Chương 4: Cô tịch
Trái tim tôi tan nát, nhưng tôi chẳng có băng keo.
- Tiểu Thúy –
Có tuyết rơi vào thứ Bảy, khi Lý Kỳ và tôi ở cùng nhau tại chỗ của anh. Tôi tới vào lúc tám hoặc chín giờ sáng, trời còn chưa sáng hẳn, và anh ở trên giường, chờ tôi. Tôi chui vào dưới tấm chăn ấm bẩn thỉu để trùm kín thân thể lạnh giá của mình. Như thường lệ, anh vòng tay ôm chặt lấy tôi, như sợ rằng tôi sẽ chạy đi hoặc là bốc hơi mất. Chúng tôi chẳng bao giờ có thể kìm nén được ham muốn và dục vọng. Căn phòng tối như hắc ín, nên tôi lén nhìn ra ngòai cửa sổ nơi bầu trời xam xám ảm đạm. Khi tôi thấy khát, tôi vớ lấy cái ca của anh và định uống, nhưng Lý đã chộp lấy nó, đổ luôn nước lạnh xuống đất, rồi rót đầy nước nóng vào ca cho tôi. Anh nói thật là ngốc khi đi uống nước lạnh khi em đang thế này.
Sau bữa trưa, tôi cùng anh đi gặp người lớp trưởng, căn phòng đã khóa cửa, nên sau khi chúng tôi đứng chờ dưới tuyết một lúc thì bỏ đi. Tôi bảo anh nói cho tôi hay sự khác nhau giữa “Punk” và “Grunge” khác nhau thế nào. Vào mỗi tuần, Lý thường cho tôi mượn những đĩa nhạc của các ban như Green Day, Blur, R.E.M., The Pixies và Sonic Youth. Tôi trả chúng lại khi cả hai ở cùng nhau vào thứ Bảy sau đó. Anh cào móng tay vào một viên gạch trên bờ tường, ấp úng giải thích sự khác biệt giữa chúng. Cuối cùng anh nói anh cũng không chắc chắn lắm.
Chúng tôi cất bước trên tuyết trở về chỗ của anh. Tuyết bám trên những cành cây, trước khi bám đầy trên chiếc áo vét của tôi. Mặt đất dưới chân nhanh chóng đổi thành một màu xám ảm đạm, sũng nước. “Tại sao chúng ta không đi dạo một lúc,” tôi gợi ý. Lý không trả lời. Chúng tôi đi đến một cửa hiệu bán đĩa hát và video đối diện với ngõ của anh, nơi những đĩa copy trộm nhạc rock’n’roll Hồng Kông chỉ bán với giá năm tệ một cái. Tôi thậm chí chẳng có nổi năm tệ. Sau một hồi lục lọi hàng chồng đĩa mà cả hai chúng tôi không ai định mua cái nào, tôi nói, “Về nhà thôi.”
“Sao lúc nãy em bảo muốn đi dạo kia mà?”
“Thôi đi vạy,” tôi nói. “Em không thích nữa.”
Tôi không còn hứng thú để đi dạo.
Trở về phòng của anh, chúng tôi trèo lên giường nói chuyện phiếm và xem sách. Anh trở nên rất triết lý. Anh bảo tôi nên chăm chú vào việc học tập, nhưng chỉ nguyên nói đến trường lớp là tôi đã muốn phát điên, cho dù tôi rất hiểu điều anh muốn nói. Chỉ có điều tương lai đối với tôi là một thứ huyền bí; tôi không hề có một ý niệm nào về việc mọi thứ sau này sẽ ra sao. Lý Kỳ muốn rằng tôi phải sống một cuộc sống đúng đắn và không dẫm chân vào con đường của anh. Anh không muốn tôi một ngày sau sẽ có kết cục như anh bây giờ, cô độc một mình nơi đất khách, túng quẫn, thất nghiệp, không sự nghiệp, không tình yêu. Sống nhờ vào tiền bố thí của gia đình. Anh nói tôi nên thi vào một trường Đại học, rồi tìm một công việc kha khá. Hiển nhiên là anh không được sống sung sướng, và sống ở Bắc Kinh khiến anh luôn cảm thấy bất an, vô vọng. Nhưng tôi không phải như thế. Tôi muốn một cuộc sống sung sướng, tràn đầy ý nghĩa. Thế nhưng tôi đã chẳng học hàng gì cả suốt năm lớp chín ở trường phổ thông cơ sở, không tóan, không lý, không hóa gì cả. Có thể là mọi thứ đều do hormone thời trẻ đang tác oai tác quái. Tôi chỉ viết tiểu thuyết, và thầy giáo chủ nhiệm luôn cho tôi là một con điên, chỉ thiếu nước giết chết tôi. Giờ thì tôi lại ghi danh chui vào một ngôi trường tàn bạo khác, nơi tôi phát sợ cả các giáo viên, hiệu trưởng, và tất cả các chủ nhiệm. Quá thu mình trong nội tâm, tôi thấy thật khó để thể hiện bản thân, và càng khó hơn khi giao tiếp. Tôi quá thành thực.
Cô đơn biết bao, nhưng đời là thế.
Lúc này hay lúc khác, tôi để Lý Kỳ đọc một vài đọan văn và bài thơ tôi viết, nhưng anh nghĩ chúng không xứng đáng để anh phải đọc. Có thể đối với anh tôi chỉ là một đứa trẻ. Tôi thực sự chưa bao giờ có một ý nghĩa gì đối với anh. Sau này anh đã nói với một người khác rằng khi đó tôi ăn mặc giống như một thằng bé con.
Triết lý của Lý đại để là mấy câu thế này: “Thượng đế tạo ra sự sống không phải là xuất phát từ lòng tốt, chắc chắn là như vậy, và ban tặng trí tuệ cho nhân lọai chỉ là một hành động ác ý. Tất cả là phi lý. Nếu kẻ nào muốn tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống, thì nói chung kẻ đó đang mắc bệnh khác thường, và Thượng Đế cũng chỉ là thứ chó chết tệ hại khác thường…”. Những từ mà anh thích nhất đại lọai như là huy hòang, phi lý và năng lượng vô dụng. Tính lập dị u ám của anh đã chặn hết mọi khả năng dính mắc tình cảm thật sự đối với một ai khác, đặc biệt là tình yêu. Nhưng kể cả là như vậy, vào thời gian ấy, trái tim tôi hòan tòan gắn chặt với anh. Tôi không gọi anh là bạn trai, vì anh chẳng phải, nhưng khi anh nói về Thái Vân và vẫn tiếp tục nhắc đến cô ta như là bạn gái của mình, đó là một sự hành hạ tuyệt đối. Nhưng điều đó vẫn không nhăn được tôi muốn gặp anh càng nhiều càng tốt, muốn ở cùng với anh. Tôi đến chỗ anh vào mỗi thứ Bảy, mang theo đủ lọai quà bánh, thứ ăn theo người – như ô mai, bánh quy, kẹo gôm, đại lọai vậy. Anh bảo tôi tiết kiệm tiền, và lần sau thôi đừng mang những thứ thế này đến. Nhưng điều đó không ngăn anh lần nào cũng ngườiốn ngấu mấy thứ đó một cách sung sướng. Tôi thậm chí còn vui thích với ý định mua cho anh đệm mới, rồi chăn, rồi vỏ gối. Ngày này đến ngày khác, tôi luôn nghĩ đến việc làm gì đó cho anh, điều khiến tôi cảm thấy hạnh phúc khó tả, phấn chấn khó tả.
Thọat đầu người đần bà tóc bạc bó chân – bà chủ nhà của anh – đưa mắt nhìn chúng tôi như một con diều hâu bất cứ khi nào chúng tôi ra ngòai ăn cơm. Nhưng về sau, bóng dáng của chúng tôi không còn gây chú ý với bà ta nữa, và bà ta đã coi tôi như bạn gái chung sống với Lý Kỳ. Lúc trước bà ta còn coi Lý Kỳ như thằng nhãi ngố, bây giờ thì không dám nữa. Anh nói đùa rằng từ giờ trở đi, mỗi khi tôi đến thì tốt nhất là tôi nên dán một tờ giấy ở cửa, ghi rõ ràng, “Đang bận thảo luận, xin chớ quấy rầy.” Anh cho rằng điều đó thật buồn cười, và đã lấy ra một mảnh giấy, thật cũng là một lọai ngườiốc, viết nguệch ngọac lên đó mấy chữ đại tự, rồi dán lên cửa. “Thế này hay đấy. Sẽ không có ai quấy rầy chúng ta nữa,” anh nói. Trưa và tối chúng tôi thường đi ăn sủi cảo và cháo; có khi ăn mì hoặc vằn thắn. Mỗi thứ bảy chúng tôi đều như thế, và tôi chẳng bao giờ chán.
Sau khi ở cùng nhau, tôi tiếp tục gửi thư cho anh, cho dù anh đã thôi viết cho tôi. Thỉnh thỏang vào giờ học đánh máy, trong cơn bốc đồng, tôi gõ vội trên máy chữ một bức thư với thứ tiếng Anh khủng khiếp. Đối với tôi, điều đó thật lãng mạn, còn với anh, nó có lẽ chứng tỏ tôi ngốc nghếch đến thế nào.
Chương 5: Bóng chùa nơi đáy nước
Thời gian trôi đi, tôi đã quên mất không nhớ được chính xác những gì Lý Kỳ viết trong bức thư cuối cùng gửi cho tôi. Tất cả những gì tôi nhớ chỉ là tay chân tôi đã tê dại thế nào khi nhận được bức thư. Tôi không thể tin nổi rằng anh đã vứt bỏ mình đột ngột đến thế. Anh nói đến Quảng Châu thăm “bạn gái”, và sẽ qua tết luôn ở đó. Thế mà đồ đểu đó thậm chí còn khuyên tôi nên “chăm chỉ học tập”. Điên giận khôn cùng. Tôi đã bị nghiền nát. Tôi thật sự không phải là yêu anh, tôi thậm chí đã nghĩ đến việc cắt đứt quan hệ với anh, bởi ở cùng với anh chỉ đem đến cho tôi những dằn vặt và sự bất hạnh. Nhưng tôi lại không thể chịu đựng nhưngổi ý nghĩ là không có được anh. Thật khó chịu là anh đã trở thành một phần trong cuộc sống của tôi. Giờ thì chẳng cần nói một lời với tôi, anh đã đi Quảng Châu để đến với một người đàn bà khác, chỉ để lại một bức thư, bỏ rơi tôi ở Bắc Kinh. Tôi không thể chịu được điều đó.
Một cảm giác lo lắng, bất an đè nặng lên tôi, và tôi khóc suốt ngày, bơ phờ đến nỗi chẳng làm nổi việc gì. Trong bức thư anh nói để những đĩa CD anh mượn ở chỗ bà chủ nhà, và tôi có thể đến lấy vào thứ Bảy hoặc Chủ nhật. Tính tóan một lúc thì thấy lúc này Lý đã có mặt ở Quảng Châu.
Thứ Bảy tôi đến để lấy đĩa CD. Nếu không phải và mượn đĩa của bạn thì tôi đã chẳng còn bụng dạ nào mà đến nữa. Tôi gõ cửa nhà bà chủ nhà; bà ta mở cửa và đưa cho tôi một túi ni lông trắng. Sắc mặt bà ta chẳng biểu lộ điều gì, nhưng tôi chắc chắn rằng bà ta đã biết rằng Lý đã bỏ tôi trước khi đến Quảng Châu với bạn gái của anh. Bà ta nhất định biết. Và bà ta nhất định là đang cười thầm tôi trong bụng vì cái điều mà bà ta nghĩ đã biết tỏng từ lâu rồi, rằng không đời nào mà Lý có thể lại đi yêu tôi. Làm sao mà anh lại màng đến tôi được? Nhục nhã, tôi cầm lấy cái túi ni lông, rồi bước ra ngòai cổng, lòng nghĩ đến những ca từ của ban nhạc PK 14 –
Mới trẻ trung làm sao, một trái tim nhỏ lệ, mới trẻ trung làm sao, một trái tim trống rỗng, một mùa đông dằng dặc chẳng dừng, một mùa đông khắc nghiệt, mới trẻ trung làm sao, một trái tim nhỏ lệ, tôi ngồi bên song cửa và nhìn anh tiều tụy, tôi là thân vô vọng, tim tôi lệ ứ đầy, tôi vẫn chờ anh đến, chờ anh đến ôm tôi, tôi vẫn chờ anh đến, tim tôi lệ ứ đầy, tôi là thân vô vọng, mới trẻ trung làm sao.
Tôi cùn bơ phờ như thế ở trường, và tôi tiếp tục trượt môn thi về tin học. Cô giáo chủ nhiệm của chúng tôi càng ngày càng không hài lòng, nhưng tôi không biết phải giải thích với cô thế nào.
***
Tôi lại đi gặp Quả Đống. Bất cứ lúc nào tôi chán chường, anh lại nghe tôi chê bai và phàn nàn về chuyện bản thân chẳng được dứt khóat. Anh nói tôi là một cô gái có vấn đề, một người tự làm mình bị thương tổn vì quá nhạy cảm và bấp bênh. Chúng tôi đến trường Bắc Đại, nơi mặt đất được phủ đầy là rơi từ những cây ngân hạnh, một tấm thảm vàng chuyển mình đẹp đẽ trong gió. Hạnh phúc biết mấy. Chúng tôi dạo bước bên bờ hồ Vị Danh. Hồ trong xanh tuyệt đẹp. Những người sống ở gần nơi có bóng chùa lung linh đáy nước kia mới hạnh phúc làm sao. “Người ta câu cá ở đằng kia,” Quả Đống thốt lên.
“Có thật không?” Ban nãy tôi vừa nhìn thấy một tấm biển ghi rõ ràng “Hồ nhân tạo, cấm câu cá, bơi lội.” Tôi vội ngậm miệng vì nhìn thấy đúng là phía trước có mấy người đang ngồi chồm hỗm trên bờ câu cá. Một người vừa câu được một con cá nhỏ đang vui mừng hớn hở. Vào lúc ấy, vẻ đẹp lộng lẫy của mái chùa nơi đáy hồ nước bỗng có vẻ nhạt nhòa đi. Quả Đống bảo tôi luôn có một cái nhìn tuyệt đối về mọi vật.
Chúng tôi ngồi trên một chiếc ghế dài, và tôi nói với Quả Đống rằng quan hệ giữa Lý và tôi đã tan vỡ.
“Tan vỡ? Xưa nay hai người đã bao giờ gắn bó với nhau đâu mà nói là tan vỡ?” anh nói với một vẻ chế nhạo. Anh nói rằng tôi chưa bao giờ hiểu được vị trí của mình, nhất là càng không có chỗ trong lòng của Lý.
Tôi ngồi há hốc mồm. Lý và tôi chưa bao giờ là một đôi cả, nên tôi chưa đủ tư cách để nói đến “tan vỡ”. Nhưng đã thế thì tại sao tôi lại khổ sở đến vậy? Trời ạ, sao tôi lại ngu ngốc đến mức này. Tôi lắc lắc đầu, nhưng nín lặng.
Chúng tôi lại bắt đầu nói chuyện về cái chết. Quả Đống nói ước mong lớn nhất của anh ta là có ai đó cho một phát súng vào đầu chết luôn. Nhảy từ một ngôi nhà lầu xuống thì đau lắm, anh nói, và điều đó ngay lập tức đã xua đi cái ý niệm rằng nếu một khi tôi tự tử, tôi cũng sẽ nhảy xuống từ một cái cửa sổ. Tôi chỉ muốn biết làm cách nào đạt được một cái chết ít đau đớn nhất và được tôn trọng nhất. Một câu hỏi hóc búa, rõ ràng là chẳng có lời giải. Chúng tôi lại nói tới Lam Thảo. Anh nói có phải tôi vẫn còn tình cảm với anh ta, bởi vì có vẻ như anh ta vẫn còn hiện diện trong tâm trí của tôi.
“Dĩ nhiên!” tôi nói. “Em nghĩ em vẫn còn nhớ được số điện thọai của anh ấy: 6421XXXX, nhưng không biết có đúng không. Có thể em sẽ gọi thử sau khi chúng mình đi khỏi Bắc Đại.”
Ngay khi nghe đến đó, Quả Đống đã lấy máy cầm tay ra. “Thử gọi luôn bây giờ đi,” anh nói. Tôi ngẩn người ra giây lát. Tôi lui lại vào một góc. Thì cứ thử xem sao. Đã có người nhấc máy. Bố anh ấy nói Lam Thảo không có nhà, rằng anh ấy đã đi học rồi. Điều đó như một nỗi khuây khỏa. Rời máy điện thọai ra, tôi có một cảm giác rất lạ: Lam Thảo gần giống như câu chuyện cổ tích có từ một thế kỷ trước, ấy thế mà tôi vẫn nhớ được tên, được số máy điện thọai của anh ấy. Chẳng khác nào bỗng đột nhiên được mang trở lại vào trong quá khứ xa xôi – thật kỳ lạ! Nhưng tôi không muốn gọi cho anh ấy nữa. Trở lại cái thời Lớp Chín ấy tôi chẳng có chút tự tin nào về mặt trí tuệ tôi ngang hàng được với anh, và tôi nhận thấy cho tới bây giờ điều đó vẫn chẳng có gì thay đổi.
Quả Đống nói với tôi rằng anh ở cùng với mẹ.
Anh có một chiếc máy vi tính ở trong phòng, một điều làm người ta phải ngạc nhiên vào lúc ấy. Anh ngủ trên một cái giường kê rất thấp, anh nói mình dị ứng với độ cao. Tường phòng anh treo đầy kín ảnh, có hai bức rất lớn: một bức chụp anh lúc hai mươi tư tuổi, một bức chụp cô em gái anh lúc mười chín tuổi. Trên giá sách của anh có nhiều tập thơ của Cố Thành, Bắc Đảo, Tây Xuyên và rất nhiều cuốn sách mà tôi thèm muốn.
Tôi đi gặp anh vào một buổi chiều, và một người bạn khác của anh cũng có mặt ở đó. Người đó thấp, gầy, và đen. Quả Đống gọi anh ta là Vương Đồng chí. Ba chúng tôi đang trò chuyện ở bên cổng thì một thanh niên dắt xe đạp đến trước Vương Đồng chí và thì thầm, “Có tí trắng nào không?” Vương Đồng chí ớ người không hiểu anh ta nói cái gì.
“Cái gì?”
“Bột ấy!”
“Không…” Súyt nữa thì Vương Đồng chí chết ngất đi vì sợ! Và quả là vậy, một tay công an đã xuất hiện ngay khi gã thanh niên vừa đi khỏi.
“**********! Trông tôi có giống một thằng hít heroin thật không?” Quả Đống và tôi cùng cười nhạo anh ta.
Trở vào trong phòng, Vương Đồng chí bắt đầu nói nhăng cuội về “bọn punk”, rằng bọn đó là một nhóm những kẻ hư vô chủ nghĩa, và quá thể là vênh váo. Quả Đống và tôi đã điên tiết đến nỗi chúng tôi chẳng thể làm gì khác ngòai cười trừ. Thế rồi anh ta lại gọi tôi là “cô bé punk” của anh ta. Cái giọng dạy đời của anh ta làm tôi cáu tiết.
Một lúc sau, một cô gái gọi điện cho Quả Đống và hẹn anh đến quảng trường Thiên An Môn. Quả Đống muốn từ chối, nhưng chẳng biết làm cách nào. Sau khi anh gác máy, Vương Đồng chí hỏi anh rằng ai đó. “Một cô bạn ở Viện Điện ảnh Bắc Kinh,” anh nói. “Khỉ thật, ta cùng đi Thiên An Môn vậy.”
Vậy là chúng tôi đi. Quảng trường ninh ních người. Vô sỉ Vương Đồng chí tiếp tục lải nhải rằng sao tất cả lũ thối tha này lại không ở nhà của chúng nó. Rồi anh ta bắt đầu chọc giận cả tôi. Bất cứ tôi nói cái gì thì Vương Đồng chí phản đối cái đó. Ví dụ tôi nói tôi định mua một cái điện thọai di động, thì anh ta nói, “Cô bé punk à, thứ đó không hợp với bọn punk chúng ta. Bọn ta có máy nhắn tin là tốt lắm rồi.”
Cuối cùng chúng tôi vào một quán bar, nơi bọn họ uống bia, còn tôi uống nước cam. Tôi không nhớ rằng chúng tôi đã ở trong quán rượu bao lâu bởi tôi không để họ nói mấy giờ mấy giờ với tôi. Tôi không nghĩ đến chuyện về nhà. Họ hát karaoke; tôi không hát. Quả Đống hỏi vì sao. Tôi nói tôi ngượng không quen, có thể là sau này.
“Khi nào vậy?” anh hỏi dồn.
“Sau này.”
Vương Đồng chí luôn luôn hát lạc một nhịp tất cả các bài anh ta gào. Và Quả Đống làm một bài lạc hết cả điệu là “Hoa phòng cô nương”. Bọn họ uống rất nhiều. Chắc phải quá hai giờ sáng chúng tôi mới rời khỏi chỗ đó, nhưng tôi cũng không chắc lắm.
Ở bên ngòai gió lạnh, Quả Đống đã hỏi một câu làm tôi muốn điên tiết, “Bao giờ thì em về nhà?”. Tôi lờ anh đi, nhưng tôi cảm thấy bị tổn thương. Có thể anh cũng phát hiện thấy điều đó. Chúng tôi túm lấy một cái taxi và chạy xuống cái đại lộ gần như không một bóng người. Tôi gục đầu vào vai Quả Đống và ôm chặt cánh tay anh. Hai tay tôi giá lạnh. Những ý nghĩ như đang chao đảo trong đầu.
“Có những chuyện em chẳng muốn nói ra một chút nào,” tôi nói.
“Vậy thì đừng nói gì cả,” anh nói để vỗ về tôi.
Cuối cùng, taxi dừng bánh. Thời gian trôi qua vun vút nhưng cũng lại chậm lê thê. Lúc ấy ý nghĩ quay về nhà khiến tôi hãi hùng, bởi vì bố mẹ tôi chắc sẽ giết chết tôi mất. Không nói một lời nào, Quả Đống vòng tay ôm lấy người tôi. Cuối cùng anh nói, “Việc ngày mai thì đợi đến ngày mai hẵng lo.”
Tôi đi được mấy bước, rồi dừng lại và nói, “Nhìn trên kia kìa. Có một ngôi sao.”
“Làm gì còn ngôi sao nào,” Quả Đống nói, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời. Bầu trời giống như một bức tranh. Xung quanh chúng tôi, không có bất cứ gì hết ngòai sự tĩnh mịch, một chốn yên lặng. Chúng tôi như một chú bé và cô em gái nhỏ của chú ta đang cùng nhau chầm chậm cất bước.
Lên gác anh mang cho tôi một chậu nước ấm. “Em rửa mặt đi,” anh nói. Rồi anh lại ra ngòai và trở vào với một chậu nước khác. “Để em rửa chân.” Anh nhường cho tôi ngủ trên giường; anh nằm trên ghế sofa.
Dậy sớm tinh mơ vào sáng ngày hôm sau, tôi đọc sách một lúc lâu, rồi ra ngòai và thấy anh nằm ngủ trong phòng lớn. Cái chăn đắp trượt quá nửa ra khỏi giường. Tôi cẩn thận nhấc nó lên và đắp lại cho anh. Anh mở mắt ra. “Dậy sớm thế sao?”. Tôi bê một chiếc ghế đẩu lại bên giường và ngồi xuống. Chúng tôi trò chuyện một chút, hơi dấm dẳn. Tôi nói tôi có thể nhìn thấy con hẻm từ cửa sổ phòng của anh, và rằng điều đó làm tôi nhớ lại cái nơi mà lần đầu tiên tôi đi phỏng vấn một ban nhạc.
Lúc ấy tôi mười bốn tuổi, và tôi mới bắt đầu thích nhạc rock’n’roll. Họ cũng chẳng quá được mười bảy, mười tám tuổi. Đó là vào mùa đông. Hai tay chơi guitar gặp tôi ở nhà ga tàu điện và giới thiệu tôi với cái thế giới ngầm của nhạc rock ở trong căn phòng nhỏ, nhớp nháp, tăm tối của họ. Đấy cũng là lần đầu tiên tôi được nghe nhạc sống. Tôi cảm thấy yêu đến điên cuồng cái không khí bất cần, bần cùng và hơi có phần lãng mạn ở nơi này. Tôi cũng bắt đầu thích anh chàng chơi guitar chính, và sao mỗi buổi biểu diễn, tôi đều tưởng không dứt ra được để về.
Có thể là do chỗ tôi vụng về hoặc tại vì họ còn trẻ và nông cạn, nhưng một vụ cãi nhau đã nhanh chóng nổ ra khi một buổi tối tôi cứ đòi rằng anh guitarist phải đưa tôi ra ga tàu điện. “Lần nào em cũng như thế. Em luôn ỷ lại vào người khác,” anh ta cằn nhằn.
“Thế thì quên đi, em sẽ đi một mình,” tôi nói, mặc dù tôi rất sợ điều đó. Nhưng rồi anh ta nhất quyết phải tiễn tôi ra ga. Trên đường đi anh ta tiếp tục phun ra hàng đống những lời bình luận ấu trĩ, so sánh tôi với những phóng viên khác. Cuối cùng khi anh ta hết chuyện để nói, tôi đã phóng đi rất nhanh. Tôi chưa bao giờ thăm lại họ kể từ đó.
“Về sau thì sao?” Quả Đống hỏi.
Làm gì có về sau. Trừ phi vặn ngược được thời gian về khi tôi mười bốn tuổi. Khi tôi mười bốn tuổi…tôi hình dung ra mình khi đó: tóc cắt ngắn, đồng phục học sinh màu xanh, mỗi ngày mất chừng một tiếng ngồi tàu điện để đi phỏng vấn.
Mẹ Quả Đống dọn bữa sáng cho chúng tôi. Bà là một phụ nữ tốt và hiền, cứ muốn tôi ăn thêm nữa. Tôi rất thích cái không khí như ở nhà thế này và nghĩ đến những gì Quả Đống đã kể về thị trấn quê anh ở Tứ Xuyên. Sau khi đã ních căng bụng, chúng tôi về phòng anh, và Quả Đống đưa cho tôi mượn một đĩa Sao đỏ I, đĩa trong đó có bài “Hai ngày” của Hứa Ngụy. Chúng tôi cùng nghe những ca khúc của Hứa Ngụy và Hồ Ma Cá. “Trời ơi, chúng ta thế nào rồi? Trời ơi, trong con mắt họ, chúng ta là thế nào?”. Chúng tôi cười phá lên những chỗ ca từ sướt mướt. Rồi sau đó là Hứa Ngụy: “Tôi cúi đầu tôi xuống. Tuyệt vọng chảy tràn qua tôi như nước dội.” Tôi sợ phải về nhà. Không hiểu mẹ sẽ coi tôi như thế nào đây?
Đến mười giờ tôi cáo từ. Tôi cần phải đến một trường học đàn. “Đợi đến chiều hẵng đi được không? Ăn trưa xong đã!” Quả Đống đề nghị. Tôi biết anh nói thực lòng, và quả thật cũng rất lưỡng lự, nhưng tôi phải đi. Anh tiễn tôi đến tận nơi gửi xe đạp, và còn dặn đi dặn lại tôi đường đi thế nào.
Lúc tôi tới trường âm nhạc “Hòanh Hòa”, nhạc sĩ Hòang Ánh đang ngồi luyện guitar ở trên tầng thượng. Anh bảo tôi ngồi xuống và thử đàn. Tôi gảy một đọan một cách ngượng nghịu.
“Em đã tập chưa?”
“Rồi.”
Nhưng sự thực thì tôi đàn chưa được một phần của anh. Anh hướng dẫn cho tôi một vài cách, và tôi quyết tâm phải luyện tập thật tốt khi về nhà, để bản thân tôi khỏi phải xấu hổ nữa. Tôi hỏi quê anh ở đâu. “Phúc Kiến,” anh nói, và chất giọng nặng của anh chứng tỏ điều đó. Chúng tôi nói chuyện một hồi lâu. Anh nói rằng khi anh luyện tập ở nhà, tất cả mọi người đều than phiền vì tiếng ồn.
“Anh không mặc kệ họ được sao?”
“Không được,” anh nói với một nụ cười gượng gạo. “Không thể mặc kệ được, bởi đó là bố anh, các anh em anh, mực kệ thì chết.” Anh nói bố anh đến làm ăn ở Bắc Kinh, và rằng anh dự định lập một ban nhạc rock cùng với em trai. Bây giờ tất cả những gì anh phải làm là thuyết phục người em trai.
Đến chiều thì chúng tôi đói muốn chết, nên chúng tôi ra ngòai mua bánh. Tôi tỏ ý sẽ mua vài cái bánh bao. “**********,” anh nói. “Thế thì anh còn ra cái gì nữa. Anh mua.” Cũng được lắm.
“Với em anh có vẻ nhút nhát không?” anh hỏi tôi. “Hay rụt rè?”
“Có,” tôi nói.
“Em biết không, khi ở quê, anh không bao giờ như thế này. Mọi người thậm chí còn nói anh là thằng điên, không bình thường. Nhưng anh đã thay đổi ngay khi anh đến đây, thay đổi nhiều đến nỗi chính anh cũng không nhận ra mình nữa. Rụt rè. Ở Phúc Kiến thì anh có đủ mọi lọai bạn bè, ở đây anh chỉ chơi được với một hai người…”
Anh nói rằng lúc đầu tiên đến đây, anh không thể nào nói được tiếng Bắc Kinh, mỗi lần muốn nói phải nghĩ mãi nói từ nào mới đúng. Tôi bảo anh thử nói gì đó bằng âm Phúc Kiến, và anh phun ra cái âm thanh mà tôi nghe nhưng không biết viết như thế nào. Anh bảo tôi rằng đó là từ “chơi” theo đúng khẩu ngữ quê anh . Khi anh thấy tôi cười lăn lộn mãi, anh nói, “Thỉnh thỏang em dường như trẻ hơn tuổi em rất nhiều. Có phải em thật già như lúc em nói hay không? Anh nghĩ em chỉ là một đứa trẻ!” Tôi nhìn anh chằm chằm, tự hỏi không hiểu đây là lời khen hay là lăng mạ. Có thể trước mặt anh tôi đã hành động như là một đứa trẻ con.
“Anh thấy ngạc nhiên rằng ít nhất vẫn còn có một cô bé thú vị, hấp dẫn ở trên đời này,” anh nói.
Tôi đỏ mặt vì phấn chấn.
Chương 6: Mùa đông của tuổi trẻ
Học kỳ đầu tiên ở cấp trung học đã hết để nghỉ hè.
Đương nhiên tòan thể học sinh phải tập hợp trước sân tập thể dục của trường để nghe một bài nói chuyện của giáo viên chính trị to mập dương dương tự đắc của chúng tôi, thầy “Đại Lão Vương”.
“Các phòng nhảy, vũ trường và những nơi tương tự như vậy là cấm chỉ lui tới đối với học sinh. Hiện nay ở bên ngòai có những nơi gọi là ‘Cho bạn học nhạc’ hay là ‘Cho bạn yêu nhạc’, tôi nói với các em những nơi đó chả có gì hay cả. Và không được ra sông trượt băng, bởi tôi nghe nói mấy hôm nay là lại có người chết đuối. Nếu em nào muốn trượt băng, hãy xin phép cha mẹ cho đi trượt ở Nhà thi đấu Thủ đô. Nhà trường này đã từng gặp rắc rối rồi. Có ba học sinh từ phổ thông cơ sở lên, một là Lôi gì đó, một là Na gì đó, và còn… Tôi cũng chẳng nói ra đây làm gì để làm họ phải xấu hổ. Ba học sinh này đã chơi bời suốt trong kỳ nghỉ đông, đêm nào cũng đến vũ trường nhảy nhót, đến khi trở lại trường, kết quả học hành của ba em này sút kém hẳn. Hai em trong số đó trầy trật lắm mới thi vào được bậc phổ thông trung học. Cậu nam lưu ban lại đã xâu lỗ tai, đeo vòng tai và nhuộm tóc vàng – một cậu nam, tôi lưu ý các em! Vầầng, tôi đã đuổi ngay cậu ta về nhà, bởi vì cậu ta đã trở thành một đứa du côn thật sự!”
Hết buổi nói chuyện, cả trường vỗ tay hoan hô.
***
Tôi đi một đôi giày bẩn và mặc quần bò xanh bó sát vào hai bắp đùi, đứng dưới cầu chờ Tử Dư. Tôi cứ nghĩ mình đến chậm, nhưng cho đến bây giờ cậu ta vẫn chưa tới. Dưới ánh nắng trắng trắng của mặt trời ngày đông, tôi đứng bên con đường lớn vắng vẻ, tựa người vào chiếc xe đạp cũ, chẳng biết làm gì và cảm thấy mình quá ngu ngốc.
Cuối cùng Tử Dư cũng đạp xe tới trên con đường đối diện, nhớn nhác tìm tôi. Tôi nhìn cậu ta mà buồn cười.
“Hôm nay trời đẹp,” cậu nói mà vẫn cẩn thận đạp xe tới, mắt nhìn thẳng phía trước. Tôi nhìn kỹ vào miệng cậu ta khi cậu ta mấp máy môi.
“Cái gì?”
“Tôi nói hôm nay trời đẹp,”
“Hừm.”
Cả hai đứa chẳng ai biết nói cái gì, nên chúng tôi cứ thế đạp xe vòng vòng.
“Chúng ta đến quán bar Kiệt Kỳ trước đã,” tôi nói sau một hồi im lặng kéo dài. “Ban nhạc của Dương Chí Quốc biểu diễn ở đó.”
“Được. Nếu ở đó thấy hay thì mình ở luôn đó.”
Tôi đóan là cậu ta không muốn bỏ tiền ra mua vé vào cửa ở quán “Con Ong Bận Bịu”. Cậu ta thật ti tiện, và tôi đã chán ngấy cái kiểu đó.
Bả “Kiệt Kỳ” nằm trên đường đối diện với Yên Kinh Hotel, nên chúng tôi vừa đạp xe vừa trố mắt ra tìm khách sạn này. Nhưng chúng tôi không thể tìm ra. Cậu ta cứ nằng nặc rằng hãy còn chưa tới, tận lúc tôi xuống xe hỏi thăm một người, mới biết chúng tôi đã đạp xe qua lâu rồi.
“Chúng ta đành đạp xe quay lại, cậu nghĩ sao?”
“Thôi đừng,” tôi năn nỉ. “Cứ đến thẳng chỗ ‘Con Ong Bận Bịu’.”
Cho đến khi tới câu lạc bộ, lòng tôi sốt sắng chỉ mong sao cho chóng tới nơi, và tôi mong sao được âm nhạc làm cho thỏa thích. Tất cả những gì tôi muốn là nghe nhạc, nhảy nhót, và gào thét. Không có ai ở lối vào dưới lầu. Có thể là cuối cùng cũng chẳng cần vé vào cửa! Càng tốt. Nhưng ở lầu trên, ngay lối vào bar, một người đàn ông miệng cười hi hi đã ngồi bên một chiếc bàn trên đó có tấm biển màu trắng ghi mấy chữ màu đỏ còn tươi nguyên: “Vé vào cửa: năm mươi tệ.” Nhìn vào đó tôi cảm thấy hơi chóng mặt. “Chà, đắt quá nhỉ.” Tôi quay lại nói với Tử Dư.
“Để tôi trả,” cậu ta miễn cưỡng nói. “Cậu làm gì có từng ấy tiền.”
Đó là câu nói cửa miệng của cậu ta mỗi khi chúng tôi phải trả tiền cho cái gì đó. Có thể cậu ta muốn tôi biết ơn cậu ta với cái kiểu tự cao giả dối đó. Tôi lấy tiền ra – cậu ta không nói một lời khi chìa một trăm nhân dân tệ và lấy lại năm mươi tệ tôi đã đưa cho người bán vé. Chúng tôi cùng bước vào trong bar.
Như tất cả các bar khác, chương trình biểu diễn chậm lại đến một giờ là chuyện thường tình. Tử Dư ra mua hai bình nước ngọt. Cám ơn vì không phải là Pepsi, thứ nước chết tiệt uống vào chỉ khiến tôi buồn nôn.
Vì hàng ghế đầu đã hếtchỗ, chúng tôi ngồi ở hàng sau, gần cửa ra vào. Bây giờ chúng tôi phải làm cái gì đó cho hết một tiếng đồng hồ, vì rõ ràng là cũng chẳng dễ chịu gì khi chúng tôi chỉ đưa mắt nhìn nhau. Chúng tôi chẳng có gì để nói với nhau cả. Chúng tôi đã biết nhau quá rõ.
“Thế còn Thiên Tư và những người khác, bọn họ đã đến chưa?” một giọng nói quen thuộc vang lên phía sau. Khi tôi quay lại nhìn, tôi thấy Lưu Phong, một người bạn ở ban nhạc “Động vật máu lạnh”, một ban nhạc rock tôi đã từng đi phỏng vấn.
“Lưu Phong!” tôi gào lên. Cậu ta chạy tới và mỉm cười. “Bạn là…xin lỗi, tôi không nhớ được tên bạn.”
“Không sao!” Tôi cười đáp lại. “Tôi là Gia Phù. Tóc cậu bây giờ ngắn hơn.”
“Ô! Bạn là phóng viên,” cậu ta nói, bắt đầu niềm nở hơn. “Giờ tôi nhớ ra rồi. Dạo này thì bạn làm gì?”
“Vẫn thế thôi,” tôi nói. Chúng tôi trò chuyện trong vài phút, rồi tôi nhìn thấy Tạ Thiên Tiếu, Lý Minh và những người khác cùng ban nhạc. Tóc họ hình như dài hơn.
Tôi bắt đầu nhìn ngắm mọi người qua lại, cố gắng đóan xem đây là con trai hay con gái. Hầu hết đều là các nhạc công chơi nhạc rock, họ mặc quần jean, xanh hoặc xám, cùng áo sơ mi đen. Tôi nhìn thấy một chàng trai bận sơ mi trắng, tuy thế nhưng anh ta vẫn có vẻ giống như một nhạc công, sơ mi trắng đã tiết lộ thân phận sinh viên của anh ta. Tất cả sinh viên đại học bọn họ đều mê màu trắng. Mỗi lần tham dự câu lạc bộ thơ sinh viên, cùng nhau tụ tập trên bãi cỏ, áo sơ mi còn trắng hơn cả tuyết…
Ban nhạc đầu tiên là “Những Cậu bé Dưới đất.” Sáng nay tôi vừa mua album Giác ngộ của họ. Thật là tệ khi họ phải biểu diễn ngay từ lúc đầu, bởi vì cũng phải mất một lúc lâu khán giả mới thực sự hòa nhập.
Thực tế là khán giả chẳng bao giờ cuồng nhiệt với họ vào đêm đó.
Tôi và Tử Dư xô đẩy để lên hàng đầu, nơi chúng tôi đứng trong khói thuốc mờ mịt.
Khi ban nhạc thứ ba xuất hiện, tôi kinh ngạc nhận thấy chính anh sinh viên mặc áo trắng nọ lại là ca sĩ chính. Bọn họ hát say mê về tình yêu và lý tưởng, về những nỗi đau trong tim mà những người tình của họ không bao giờ hiểu rõ; sau mỗi ca khúc bọn họ nhận được những tràng hoan hô “cảm ơn và tạm biệt” ầm ầm từ phía khán giả, những người đã nhìn chằm chằm vào họ vô cảm, đợi họ nhận ra rằng có cái gì đó không ổn và đủ sáng suốt để tự hiểu rằng đã đến lúc phải biến khỏi sàn diễn. Nhưng chẳng hiểu vì lý do gì, có thể là do kiếm được một hợp đồng biểu diễn cũng chẳng dễ dàng gì, bọn họ cứ ghì chặt lây nhạc cụ và chẳng chịu rời sàn. Trong khi đó, ca sĩ hát chính vẫn tiếp tục hất tung những mớ tóc vốn-chẳng-dài-gì của mình, còn tôi đành cúi xuống, không thể nào chịu đựng được việc nhìn anh ta lâu hơn nữa.
Ban nhạc “Ruồi xanh” ghi trong quảng cáo không hề thấy xuất hiện. Sau khi nghe thêm những bài hát của khỉ do nhiều ban nhạc kinh tởm nữa trình diễn, đầu tôi cảm thấy như bị lèn chặt bằng bông. Nước ngọt làm tôi thấy phát ốm, còn khói thuốc thì khiến tôi bị đau đầu.
Cuối cùng ban nhạc “Động vật Máu lạnh” mới ra sàn diễn. Ban nhạc mà Lý Kỳ bảo đã làm “mất mặt người Sơn Đông” này đêm nay đã làm họ mở mày mở mặt. Cái áo phông của Tạ Thiên Tiếu, in hình quốc kỳ nước Anh ở sau lưng, phơi ra hai cánh tay giơ xương của anh ta. Dây guitar của anh ta cũng trưng cờ nước Anh. Bọn họ chơi những ca khúc tôi đã từng nghe khi đi phỏng vấn họ, và sau mỗi bài hát đều là những khỏang im lặng kéo dài trước khi khán giả như sực tỉnh bắt đầu vỗ tay ầm ầm. “Đ. mẹ hay quá!” một gã nào đó đằng sau tôi gào lên bằng cái giọng the thé. Tôi nghĩ chắc đó là tiếng của Lưu Phong.
Trong lúc nghỉ giải lao, tôi tìm được một chỗ ngồi ở hàng ghế đầu, khá là dễ chịu, cho tới khi mọi người đứng hết cả lên và tôi chẳng còn nhìn thấy gì nữa. Vì vậy nên tôi ngồi hẳn lên thành ghế, chân để lên chỗ ngồi. Tử Dư ngồi hẳn lên bàn, chân thõng xuống sàn. Đột nhiên tôi nghe tiếng một anh chàng gần đó nhắc đến cái tên Giang Hi, và còn nói rằng đó là một nhà thơ tuyệt diệu.
“Có phải anh nói tới Giang Hi chuyên viết trên báo Âm nhạc và Đời sống?” Tôi hỏi anh ta. Anh ta nhìn tôi, mắt kính lóe sáng. “Đúng người đó đó! Bạn quen anh ấy? Anh ấy là một thi sĩ lớn! Hay khủng khiếp, hơn những người như Y Sa nhiều.”
“Tôi thích Y Sa,” tôi độp lại.
“Bạn biết anh ta?”
“Anh ấy là biên tập viên tờ Bạn văn ở Tây An, đúng không nào?”
“Bây giờ anh ta đang có mặt ở Bắc Kinh.”
“Anh nói sao?”
“Ngày mai anh ấy sẽ đọc thơ ở bar Hòang Đình.”
Mấy phút sau, anh chàng bốn mắt đó bưng cốc bia ngồi bên tôi nói, “Bạn học ở đâu vậy?”
“Bắc Đại.”
Anh ta nhìn tôi nghi ngờ. “Năm thứ mấy?”
“Năm đầu.”
“Chuyên ngành nào?”
“Báo chí.”
Anh ta nhìn tôi nghi ngờ ra mặt. “Bạn ở phòng số mấy?”
“Tôi ở ngọai trú,” tôi giải thích, nhưng rồi không nhịn được nữa tôi phá lên cười. “Tôi học trung học năm đầu.”
“Chẳng phải bạn vừa nói đã học đại học?”
“Đùa chút thôi,” tôi nói. “Còn anh?”
“Anh học ở Bắc Đại…”
“********** ********* thật!” tôi rủa thầm trong bụng. Anh ta chẳng giống thế một tẹo nào, chẳng có cái vẻ đó. Thấy tôi cứ nhìn chằm chằm, Bốn Mắt bèn nói, “Thôi được, mình ở Trường Nghệ Thuật Quân đội.” Rồi anh ta cho tôi xem quần, chiếc quần quân nhân, và tôi phải thừa nhận, đó là bộ quân phục rất đẹp. Rồi anh chàng còn chìa thẻ sinh viên ra. Tôi vẫn chưa thực sự tin anh ta lắm nên tôi nhìn kỹ bức ảnh. Đúng anh ta thật.
“Em đi một mình à?”
Tôi do dự một lát rồi chỉ vào Tử Dư. “Em đi với bạn.”
“Ồ!” Anh ta rụt tay lại và đã định nói cái gì đó nhưng lại thôi. Điệu bộ rất ranh mãnh.
Tôi vẫn còn nhức đầu, nên tôi ra ngòai cho thóang. Bên ngòai trời rất lạnh, tôi đóan chừng đã quá nửa đêm rồi. Tôi chỉ ở ngòai vài phút rồi lại trở lên lầu. Khi tôi đến bên bàn, Bốn Mắt lại bước tới.
“Anh là Thạch Quân,” anh ta nói. “Còn em?”
Tôi nghĩ một lát. “Đây, để tôi ghi cho anh.”
Anh ta chuyển đến một cuốn sổ địa chỉ với những trang giấy đã ghi đầy những tên người. Tôi tìm một chỗ và ghi tên tôi. Tôi dừng một lát rồi thêm cả số điện thọai.
“Lâm Gia Phù,” anh ta đọc.
“Ở đây nói chuyện không tiện,” anh ta nói. “Chúng ta ra ngòai một lúc nhé?”
Trong lúc đi xuống lầu, tôi nói, “Thật không thể chịu nổi cái ban nhạc vừa rồi! Lúc nào cũing tình yêu thế này, tình yêu thế kia làm tôi muốn phát điên!”
“Một cô bé mười lăm tuổi thì biết gì về yêu đương?” anh ta hỏi từ phía sau tôi.
Tôi để ngòai tai.
“6684 XXX,” anh ta giở cuốn sổ địa chỉ ra và đọc. “6684, đây là đường dây quân sự, đúng không?”
“Vâng.”
“Vậy bố em chắc phải ở bộ phận hậu cần.”
“Cũng chẳng rõ lắm, nhưng tôi nghĩ ông ấy thuộc Trung đòan Cảnh vệ Trung ương.”
“A, ai đã viết cái gì đó trên chiếc xe đỗ ở đằng kia.” Anh ta nói đúng, có một lô chữ nghĩa viết đầy lên chiếc xe.
“Muốn viết gì không?” anh ta nói.
“Không.”
“Thế thì để anh.”
Anh ta thò tay ra viết mấy chữ “em Gia Phù” lên cửa kính xe.
Chúng tôi lại đi tiếp.
“Em nặng bao nhiêu cân?” anh ta hỏi.
Tôi biết trả lời thế nào đây? “Gần đây tôi chưa cân. Có thể ngày mai sẽ cân xem sao.”
“Không cần.” Anh ta ôm lấy tôi từ phía sau và nâng tôi lên. Tôi đá và giẫy giụa.
“Em cũng nặng ra trò đấy!” anh ta nói. Nặng hì cứ nói nặng, cầi gì phải nói thêm “ra trò.”
Anh ta buông tôi ra, nghiêng đầu xuống, và trong lúc tôi còn ngỡ ngàng, anh ta đã hôn tôi. Tôi quá đỗi là kinh ngạc, tôi tứ điên lên. Tôi vùng ra, trỏ một ngón tay vào anh ta. “Sao anh…”
“Sao anh…” Thạch Quân nhại lại tôi, rồi cười.
Tôi tiếp tục bước đi, giận dỗi. Anh ta không nói năng gì, và rất lâu sau đó, không ai biết phải nói năng thế nào. “Chuyện như vậy….Tại sao anh lại làm thế?...” Tôi thở dài nói. Phản ứng lại của tôi như thế thật là quá chậm.
Lúc anh ta hôn tôi lần thứ hai, tôi nói nhẹ nhàng, “Em thậm chí còn chưa biết anh.”
“Em biết bây giờ đây, “ anh ta nói và đưa tôi đến một con hẻm.
Chúng tôi ôm nhau, nhưng tôi bị lạnh cóng. Cái của anh chọc thẳng vào đùi tôi, cứng như đá.
Sau một hồi, Thạch Quân ủ rũ nói, “Trong một lần hội thảo văn học, Vương Sóc đã nói, ‘Tôi không chịu để chị đưa vào tròng đâu, tôi sẽ đưa chị lên giường’.”
Bạn thân mến, thân mến của tôi, sao đến bây giờ anh mới đi vào vấn đề chính?
***
“Trời lạnh quá rồi,” anh ta nói. “Chúng ta nên đi lấy áo khóac.”
Trời lạnh đến tê cóng, nên chúng tôi trở lại quán bar.
“Có thật anh ở Trường Nghệ thuật Quân đội không?” Tôi hỏi.
“Đúng! Sao vậy?”
Chẳng sao cả. Tại tôi muốn anh.
Khi chúng tôi lên gác, Tử Dư vẫn còn ngồi bên bàn. Cậu ta vừa nhìn tôi tiến lại gần vừa lộ ra một vẻ cô đơn.
“Khi ban nhạc 43 Đường Bào Gia len sàn diễn, hơn một nửa khán giả đã bỏ đi,” cậu ta nói.
“Thật ư?” Tôi cười. “Tôi thích anh chàng chơi keyboard gầy giơ xương của bọn họ.”
“Vì sao vậy?”
“Anh ta trông rất chảnh với vẻ lả lướt như vậy.”
Trên đường về nhà chúng tôi đều yên lặng. Tôi đã muốn nói lại cho Tử Dư nghe những gì đã diễn ra, nhưng tôi chẳng biết phải bắt đầu thế nào.
Tôi nghĩ ngợi miên man đủ mọi thứ kỳ quặc vào đêm hôm đó, nhưng tôi biết rằng lần sau khi đến câu lạc bộ, mọi thứ vẫn bình thường như chưa có gì xảy ra.
Chương 7: Giải quyết
Lý, những dòng này là tôi dành cho anh!
Có một lọai cảm giác làm tôi buồn thảm
Và cả đời tôi vẫy vùng trong cảm giác đó
Tôi nghĩ đến nó lúc tôi đi xe, và tôi uất hận
Tôi chẳng biết làm thế nào diễn đạt
Tôi chưa bao giờ là một nhà thơ.
Thật là tôi chỉ muốn giết anh
Và cho anh biết
Rằng tôi muốn giết anh
Tôi đã biết tỏng mọi thứ anh làm
Một ngày nào đó tôi sẽ giết anh
Cứ đợi đấy.
Một ngày sau hôm khai giảng, tôi nhận được một cú điện thọai bất ngờ của Lý Kỳ. Một nghìn triệu điều muốn nói ứ tràn trong đầu tôi, mãnh liệt nhất không ngòai câu “Tôi Đ. mẹ anh!” Nhưng tôi đã kìm lại được. Anh ta nói anh ta đã trở lại thành phố rồi, y như là anh ta đã làm điều gì ưu ái cho tôi vậy, y như là mới chỉ hôm qua chúng tôi vẫn ở bên nhau. Trời ạ, tôi ghét điều đó kinh khủng.
Cuối cùng thì anh ta loanh quanh hỏi thứ Bảy tôi có bận không, rằng anh ta muốn tôi đến chỗ anh ta. Thô bỉ. Nhưng tôi nghĩ rằng rút cuộc cũng đã tới cái ngày tôi có thể kết thúc được một số chuyện.
Sau khi gác máy, tôi nhận ra rằng tôi cười tóet đến tận mang tai. Điều đó thật sự làm tôi ngây ngất. Trời ơi! Tôi đã từng mong ngóng biết mấy cái ngày anh ta trở lại Bắc Kinh, tôi đã trông đợi cú điện thọai đó biết chừng nào….
***
Sáng sớm. Như tất cả các buổi sáng thứ Bảy trước đây. Tàu điện ngườiầm đến ga Tích Thủy. Suốt ba tháng ròng rã, tôi đã đi chuyến tàu này vào mỗi sáng thứ Bảy để gặp anh ta, nôn nóng, hy vọng một cách sợ hãi hòng giữ được mối quan hệ. Còn bây giờ, lại là một thứ Bảy nữa, lại một cuộc đến thăm nữa.
Tàu điện ngầm từ từ lăn bánh, nhưng tôi bình tĩnh như thường. Tôi đã từng chờ đợi lâu đến thế, thêm một vài giờ nữa có ý nghĩa gì đâu.
Tôi yên lặng cất bước trên cầu thang dẫn tôi lên tầng mặt đất, rồi đi xuôi về phía bên trái của con phố, quan sát mọi người ngược xuôi hối hả. Trong lòng tôi cùng một lúc vừa tự mãn thích thú lại vừa thấy mất mát thế nào đó. Nhưng tràn ngập lên tất cả vẫn là cảm giác chắc chắn rằng lần này tôi đang kiểm soát được tình hình. Qua Bảo tàng Từ Bi Hồng, rồi trường của anh ta. Đi tiếp nữa, đến con hẻm nhỏ qua cửa hàng bán băng đĩa.
Mày hãy tựa vào tường thở cho lại sức. Mày bước vào khu chung cư; trong sân không có một bóng người, nhưng mày vẫn thảng thốt. Như sợ có ai đó bắt gặp. Mày gõ nhẹ nhẹ vào cánh cửa. Cửa mở, mày lẻn vào. Mắt gặp mắt, và mày thật ra cảm thấy một chút ngượng ngùng. Cái cảm giác thấp hèn đã quên đi nhiều ngày lại tự nhiên bột phát không ngờ nổi. Mày chó chết thậm chí còn súyt buột miệng nói “Chào anh,” nhưng anh ta thậm chí còn không nhận ra sự có mặt của mày. Sau khi lướt nhìn qua, anh ta nhắm mắt lại và quay người ngủ tiếp. Cơn điên giận vì bị rũ bỏ như vậy sẽ làm mi hối tiếc đến đờ dại. Màynhư bị treo lơ lửng trong không trung, nhục nhã, nhưng lại như lần vừa rồi, tất cả những lời nguyền rủa lại vẫn chẳng ra khỏi , miệng mày.
Ngay khi cửa mở, mày rút dao ra và xông vào đâm hắn. Nạn nhân của mày không kịp phản ứng. Ha! Ha! Ha! Mỗi nhát đâm kèm theo một tràng cười khóai trá trong khi máu hắn phun ra đỏ lòm trên mặt mày. Cuối cùng thì mày ngã nhào vào vũng máu đó. Mày nhìn thấy cuộn giấy vệ sinh đã lau đi máu trinh tiết của thân con gái mày. Mày lấy giấy đó chùi máu trên con dao, giật mạnh cho cửa mở, rồi bỏ đi. Cuối cùng thì mày cũng làm được cái gì đó cho bản thân mày.
***
Sự thật là, khi tôi nhìn thấy Lý, tôi không chỉ không chửi được câu nào, tôi cứ đứng đấy lắp bắp và lẩm bẩm, hệt như là thay vì phải giải quyết vấn đề, vấn đề lại giải quyết cho tôi. “Ngồi đi,” anh ta nói, trỏ cho tôi cái chăn anh ta đang đắp ở trên giường.
“Không, cảm ơn,” tôi trả lời.
Tôi nhìn cái ba lô treo trên tường, rõ ràng là cái anh ta mang theo đến Quảng Châu. Tôi không thể chặn nổi ý nghĩ về anh ta và bạn gái anh ta khi làm chuyện đó. Dĩ nhiên là họ làm tình. Ý nghĩ làm ngườiực tôi thắt lại, có cái gì đó mềm mềm đang bò lần lần dưới xương sườn tôi.
“Làm sao anh bỏ đi Quảng Châu mà không nói với em một câu?” Tôi hỏi anh ta.
“Thọat đầu anh đâu có định đi, kể cả vào ngày anh mua vé tàu. Anh cố gửi trả lại vé, nhưng khi anh gọi đến nhà ga hỏi, họ nói phải chịu khấu trừ năm phần trăm giá gốc, tổng cộng là năm mươi tệ. Anh thấy thế thì tệ quá, nên mới đi.”
“Anh đến đó thì nhất định là rất tuyệt rồi.” Tôi nói vẻ châm biếm.
“Ờ, đúng là rất tuyệt.”
Khi tôi mường tượng ra Thái Vân tươi cười hạnh phúc khi nhìn thấy anh ta, nhìn thấy những cử động thầm kín của họ lúc họ làm tình, vẻ buồn bã bịn rịn trong mắt cô ta lúc anh ta rời đi, tôi gần như nghẹn thở vì tức giận. Chuyện đó và cái điệu bộ tự cho mình là đúng của anh ta khi vẫn nằm trên giường súyt nữa làm tôi nghẹt thở. Anh ta thực sự đã vui thú lắm.
“Thật cũng chẳng dễ dàng gì cho Thái Vân, ở Quảng Châu có một mình, đến Tết cũng không có tiền về, thì anh cũng không về được. Anh không muốn làm cô ấy buồn.”
Cao thượng biết bao.
Tôi vẫn thấy khó khăn để nghe được giọng của Lý, và bây giờ thì tất cả những gì dịu dàng mà lúc ban đầu tôi cảm thấy đã biến mất. Tôi vẫn hy vọng anh ta nói điều gì đó có cảm xúc, kể cả gọi tôi là con ngốc nếu anh ta muốn. Nhưng không, không có một từ nào được cất lên từ cá nhân thâm trầm này, nhà “nghệ sĩ” này. Anh ta thậm chí cũng chẳng ra khỏi chăn, anh ta chỉ nhìn tôi với đôi mắt từ tốn đó. Tôi thật chẳng làm được gì. Sau này, khi tôi nhớ lại, tôi nhận ra rằng thái độ của anh ta thật sự chỉ là thờ ơ hòan tòan; Cứ việc tự nhiên, mi kích động mặc xác mi, chẳng bận gì đến ta. Nếu mi gào thét những thứ tục tĩu vào mặt ta, thì ta sẽ làm cái gì đó có thể để xoa dịu mi, bởi vì ta tuyệt đối lãnh đạm.
Tôi ngồi đó trong căn phòng tù túng ấy của anh ta ngày hôm đó, tự hỏi tôi lại đến đây để làm gì. Với tất cả cái không khí này, nổi cơn tam bành đập phá sẽ là một chuyện ngu xuẩn, nhưng tôi cũng chẳng thể nào ngăn được cái nụ cười nửa miệng lố bịch nó hiệ trên mặt tôi, giống như một kẻ du côn hiếu chiến.
Lý nói tôi tốt nhất là hãy thay đổi tính cách đi.
A A, Đ. mẹ anh! Anh nghĩ anh là của quý đúng không? Tôi làm gì là việc của tôi. Ai cần anh hạ mình để ban phát cho tôi những lời thông thái? Tôi sẽ rồ dại chừng nào tôi muốn.
Sau đó, tôi đi xuống phố và chỉ muốn đánh nhau với một người nào đó. LÀm sao mà tôi lại có thể dính líu với một kẻ như thế? Tôi đi tìm một chàng trai tử tế thì đã bị dính ngay với một tên rac rưởi,một bậc thầy đánh bài chuồn.
Từ cái thời điểm mà kẻ du côn giẻ rách này xuất hiện trên đường phố Bắc Kinh, đã có rất nhiều người tốt bụng giơ tay ra giúp đỡ. Nơi mảnh đất trung tâm nghệ thuật của đại lục này, hắn thuê phòng bằng tiền gia đình chu cấp, xơi chực cơm nhờ tiền của các bạn. Còn ở nhà quê thì đã có hàng đống các cô gái bị lừa và mê hoặc bởi cái “lý tưởng” giả mạo của anh ta, quấn quýt quanh anh ta để chờ đợi… Với tâm lý ăn trên ngồi trốc và bản chất khố rách áo ôm, kẻ vô lương tự nhận mình là nghệ sĩ này chẳng làm được việc gì có giá trị ngòai chuyện ăn cho đầy miệng và chờ mặt trời lặn. Làm thế nào mà hắn ta lại có can đảm để mà sống tiếp.
Từ cái hôm mà tôi bước chân một cách khó chịu vào trong căn phòng của anh ta rồi đến khi tôi bỏ chạy vì sượng sùng,tôi chưa bao giờ nói ra hai điều mà tôi dự định sẽ nói: “Có phải thật ra lúc nào anh cũng chỉ chơi bời tôi?” và “Tôi Đ. mẹ anh!” Nói những thứ ấy có thể là thô thiển; nhưng không nói ra cũng có thể chẳng hay hớm gì hơn, vậy có lẽ tôi nên cứ việc thẳng thừng mà nói tọet chúng ra. Không hiểu thứ khỉ gió gì chảy trong người tôi? Tôi, một con ngốc chó chết? Tất cả những cơn điên giận của tôi bị xì hơi vì sự thờ ơ của Lý Kỳ, vì cái khả năng của hắn – chỉ làm cái cần và đủ để kết thúc sự việc, không hơn. Tôi là kẻ bại trận.
Khi tôi về tới nhà, tôi đọc lại tòan bộ những bức thư tôi gửi cho Lý, mà anh ta đã trả lại tôi. Bức thư đầu tiên mà tôi viết; bức thư tiếng Anh ngô nghê mà tôi gõ trong lớp đánh máy chữ học kỳ trước; bức tôi viết một tuần trước khi nhận được lá thư cuối cùng của anh ta trong đó tôi thổ lộ tất cả những khao khát, những kế họach… trong số chúng còn có cả thư của Thái Vân viết cho anh ta, chắc anh ta đã để lẫn vào. Bức thư được viết ngay ngắn bằnb bút chì, về lần đầu tiên bọn họ rời xa nhau, trong đó có dòng này: “Khi tàu lăn bánh khỏi sân ga, em thấy cả anh cũng đã chảy nước mắt…” Đó là bức thư tình ướt át, giống như những bức thư tình mà nam nữ cuồng nhiệt thường viết cho nhau. Tôi đọc bức thư đó rất kỹ và cuối cùng cũng đốt nó cùng với tất cả những bức thư của tôi.
Nguồn: diendan.game.go.vn