bên lại vẫn thường xuyên xảy ra xô xát.

Vệ Hưng vài lần định giết người lập uy, nhưng vì A Mạch ở bên cạnh ra sức khuyên can mới bảo vệ được tính mạng của mấy tướng lãnh kia. A Mạch khuyên Vệ Hưng: “Đại tướng quân giữa chừng tiếp nhận quân Giang Bắc, tướng lãnh trong quân vốn coi trọng Đường tướng quân hơn đại tướng quân, đại tướng quân không nghĩ cách làm thế nào thu phục lòng người, trái lại lại muốn làm ác nhân. Giết chết vài người cũng không tính là gì, nhưng vì thế mà làm tổn hại đến quân tâm, về sau đại tướng quân sao có thể lĩnh quân được nữa?”

Vệ Hưng nghe A Mạch nói thẳng băng như thế, nhất thời trố mắt, nỗi tức giận trong lòng cũng tiêu tan đi quá nửa, chỉ phạt mấy tướng lãnh này mấy chục quân côn rồi thôi, từ đó về sau đối với A Mạch càng nể trọng hơn, đối đãi với nàng như tâm phúc của mình.

Tháng sáu, thời tiết càng lúc càng nóng, A Mạch lại càng ít khi ra ngoài, mỗi ngày đều ngồi lỳ trong phòng đọc sách, ngay cả đến thăm Đường Thiệu Nghĩa cũng rất ít đi. Một ngày nọ, trong lúc A Mạch đang lười biếng nằm trên ghế dài đọc sách, Trương Sĩ Cường từ bên ngoài đi nhanh vào, chưa nói gì mà trước hết uống cạn một chén nước lạnh, lúc này mới nhỏ giọng nói: “Đại nhân, có hồi âm của Từ tiên sinh.”

A Mạch vục dậy, nói: “Lấy ra đây!”

Trương Sĩ Cường cẩn thận lấy phong thư từ trong người ra đưa cho A Mạch. Thư vẫn còn phong kín, A Mạch mở ra, thấy cũng chỉ có tám chữ: Phi binh bất cường, phi thương bất phú1). A Mạch nhất thời không nói gì, trong lòng thầm mắng lão thất phu Từ Tĩnh, tất nhiên là nàng biết nếu có sự tương trợ của Thương Dịch Chi, quân Giang Bắc sẽ dễ như trở bàn tay, nhưng giờ nàng biết đi tìm Thương Dịch Chi ở đâu!

A Mạch thấp giọng mắng Từ Tĩnh mấy lần, ngẩng đầu lên thấy Trương Sĩ Cường đang dùng vẻ mặt khẩn trương nhìn mình, không khỏi cười cười, lấy thư giao cho anh ta đem đốt. Trương Sĩ Cường cẩn thận tiêu hủy lá thư, quay lại nhìn A Mạch, thấp giọng hỏi: “Đại nhân, làm sao bây giờ?”

A Mạch muốn làm gì bây giờ? Nàng trầm ngâm một lát, đột nhiên ngẩng đầu nói với Trương Sĩ Cường: “Nhị Đản, lần này e là ngươi phải tự mình đi Thịnh Đô một chuyến rồi.”

Trương Sỹ Cường khẽ giật mình, nhưng cũng không hỏi vì sao, chỉ hỏi: “Khi nào thì đi?”

A Mạch nói: “Đợi ta nghĩ ra một lý do quang minh chính đại đã.”

Ai ngờ không cần A Mạch phải nghĩ ra lý do quang minh chính đại nào cho Trương Nhị Đản đi Thịnh Đô thì Thương Dịch Chi đã tự mình từ Thịnh Đô đến Thái Hưng. Khi A Mạch biết được tin tức này từ Vệ Hưng, không khỏi có chút kinh ngạc, phái nhân vật cao nhất của phe chủ chiến đến nghị hòa, chữ “Hòa” này có thể bàn được sao? Chẳng qua là mặc kệ “Hòa” như thế nào đi chăng nữa, chỉ nói riêng chuyện Thương Dịch Chi sẽ đến Thái Hưng, A Mạch cũng đã vừa mừng vừa sợ, trong lòng lại thầm mắng lão thất phu Từ Tĩnh quả nhiên có chút bàng môn tả đạo(2).

Ngày mười chín tháng sáu, Vĩnh xương hầu Thương Dịch Chi tới Thái Hưng, tiếp nhận nhiệm vụ của Cao Cát, cùng Bắc Mạc tiến hành đàm phán. Cao Cát đúng là kinh hỉ vạn phần, bàn giao cho Thương Dịch Chi xong, liền đóng gói đồ đạc hồi kinh báo cáo công tác.

Đêm đến, thủ thành Thái Hưng là Vạn Lương đặt tiệc rượu tẩy trần cho Thương Dịch Chi ở tửu lâu bậc nhất trong thành, mời Vệ Hưng và các tướng lĩnh cùng tham dự.

Trong bữa yến tiệc, Thương Dịch Chi không mặc quan phục, đầu đội kim quan, thân mặc màu áo bào trắng, bên hông đeo ngọc bội, mặt như mĩ ngọc, mắt sáng như sao, cử chỉ phong lưu. A Mạch đã thấy qua dáng vẻ này của anh ta, nên cũng chẳng lấy gì làm lạ, nhưng Đường Thiệu Nghĩa và chư tướng trong quân Giang Bắc lại chỉ nhớ rõ Thương nguyên soái tuấn nhan lạnh lùng trong một thân nhung trang, giờ chợt nhìn thấy một Thương Dịch Chi dáng vẻ phong lưu như thế, nhất thời đều có chút ngây ngốc, sau đó không hẹn mà cùng nhìn về phía A Mạch âm thầm so sánh, phát hiện ra Thương Dịch Chi hiện giờ so với A Mạch vốn nổi tiếng là tiểu bạch kiểm trong quân Giang Bắc còn trắng hơn đôi phần.

Thương Dịch Chi trước cùng Vệ Hưng hàn huyên vài câu, sau lại quay đầu nhìn về phía chư tướng, khẽ cười nói: “Chư vị, lâu rồi không gặp.”

Chư tướng lúc này mới phục hồi tinh thần, nhất tề hướng về phía Thương Dịch Chi làm lễ chào hỏi. Đợi mọi người chào xong, lại chiếu theo thân phận và địa vị mà ngồi xuống, tiệc rượu lúc này mới bắt đầu. Thái Hưng chính là tòa thành lớn nhất vùng Giang Bắc, sự phồn hoa tất nhiên những nơi khác không thể sánh bằng, thành Thái Hưng mặc dù bị bao vây hai năm, nhưng trong thành, rượu ngon và thức ăn ngon vẫn như trước không hề thiếu, khiến cho chư tướng quân Giang Bắc từ núi Ô Lan đến đây được một phen đại khai nhãn giới.

Thành thủ Vạn Lương lại nghe nói Thương Dịch Chi phong lưu thành tiếng, nên cố ý mời ca cơ đến tiếp khách, không chỉ Thương Dịch Chi, mà bên cạnh Vệ Hưng cũng có mỹ nhân bồi rượu, ngay cả A Mạch và các tướng quân Giang Bắc mỗi người cũng có một mỹ nhân.

A Mạch vốn tạm thời nhận chức hữu phó tướng quân Giang Bắc của Lý Trạch, cùng Đường Thiệu Nghĩa ngồi chung một bàn tiệc, thấy dáng ngồi của anh ta thẳng đơ nghiêm chỉnh không khỏi cười thầm, mượn lúc uống rượu thấp giọng nói: “Đại ca, đây chỉ là một bữa yến tiệc, huynh cứ thả lỏng bản thân mà thoải mái một chút đi.”

Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy khẽ gật đầu, song thân hình vẫn bất động như cũ. A Mạch thấy vậy thì cười bất đắc dĩ, không nói thêm nữa, chỉ cùng mọi người uống rượu.

Rượu uống chưa tới tầm, nhưng mọi người đã không còn câu thúc giống như lúc ban đầu, có người bắt đầu trêu ghẹo ca cơ bên cạnh. Trên bàn tiệc của Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch, ca cơ thấy cả hai người đều là nam tử tuổi trẻ tuấn lãng, ngôn ngữ cử chỉ có nhiều phần khiêu khích, A Mạch chỉ khẽ cười không quan tâm, nhưng Đường Thiệu Nghĩa ngồi bên cạnh thì lại vừa thẹn vừa quẫn.

Ca cơ kia mượn cớ mời rượu mà dựa sát vào người Đường Thiệu Nghĩa, hù Đường Thiệu Nghĩa phải tránh vội sang một bên, vì thế lập tức ngã vào người A Mạch. A Mạch lúc đó trong tay vốn đang cầm chén rượu, nghiêng tai lắng nghe Thương Dịch Chi và Vệ Hưng nói chuyện, lại bị Đường Thiệu Nghĩa va vào suýt nữa thì làm đổ, không khỏi quay lại có chút ngạc nhiên nhìn Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa lại hiểu lầm ý của A Mạch, tưởng nàng nghĩ anh ta không làm chủ nổi bản thân, nhất thời cảm thấy vô cùng xấu hổ, trong cơn tức giận liền đẩy mạnh ca cơ ra, đứng bật dậy khỏi bàn tiệc.

Mọi người thấy Đường Thiệu Nghĩa đẩy ngã ca cơ rồi đột nhiên đứng dậy đều ngẩn ra, nhất tề đều nhìn về phía anh ta. Vạn Lương đưa mắt nhìn ca cơ vẫn nằm úp sấp trên chiếu, bất động thanh sắc hỏi: “Đường tướng quân có gì không vừa lòng sao?”

Đường Thiệu Nghĩa mặt mũi đỏ bừng, nghẹn ngào nói không ra lời. A Mạch vội đưa tay kéo Đường Thiệu Nghĩa ngồi xuống, cười nói với Vạn Lương: “Vạn đại nhân không biết đấy thôi, Đường tướng quân da mặt mặc dù rất đen nhưng lại rất mỏng, bình thường khi có cô nương nào nhìn một chút đều không dám ngẩng mặt lên nhìn, hôm nay lại có mỹ nhân muốn ngồi vào lòng anh ta, anh ta nhất thời đâu thể tiêu hóa nổi? Vốn cũng muốn ôm ấp mỹ nhân, nhưng nhất thời kích động, gấp đến độ lập tức đứng bật dậy.”

A Mạch nói rất khôi hài, khiến Đường Thiệu Nghĩa đỏ thẫm mặt, mọi người sửng sốt rồi cùng bật cười ha hả.

Còn Đường Thiệu Nghĩa cả người không được tự nhiên, ca cơ bên cạnh giờ thành thành thật thật ở một bên phụng rượu, không hề dám khiêu khích nữa, nhưng trong đầu Đường Thiệu Nghĩa lại luôn không khống chế được mà nghĩ về cảm giác khi đụng chạm vào người A Mạch, càng nghĩ càng cảm thấy trên mặt nóng bừng, khuôn mặt ngăm đen càng lúc càng đỏ gay gắt.

Thương Dịch Chi thu hết trạng thái quẫn bách của Đường Thiệu Nghĩa vào trong mắt, khẽ cười, quay đầu thấp giọng nói với Vạn Lương câu gì đó, Vạn Lương khẽ sửng sốt giật mình, vô cùng kinh ngạc nhìn Đường Thiệu Nghĩa.

A Mạch biết điều mà Thương Dịch Chi và Vạn Lương nói tất nhiên là liên quan đến Đường Thiệu Nghĩa, không khỏi giương mắt nhìn Thương Dịch Chi, đúng lúc chạm vào tầm mắt của anh ta, A Mạch đón nhận ánh mắt của Thương Dịch Chi chỉ thản nhiên cười cười. Nhưng Thương Dịch Chi thì lại khẽ run lên, sau đó dấu diếm đưa tầm mắt đi nơi khác.

————————-

Chú thích:

1- Phi binh bất cường, phi thương bất phú: Không có quân đội không thể mạnh, không có giao thương buôn bán không thể giàu. Ở đây Từ Tĩnh chơi chữ, “phi thương bất phú” hiểu theo nghĩa bóng là không có Thương Dịch Chi thì quân Giang Bắc không thể phát triển thuận lợi.

2- Bàng môn tả đạo

Bàng: Bên cạnh. Môn: Cửa. Tả: Trái lẽ, không chánh. Ðạo: Tôn giáo.

Bàng môn là cửa hông, không phải cửa chánh. Tả đạo là tôn giáo sai trái. Bàng môn Tả đạo là chỉ chung các tôn giáo, học thuyết dẫn dắt con người vào đường tà vạy quanh co, có xu hướng trục lợi cầu danh, không đạt được kết quả chơn chánh.

Bàng môn Tả đạo do Quỉ Vương lập ra, để kình chống và giành giựt nhơn sanh đối với các Chánh đạo do các Ðấng Phật, Tiên mở ra hay do Ðức Chí Tôn mở ra.

Với trí xét đoán phàm phu, chúng ta khó phân biệt đâu là Chánh đạo, đâu là Tả đạo Bàng môn, vì Tả đạo được Quỉ Vương phủ lên một lớp nước sơn hoa mỹ tinh vi; chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều bị chúng mạo danh, lại còn dùng nhiều hình thức huyền diệu hơn cả chánh đạo, để mê hoặc nhơn sanh.

Ở đây, ý A Mạch muốn ám chỉ việc Từ Tĩnh cố tình giả thần lộng quỷ, sử dụng cách nói bóng nói gió để truyền đạt một việc mà ai cũng biết rồi.

Nguồn: vanvietbooks