24/12/12

Chỉ là chuyện thường tình (C13-14)

Chương 13: Chuyện cũ thời niên thiếu


Lúc đó, cậu ta không tên Trác Thanh Liên, mà là Kiều Dật.

Kiều là họ mẹ, Dật là tên mẹ đặt cho cậu ta, nghĩa là "mất đi". Bởi cậu là đứa con không biết cha mình là ai.

Không chồng mà chửa, sinh ra đứa con lai lịch không rõ ràng, trong tư tưởng quan niệm cổ hủ ấy, chẳng khác gì kỹ nữ. Trong ngõ Tử Trúc, Kiều Dật và người mẹ "vô liêm sỉ" của anh đều là phận thấp kém, hèn mọn, bị người ta chỉ chỏ sau lưng: "Xem kìa, cái thứ nghiệp chủng không cha, cũng chả biết mẹ nó ngủ với ai đẻ ra nó nữa...". Thế nên, dù cho Kiều Dật có khuôn mặt khôi ngô tuấn tú hơn người, cũng vẫn không được người lớn và trẻ con yêu quý. Trên đời này, ngoài mẹ và bà ngoại, không có ai từng thực sự yêu thương cậu cả.

Cậu sở dĩ có mặt được trên đời này, người đầu tiên cậu phải cảm ơn, đó chính là bà ngoại. Mẹ mười chín tuổi đã có mang Kiều Dật, vốn định bỏ đi, chính bà ngoại đã hết lời khuyên nhủ mẹ giữ cậu lại. Bà ngoại lương thiện can ngăn: "Hãy giữ lại nó, dẫu sao cũng là một sinh linh nhỏ bé tội nghiệp!". Thế là, mẹ nghiến răng, bất chấp ánh mắt khinh nghiệt của người đời, sinh ra cậu.

Mẹ của cậu vốn rất đẹp, thời trẻ từng mệnh danh "hoa khôi ngõ Tử Trúc". Thân hình mảnh mai, làn da trắng ngần và đôi mắt to long lanh khiến bao người rung động.

Kiều Dật được kế thừa vẻ đẹp thiên phú ấy từ mẹ, từ nhỏ đã rất tuấn tú. Một khuôn mặt khôi ngô sinh ra trong hoàn cảnh gia đình phức tạp thường sản sinh ra tính cách cực đoan. Lớn lên trong những lời châm chọc mỉa mai nơi hang cùng ngõ hẻm, sớm trải nghiệm bao thăng trầm nhân thế, từ đó nuôi dưỡng tính cách lầm lì cộc cằn, lạnh lùng và kiêu ngạo ở cậu. Trong tim cậu, chỉ có bà ngoại và mẹ là những người thân yêu nhất, vì họ, cậu có thể bất chấp tất cả.

Kiều Dật lớn lên trong vòng tay yêu thương của bà ngoài, nên có tình cảm cực kỳ sâu sắc với bà. Năm câu mười tuổi, bà ngoại bị chứng mất trí do tuổi già, bệnh tình rất nghiêm trọng, mẹ cậu cũng không có tiền đưa bà đi bệnh viện. Bà cứ ra ngẩn vào ngơ, bất kể xuân hạ thu đông, ngày ngày quấn chặt chiếc áo bông cũ, đầu đội mũ len đen, ngồi như tượng sáp ngoài đầu ngõ, tay không ngừng đan áo len. Từ tinh mơ đến hoàng hôn, hết ngày sang đêm. Bà tay thì đan, miệng thì không ngớt lẩm bẩm: "Tiểu Dật à, bà ngoại đan áo cho con này, mùa đông đến sẽ không còn sợ lạnh nữa!"

Mẹ phải đi bán hàng, Kiều Dật thì phải lên lớp, không sao chăm sóc bà được. Có mấy ngày, mẹ quyết tâm, khóa cửa nhốt bà trong nhà trước khi ra ngoài. Bà ngoại trong nhà nước mắt ngắn dài, liên tục đập cửa sổ khẩn cầu: "Mau mở cửa ra, cho tôi ra ngoài đi!" chất giọng khàn đục, như những tiếng đàn run rẩy, vừa như rên rỉ van lơn, thê thiết mà tuyệt vọng. Cuối cùng, mẹ đành nuốt nước mắt mở cửa cho bà ra ngoài.

Kiều Dật mỗi chiều đi học về, đều trông thấy người trong ngõ Tử Trúc, nhằm hướng bà ngoại cậu mà chỉ trỏ, soi mói, những ánh mắt cười cợt ác ý ấy khiến cậu không sao chịu nổi. Nhưng điều khiến cậu bực nhất là lũ trẻ ranh trong sớm, ném đá, nhổ nước bọt vào bà cậu, láo toét xấc xược mà cười mà nói: "Bà già điên, ha ha, bà già điên!"

Nhìn vẻ mặt vô tội, ngây ngô của người bà bị nhục mạ giữa chốn đông người, Kiều Dật lòng đau như cắt từng khúc ruột. Cậu thét lên một tiếng, xông tới trước. Đường đường là một nam tử hán đại trượng phu, là người đàn ông duy nhất trong gia đình, nhất định phải bảo vệ người thân của mình, không để họ bị tổn thương! Cặp sách trong tay thành vũ khí, cậu nhằm hướng bọn chúng xông tới, với khí thế dũng mãnh không gì ngăn nổi, lần lượt hạ gục từng mục tiêu. Đợi đến lúc hoàn hồn lại, thì lũ trẻ kia đã khóc mẹ kêu cha, toán loạn chạy trốn rồi.

Không ngờ, lũ nhóc kia cũng không biết điều. Một hôm, chúng tập hợp vài tên côn đồ lớn trong ngõ Tử Trúc lại, mai phục trên đường cậu về nhà chờ thời cơ báo thù. Kiều Dật một thân một mình, thiểu số đánh không thắng nổi đa số, một lát đã bị đánh lăn ra đất.

Đại ca của lũ côn đồ là một tên chừng mười hai, mười ba tuổi, cậy thế lớn hơn, thường ngày vênh váo diễu võ dương oai khắp một vùng, tác oai tác quái đã thành thói quen, căn bản không coi cậu nhóc thấp hơn mình nửa cái đầu như Kiều Dật ra gì. Hắn quật cậu ngã xuống đất, một chân giẫm lên người cậu, giễu cợt: "Tiểu nghiệt chủng, cầu xin tha mạng đi, rồi "ông đây" tha cho!"

Giọng điệu khinh miệt của đối phương, phút chốc làm bừng lên ngọn lửa uất ức vì bị lăng nhục bấy lâu nay kìm nén trong lòng Kiều Dật.

Lẽ nào bởi vì anh là "tiểu nghiệt chủng", mà bất cứ ai cũng có quyền sỉ nhục, suốt đời không ngẩng mặt lên được sao? Kiều Dật thì không! Cậu thiếu niên khôi ngô trầm tĩnh có học ấy, bỗng vùng lên, hoàn toàn không quan tâm tới bản thân mình gầy guộc ra sao, đối phương to lớn thế nào, chỉ biết xông lên quyết chiến một phen...

Đây không phải là một trận đánh lộn bình thường, mà là trận chiến vì danh dự. Kiều Dật mồ hôi đầm đìa, trong mắt bừng lên ngọn lửa phẫn nộ, như một trận giao tranh giữa hai con mãnh thú, hoa chân múa tay, chiến đấu chống lại sự không công bằng của số mệnh, tuyên chiến với tất cả những kẻ từng miệt thị mình!

Đương nhiên, kết quả vẫn rất thảm. Kiều Dật bị tên côn đồ đó đánh cho một trận te tua. Bại trận lần đầu tiên trong đời, trong lòng tràn ngập nỗi nhục nhã và căm hận, lê bước chân mệt mỏi rã rời, từng bước từng bước khó nhọc tiến vào ngõ Tử Trúc.

Ánh nắng rơi rớt cuối ngày vương trên khuôn mặt sưng húp như cái bánh bao của cậu, cánh tay bị thương, áo quần tả tơi, vết máu loang lổ, toàn thân như vừa bước ra từ đấu trường A Tu La[1], sắc mặt u ám hung dữ, duy chỉ có đôi mắt sáng rực, sáng đến phát sợ.

[1] A Tu La: Một loại quỷ thần hiếu chiến, thường bị coi là ác thần và thường tranh đấu với Đế Thích không ngừng.

Về đến đầu ngõ, vốn định nhẹ nhàng lướt qua bà ngoại, chuồn về nhà rửa sạch vết máu và bùn đất dính trên người, rồi thay quần áo, chạy ra dắt bà về nhà.

Ai dè, lúc cậu bước ngang qua chỗ bà, trông thấy một cô bé lưng đeo cặp sách, bước đến bên bà, cúi xuống nhặt cuộn len đang rơi dưới đất lên, đặt vào trong tay bà.

Điều khiến cậu ngạc nhiên hơn nữa, là bà ngoại tưởng như vô tri vô thức, không có phản ứng trước bất kì sự vật nào lại đưa tay ra đón lấy, gương mặt còn ánh lên nụ cười hiền hậu mà lâu lắm rồi cậu không được thấy.

Còn đang ngơ ngác, Kiều Dật nghe tiếng cô bé nhẹ nhàng cất lên: "Bà à, bà ngồi đan áo suốt từ sáng đến giờ, chắc là cũng đói rồi. Cháu có mang quýt theo đây, cháu bóc cho bà ăn nhé, được không bà?"

Nghe tiếng bà ê a điều gì không rõ, âm thanh hòa lẫn vào nhau, đến Kiều Dật cũng nghe không hiểu. Cô bé dường như lại hiểu hết, lấy trong cặp ra một quả quýt, bóc vỏ, từng múi từng múi một đút vào miệng bà.

Bà ngoại há miệng ăn, ăn một cách ngon lành. Rất nhanh, múi quýt cuối cùng cũng được ăn hết, bà ngoại miệng vẫn còn tóp tép, như muốn ăn nữa. Cô bé nhẫn nại vỗ về: "Bà ơi, nếu bà thích ăn, mai cháu lại mang đến nữa mà".

Nói rồi, cô bé rút khăn tay ra, cẩn thận lau sạch nước miếng chảy ra trên khóe môi bà, cười tinh nghịch: "Dáng vẻ bà lúc ăn, giống hệt như ông nội cháu, toàn bị rớt nước miếng ra ngoài thôi!"

Cảnh tượng ấy diễn ra tự nhiên như đã quen thân từ lâu, dường như đã xảy ra rất nhiều lần rồi, như bức tranh đẹp đẽ ngát hương. Thậm chí nhiều năm sau này, cậu sớm đã rời xa ngõ Tử Trúc, vẫn không sao quên được cảnh tượng khi đó.

Tháng sáu Giang Nam, hương hoa chi tử ngào ngạt đất trời. Dưới ánh mặt trời chênh chếch phía Tây, một bà lão tóc bạc phơ, ngồi trên cái ghế đẩu thấp lè tè, một cô bé thanh tú mảnh mai, mặc bộ đồng phục quần xanh áo trắng giản dị, khuôn mặt nhỏ nhắn mộc mạc, phản chiếu dưới những tia nắng sặc sỡ, đẹp như cánh hoa chi tử, thuần khiết trong trẻo, trang nhã mà ngát hương.

Kiều Dật ngẩn ngơ đứng nguyên tại chỗ, chăm chú nhìn theo, cho tới khi cái bóng gầy gầy nhỏ nhắn của cô bé khuất dần sau màn sương chiều.

Ngay sau đó, cậu dò hỏi và biết được, tên của cô bé đó là Đỗ Tịch Nhan.



Chương 14: Ngõ Tử Trúc


Sáng sớm vừa ngủ dậy, Tịch Nhan liền nhận được điện thoại của Tiết Đình Chi, cô bé giọng nức nở run run, còn cả tiếng nấc nghẹn ngào: "Cô giáo Đỗ, nhà của bà ngoại bị người ta dỡ đi rồi, em…em biết sống đâu bây giờ…".

Tiết Đình Chi sống cùng bà ngoại ở ngõ Tử Trúc, thuộc khu vực di dời trong khu quy hoạch lần này của nhà nước.

"Em đừng lo, cô sẽ tới ngay!". Tịch Nhan hỏi địa chỉ, gác điện thoại, liền mau chóng thay quần áo và xuất phát. Đi qua hàng hoa quả, nghĩ lần đầu tới thăm cũng nên mua chút đồ làm quà cho người lớn tuổi.

Tay xách nách mang một đống quà, đi xe buýt thì bất tiện, cô bèn bắt taxi nhằm hướng ngõ Tử Trúc thẳng tiến.

Xuống xe ở đầu ngõ, Tịch Nhan có đôi chút lạ lẫm.

Tử Trúc là con ngõ cổ từ lâu lắm rồi, nghe đâu đã hàng trăm năm tuổi. Đường lát đá xanh, ngõ hẻm chật chội, lại quanh co uốn khúc, đứng đầu ngõ không sao nhìn thấy cuối ngõ. Hai bên đa số là những ngôi nhà mái bằng hoặc nhà gỗ mái ngói kiểu cũ thấp lè tè, tường xanh ngói xám, cửa chính gỗ, cửa sổ gỗ, cầu thang gỗ. Ngẩng đầu nhìn bầu trời bốn bề xung quanh, là áo quần, ga trải giường đủ các màu sắc giăng phơi từng hàng từng hàng, trông cứ như bao nhiêu quốc gia đang khoe quốc kỳ.

Những năm 80, 90 của thế kỷ trước, sự chênh lệch giàu nghèo chưa sâu sắc như bây giờ, Tịch Nhan khi ấy chưa bao giờ thấy việc sống trong một khu ổ chuột nghèo khó như ngõ Tử Trúc là điều đáng xấu hổ, ngược lại còn tìm thấy ở đó biết bao niềm vui.

Tịch Nhan thích nhất là những buổi chiều tối mùa hè. Mỗi khi màn đêm chực ập xuống, từng hộ từng nhà trong con ngõ nhỏ lại mang giường tre, hay vài cái ghế mây, ghế đẩu ra đặt trước hiên nhà. Cơm tối xong, người thì "buôn" chuyện đánh bài, người lại nằm khểnh chân hóng gió, có người còn cao hứng đem đàn ra hát. Các cụ già thì phe phẩy quạt ba tiêu, quạt giấy, quạt lông chim, lũ trẻ thì rủ nhau chơi trốn tìm, nô đùa, nghe người lớn kể chuyện ở bãi đất trống trước nhà.

Khi ấy, lũ trẻ trong những ngày hè chói chang, chỉ mong nhất được cầm trong tay một que kem sữa mát lạnh. Bình thường bọn chúng chỉ có thể ăn kem đường, năm xu một que của bà cụ trong ngõ làm. Kem sữa thì đắt hơn nhiều, những đứa trẻ trong ngõ Tử Trúc thông thường chẳng bao giờ dám mơ tới.

Những ngày hè trong ký ức của Tịch Nhan, là bầu trời đêm xanh thẳm, với chi chít những ngôi sao lấp lánh, tiếng ve râm ran trên cây, tiếng ếch kêu oàm oạp vọng lại, bóng đom đóm lập lòe bay qua bay lại…còn cả tiếng cười trong trẻo mà sảng khoái của bầy trẻ con, vẻ giản dị mà trong sáng của thời đại bấy giờ.

Tịch Nhan vẫn nhớ, đầu ngõ có mấy cây chi tử, xanh um tươi tốt, tràn đầy sinh khí, làm nền cho con ngõ nhỏ mộc mạc cũ kỷ, khiến nó trở nên rạng rỡ sinh động. Hàng năm cứ đến tháng Năm, tháng Sáu, trong tán lá xanh um hình bầu dục thấp thoáng những bông hoa chi tử trắng tinh dày đặn, từng chùm từng chùm đua nhau nở. Cánh hoa tầng tầng lớp lớp, hương thơm lan tỏa, nồng nàn mà bền lâu.

Trở về từ nhà ông nội ở quê, nhìn thấy những cây chi tử này, Tịch Nhan như gặp lại bạn cũ, vô cùng thích thú. Hàng ngày sau giờ học, Tịch Nhan đều quyến luyến quẩn quanh dưới gốc cây. Cô như mê muội hương hoa chi tử, mỗi lần bước qua đây, đều cảm thấy tâm hồn thư thái.

Nhưng bây giờ, đã không còn chút tâm tích cây chi tử nào nữa, khắp nơi chỉ còn cảnh hoang tàn đổ nát, là cảnh ngổn ngang bộn bề sau cuộc di dời. Tịch Nhan mặc kệ đám bụi mịt mù xộc vào mũi, bước vào hiện trường phá vỡ. Vừa được vài bước, phía trước có người ngăn lại: "Ở đây đang phá vỡ nhà, nguy hiểm lắm, mời cô ra ngoài cho!"

Tịch Nhan cất tiếng hỏi: "Các căn nhà quanh đây đều dỡ bỏ rồi sao? Nhà số 45 ngõ Tử Trúc đã dỡ chưa?"

"Nhà số 45?", người đó chau may, đưa mắt nhìn cô một lượt từ đầu đến chân: "Đó là hộ đang bị cưỡng chế, họ sống chết nhất quyết không chịu dời đi. Chúng tôi đang làm công tác tư tưởng".

"Đó là nhà học trò của tôi, tôi phải đi tìm họ". Tịch Nhan bỏ qua lời khuyên can của mấy người công nhân, cẩn thận bước qua đám gạch ngói vỡ và cột nhà ngổn ngang trên nền đất, tìm đến nhà số 45 ngõ Tử Trúc.

Kỳ thực rất dễ tìm, không cần nhìn số nhà, bởi những nhà xung quanh đều đã dỡ bỏ rồi, chỉ còn ngôi nhà gỗ nhỏ rách nát đứng chơ vơ. Tịch Nhan gõ nhẹ lên tấm cửa gỗ sơn đỏ loang lổ, một lúc lâu sau mới có tiếng khe khẽ đáp lời: "Ai đó?"

"Tiết Đình Chi, là cô, cô giáo Đỗ đây".

Cánh cửa gỗ mau chóng được mở ra, Tiết Đình Chi đứng bên trong cánh cửa, vừa nhìn thấy cô, tròng mắt bỗng chốc đỏ hoe: "Cô giáo Đỗ…"

Tịch Nhan theo cô trò nhỏ bước vào trong, bên trong có một khoảng sân tương đối rộng, ở giữa trồng một cây chi tử. Vòng hoa chi tử còn nguyên sương sớm lúc trước, phải chăng do chính bà ngoại của Tiết Đình Chi hái từ trên cây này xuống.

Ngôi nhà của Tiết Đình Chi, không có gì hơn ngoài bốn bức tường, trừ bàn, ghế, giường ra, tuyệt nhiên không có thứ gì đáng tiền. Hai bà cháu dựa vào nhau mà sống, chỉ biết trông chờ vào chút tiền trợ cấp của nhà nước mà duy trì cuộc sống, gia cảnh vô cùng khó khăn.

Bà ngoại của Tiết Đình Chi là một bà lão nhỏ nhắn nhưng minh mẫn, mặc dù đầu tóc bạc phơ, khuôn mặt đầy những nếp nhăn, nhưng ánh mắt vẫn sáng, sức khỏe vẫn tốt. Bà cụ tính tính ngay thẳng, kiên quyết không nhận quà mà Tịch Nhan mang đến, chỉ nắm tay cô, khẩn khoản: "Cô giáo Đỗ, mong cô giúp bà cháu chúng tôi, giữ lại ngôi nhà cũ kỹ này".

Người già đều rất hoài cổ, ngôi nhà đã gắn bó gần cả cuộc đời, ai nỡ dứt bỏ ra đi? Hơn nữa, bà cụ không xu dính túi, mẹ Tiết Đình Chi đã tái giá, lại vừa nghỉ việc, lấy đâu ra tiền mà mua nhà khác?

Dù như vậy, Tịch Nhan vẫn hết lời khuyên nhủ: "Lần di dời này là chủ trương của nhà nước, nhà mình cũng không thể không theo, trước sau gì rồi cũng phải chuyển. Hay mình cứ chuyển tới khu tái định cư đã được sắp xếp, căn nhà này diện tích cũng tương đối lớn, tính theo giá thị trường bây giờ, có lẽ cũng không phải bù thêm nhiều đâu ạ. Mà nếu cần, cháu có thể giúp bà ứng ra trước…"

"Thế sao được?", giọng bà cụ có phần kích động, "Lúc trước cô đã giúp nộp tiền học cho Đình Chi nhà chúng tôi, tôi còn chưa trả được! Bà cháu tôi tuy nghèo khó, nhưng có thể gặp được cô giáo tốt như cô, cũng là phúc phận mấy đời nhà chúng tôi rồi!"

Bà cụ cuối cùng cũng bị Tịch Nhan thuyết phục, đồng ý rời đi, chỉ mong gia hạn thêm vài ngày, vì còn phải thu dọn đồ đạc và tìm chỗ ở mới. Tịch Nhan nói: "Hay là thế này đi, bà và Đình Chi tạm thời dọn đến ký túc trường cháu ở tạm. Nghỉ hè cháu ở nhà bố mẹ mà."

Bà cụ cảm động khôn xiết, không ngớt lời "làm phiền cô giáo Đỗ nhiều quá". Tịch Nhan an ủi bà cháu thêm đôi câu, rồi cáo từ ra về. Trước khi về, nhân lúc bà cụ không để ý, bèn lén để giỏ quà lại trong phòng.

Cô lần theo lối cũ, lúc quay ra đến đầu ngõ, không cẩn thận giẫm phải cái đinh.

Mũi đinh vừa nhọn lại vừa sắc lại còn loang lổ vết gỉ sét xuyên qua đế dép, đâm qua da thịt, đau như xát muối.

Tịch Nhan cố nén cái đau nhói buốt, cà nhắc từng bước một băng qua đống đổ nát, nhằm hướng bến xe buýt phía bên kia đường.

Nhìn cô đi lại khó khăn, taxi đi ngang qua, đều cố ý giảm tốc độ, còn nhấn còi bim bim. Tịch Nhan chỉ biết lắc đầu, vừa nãy lúc đi đã gọi xe, mua quà, giờ trong túi chỉ còn vài đồng lẻ, chỉ có thể đi xe buýt.

Một chiếc ô tô đen lướt qua bên cạnh, tiến được vài mét, rồi đột ngột phanh gấp, quay đầu xe, tiến về phía cô, cuối cùng dừng lại trước mặt cô.

Tich Nhan thấy khó hiểu quay đầu lại, thấy chiếc xe Benz màu đen này sao quen quen.

Tim cô bỗng thót lại, không ngờ rằng, vào lúc này, xuất hiện tại chính nơi này.

Đúng lúc cô thảm hại, không nơi nương tựa như thế này.

Cửa xe nhanh chóng mở ra, một luồng gió lạnh phà tới.

"Đỗ Tịch Nhan, lên xe". Năm từ ngắn gọn mà đầy sức mạnh, từng từ từng từ một vang vọng vào lòng cô.

Cô ngước mắt nhìn lên, một lần nữa, lại bắt gặp đôi mắt màu hổ phách ấy.

Con phố một sáng mùa hè, ánh mặt trời hừng hực, đứng gió, thời gian dường như cũng ngừng lại.

Anh gọi cô "Đỗ Tịch Nhan", anh đã nhận ra cô từ lâu, nhưng lại xem cô như con chuột để vờn đùa.

Dù là Trác Thanh Liên của hiện tại, hay là Kiều Dật của ngày trước đều thích chơi trò trốn tìm.



Nguồn: tieuthuyet.com.vn