Chương 11:
Từ khi "gài" thằng Cường làm "gián điệp", tôi gặp Cẩm Phô dài dài.
Cường vẫn nói chuyện với Cẩm Phô bằng ngôn ngữ của.... những ngón tay nhưng sau tai họa tày đình kia, nó không còn dám lạm dụng thứ ngôn ngữ bí hiểm này vào những mục đích bừa bãi nữa. Cường thôi chỉ trỏ lung tung. Bây giờ, những ngón tay đầy cấu ghét của nó chỉ đóng vai trò của những chiếc kim đồng hồ: ngón trỏ là một giờ, ngón trỏ giữa là hai giờ, ngón trỏ đưa lên ngón giữa gập xuống là một giờ rưỡi...
Dĩ nhiên không phải lúc nào Cẩm Phô cũng hoan hỉ đáp lại lời hẹn hò của tôi. Những lúc bận chuyện gì không đi được, nó trả lời bằng cách đưa tay lên vuốt tóc. Cẩm Phô dặn tôi như vậy.
Bữa nào Cẩm Phô vuốt tóc, Cường hộc tốc đến nhà tôi.
- Hỏng bét rồi!
- Có chuyện gì vậy?
- Bữa nay nó lại rờ đầu!
Thứ văn chương "thô thiển" của Cường bao giờ cũng khiến tôi nhăn mặt:
- Nó vuốt tóc thì bảo nó vuốt tóc, mày cứ nói rờ đầu nghe thấy ghê!
- Ghê gì đâu?
Tôi hừ mũi:
- Nghe cứ như thể đầu nó toàn là ghẻ chốc!
- Chứ gì nữa! - Cường nham nhở - Chính nó lây cho thằng Phú ghẻ nhà mình...
Tôi dậm chân dậm cẳng, không đợi Cường nói hết câu:
- Mày có xéo ngay đi không!
Thấy tôi phùng mang trợn mắt, Cường rụt cổ, lảng mất. Nhưng vài ngày sau nó lại mò đến, cười toe toét:
- Ngon lành! Bữa nay bật ngón tay xong, tao liếc chừng cả buổi, chẳng thấy nó rờ đầu rờ cổ miếng nào!
Hào hứng với thành quả vừa đạt được, Cường quên béng mất giữa "vuốt tóc" và "rờ đầu" từ nào nghe văn hoa thơ mộng hơn từ nào. Nó cứ thuận miệng tuôn ra ào ào. Tôi lại nhăn mặt, nhưng những lần sau này tôi chẳng thèm cự nự nó. Cự nó, nó lại phịa chuyện Cẩm Phô có ghẻ, tôi càng lộn tiết thêm.
Thật ra trong mười lần tôi rủ Cẩm Phô đi ăn chè, nó chỉ vuốt tóc với tôi khoảng hai lần. Tám lần khác nó đều y hẹn. Tôi đến quán bà Thường ngồi đợi chừng mười phút là thấy nó xuất hiện. Như vậy là thằng Phú ghẻ nói đúng. Cẩm Phô thương tôi chứ đâu có thù tôi. Thằng Phú ghẻ ngứa này mà đi làm thầy bói chắc là giàu sụ!
Nhưng mặc dù thương tôi không để đâu cho hết, mặc dù những buổi trưa trong vườn bà Thường yên tĩnh và cực kỳ thơ mộng, Cẩm Phô vẫn không chịu ngồi gần tôi. Lần nào nó cũng ngồi vào chiếc ghế đối diện, bất chấp việc trước đó tôi đã khéo léo bố trí hai ly chè nằm sát về phía tôi và hoàn toàn xa cách tầm tay nó. Chiếc ghế chết tiệt đó ngăn cách với tôi bởi chiếc bàn cũng chết tiệt không kém, lần trước tôi rải đầy lá khô, Cẩm Phô còn không ngán, huống chi bây giờ tôi chẳng dám ngo ngoe.
Bao giờ cũng vậy, mỗi lần Cẩm Phô chuẩn bị an tọa trên chiếc ghế khốn kiếp đó, tôi đều mở thao láo mắt ra nhìn nó và ấm ức tự nhủ người xưa bảo "nam nữ thọ thọ bất thân", ông cố tôi và bà cố Cẩm Phô nếu ngồi ăn chè với nhau chắc cũng ngồi cách xa như vậy, thậm chí nếu không có bàn có khi phải chạy đi mượn cái bàn của ai đó đặt vô giữa, nhưng đó là người xưa, còn Cẩm Phô là cháu chắt xa lắc xa lơ của các vị, là người đời nay, sao nó cũng bày đặt "thọ thọ" với tôỉ?
Nhưng dù sao tôi cũng chẳng lấy làm buồn cho lắm về chuyện đó. Bởi khi Cẩm Phô đưa mắt nhìn tôi và cái giọng êm ái của nó vừa cất lên là bao nhiêu bực dọc trong lòng tôi lập tức bay biến.
Chè bà Thường đã ngọt, giọng Cẩm Phô còn ngọt hơn. Tôi vốn là đứa hảo ngọt, dĩ nhiên cảm thấy cuộc sống trong khoảnh khắc ấy sao mà đầy ắp ý nghĩa! Mặc dù nói cho đúng thì những cuộc trò chuyện giữa hai đứa tôi trong quán bà Thường khó có thể gọi là "tình tứ".
Thường thường tôi nói:
- Khi nãy đi đường nắng không?
Cẩm Phô nói:
- Nắng.
- Đội nón mà nắng?
- Nón cũng nắng.
- Thôi ăn chè đi cho mát!
- Xí!
"Xí" xong tới phiên Cẩm Phô hỏi tôi:
- Khi nãy anh đợi lâu không?
- Lâu.
- Mấy phút mà lâu?
- Mười phút.
- Mười phút mà lâu gì?
- Lâu chứ.
- Xí!
Sau khi "xí" thêm một tiếng nữa, Cẩm Phô bưng ly chè lên. Chỉ đợi có vậy tôi hí hửng bưng theo.
Những cuộc đối thoại giữa hai người "nhớ nhau muốn chết" đại khái chỉ có vậy, toàn những câu vớ vẩn, chẳng đâu vào đâu và nhạt như nước ốc. Nhưng không hiểu sao, đối với tôi những chuyện ấy lại rất đổi đậm đà, hấp dẫn và mê ly, nếu như Cẩm Phô không phải vội về nhà, nếu như nó có thể ở luôn bên cạnh tôi kể từ giờ phút đó, tôi tin rằng tôi có thể trò chuyện với nó quẩn quanh như vậy cho đến già mà không hề thấy chán.
Cẩm Phô có lẽ cũng cùng tâm trạng như tôi. Nghĩa là nó cũng cảm thấy vui thích khi được ngồi bên tôi, nhìn thấy tôi và nghe tôi nói. Còn tôi nói vung vít những gì chắc nó không mấy để ý.
Có nhiều lúc cuộc trò chuyện đột ngột rơi vào im lặng mà chẳng ai hay. Chúng tôi lơ đãng ngắm con bọ ngựa đang dọ dẫm trên cành lá thấp hoặc dõi theo cánh ong bay vù vù tìm mật giữa trưa. Không nói một câu, sao tôi cảm thấy tôi và Cẩm Phô đang gần nhau quá thể.
Trong những ngày đẹp đẽ đó, tôi âm thầm tích góp tiền bạc mua một cây đàn.
Hôm tôi ôm cây đàn về, nhỏ Châu trố mắt:
- Anh mượn của ai vậy?
Tôi vênh mặt:
- Chẳng mượn của ai cả. Tao mua.
- Mua? - Nhỏ Châu như không tin vào tai mình.
- Thì mua! Bộ mày lạ lắm sao?
Nhỏ Châu không đáp mà lại hỏi:
- Anh mua đàn làm gì?
Nhỏ Châu làm tôi điên tiết.
- Mua đàn là để đàn chứ để làm gì! - Tôi cau mặt - Chẳng lẽ đại huynh của mày mua đàn về để... nấu cà-ri ?
- Nhưng anh đâu có biết đàn?
- Không biết thì học! - Tôi khịt mũi - Học đàn dễ ợt!
Để chứng minh "học đàn dễ ợt", tôi lập tức triệu tập Phú ghẻ đến nhà.
Tôi dắt hắn ra sau vườn:
- Ngồi đó đợi tao chút!
Phú ghẻ quả là thằng bạn chẳng ra gì. Tôi vừa quay lưng đi, nó đã giục:
- Lẹ lên! Tao đói bụng lắm rồi!
Tôi ngạc nhiên:
- Lẹ lên cái gì?
Phú ghẻ liếm môi:
- Thì đi lấy món gì mày định đãi tao ấy!
Tôi phì cười:
- Món này ăn không được!
Một lát tôi ôm cây đàn ra.
Phú ghẻ nhìn sững cây đàn:
- Cho tao hả?
Tôi chìa cùi chỏ:
- Cho cái này nè.
- Vậy chứ mày xách đàn ra đây làm gì?
Tôi dúi cây đàn vào tay nó mỉm cười:
- Tập tao đàn!
- Trời ơi là trời!
Phú ghẻ kêu lên một tiếng tuyệt vọng và ngã lăn đùng ra bãi cỏ.
Nhìn nó giả chết biết nó muốn "đòi hối lộ" tôi đành tặc lưỡi:
- Thôi để tao đi kiếm cho mày một ổ bánh mì nhưng nạp năng lượng xong, mày phải tập cho tao đàng hoàng à nghen!
Kể từ bữa đó, mồm tôi lúc nào cũng lảm nhảm "Đồ, rê mi fa xôn la xí đố rế", cứ như thể đọc thần chú. Nhỏ Châu nhại tôi riết đến nỗi quen miệng, bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp nó ngồi ngoài hè lảm nhảm giống như tôi.
Phú ghẻ chỉ dạy tôi có ba bữa đầu. Đến khi thấy tôi có thể gảy "từng tứng tưng" một mình, nó thảy cho tôi cuốn "Tự học ghi ta" và dăm tập nhạc rồi biến mất.
Chiều chiều tôi ôm đàn ra vườn, ngồi bấm nhói cả tay. Tôi dòm vô sách, lui cui tập chuyển gam. Tôi bấm gam không quen, gảy lên nghe "tạch tạch" như thể pháo lép.
Nhỏ Châu ngồi bên cạnh xem tôi tập, với vẻ mặt tò mò của một khán giả đang ngồi coi khỉ tập đi xe trong rạp xiếc. Mỗi lần cây đàn của tôi phát ra những âm thanh nghe nghèn nghẹt như một người viêm mũi kinh niên, nó liền bụm miệng cười hí hí.
Nhưng tôi mặc nó. Tôi nghĩ đến câu "Có công mài sắt, có ngày nên kim" và lại cúi mình trên thùng đàn gảy "chách chách", mồ hôi mồ kê nhễ nhại.
Sự kiên trì hiếm có của tôi có lẽ khiến nhỏ Châu ngạc nhiên lắm. Nó không hiểu tại sao một kẻ vốn nổi tiếng làm biếng trong việc học lẫn việc nhà như tôi lại siêng năng tập gảy đàn một cách đột ngột như thế. Một hôm, nén không được thắc mắc:
- Tự dưng anh học đàn chi vậy ?
- Sao lại tự dưng? - Tôi quắc mắt - Hễ có bạn gái là phải biết chơi đàn, hiểu chưa đồ ngốc?
Nghe tôi mắng là "đồ ngốc", nhỏ Châu lộ vẻ ngẩn ngơ. Chắc nó đang cố tìm hiểu xem giữa "chị hai" của nó và cây đàn trên tay tôi có mối liên hệ bí ẩn như thế nào mà tôi nạt nộ nó một cách hùng hồn như thế.
Trong khi nhỏ Châu đang nghĩ ngợi mông lung, tôi chợt giật thót mình khi nhớ ra ba tôi và chú Sáu tôi đâu có biết đàn địch hát xướng gì mà vẫn tán tỉnh được mẹ tôi và thím Sáu ngon ơ. Sợ nhỏ Châu nhớ ra chuyện đó rồi vặn vẹo lôi thôi, tôi hắng giọng nói thêm:
- Khi mình thích một ai đó, trong lòng mình có những cảm xúc không thể nói ra thành lời được, mình phải nhờ cây đàn nói giùm mình, mày hiểu không?
- Không hiểu!
Nhỏ Châu lắc đầu, thật thà đáp. Thật thà là một đức tính tốt nhưng lúc này nhìn nhỏ Châu, tôi chỉ muốn véo cho nó một cái.
Nhỏ Châu không biết sát khí đang nổi lên trên đầu tôi, lại tiếp tục chất vấn:
- Cây đàn có biết nói đâu mà nói dùm!
- Thật tao chưa thấy ai ngu như mày! - Tôi đổ quạu - Chứ còn miệng tao nữa chi! Bộ tao không biết hát theo hả ?
- Anh mà hát? - Nhỏ Châu nhìn sững tôi như thể nó chưa từng thấy tôi bao giờ.
- Chứ sao! - Tôi ưỡn ngực - Mai mốt gặp Cẩm Phô tao sẽ hát cho nó nghe bài "Nỗi buồn hoa phượng". Nghe xong, chắc chắn nó sẽ xúc động đến ứa nước mắt.
"Nỗi buồn hoa phượng" là một trong hai bài hát Phú ghẻ dạy tôi bữa trước. Nó bắt tôi đàn bản này cốt để nó dạy điệu habanera, cũng như đàn bản "Lạnh Lùng" để học điệu tăng go sơ cấp.
Nói xong tôi ngoác miệng hát liền, sợ để lâu nó cụt hứng:
- "Mỗi năm đến hè lòng mang mát buồn
Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương...
Tôi đang lim dim mắt rống hết cỡ, nhỏ Châu bỗng "xì" một tiếng, chen ngang:
- Bữa nay còn chưa đến Tết, hè đâu mà hè!
Bị phá bĩnh, mặt tôi nhăn như bị:
- Thì đợi đến hè tao hát! Tao có hát bây giờ đâu!
- Chứ bây giờ anh hát bản gì ?
Tôi nhún vai:
- Thiếu gì bản, Phú ghẻ dạy tao cả khối!
Và tôi liếm môi:
- Thôi để tao hát cho mày nghe bản này!
- Bản gì vậy ?
Không buồn trả lời nhỏ Châu, tôi cuối đầu nhìn xuống cần đàn tìm chỗ để... đặt mấy đầu ngón tay. Tôi gảy "chách chách chách chùm chum" và hát:
- Em nỡ lạnh lùng đến thế sao
Tim anh tan nát tự hôm nào...
Lần này cũng vậy, tôi mới "biểu diễn" được hai câu, nhỏ Châu đã nhảy tót vô họng tôi:
- Bữa trước anh bảo chị Cẩm Phô nhớ anh muốn chết, sao bây giờ lại hát "Em nỡ lạnh lùng đến thế sao"?
Bị "đâm hông" hoài, tôi nhịn hết nổi, bèn giơ nắm đấm ra:
- Mày không biết thưởng thức văn nghệ, thì tìm đường xéo đi cho tao nhờ! Đứng đó tao nổi khùng lên là tao cốc cho u đầu bây giờ!
Nhỏ Châu chắc chẳng ham gì cái chuyện "thưởng thức" giọng ca rè như thùng thiết bể của tôi. Nghe tôi đuổi, nó co giò chạy biến, mặt mày rạng rỡ.
Ngồi lại một mình giữa vườn hoa, tôi tiếp tục gò người trên thùng đàn, thả hồn theo tiếng tơ trầm bổng. Thỉnh thoảng, cây đàn dưới tay tôi lại phát ra những âm thanh "tạch tạch" nhưng tôi mặt kệ. Những cánh hoa vàng rung rinh trước gió khiến lòng tôi bỗng chốc trở nên dịu dàng và thanh thản. Tôi ngắm màu hoa và khe khẽ hát:
- Sao em không nói một lời gì
Dẫu chỉ một lời không đáng chi...
Tôi hát và bất giác nhớ đến "chị hai nhỏ Châu". Tôi nhớ trước nay nó chẳng nói với tôi được "một lời gì" ý nghĩa. Gặp tôi trong quán bà Thường, nó chỉ nói chuyện lông bông. Rồi cắm cúi ăn chè. Ăn mệt nghỉ. Dường như nhỏ Châu nói đúng. Cẩm Phô chỉ thích ăn chè chứ đâu phải thích tôi.
Trước nay, chẵng bao giờ tôi để ý đến những chuyện "vặt vãnh" đó. Hễ ngồi cạnh Cẩm Phô là tôi khoái. Ngồi cạnh nó, tôi sướng mê tơi. Lòng lâng lâng, tôi chẳng ao ước gì hơn nữa. Nhưng bữa nay, ngâm nga hát hỏng một hồi, tôi sực nhớ ra Cẩm Phô chưa từng "hứa hẹn" gì với tôi. Mà tôi, hình như tôi cũng chưa hề "thề thốt" gì với nó. Sao lạ vậy nhỉ.
Suốt mấy ngày liền, tôi tập tới tập lui hai bản "Lạnh lùng" và "Nỗi buồn hoa phượng". Các đầu ngón tay tôi tê buốt, nhưng tôi kiên quyết không bỏ cuộc. Tôi nhất định phải trở thành ca sĩ... nghiệp dư. Tôi nhất định đem lời ca tiếng hát ra "phục vụ" Cẩm Phô. Tôi sẽ nhờ tiếng đàn nói hộ lời "thề thốt".
Để cho ra vẻ nghệ sĩ, tôi bắt đầu để tóc dài phủ gáy. Tôi cắt móng tay trái cụt lủn, sát tận gốc, trong khi tay phải tôi để móng dài thậm thượt. Dân sành điệu nhìn vào, biết ngay tôi là tay chơi đàn thứ "xịn". Chỉ có dân móc classique chuyên nghiệp hoặc dân ghẻ ngứa như Phú ghẻ mới để móng tay dài kiểu đó.
Tiếc một nỗi, Cẩm Phô không phải là "dân sành điệu". Thấy tôi để móng tay dài, nó rụt cổ:
- Eo ôi, ghê quá!
Tôi chưa kịp giải thích, nó đã "phán":
- Anh cắt móng tay đi! Để móng tay ngắn trông sạch sẽ hơn!
Mỗi lời nói của Cẩm Phô như mỗi nhát dao, cứa vào tim tôi. Tôi ngồi trước mặt nó cố tình dơ qua dơ lại bàn tay cốt làm nó chú ý. Tôi đinh ninh khi nhìn thấy những ngón tay "nghệ sĩ" của tôi, nó sẽ ngạc nhiên hỏi "Anh để móng tay dài làm chi vậy ?". Tôi sẽ kiêu hãnh đáp "Để chơi đàn". Nếu nó hỏi tiếp "Anh chơi đàn chi vậy ?"tôi sẽ mạnh dạn tỏ bày "Để nhờ tiếng đàn nói hộ lòng mình". Nếu nó hỏi nữa, tôi sẽ nói nữa và cuối cùng cuộc đối thoại tình tứ đó sẽ kết thúc bằng lời thì thầm nũng nịu của Cẩm Phô "Anh thật đáng yêu quá chừng!"
Nhưng những màn đối đáp ngọt ngào và lãng mạn đó đã không xảy ra. Cẩm Phô chẳng buồn quan tâm đến "khía cạnh nghệ thuật" của bàn tay tôi. Thấy tôi để móng tay dài nó chê tôi ăn ở mất vệ sinh. Chắc ngày nào nó cũng thấy thằng Phú ghẻ hàng xóm gãi sồn sột, nó tưởng ai để móng tay dài cũng chuẩn bị phát ghẻ. Nó làm tôi buồn quá chừng. Chỉ hiềm nỗi tôi mới học chơi đàn, tài nghệ chưa thông. Nếu không tôi sẽ sách đàn đến trước mặt nó, biểu diễn cho nó nghe chừng mười lăm phút "ca nhạc theo yêu cầu", hẳn nó sẽ hết dám bảo tôi cắt bỏ những móng tay "vô giá" kia!
Nhỏ Thảo dễ thương hơn Cẩm phô gấp một trăm lần. Qua phụ tôi tưới hoa, nhác thấy móng tay tôi dài thòng, nó trợn tròn mắt:
- Anh để móng tay dài chi vậy ?
Nhỏ Thảo hỏi đúng cái câu mà tôi mỏi mòn chờ đợi nơi Cẩm Phô. Tôi cũng trả lời đúng cái câu tôi có sẵn trong đầu:
- Để chơi đàn.
Nhỏ Thảo liền reo lên:
- Ôi hay quá hén! Vậy anh đàn cho em nghe đi!
Cái con nhỏ này, nó làm tôi mát lòng mát dạ quá chừng! Từ hồi học đàn đến nay, đây là lần đầu tiên có người yêu cầu tôi biểu diễn tài nghệ. Tôi liền vứt cái thùng tưới lăn lóc trên cỏ, và hộc tốc chạy vào nhà ôm cây đàn ra.
Nhưng nhỏ Thảo không hoàn toàn dễ thương như tôi tưởng. Tôi mới so dây, chưa kịp hắng giọng lấy hơi, nó đã bép xép đề nghị:
- Anh đàn cho em nghe bản "Nắng sân trường" đi!
Lời đề nghị chết tiệt của nhỏ Thảo làm tôi ngớ người ra. Tôi đâu có biết "Nắng sân trường" là thứ quái vật chi! Chẳng lẽ thú nhận là mình không biết, tôi bèn tìm cách lấp liếm:
- Bản đó dở thấy mồ mà nghe làm chi!
- Nhỏ Thảo là dứa hiền lành. Nó chẳng buồn cãi cọ, mà đề xuất tiếp:
- Vậy anh đàn bản "Vầng trăng cổ tích" cũng được!
Tôi lại hừ mũi:
- Bản đó dở ẹc!
- Vậy thì bản "Bông hồng tặng cô"!
Tôi khoát tay:
- Em muốn "Bông hồng tặng cô" thì để anh hái cho em! Vườn anh bông hồng cả khối, hát làm gì cho mất công!
Trước giọng điệu ngang phè của tôi, nhỏ Thảo chỉ biết nghệt mặt ra. Trước nay vốn quen "nghe lời" tôi nên mặc tôi nói hươu nói vượn, nó vẫn một mực làm thinh. Nhưng nhìn ánh mắt phân vân của nó, tôi biết nó hẳn ngạc nhiên ghê lắm. Hẳn nó đang tự hỏi tại sao tôi vừa hí hửng khoe chuyện học đàn mà nó yêu cầu đàn bản gì tôi cũng khăng khăng từ chối.
Sau một thoáng ngẩn ngơ, nhỏ Thảo lại chớp mắt, lần này nó hỏi bằng giọng rụt rè hẳn:
- Hay là anh đàn bản... "Em vẫn yêu mùa hè" vậy!
Tôi "xì" một hơi rõ dài:
- Bữa nay còn chưa đến Tết hè đâu mà hè!
Nói xong tôi giật mình nhận ra tôi vừa lập lại lời chê bai của nhỏ Châu bữa trước. May mà nhỏ Thảo không biết gì về cái "sự tích" đó.
Để chữa thẹn, tôi khẽ lướt mấy ... móng tay trên phím đàn và nói:
- Thôi để anh đàn cho em nghe bản này!
Rồi không đợi nhỏ Thảo giục, tôi hít một hơi đầy lòng ngực và ồm ồm cất giọng:
- Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn
Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương...
Đang hào hứng, tôi quên béng mất "Nỗi buồn hoa phượng" cũng là một bài hát về... mùa hè. Chẳng biết nhỏ Thảo có phát hiện ra điều đó không, nhưng nó chẳng nói gì, chỉ đứng im, vểnh tai nghe tôi "tra tấn".
Nhỏ Thảo khác nhỏ Châu. Nó không nhảy tót vào miệng tôi trong khi tôi đang hát. Nó biết giữ yên lặng cho tôi "làm nghệ thuật". Quả là một con nhỏ cực kỳ đáng yêu!
Đáng yêu nhất là khi hát xong, tôi nheo mắt hỏi:
- Em thấy anh hát hay không?
Nó đáp như cái máy:
- Hay.
- Em thích không?
- Thích.
- Em muốn nghe anh hát nữa không?
Nó ngần ngừ một thoáng rồi gật đầu:
- Nữa.
Chỉ đợi có vậy, tôi gân cổ:
- Em nỡ lạnh lùng đến thế sao...
Vừa hát tôi vừa liếc nhỏ Thảo và thấy mắt nó giương tròn như mắt ếch. Chắc nó không hiểu tôi "mắc chứng" gì mà rên rỉ sướt mướt ghê thế. Tuy vậy khi hát xong, tôi hỏi "hay không", nó vẫn gật đầu "thoải mái":
- Hay.
- Thích không?
- Thích.
Lần này "hết vốn" nên tôi không hỏi "em muốn nghe anh hát nữa không?". Tôi chỉ gật gù:
- Em ngoan lắm! Không ngờ em còn nhỏ như thế mà đã biết thưởng thức nghệ thuật... cao cấp!
Nghe tôi khen, nhỏ Thảo sung sướng toét miệng cười.
Nó là một khán giả tuyệt vời như vậy nhưng chẳng hiểu sao nó chỉ thưởng thức "tài năng" của tôi có mỗi bữa đầu. Mấy hôm sau nó chỉ chạy qua phụ tôi tưới cây nhổ cỏ, còn hễ bữa nào tôi ôm đàn ra vườn ngồi gảy "chách chách" là nó trốn biệt trong nhà. Lạ ghê !
Chương 12:
Tôi học đàn mỗi ngày một tinh tiến.
Nghĩ đến cảnh một ngày nào đó ôm đàn ngồi trước mặt Cẩm Phô, bàn tay lả lướt dạo trên khắp phiếm đàn để nghe ngân lên dưới tay mình những âm thanh mượt mà và tình tứ, tôi nôn nóng tập ngày tập đêm.
Nhờ nỗ lực rèn luyện, tiếng đàn của tôi dạo này đã thôi "tạch tạch". Ngoài "Lạnh lùng và nỗi buồn hoa phượng", tôi đã có thể mày mò tập tự mình tập thêm vài bản mới.
Tôi cũng đã khôn hơn. Tôi không đuổi nhỏ Châu chạy có cờ nữa. Mà bắt nó ngồi hàng giờ xem tôi biểu diễn tài nghệ, mặc dù ngồi lâu mỏi cẳng mặt nó xụ xuống một đống.
Đối với nhỏ Thảo hàng xóm, tôi dùng kế "điệu hổ ly sơn". Tôi ngoác mồn kêu: "Thảo ơi, qua tỉa lá phụ anh với!". Không nghe tôi nhắc gì đến chuyện đàn địch, nhỏ Thảo rời chổ nấp hí hửng chạy qua.
Nhưng hai đứa mới tỉa lá bắt sâu chừng mười phút, tôi đã kêu nó "nghỉ giải lao". Và quày quả bước thẳng lại góc vườn lôi cây đàn giấu trong bụi rậm ra.
Tôi cười hì hì trước cặp mắt tròn xoe của nó:
- Để anh hát "phục vụ" em nghe!
Dĩ nhiên nhỏ Thảo không còn cách nào khác là gật đầu. Và cũng như bữa trước "tra tấn" nó xong, tôi hất hàm:
- Hay không?
- Hay.
- Thích không?
- Thích.
- Nữa không?
- Nữa.
Tôi nói gì nó cũng gật đầu mà sao mặt nó méo xẹo. Nhưng tôi mặc xác nó, cứ dốc lòng phục vụ tới bến...
Chỉ có Phú ghẻ là không khen tôi. Lâu lâu, nó chạy tới "kiểm tra" nghiêng tai nghe tôi đàn một hồi rồi khịt mũi:
- Mày đàn nghe giống như người ta gõ thùng thiếc!
Tôi đỏ mặt:
- Chính mày dạy tao đàn chứ ai!
- Tao đâu có dạy mày như vậy! - Vừa nói Phú ghẻ vừa giật cây đàn trên tay tôi - Phải ôm cây đàn như thế này nè!
Tôi trố mắt dòm Phú ghẻ, cố nhớ kỹ tư thế mẫu mực của nó.
Rồi Phú ghẻ dạo đàn. Cũng những bản nhạc nó dạy tôi, sao tiếng đàn nghe ngọt ngào quá thể!
Nhìn nó chơi đàn, lòng tôi nôn nao cháy bỏng. Lúc nó gãi ghẻ, bàn tay nó trông xấu xí cục mịch mà sao khi chơi đàn, cũng những ngón tay đó lại nom thon thả mềm mại xiết bao! Lúc nó chuyển gam, những ngón tay đưa lên đưa xuống nhẹ nhàng như bướm lượn chứ không huỳnh huỵch vất vả như tôi.
Tôi nhìn Phú ghẻ và nuốt nước bọt. Tôi không mong ước gì cao xa. Tôi ao ướt được chơi đàn hay ngang cỡ nó thôi. Đàn ngang cỡ nó, tôi đủ sức khiến Cẩm Phô "lé mắt". Cẩm Phô sẽ hết dám chê tôi để hết móng tay dài. Nó sẽ thẹn thùng xin lỗi tôi vì không am hiểu nghệ thuật nó đã trót chê tôi ăn ở mất vệ sinh. Tôi sẽ tha thứ và an ủi Cẩm Phô. Tôi sẽ bảo "có gì đâu". Nhưng trước sự rộng lượng của tôi, Cẩm Phô càng ray rứt. Nó cứ sụt sùi hối hận vì đã lỡ bôi bác một thiên tài âm nhạc. Cuối cùng, chẳng đặng đừng, tôi phải nâng đàn lên. Và cất giọng dịu dàng, tôi hát như ru bên tai nó:
- Thôi, em đừng khóc, em đừng khóc nữa làm gì.....
Những câu chuyện tôi hăm hở vẽ ra trong đầu, nói chung bao giờ cũng tuyệt! Nhưng để câu chuyện biến thành sự thật, tôi còn phải "lấy lòng" Phú ghẻ nhiều hơn nữa.
Tôi bảo nó:
- Mày ngồi đây nghen! Tao chạy đi đằng này chút!
- Đi đâu vậy ?
Tôi liếm môi:
- Tao chạy đi mua bánh mì cho mày.
Sự tử tế đột xuất của tôi khiến Phú ghẻ cảnh giác:
- Mày dịnh giở trò gì với tao vậy ?
Nói xong nó chợt hiểu ra, không đợi tôi trả lời:
- À, mày định bắt tao ở lại tập đàn cho mày tới tối chứ gì ?
Tôi gãi cổ:
- Tối đâu mà tối! Tập tới sáu giờ thôi!
Hai giờ đến sáu giờ không phải là khoảng thời gian ngắn ngủi. Nhưng một ổ bách mì nhét đầy thịt cũng không phải là thứ dễ từ chối. Nó đủ sức đè bẹp ý chí phản kháng của Phú ghẻ.
- Lẹ đi! - Cuối cùng, Phú ghẻ làu bàu.
Chỉ đợi có vậy, tôi cười hì hì và ba chân bốn cẳng phóng vù ra cổng.
Nhưng dù trấn áp được nhỏ Châu, gạt gẫm được nhỏ Thảo và "dụ khị" được Phú ghẻ, tài nghệ của tôi rốt cuộc vẫn không thành.
Vào một ngày không báo trước, ba tôi đột ngột xuất hiện và ông đứng dạng chân chắn ngang nẻo đường nghệ thuật của tôi. Lúc đó tôi đang ngồi ngoài vườn cặm cụi tập đánh nhịp theo cuốn "Tự học ghi-ta".
- Cái gì đây ? - Ba tôi ném cuốn tập xuống trước mặt tôi đánh "xoạch" một cái, giọng bốc lửa.
Tôi tái mặt nhận ra đó là cuốn bài tập Vật Lý của tôi. Thời gian gần đây, do mãi mê tập đàn, tôi chẳng buồn ngó ngàng gì đến bài vở. Chiều nào tôi cũng lẻn ra vườn ngồi gảy "chách chách". Sáng vô lớp tôi xách theo cuốn "Tự học ghi-ta" nhờ Phú ghẻ "phụ đạo".
Không học bài, cũng không chú ý nghe giảng, tôi đã dốt lại càng dốt. Nhưng tôi ỷ lại có Phú ghẻ bên cạnh. Nó là "ông thần hộ mạng" của tôi. Hôm nào có bài tập, tôi photocopy bài làm của nó thoải mái. Nhờ vậy tôi thoát hiểm nhiều lần.
Nhưng hôm làm bài kiểm tra môn vật lý vừa rồi, Phú ghẻ chơi tôi một vố đau điếng. Nó thình lình nghỉ học, bỏ về quê ăn giỗ. Trong khi nó ngồi rung đùi ở nhà ông cậu nó và đớp hết món xôi, tới món gà thì tôi ngồi trong lớp gặm cán viết hệt như chó gặm xương. Môn toán tôi học còn đỡ đỡ chứ vật lý với hóa học thì tôi "cạch mặt" từ lâu. Đã vậy, gần đây tôi mê môn "nhạc lý" hơn môn "Vật lý" nên bài tập kiểm tra đối với tôi chẳng khác nào cánh rừng Phi Châu, chẳng biết đường vô chỗ nào, lối ra ở đâu. Tôi xoay ngang xoay dọc cái đề bài một hồi và cuối cùng "tương" đại một vài dòng gọi là... "cho có với người ta". Chính nhờ "sức lao động" mà tôi bỏ ra khi ngệch ngoạc vài dòng "làm mẫu" đó, bài làm của tôi được lãnh "một gậy" thay vì lãnh "trứng gà" như trước nay.
Tôi đã giấu cuốn tập vật lý có cái "thành tích" mới nhất đó vào sâu trong ngăn bàn, tận dưới đáy chồng tập, không hiểu sao ba tôi lại "mò" ra dược.
Biết "sao quả tạ" đang chiếu tôi cuối gầm mặt nín thinh. Nhưng ba tôi không giống ba người khác. Tôi cãi, ông tức đã đành. Tôi nín, ông càng tức hơn.
Thấy tôi ngồi im chịu trận, ông lại gầm lên:
- Mày học hành như vậy hả, thằng đầu bò kia ?
Vừa nói ông vừa tiến lại gần tôi. Và khi nhác thấy cuốn "Tự học ghi-ta" nằm kế chân tôi, ông liền cúi xuống vồ ngay lấy:
- Hừ học bài không lo, lo học ghi-ta!
Rồi ông gằn từng tiếng:
- Này, tự học ghi-ta này! Tự học ghi-ta này!
Cứ mỗi tiếng "này" lại kèm theo một tiếng "soạt". Ông :"này" chừng năm tiếng, cuốn sách của tôi đã rách teng beng. Ông ném cuốn sách lên không trung, giấp vụn bay như bươm bướm.
Chừng như chưa đã giận, ông hầm hầm giật phắt cây đàn trên tay tôi. Thoạt đầu tôi định níu lại nhưng rồi không dủ can đảm, tôi đành buông tay phó mặc cho số phận.
Ba tôi xách cây đàn đi về phía hàng rào kế con hẻm và dang thẳng cánh quật nó vào trụ cổng bằng sắt.
Tôi ngồi một chỗ hồi hộp theo giỏi cơn thịnh nộ của ba tôi, nhưng đến khi ông hai tay nắm cần đàn giơ cao lên khỏi đầu chuẩn bị quật xuống, tôi không đủ bình tĩnh để chứng kiến hành động đó. Tôi nhắm mắt lại và nghe run lên khi cây đàn "răng rắc" trước khi tan ra thành từng mảnh.
"Hạ thủ" xong, ba tôi lẳng lặng bỏ vào nhà. Từ lúc giật cây đàn trên tay tôi đến lúc "hủy diệt" nó, ông tịnh không nói lấy một tiếng. Chỉ có mặt ông đầy giông bão.
Tôi ngồi lại ngoài vườn, lòng đau như xé.
Hôm nay ba tôi trước sau không "động thủ" với tôi. Tôi chẳng lãnh một cú thiết cước nào vào hạ bàn nhưng không vì vậy mà tôi ít đau hơn. Thậm chí so với nỗi đau thể xác, nỗi đau tinh thần còn lớn lao hơn nhiều. Lúc nãy, khi nghe những tiếng vỡ răng rắt vang lên, tôi cứ tưởng không phải cây đàn mà chính trái tim tôi đang rạn vỡ.
Thế là mộng ước của tôi trong phút chốc bỗng tan thành mây khói. Tôi chẳng bao giờ trở thành tay chơi ghi-ta ngang tầm cỡ Phú ghẻ. Tôi cũng chẳng có dịp nhờ cây đàn nói hộ lòng tôi trước mặt Cẩm Phô.
Trong lúc tôi đang ngồi ủ rũ trong bóng chiều chập choạng, mặt mày đờ đẫn như một con gà toi, thì sau lưng bổng vang lên tiếng bước chân lạo xạo. Rồi giọng nhỏ Châu sát bên tai:
- Làm gì anh ngồi buồn thiu vậy ?
Tôi chưa kịp trả lời thì nhỏ Châu đã phát hiện ra những mảnh đàn vỡ. Nó hạ giọng:
- Ba vừa ra đây hả ?
Tôi nghiến răng:
- Chứ còn ai nữa!
- Ba biết anh tập đàn từ lâu rồi chứ bộ!
Câu nói không đầu không đuôi của nhỏ Châu khiến tôi phải hỏi lại:
- Mày nói vậy nghĩa là sao ?
Giọng nhỏ Châu trầm ngâm:
- Sao mấy hôm trước ba chẳng nói gì, hôm nay tự dưng lại đập đàn?
Thắc mắt của nhỏ Châu khiến tôi ngậm tăm. Tôi len lén chộp cuốn bài tập vật lý đang ăn lóc trên cỏ nhét vào túi quần và đứng dậy bỏ đi một mạch.
Nỗi khổ của tôi không dừng lại ở đó. Tục ngữ có câu "Nạn vịt chưa qua, nạn gà đã tới".
Sáng hôm sau, vô lớp, tôi mới rầu rĩ kể cho Phú ghẻ nghe về "tai nạn nghệ thuật" của tôi hồi đầu giờ và nó chưa kịp chia buồn cùng tôi, cuối giờ tôi đã gặp một chuyện không may khác còn rùng rợn hơn.
Lúc chuông reo hết giờ vang lên, tôi và Phú ghẻ đang loay hoay lấy xe ngoài bãi, Liên móm thình lình trờ tới và nhìn tôi nhe răng cười:
- Chè bà Thường dạo này ngon quá hén?
Câu hỏi đột ngột của Liên móm làm tôi đứng chết trân. Phú ghẻ vốn là đứa lanh lẹ nhưng trước cú tấn công bất ngờ này cũng đành đực mặt, chưa kịp nghĩ ra cách nào "giải vây" cho tôi.
Cũng may mà Liên móm không đến nỗi, thất nhơn ác đức cho lắm. Thấy tôi sượng sùng, mặt đỏ tới mang tai, có vẻ như sắp sửa ngã lăn quay ra giữa sân trường, nó "hì" thêm một tiếng nữa và dắt xe đi thẳng.
Liên móm đi cả buổi rồi, tôi vẫn chưa hết thẩn thờ. Tôi kéo tay Phú ghẻ nép vào phía tường rào. Chờ đến khi tụi 10A2 về hết rồi, hai đừa mới thập thò dẫn xe ra.
Tôi đạp xe bên cạnh Phú ghẻ như người mộng du. Cứ nghĩ đến chuyện Liên móm đã biết tỏng tòng tong cái trò hẹn hò bí mật của tôi với Cẩm Phô, người tôi nóng bừng và ngứa ngáy như có hàng ngàn con kiến đang bò tới bò lui trong người. Một mình con nhỏ miệng móm đó biết, tôi đã muốn rởn gai ốc. Nếu nó cao hứng đi kể cho toàn trường nghe, chắc tôi phải nhảy xuống sông. Mà ai chứ con Liên móm thì dám công bố tội lỗi của tôi trước bàn dân thiên hạ lắm! Cái miệng của nó, lách chách suốt ngày, gặp những chuyện giật gân như thế này, dễ gì nó chịu để yên! Cứ nghĩ đến viễn ảnh kinh hoàng đó, bụng tôi lại giật thon thót.
- Lạ quá hén mày ? - Phú ghẻ lên tiếng phá tan sự im lặng.
- Lạ chuyện gì ? - Tôi hỏi lại, dù thừa biết Phú ghẻ định nói gì.
- Chuyện vừa rồi đó! Tại sao nhỏ Liên móm lại biết được chuyện riêng của tụi mày ?
Tôi chép miệng:
- Chắc Cẩm Phô nói.
- Cẩm Phô ? -Phú ghẻ sửng sốt.
- Chứ còn ai nữa! - Tôi nhún vai - Chỉ có nó là người trong cuộc!
- Không phải đâu! - Phú ghẻ kêu lên - Chính vì nó là người trong cuộc nên không ngu gì nó nói ra chuyện đó!
Bị Liên móm hạ một đòn nhằm ngay trọng huyệt, đầu óc tôi đâm ra mơ hồ đồ, mất hết sáng suốt. Từ nãy đến giờ tuy không nói ra nhưng tôi cứ đinh ninh Cẩm Phô chính là thủ phạm "xì" ra chuyện này. Và tôi oán nó thấu xương. Bây giờ nghe Phú ghẻ phân tích, tôi dần dần bình tĩnh trở lại. Ừ hén, chuyện hẹn hò trong quán bà Thưng mà vỡ lở, đâu phải riêng tôi cảm thấy nhột nhạt! Cẩm Phô là con gái, nó còn mắc cỡ hơn tôi gấp bội. Hơn nữa, rủi chuyện này đến tai ba mẹ nó, chắc chắn nó sẽ bị treo lên xà nhà ba ngày ba đêm, lơ lửng như con cá khô. Như vậy, dại gì nó hở môi cho Liên Móm biết.
Nhưng nếu Cẩm Phô không nói ra thì ai nói ? Ngẫm nghĩ một hồi, tôi liếc Phú ghẻ:
- Hay là mày ?
- Tao sao ?
- Mày "xì" chuyện này ra!
- Đừng giỡi chơi mày!
- Tao nói thật chứ giỡn chơi gì! - Tôi sầm mặt - Không phải Cẩm Phô thì là mày chứ còn ai!
Thấy mặt mày tôi bắt đầu hình sự, Phú ghẻ dạt xe ra xa và kêu lên:
- Tao không có nói à nghen!
- Chính mày! - Tôi khăng khăng.
Phú ghẻ nhăn nhó:
- Tao nói ra làm gì ?
- Ai biết! - Giọng tôi vẫn lạnh băng.
- Trời ơi là trời!
Phú ghẻ kêu trời đầy vẻ oan ức nhưng trước thái độ đổi bạn thành thù của tôi, nó không dám xáp lại gần. Nó chỉ lượn xa xa, miệng không ngớt than vãn:
- Tao mà nói, hà bá rút cẳng tao liền!
Nghe nó lải nhải suốt, tôi phát bực:
- Mày có câm họng lại cho tao nhờ không! Ngoài mày và Cẩm Phô ra, còn ai biết chuyện bí mật này nữa đâu!
- Còn! - Phú ghẻ sáng mắt lên.
- Còn cái mốc xì!
Phú ghẻ tươi như hoa:
- Thằng Cường nữa chi!
Phú ghẻ làm tôi chưng hửng. Không hiểu sao một nhân vật quan trọng như thằng Cường bỗng dưng tôi lại quên bẵng. Chính nó mới là người nắm vững bí mật của tôi hơn ai hết.
Cường không những biết rõ tôi và Cẩm Phô hẹn nhau trong quán bà Thường mà nó còn biết tụi tôi hẹn nhau mỗi tuần mấy lần, mỗi lần bắt đầu từ mấy giờ, mấy phút, mấy giây. Phú ghẻ mà không tiết lộ chuyện này ra thì thủ phạm nhất định là thằng Cường chứ không ai!
Về nhà, ăn qua loa vài chén cơm, tôi phóng ngay đến nhà Cường, bỏ cả nghỉ trưa.
Cường đang nằm trên bộ phản nghe nhạc. Thấy tôi, nó nhỏm dậy cười toe:
- Tối nay hẹn với em nữa hả ?
- Dẹp! - Tôi vào đề ngay - Tao định tới hỏi tội mày đây!
- Tội gì ? - Cường rụt chân lại.
Tôi quắc mắt nhìn nó:
- Mày nói gì với nhỏ Liên móm vậy ?
Cường ngơ ngác:
- Tao có nói gì đâu!
- Không nói sao nó biết?
- Biết chyện gì ?
Bộ tịch ngây thơ của Cường càng khiến tôi điên tiết. Tôi gầm lên:
- Thì chuyện tao với Cẩm Phô gặp nhau trong quán bà Thường chứ chuyện gì! Mày đừng có giả bộ.
- Trời đất! - Cường giơ hai tay lên trời - Ai thèm giả bộ với mày làm chi!
- Nếu mày không nói thì tại sao Liên móm lại biết? - Mắt tôi vẫn long lên sòng sọc.
Cường vẫn một mực kêu oan:
- Tao không nói thật mà! Có thể nó biết là do Thùy Dương kể lại ...
Đang nói, chợt nhận ra mình hớ, Cường tốp ngay lại. Nhưng đã trễ. Tôi chỉ tay vô trán nó:
- Lòi đuôi rồi hén! Như vậy là mày kể với Thùy Dương phải không?
Biết hết đường chối, Cường đành giả lả:
- Thật ra không phải tao kể ...
- Không mày thì ai vô đây ? - Tôi nổi dóa, gầm gừ.
- Ừ, thì là tao! - Cường ấp úng - Nhưng không phải tao cố ý ...
Tôi hừ mũi:
- Như vậy chắc là mày cố tình!
Cường gãi gáy:
- Tao không cố ý thiệt mà! - Rồi nó tặc lưỡi - Đầu đuôi cũng tại tao bắt chước mày!
Tôi tròn mắt:
- Bắt chước tao ?
Cường liếm môi:
- Ừ. Tao làm "liên lạc" cho mày, bật ngón tay riết thành quen. Đến khi hẹn hò với Thùy Dương , tao cũng chĩa chĩa ngón tay.
Đang giận, nghe nó nói tôi cũng phải phì cười.
- Nếu chỉ có vậy làm sao Thùy Dương biết được bí mật của tao ? - Tôi hỏi lại.
Cường nhún vai:
- Nhưng Thùy Dương không hiểu được ý nghĩa của thứ ngôn ngữ bí hiểm đó. Thấy tao giơ giơ ngón tay, nó trố mắt hỏi "Anh làm gì vậy?". Sợ nó tưởng tao bị bịnh phong giật, tao bèn giải thích cho nó hiểu và ngứa miệng nhận xét: "Cẩm Phô nhạy hơn Thùy Dương nhiều! Bữa cơm trước tôi chỉ bật ngón tay có một cái là Cẩm Phô hiểu liền!". Không ngờ tao vừa nói xong, Thùy Dương bỗng phát khùng lên, không thèm nhìn mặt tao.
Tôi gật gù ra vẻ hiểu biết:
- Mày khen Cẩm Phô thông minh hơn nó, nên nó tự ái chứ gì ?
- Không phải! - Cường thở dài - Cái chính là nó tưởng tao thường hẹn hò với Cẩm Phô. Thế là chẳng có cách nào khác, tao đành phải kể chuyện mày nhờ tao ...
Nghe Cường phân trần một hồi, lòng tôi bỗng nguội ngắt. Tôi chẳng còn muốn ăn tươi nuốt sống nó như dự định ban đầu nữa. Như vậy rõ ràng nó không cố ý làm hại tôi. Chỉ tại mấy ngón tay của nó ưa táy máy mà ra.
Tôi ra khỏi nhà Cường và lững thững đạp xe giữa trưa nắng. Nỗi giận hờn trong lòng tôi đã tiêu tan, thay vào đó là nỗi lo ngay ngáy. Chuyện hẹn hò của tôi, chỉ tưởng một hai người biết ai dè, đổ bể tùm lum. Thằng Cường kể cho Thùy Dương, Thùy Dương kể cho Liên móm, còn Liên móm đã ngứa mồm kể cho ai chưa thì chỉ có trời mới biết!
Ngày hôm sau cũng lập lại y ngày hôm trước. Lúc ra về, Liên lướt ngang qua chỗ tôi và Phú ghẻ đang đứng, cười hì hì "chè bà Thường ngon quá hén?", và lần này trước khi lảng ra xa, nó còn nháy mắt với tôi một cái đầy vẻ tinh quái.
Tôi u buồn nhìn Phú ghẻ:
- Giờ sao mày ?
- Sao là sao ?
Tôi nuốt nước bọt:
- Chẳng lẽ cứ đưa đầu chịu trận?
- Kệ xác nó! - Phú ghẻ khịt mũi - Mày cứ tảng lờ! Chọc chừng vài bữa là nó chán liền!
Tôi nhăn mặt:
- Nhưng vấn đề không phải ở chổ đó!
- Chứ chỗ nào ?
Tôi thở dài:
- Nó chọc riết, tao hết dám hẹn với Cẩm Phô!
- Thì mày nói với cẩm Phô! - Phú ghẻ hiến kế - Bảo Cẩm Phô dặn Liên móm đừng chọc mày nữa!
- Hay đấy! - Tôi gật gù, nhưng rồi tôi lại lắc đầu ngay - Nhưng tao vẫn thấy có cái gì đó không ổn! Đến nước này thì Liên móm có chọc hay không chọc, tao vẫn cảm thấy sao sao ấy! Đằng nào thì nó cũng biết tỏng chuyện bí mật của tao! Nó không cần mở miệng trêu tao, chỉ nhìn tao thôi, tao cũng đã muốn chui xuống đất rồi!
Phú ghẻ trầm ngâm. Có lẽ nó đã hình dung ra tình huống khó xử của tôi. Và chắc nó đang nghĩ kế. Tôi nhủ bụng và phấp phỏng đưa mắt nhìn nó như nhìn một bậc thần tiên chờ phép lạ.
Bậc thần tiên vừa nghĩ ngợi vừa một tay lái xe một tay gãi ghẻ sồn sột. Mãi một lúc, nó mới lên tiếng:
- Vậy mày với Cẩm Phô đừng hẹn nhau trong quán bà Thường nữa!
Tôi chưng hửng:
- Không hẹn ở đó thì hẹn ở đâu ?
Phú ghẻ chép miệng:
- Tao cũng không biết!
Bậc thần tiên làm tôi xuôi xị:
- Nói như mày thì nói làm cái cóc gì!
Nghe tôi trách, Phú ghẻ chẳng nói gì, mặt nó chạy dài xuống.
Mãi đến khi sắp tới nhà nó mới day sang tôi:
- Cái đó mày phải hỏi Cẩm Phô ấy! Tụi con gái bao giờ cũng thông minh hơn con trai tụi mình!
Nhìn Phú ghẻ dắt xe lên lề, bỗng dưng tôi phát hiện ra nó vừa nói một câu chí lý. Thật tôi chưa thấy đứa nào ... ngu như nó.
Nguồn: docsach.mobi