11/12/12

Trong rừng nho (C11-12+CK)

Chương 11

Từ biệt phố Mã, Xuân Hương cùng Thận Trung, mỗi người một cáng, lẽo đẽo lên phủ Phủ Bình.
Đường núi quanh co, rậm rừng gai góc, hai người tuy ngồi trên cáng, không phải chạy bộ bước nào, nhưng mỗi khi lên đèo xuống dốc, ai nấy đều thấy như dốc ngược người đi. Dù vậy mặc lòng, hai người vẫn đều vui vẻ, không lấy gì làm ngại. Là vì ở đất đô hội, nhìn cảnh phồn hoa đã chán, nay được ngó cảnh đường rừng, cũng như vào chơi một thế giới khác, càng đi càng thấy nhiều vẻ đáng yêu.
Ngày thì chật vật trên đường, đêm vào ngủ trọ trong các thung lũng, dân Thổ dân Mán tưởng hai người là quan khách ở đường xuôi lên có việc gì, hò đều thừa tiếp một cách cung kính. Hai người tuy không thích vậy, nhưng cũng giả cách làm lơ, không dám nói thật rằng mình đi chơi.
Chừng năm, sáu ngày gì đó, đôi cáng nghễu nghện đến hạt Phủ Bình. Trước mặt bỗng hiện một trái núi lớn. Hỏi ra mới biết đó là ngọn núi Độc Tôn, chúa tể của đám núi Tam Đảo, Xuân Hương liền hỏi Thận Trung:
- Trong dãy núi này có một cổ tích, mình có biết không?
Thận Trung mỉm cười:
- Khinh nhau làm gì vậy? Mình còn biết, huống chi tôi.
Xuân Hương cũng cười:
- Cổ tích thế nào, mình thử nói cho tôi nghe.
- Di tích của Nguyễn Danh Phương chứ gì! Trong đời Cảnh Hưng, Danh Phương kéo quân chiếm trái núi này làm nơi sào huyệt để chống lại với triều đình vua Lê. Bấy giờ ông ta làm đúng như một vị đế vương, cung lâu đài dựng ở trên núi rất nhiều, đồn ải dinh trại ông khắp các miền chung quanh. Lương thực khí giới, ông ta chứa cả ở đồn Ngọc Bội. Đó là nội đồn ở gần chân núi, rồi đến đồn Hương Ngạch gọi là trong đồn, ngoài nữa là đồn Ục Kỳ, gọi là ngoại đồn. Lại còn vô số chi đồn, rải rác đóng ở các nơi khác. Cứ như các cụ truyền lại, thì quí mô của ông ta xếp đặt cũng khá vững chãi. Ruộng nương trong vùng này đều bị ông ta tịch biên, sai quân cày cấy lấy thóc để nuôi tướng sĩ. Những sản vật miền thượng du như: chè, sơn, nứa, gỗ, chì, kẽm, vân vân đều bị ông ta chiếm cả. Lúa gạo, của cải tích ở các đồn nhiều lắm. Ba hạt Lâm Thao, Tam Đại, Đà Dương đều vào tay ông ta, quan quân nhà Lê lên đánh mấy năm, lần nào cũng thua liểng xiểng. Qua năm Canh Ngọ triều đình sai Phạm Đình Trọng thống lĩnh đại quân kéo lên. Ông này là tay danh tướng, biết cách hành binh.
Lúc quân trẩy, ông ấy chia ra làm bốn đạo quân, đồng thời tiến vào.
Nói đến đây, Thận Trung mở ống thuốc lá cuốn một mồi thuốc, chàng lấy đá lửa đánh lửa châm thuốc, vừa hút vừa tiếp:
- Trước hết ông Phạm đem quân đánh đồn Ục Kỳ và chiếm luôn được đồn ấy. Các tướng bên kia thấy đồn Ục Kỳ đã đại bại ai nấy mất vía, đồn Hương Ngạnh chưa bị đánh chác gì cả, quân sĩ tự nhiên tản chạy... Ông Phạm thừa thế, tiến lên đánh đồn Ngọc Bội, quân của ông Phương phải rút lên núi Độc Tôn, quan quân lại đuổi lên tận sườn núi, đánh nhau ở đó một trận dữ lắm, quân ông Phương thua to, đêm ấy ông Phương phóng hỏa đốt hết nhà cửa kho đụn, rồi cùng các tướng đi trốn, ông Phạm tức thì đốc quân đuổi theo. Tới huyện Lập Thạch, ông Phương bị bắt.

Dứt mạch, chàng thở khói thuốc trong miệng, hài mắt lờ đờ nhìn Xuân Hương:
- Có phải câu chuyện thế không? Hay là tôi có nói sai chỗ nào?
Xuân Hương vẫn cười:
- Phải! Đúng thế. Kể ra ông Nguyên Danh Phương cũng là một tay anh hùng đấy chứ!
- Anh hùng lắm! Chẳng may gặp tay ông Phạm định Trọng, ông Phương mới bị tan tành. Nếu không có khi ông ta làm vua cũng nên.
Xuân Hương cười chế riễu:
- Mình bảo làm vua thì khó khăn gì. Tôi xem các vua mở nước đời trước lúc đầu phần nhiều là anh kẻ cướp, vây cánh mỗi ngày mỗi to thì họ làm giặc. Giặc mà đắc thế thì họ làm vua. Nói cho đúng anh nào bạo tay giết người, ấy là anh ấy làm vua, chẳng phải tài đức gì cả.
- Thì vẫn thế! Có lạ gì đâu? Nhưng, bạo tay giết người cũng là một cái tài của họ. Nếu bảo không phải là tài thì sao tôi với mình từ xưa đến giờ chưa giết được ai.
Xuân Hương ra vẻ lả lơi:
- Thôi đừng nói phiếm. Hãy lên trên núi coi thử di tích của ông Quận He ra sao.
Hai người liền bảo phu cáng kẻ ôm võng, người vác đòn theo mình lên núi.
Thoạt tiên hai người đến thăm dấu vết cung điện của Nguyễn Danh Phương. Tuy cái sào huyệt của viên đại tướng nay cây cối đã um tùm, cỏ gai rậm rạp, chỉ là hang tổ của giống cáo giống cầy, nhưng, trong những đám tro than đen xám, còn có thể nhận ra di tích lâu đài. Hai người ngậm ngùi than tiếc cho đời oanh liệt của ông chúa tể đường rừng, rồi cùng trở xuống đi xem mấy nơi Ngọc Bội, Hương Ngạnh và Ục Kỳ. Nhìn qua dấu tích của những dinh trại kho tàng còn lại, chàng và nàng đều phục Danh Phương là người thao lược, không kém những vua mở nước đời xưa. Thơ thẩn với núi rừng ít lâu, hai người lại cùng xuống núi, đêm ấy cả hai cùng ngủ trong một nếp nhà sàn ở chân làng Ngọc Bội. Hôm sau, Thận Trung chừng như đã mệt, muốn về Hà Nội nghỉ ngơi, Xuân Hương không nghe, nàng muốn lên phủ Thông Hóa viếng cảnh Ba Bể luôn thể. Bốn anh phu cáng cáng hai người từ phố Mã tới đó cũng đã nhọc lắm, thấy nói lên phủ Thông Hóa ai nấy đều sợ xanh mặt, họ bèn nói dối là không biết đường. Xuân Hương liền bảo thổ dân thuê hộ bốn người phu khác, trả tiền công cho bốn người này để họ trở về.
Từ Ngọc Bội lên Thông Hóa đường đi rất xa và rất hiểm trở, người ở miền xuôi ít ai đã biết lối đi. Chỉ có thổ dân suốt đời luồn rừng, thì họ mới thuộc. Tuy ở đường rừng, ít khi có người đi cáng nhưng bọn thổ dân sức lực khỏe lắm, hai người khiêng một mà họ lên đèo xuống đèo thường nhẹ tênh tênh.

Vừa đi vừa xem phong cảnh rừng rú, có đêm ngủ luôn trong rừng, len lỏi luồn rúc gần một tháng trời, hai người mới lên đến châu Bạch Thông. Phu cáng đưa chàng và nàng vào nghỉ trong nhà một viên quan lang, sáng mai, Thận Trung bèn bảo quan lang cho người khiêng đôi song loan đưa chàng và Xuân Hương lên núi Côn Lôn coi cảnh Ba Bể.
Ba Bể là một cảnh lạ, thỉnh thoảng cũng có người ở đường xuôi lên coi, cho nên dân thổ cũng có sẵn song loan để đưa người ta lên núi. Mỗi cái song loan phải hai người khiêng, chàng và nàng mỗi người ngồi vào một cái, đường núi dốc như bức tường, mới trông tưởng là không thể lên được, thế mà mấy anh phu khiêng song loan leo trèo rất tài, họ không phải bám phải víu gì hết, anh nào anh ấy cứ việc ngay lưng mà đi, ngồi trên song loan nhìn xuống chân họ, chẳng khác con mèo leo cột nhà vậy. Đường núi khuất khúc như hình chữ "chi", từ chân núi đến định núi không thể một ngày mà tới, quan lang đã nói trước như vậy, nên chàng và nàng đã bảo họ sắp sửa lương thực đem theo, tiện đâu ăn đấy. Lên tới lưng núi thì trời vừa tối, hai người và lũ dân phu phải ngủ lại đó. Hồi ấy tuy đã trung tuần tháng ba, nhưng ở trên núi khí hậu vẫn còn hơi lạnh, chàng và nàng phải bảo lũ phu bẻ lá cây làm đệm mà nằm cho ấm. Sáng dậy, trời còn lờ mờ, dân phu đã giục hai người phải lên song loan, vì họ đã thuộc độ đường, phải đi luôn từ bây giờ thì đến quá trưa mới tới Ba Bể. Sự định liệu của họ rất đúng, chàng và nàng lên đến giữa núi, mặt trời đã xế về tây. Sau khi nghỉ ngơi ăn uống, chàng và nàng dắt tay nhau đứng ngắm hình thế của dãy Côn Lôn.
Núi này phát mạch từ xứ Tuyên Quang chạy thẳng đến châu Bạch Thông. Thân nó mọc ra rất nhiều nhánh ngang, nhánh nào cũng thẳng như tường đứng, ngọn núi mà chàng và nàng lên đó là ngọn núi cao nhất trong các ngọn, đỉnh nó chót vót giữa trời, xưa nay chưa ai lên được, chỗ chàng và nàng đứng coi mới ở giữa núi. Trong một tảng đá cao thẳm thình lình có một cái hang cao độ ba trượng, rộng độ trượng rưỡi, dài độ mười trượng, ở trên có nhiều nhũ đá rủ xuống, trông như bức tranh năm sắc, thật là một nơi thần đẽo qủy gọt, hơn hẳn nhân tạo.

Hang này quanh năm vẫn có nước suối chảy ra, đứng dưới trông lên trắng xóa như tấm lụa bạch. Các sách địa dư thuở trước, đều nói suối ấy phát nguyên tự bên Tàu, qua phủ Cao Bằng đến châu Bạch Thông rồi đổ ra đó. Không biết có đúng vậy không. Từ trong hang này đi ra, nhánh bên hữu là xã Tiên Loan có một cái bể, nhánh bên tả là xã Hải Vũ có hai cái bể. Hết bể sang tới địa hạt Tuyên Quang, bên kia cũng là một làn nước. Giữa chỗ hai làn nước ấy giáp nhau, có cái bờ đá ngăn cách, thuyền bè không thể đi qua. Mỗi cái bể đó, chu vi ước chừng hai dặm hoặc ba dặm, quanh bể toàn là núi đá, cạnh núi, xóm làng thổ dân ở khắp bốn mặt, chỗ thì nước, chỗ thì đá, chỗ thì cây cối um tùm, trong bề lại có những hòn núi đá nhỏ ẩn hiện giữa lớp sóng cồn. Khi ấy gió im, sóng lặng, thuyền chài bơi lên bơi xuống, phấp phới khắp các nơi, chàng và nàng thơ thẩn đứng coi, dường như ai nấy đều không biết chán. Xuân Hương chỉ tay xuống bể và nói:
- Trông bể, núi liệu có thật là kỳ công của tạo hóa?
Thận Trung chưa kịp nói sao, một người phu bộp chộp vội hỏi:
- Hai ngài có biết vì đâu có những bể này hay không?
Chàng và nàng đều lắc đầu:
- Chúng tôi không biết! Những bể ấy vì đâu mà có?
Người dân phu ra bộ đắc ý:
- Vì một bà long thần. Các cụ ở đây vẫn thường nói rằng: Đời xưa, mấy làng ở vùng Nam Mẫu mở hội làm chay, lập đàn thí thực to lắm. Người ở các nơi đến xem rất đông, thình lình có một bà già quần áo rách rưới, thân hình bẩn thỉu trốn vào đám xin ăn. Người làng lấy làm ghê tởm, thi nhau mắng đuổi bà lão. Bà lão cố ngồi từ sáng đến tối, không được miếng gì, lại phải chống gậy đi ra. Tới giữa đường gặp hai mẹ con nhà nọ cũng ở làng. Nam Mẫu, bà lão kể hết tình đầu.

Mẹ con nhà kia ngậm ngùi than thở mà rằng: "Khốn nạn? Bà đã tiều tụy thế này, mà sao người ta không thương? Tội nghiệp. Thôi đây, tôi còn vài bát cơm tối chưa ăn, bà hãy xơi cho đỡ đói". Bà lão ăn mày tức thì ăn hết cả mấy bát cơm, mẹ con nhà kia vui vẻ mà về sắc mặt chưa hề có vẻ oán hận. Đêm hôm ấy, bà lão ăn mày lại đến tận nhà kia bảo rằng: "Lúc chiều nhà bà nhường cơm cho tôi, thật là một người nhân đức. Tôi đi từ bấy đến giờ vẫn không có chỗ nào ngủ, bà đã làm phúc thì hãy làm phúc cho trót, xin bà cho tôi ngủ nhờ một đêm, sáng mai tôi xin đi sớm". Mẹ con nhà ấy lấy làm vui lòng, liền mời vào nhà nhường giường cho bà lão ngủ, cả hai mẹ con cùng nằm dưới đất. Nửa đêm nghe tiếng ngủ ngáy ầm ầm như sấm, mẹ con bà kia bảo nhau đốt đèn lên soi. Không thấy bà lão ăn mày tâu cả, chỉ thấy cái xác con rồng lớn độ vài mét nằm dài thườn thượt giữa nhà. Mẹ con nhà này sợ quá, tức thì tắt đèn đóng cửa đi ngủ, không dám đánh tiếng. Sáng mai trở dậy, lại thấy bà lão ăn mày nằm đó, không thấy con rồng đâu nữa? Mẹ con bà này biết rằng bà lão ăn mày không phải là ngườí thường, liền đến trước mặt thụp xuống vái lạy. Bà lão ăn mày thỏ thẻ bảo rằng "Ban ngày ta đi xem hội, trong hội toàn là những kẻ "khẩu phật tâm xà", không ai ra gì. Chỉ có mẹ con nhà mụ, còn có một chút từ tâm, vậy ta làm phúc cứu cho ra khỏi bể "trầm luân". Mẹ con bà này càng sợ, cứ việc vái lạy xì xụp, không dám ngẩng lên.
Bà lão ăn mày lại nói: "Nay mai chi đây, hễ thấy có sự gì lạ, mẹ con nhà mụ phải mau mau đem nhau lên mãi sườn núi mà ở, không được chậm trễ phút nào, nếu chậm thì chết, không ai cứu được". Dứt lời, bà lão ăn mày biến mất. Mẹ con nhà kia thấy vậy càng khiếp, ai nấy tin rằng lời nói của bà cụ ấy tất nhiên sẽ có ứng nghiệm. Quả nhiên cuộc hội chưa tan, thì ở một khu ruộng cạn tự nhiên thấy có mạch nước phun lên. Mạch ấy lúc đầu bằng cái cổ tay, chỉ trong nháy mắt, nó đã loét bằng cái cống, nháy mắt nữa thì bằng cái chuôm, lại nháy mắt nữa thì bằng cái hồ, chưa đầy nửa ngày đã thành ba cái bể đó. Hết thảy dân cư trong vùng đều bị chìm xuống đáy bể chết cả, chỉ có mẹ con bà nọ sống sót Là vì hai người ấy nhờ có bà lão ăn mày báo trước, từ khi mới thấy nước phun, mẹ con đã dắt nhau chạy lên đến sườn núi. Thế là cả vùng Nam Mẫu, đàn ông đàn bà còn được hai người. Về sau, hai người ấy, con lấy vợ, mẹ lấy chồng, sinh con đẻ cháu, nẩy nở mỗi ngày mỗi nhiều, thành ra nhân dân trong vùng Nam Mẫu bây giờ.
Người dân phu nói luôn một mạch không nghỉ, dường như sợ rằng nghỉ, sẽ bị người khác cướp lời của mình, làm cho Xuân Hương và Thận Trung không thể nói xen vào chỗ nào được. Khi ấy hết chuyện, anh ta mới tạm dừng một phút để thở một hơi, rồi anh ta nói nốt câu kết:
- Như vậy hai ông bảo có lạ không?
Thận Trung nửa cười:
- Lạ lắm!
Rồi chàng ngoảnh nhìn Xuân Hương:
- Ở trên vùng này chắc có người đọc Công dư tiệp?
Xuân Hương lắc đầu:
- Không chắc! Hoặc giả người soạn Công dư tiệp ký đã nghe những chuyện truyền văn ở vùng này cũng nên.
Hai người lần lượt đi dạo vài nơi quanh bể, ngắm nghía phong cảnh. Xuân Hương muốn thuê một chiếc thuyền chài chở ra bể chơi. Bỗng đâu gió Nam nổi lên, các mặt bể sóng đánh cồn cộn, bao nhiêu thuyền chài đều phải rát vào ven bờ.
Bốn bề mây kéo tối sầm. Chiều trời mỗi lúc mỗi thêm u ám, bọn phu song loan sợ đổ mưa, liền giục hai người trở xuống, tìm chỗ gốc cây ẩn nấp, chàng và nàng đều phải quay lại lối cũ. Thận Trung chỉ xuống chân núi và bảo Xuân Hương:
- Cứ kể từ đây xuống đến chân núi cũng không xa lắm, thế mà phải đi gần hai ngày trời là nghĩa lý gì!
Xuân Hương đáp:
- Thì đường đi quanh co như thế, một bước sôi ra ba, bốn chục bước, trách nào mà chẳng đi xa thêm. Giả sử có con đường khác thẳng hơn một chút, thì đâu đến nỗi phải đi vằn vèo như vậy?
Đi một quãng nữa, Thận Trung lại nói:
- Chỗ này là một cảnh đẹp, văn nhân mặc khách ai trông thấy cũng phải say mê. Bây giờ hạt này còn là rừng rú những kẻ đương đại, không biết thưởng thức thắng cảnh cho nên họ không sửa sang. Nhưng con cháu chúng ta sau này tất nhiên cũng phải có kẻ mở mang đường lối, khiến cho du khách tiện sự đi lại.
Xuân Hương gật đầu:
- Cái đó có lẽ. Cảnh đẹp tức là cái mồi nhử người, dù nó ở xứ hẻo lánh, người ta cũng phải tìm đến. Tây hồ bên Tàu, đời Tô Đông Pha, còn là một chỗ hoang vu, chỉ để đày người có tội, thế mà ngày nay đã trở thành một nơi phồn hoa...
Câu chuyện đương dở, cả bọn đã tới chỗ cũ, dân phu mời hai người lên song loan để họ khiêng xuống.
Chẳng bao lâu, đến nhà quan lang. Xuân Hương muốn ở lại để xem một vài nơi nữa. Thận Trung sợ rằng ở đó lâu ngày sẽ bị ngã nước, hai người bèn cùng lên cáng trở về đường xuôi.

Tới huyện Kim Hoa, hai người vừa đỗ cáng vào hàng uống nước, trước quán bỗng có cái võng đòn cong do hai người lính áo nẹp khiêng đến, đằng sau lại có hai người cắp tráp xách điếu đi sau. Đến cửa quán, đòn võng hạ xuống, trên võng, một người khăn thâm, áo chùng, ra bộ nho học bệ vệ bước xuống. Thận Trung vội nhìn xem ai, thì ra một người học trò cụ Nghè Hoàng, cùng bạn đồng học với mình, vừa đậu Hương Cống khoa trước. Giữ lễ giao thiệp, chàng liền đứng dậy vái chào, ông Cống chỉ sẽ gật đầu một cái, rồi nghiêm trang bước vào, ngồi lên cái ghế cao nhất trong quán. Hai đứa đầy tớ cung kính đệ điếu và tráp đến tận trước mặt.
Thấy cử chỉ ấy, Thận Trung cũng như Xuân Hương, ai nấy đều giận đầy tiết, nhưng còn cố nhịn và đều ngồi vào chiếc ghế cạnh chõng bán hàng. Sau khi hút thuốc uống nước một cách trịnh trọng, ông Cống nhìn mặt Thận Trung mà hỏi:
- Trông thầy hình như quen quen?
Thận Trung cười khinh bỉ:
- Ngài chóng quên nhỉ? Tôi là thằng Trung họ Đàm đây mà!
Ông Cống càng làm ra bộ nghiêm nghị:
- À phải? Thầy không nói thì tôi không nhớ? Tôi nghe văn thầy cũng khá, làm sao không đậu?
Thận Trung giả cách cung kính:
- Bẩm tôi quên sách nhiều quá!
- Đó là tại thầy không chịu học. Phải cố học đi mới được!
- Tôi cũng muốn học, nhưng mà lắm chỗ quên lú không biết hỏi ai, hiện giờ cũng có câu không biết chữ ở sách nào, tiện thể gặp ngài, xin ngài làm ơn bảo cho?
- Câu gì?
Thận Trung khép nép đứng dậy chắp tay:
- Bẩm ngài cái câu "xê ra cho bà đun bếp" xuất xứ ở đâu?
Ông Cống hằm hằm đỏ mặt, đứng phắt dậy và nói lẩm bẩm:
- Quân vô hạnh. Rồi mày sẽ biết tay tao.
Tức thì ông Cống lên võng, giục lính khiêng đi cho chóng.

Chương 12

Mấy hôm nay Thận Trung đã khá nhiều lắm.
Chàng đã cất cơn nóng lạnh, ăn, ngủ gần bằng cũ. Nét mặt cũng đỡ xanh xao. Xuân Hương bấy giờ mới hơi vui lòng.
Hôm mới mắc bệnh, chàng sợ ở đó có điều bất tiện cho nàng, nên đã bảo nàng thuê cáng đưa mình về quê.
Nhưng nàng không nghe, nhất định giữ chàng ở lại.
Nàng cũng biết rằng giữ chàng ở lại tất nhiên láng giềng, hàng phố, ai cũng bảo mình nuôi trai trong nhà, nhưng nàng không sợ những tai tiếng đó. Bởi vì, theo ý nàng sự tâm đầu ý hợp đã dắt hai người ăn chung ở lộn trong bấy nhiêu lâu, thì với nàng, chàng tức là "chồng" không phải là "trai", nàng nuôi chàng chính là nuôi chồng, không phải nuôi trai.
Người ta bảo nàng nuôi trai, chẳng qua chỉ tại nàng không có trầu cau biếu họ, không có cỗ bàn thết họ, để trình cho họ hay rằng "tôi đã là vợ người này". Chồng cũng được, trai cũng được, ai có miệng thì nấy cứ nói, mình đã yêu chàng quý chàng, coi chàng là người tri kỷ, trong lúc khỏe mạnh, xa nhau một ngày cũng còn khó chịu, huống chi chàng đương đau yếu... Hơn nữa, cái sự đau yếu của chàng lại bởi tại mình ép chàng lên chơi xứ Thái, xông pha trong đám hơi rừng khí núi đến mấy tháng trời, thế thì mình để chàng về quê sao đành?
Nghĩ vậy, nàng mới để ngoài tai những tiếng thị phi, quyết chí lưu chàng ở nhà để mình chạy chữa. Cố nhiên bệnh ngã nước chưa phải bệnh nguy hiểm đến không thể chữa được, nàng vẫn biết thế, thế mà mỗi khi thấy chàng lên cơn, run lẩy bẩy, rên hừ hừ, thì nàng lại lo canh cánh, chỉ sợ chàng chết, mất ăn, mất ngủ vì chàng đến mấy chục ngày. May thay gặp thầy gặp thuốc, bệnh chàng mỗi ngày một lùi, bụng nàng cũng mỗi ngày mỗi yên.
Hôm ấy, chàng thấy trong mình đã mạnh, mới sai con Nụ nấu nước để mình tắm gội, Xuân Hương mỉm cười bảo chàng:
- Tắm làm gì vội? Tôi tưởng các ông nhà nho vẫn có đức "hà tiện nước", hằng năm không tắm cũng vẫn chịu được kia mà, mình mới nghỉ tắm độ vài chục ngày đã thấm vào đâu!
Thận Trung cũng cười:
- Tôi chỉ là một người có biết chữ, có đọc sách, không phải nhà nho. Mình nên nhớ rằng: trong đám học trò chúng tôi, có người là nhà nho, cũng có người không phải nhà nho. Đại khái những người đã đọc sách nho, lại làm ra bộ ta theo đạo nho, như cụ Nghè Hoàng hay cụ Nghè Đặng và những đệ tử đắc đạo của các cụ ấy thì mới gọi là nhà nho, còn tôi, tôi đọc rất nhiều thứ sách, sách Lão, sách Trang, sách Đường, sách Mặc... Nội sách chư sử, tôi đều đọc qua không phải riêng một sách nho. Việc làm của tôi, có khi giống đạo nho, cũng có khi trái hẳn đạo nho, sao mình lại bắt tôi phải là nhà nho. Nhắc lại cho mình lần nữa: tôi không phải nhà nho, từ rày trở đi đừng đem thói xấu của nhà nho mà gán vào tôi.
Xuân Hương vẫn cười:
- Vậy thì tôi đem thói tốt của nhà nho mà gán cho mình, mình có bằng lòng hay không?
- Không! Tôi không thích thế. Cái gì không phải tự tôi làm ra, không khi nào tôi lại nhận lấy, việc tốt cũng vậy, việc xấu cũng vậy. Bởi vì không có mà nhận, nhận cái xấu tức là giả dối, nhận cái tốt tức là ăn cắp.
Mình đã không phải nhà nho, làm sao hôm nọ tôi chê nhà nho, mình lại cứ bênh chằm chặp...
- Đó là lẽ đương nhiên! Nhà nho cũng có người tốt, có người xấu, không nên vì một vài người tốt mà khâm phục nhà nho, cũng không nên vì một vài người xấu mà mạt sát nhà nho. Tôi bênh nhà nho là bênh cái danh nghĩa của một phái người, không phải bênh những ông lên mặt ta là nhà nho.
Nghỉ một lát, chàng lại nói tiếp:
- Nói cho đúng, cụ Nghè Hoàng, cụ Nghè Đặng và những ông Nghè, ông Cống cùng một tính nết như hai cụ ấy cũng không thể gọi là nhà nho.
- Sao vậy?
- Các cụ ấy chỉ cứ bệ vệ làm bộ để lấy danh vọng đó thôi. Thực ra những việc của các cụ ấy đã làm, những ý của các cụ ấy vẫn nghĩ chẳng có cái đúng như đạo nho. Nhưng những cụ ấy mà dám nhận là nhà nho.

Thế thì gọi các cụ ấy là "nhà" gì được?
Nhà "hương nguyện". Giả sử Khổng Tử sống lại, chắc ngài cũng không thèm nhận các cụ hương nguyện ấy vào đám nhà nho.
Con Nụ nấu nước tắm đã xong, nó lên giục chàng xuống tắm.
Lúc ấy đã gần đến trưa, tuy rằng đương tiết tháng sáu, trời nắng chang chang, nhưng ở thư phòng của Xuân Hương, gió nam ở dưới hồ Tây đưa vào hây hẩy. Nàng đứng trước cửa, nhìn những bông sen đương nở trong hồ, và thưởng thức mùi hương theo gió bay lên trên gác, mơ màng ôn lại những ngày vui, buồn vừa qua, bỗng chốc nhớ đến mấy câu đầu chuyện Hoa tiên nàng ngâm:
- Vựng khởi nguy lan nạp nán lương,
Thu phong vi tông bạch liên hương
Thận Trung Tắm xong, vừa lên, chàng liền đọc theo:
- Giao tri thiên thượng giai kỳ cận
Chức nữ kim dạ hội Ngưu lang
Rồi chạy đến trước cửa, vỗ vai nàng, chàng đọc lại câu cuối lần nữa:
- Chức nữ kim dạ hội Ngưu lang.
Nàng nhìn chàng bằng đôi mắt tình tứ:
- Vừa mới ốm dậy. . .
Chàng không trả lời, liền dịch bốn câu Hoa tiên mà nàng và chàng mới ngâm ra bốn câu thơ nôm:
- Tựa lan, bóng mát, ngắm trời chiều,
Gió quạt mùi sen bát ngát theo,
Nhớ chửa, trên trời sắp có tiệc
Đêm nay ả Chức gặp chàng Ngưu!

Rồi chàng vờ hỏi:
- Phải không nhỉ! có phải đêm nay ả Chức gặp chàng Ngưu không nhỉ?
- Nửa tháng nữa!
Dưới cửa có mụ hàng mít đi qua, nàng bảo con Nụ ra mua một quả. Lễ mễ ôm quả mít lên gác, con Nụ lắc đầu nói với cô chủ:
- Mít còn xanh lắm chưa thật chín, chưa ăn được!
Xuân Hương gắt mắng:
- Sao mày không lấy quả thật chín?
- Thưa cô, quả này chín nhất đấy, những quả kia còn xanh hơn nhiều.
Quay lại, Thận Trung xoay vần quả mít, quả nhiên hãy còn xanh lắm, vỗ tay vào vỏ, chỉ thấy bành bạch, không thấy bồm bộp! Xuân Hương liền sai con Nụ đem xuống nhà dưới đóng cọc vào cuống và phơi ra nắng cho nó chóng chín.
Thận Trung vui cười bảo nàng:
- Mình giỏi thơ nôm, thử vịnh quả mít một bài tôi xem.
Nàng cười và đọc:
- Thân em như thể mít trên cây,
Da nó xù xì, múi nó dầy

Rồi nàng bỗng cười rũ rượi, không đọc được nữa.
Thận Trung ngạc nhiên hỏi:
- Cười gì dữ vậy?
Nàng vẫn cười không trả lời. Một lúc lâu; nàng vừa bưng miệng vừa đọc nốt hai câu nữa:
- Quân tử có yêu thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
Thận Trung cũng phá lên cười:
- Thế cũng thơ với thẩn! Thơ thẩn gì mà nhả nhớt như vậy! Thế mà người ta chê là đĩ thõa lại còn kêu oan!
Nàng vẫn vừa cười vừa nói:
- Ô hay, tôi vịnh quả mít như thế! Sao mình lại chê nhả nhớt? Những chữ "đóng cọc", "mân mó", "nhựa ra tay" là chữ "nhả nhớt" hay sao?
- Cố nhiên những chữ ấy không phải là chữ nhả nhớt, nhưng ở miệng mình nói ra, thì nó hóa ra nhả nhớt tức thì.
Vừa nói, chàng vừa sẽ ôm lấy nàng hôn luôn mấy cái. Một trận gió nồm thổi vào cửa gác, bức màn trên phất phơ rung động, làm tan cuộc ái ân. Xuân Hương đứng dậy chạy ra án sách, mài mực tẩm bút chép luôn mấy câu thơ mít vào tập thì cảo, Thận Trung vội ngăn:
- Thơ thế mà cũng chép lại, mình không sợ đời sau chê cười hay sao?
- Nếu sợ tôi đã không làm, đã làm thì tôi không sợ ai khen mặc ai, ai chê mặc ai. Vả chăng, mình đã làm ra, thì cứ chép lại để cho đời sau phẩm bình, can gì mà phải giấu giếm.
Chàng cũng phục nàng là người can đảm và thực thà.
Cách vài hôm sau, Thận Trung đi chơi thăm mấy người bạn, khi về, chàng đưa cho nàng cái thư của một người sắp sửa cưới vợ, mời chàng đến mừng, và nói:
- Con trai ông Cống lấy con gái ông Nghè, đám cưới chắc là to lắm.
Nàng đọc hết thư rồi bình tĩnh hỏi:
- Mình có định đi mừng hay không?
- Có chứ? Chỗ anh em chí thân! Người ta đã mời không đi thì còn ra thế nào?
- Thế thì mình còn câu nệ, không xét thấu lẽ phải.
- Sao vậy?
- Trai lấy vợ, gái lấy chồng, chỉ là một sự rất thường, không phải lạ lùng gì cả! Thật thế, mình thử nghĩ mà xem, có âm dương thì có vợ chồng, đến như giống chim giống chuột cũng đều có vợ có chồng tất cả, chẳng riêng gì một giống người. Vả lại, việc vợ chồng cua loài người nó cũng là việc cần có của đức dâm dục, cũng như đói phải ăn, khát phải uống, làm sao gọi là việc vui mừng, bầy ra lễ nọ lễ kìa cho phiền?
- Theo ý mình, vợ chồng lấy nhau không phải lễ nghĩa, cũng không phải mừng mõ gì cả?
- Chính thế. Dạm là cái gì, hỏi là cái gì, đưa dâu đón rể là cái gì? Chẳng qua cổ nhân vô sự, cũng vẽ ra thế cho hay, giống như phường trò vẽ ra một vở trò vậy. Loài người cần phải đôi nào vào đôi ấy, là tránh cho khỏi nạn loạn dâm. Đã vậy, tôi bằng lòng mình, mình bằng lòng tôi, chúng ta cứ việc ăn nằm với nhau, sinh con đẻ cái với nhau, chỉ cần báo cho mọi người biết rằng tôi với mình đã kết thành đôi với nhau, đừng ai ngấp nghé sánh đôi với chúng ta nữa, dạm, hỏi, treo, cưới, đưa dâu, đón rể, ý nghĩa chỉ có như vậy. Thế thì tìm cách gì khác mà báo cáo với người ta, há chẳng tiện hơn, can gì phải bày ra ăn uống mừng mõ!

Thận Trung cười tình:
- Thế thì tôi với mình không cần phải thêm gì nữa, cứ thế này thì cũng đủ thành vợ thành chồng đấy nhỉ?
- Đủ rồi. không phải vẽ vọt thêm nữa. Miễn là chúng ta suốt đời yêu nhau.
- Nhưng mà thiên hạ chê cười thì sao?
- Mặc kệ, chúng mình cho thế là phải thì chúng mình cứ thế, mà còn như cái chê, khen của người đời chẳng biết lấy gì làm bằng. Người ta cười chúng mình không cưới không hỏi là không biết lễ, chúng mình có quyền cười lại những kẻ có cưới có hỏi, có đứa đưa dâu đón rể là ngu, không biết phán đoán hay dở, chỉ nhắm mắt theo liều cổ nhân.
Thận Trung bỗng đùa âu yếm:
- Thế thì ở trong đời này, nhất mình đến tôi, thánh hiền đời xưa cũng không bằng!
- Chứ gì. Thánh hiền đời xưa, phần nhiều chỉ là người đặt ra, mắc cái thói quen. Chúng ta nay cũng xướng xuất cho thiên hạ đời sau một việc, thì chúng ta cũng là thánh hiền chứ sao.
Từ đó hai người nghiễm nhiên làm vợ làm chồng với nhau không còn e lệ gì hết.
Dần dà sang đầu mùa thu, Thận Trung ngỏ ý muốn vào Nghệ An thăm viếng quê quán của nàng, luôn thể đi xem các nơi sơn thủy ở vùng trong. Nàng rất hoan nghênh việc đó, và nói một cách ỡm ờ:
- Ngã nước suýt chết vì sơn thủy đường ngược vẫn không chừa, lại muốn đi xem sơn thủy đường trong nữa.
- Chơi sơn thủy cũng như đọc sách vở, đều là việc rất cần của văn nhân. Cổ nhân có nói: "Trong bụng không có ba vạn cuốn sách, trong mắt không có non nước lạ lùng ở gầm trời, chưa chắc đã viết được văn, dù có viết văn, cũng chỉ là lời của đàn bà trẻ con mà thôi". Tôi cho câu ấy rất đúng.

Hôm sau, Xuân Hương thuê hai cái cáng để chàng và nàng cùng đi. Lần này nàng ăn mặc đàn bà, chứ không ăn mặc giả trai như lần lên chơi Thái Nguyên.
Thận Trung không dám ngăn nàng, trong bụng cũng hơi e lệ, vì chàng vời nàng tuy là vợ chồng nhưng không hỏi không cưới, thì đôí với người ngoài, vẫn là một đôi trai gái. Vô cớ dằt gái đi chơi tránh sao khỏi những tiếng mai mỉa của bạn bè. Nàng hiểu ý chàng như vậy. Song cũng giả vờ làm thinh.
Sắp sửa đồ đạc xong rồi. Hai người lên hai cáng, theo đường thiên lý đi về phía Nam.
Phong ải dọc đường nhiều chỗ đã lưu chàng và nàng phải quyến luyến bồi hồi không thể dứt đi thoát.
Khi qua huyện Kim Bảng, hai người xuống cáng dắt nhau lên thăm dãy Long Đội, rồi cùng sang núi Kẽm Trống.
Núi này ở chỗ giáp giới của hai xứ Sơn Nam và Thanh Hoá. Hai bên hai cái sườn núi giáp nhau, giống như hai cái trái đùi, ở giữa có một giòng nước rất hẹp, hình thể coi cũng lạ lùng. Trông ở tấm đá đỉnh núi có vết chữ đục, nhìn kỹ là thơ của Chúa Trịnh đề vịnh trong khi đi tuần miền Tây, Thận Trung liền bảo Xuân Hương:
- Mình giỏi thơ, thử đề một bài thi với chúa Trịnh xem sao!
- Mình muốn tôi đề thơ nôm hay thơ tự.
- Nôm cũng được, tự cũng được, miễn là thơ hay.
Nàng không nghĩ ngợi liền đọc:
- Hai bên thì núi, giữa thì sông,
Có phải đây là Kẽm Trống không
Gió đập cành cây khua lắc rắc,
Sóng dồn mặt nước vỗ lòng bong,
Thận Trung nói xen:
- Chưa hay. Hai câu thứ ba thứ tư tả trái núi khác cũng được, không sát với cảnh Kẽm Trống.
Nàng lại đọc tiếp:
- Ở trong hang tối hơi còn hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.

Thận Trung vẫn chê:
- Cũng chưa hay. Trong hẹp, ngoài rộng, cái hang nào mà chẳng thế, cứ gì Kẽm Trống.
Nàng vờ phát cáu:
- Thế nào mình cũng chê là không hay, tôi phải kết cho thật hay mới được.
Rồi nàng đọc nốt:
- Qua... cửa mình ơi nên ngẫm lại,
Nào ai có biết nỗi bưng bồng.
Thận Trung cười:
- Chữ cửa đặt liền với chữ mình tục, thì tục, chứ hay thì không hay. Có điều cũng hơi tài, và chỉ riêng mình có cái tài ấy. Làm sao đề vịnh cảnh gì, mình cũng vẽ ra cái "phải gió" ấy được?

Chương kết

Sau khi để lại Kẽm Trống tám câu thơ nôm, Xuân Hương và Thận Trung lại nghênh ngang đôi vòng, theo đường thiên lý vào phủ Trường An.
Chừng bốn, năm ngày tới bến đò Dán, thì trời đã chiều, mặt trời lùi xuống phía Tây, trên dãy rừng Ngang, phủ một làn mây đỏ ối. Bây giờ đã nửa mùa thu, lá vàng tơi tả rụng khắp mặt nước ven đường. Thận Trung sực nhớ một bài trong tám bài thu hứng của Đỗ Phủ, chàng liền dịch ra tiếng Nôm và đọc cho Xuân Hương nghe:
- Trường An nghe nói tựa bàn cờ
Ngẫm việc trăm năm luống ngẩn ngơ
Nhà cửa đức ông đều chủ mới
Áo xiêm quan lớn khác thì xưa
Đồn canh ải thoắt vang hồi trống
Quân tẩy miền tây rộn lá thơ
Lạnh ngắt sông thu rồng cá lặn
Mối tình nước cũ gợn lòng tơ.

Xuân Hương mỉm cười:
- Thơ dịch như thế, kể cũng đúng và khéo lắm. Tiếc rằng mình đã làm một việc vô vị.
Thận Trung không hiểu ý nàng, chàng ngơ ngẩn hỏi:
- Đã khéo lại vô vị là nghĩa làm sao?
Xuân Hương vẫn cười:
- Bài thơ ấy Đỗ Phủ nói về Trường An của Tàu, có dính dáng gì đến Trường An của ta? Sao mình lại lôi nó vào trong cuộc đi chơi Trường An ngày nay.
- Bởi vì nhân lúc chúng mình chơi phủ Trường An, lại gặp giữa tiết mùa thu, tôi chợt nhớ đến bài thơ ấy, nên thử dịch chơi, có phải là tôi tức cảnh cuộc chơi của chúng mình đâu!
Hai người bèn vào nhà trọ, một lát thì trời vừa tối. Sáng mai, để phu cáng ở lại nhà trọ, chàng và nàng tự đi thuê một chiếc thuyền theo dòng sông Dán xuôi thẳng xuống huyện Gia Viễn thăm động Hoa Lư, kinh đô của vua Đinh Tiên Hoàng. Một hòn núi đá chót vót nổi trên bờ sông Điềm, hình thế chỗ ấy tuy có hùng vĩ, nhưng nó chỉ đáng làm chỗ sào huyệt của giặc cỏ, không đáng làm nơi kinh đô của ông vua. Xuân Hương thoạt nhìn thế núi, thế đất, nàng liền bảo với Thận Trung:
- Cái người đã có sức dẹp nổi mười hai sứ quân, lấy được đất nước, làm sao lại đem kẻ chợ đóng vào một chỗ chật hẹp và hẻo lánh thế này? Xem thế biết thì lão ấy liệu đáng kể là vua một nước?
Thận Trung nói:
- Nước ta bắt đầu độc lập là tự ông ấy.
- Chỉ nên gọi là lãnh chúa.
Rồi hai người lên bộ, thuê chiếc thuyền nan, bơi vào trong núi. Núi có ba ngọn, hai ngọn bên cạnh, một ngọn giống như hình người, gọi là núi ông Trạng, một ngọn giống như cái hòm, gọi là núi hòm Sách, động Hoa Lư ở vào chính giữa, cửa động không sâu lắm, nhưng thân động thì cũng khá sâu. Thăm qua hang núi, hai người dắt nhau lên sườn núi tìm dấu kinh đô của Đinh Tiên Hoàng. Hình như trải qua thời gian, mưa gió đã mài mòn hết sự nghiệp của ông vua mở nước bằng cờ lau, di tích lâu đài thuở xưa, nay không thể nhận ra, sườn núi chỉ thấy có mấy gian đền lụp xụp, trên thờ Đinh Tiên Hoàng, dưới thờ Lê Đại Hành, giữa thờ mụ Dương Hậu, Thận Trung nhìn khắp trong đền thấy đôi câu đối:
- Vân hội nhất ư thiên,
Đê Tông hoàng bào,
Đê Việt long cổn
Anh linh đồng thử địa,
Hoàng Đinh thượng miếu,
Hoàng Lê hạ từ.

Chàng chỉ tay bảo Xuân Hương:
- Người nào nghĩ hai câu ấy móc máy soi mói, kể cũng chua chát lắm nhỉ?
Xuân Hương cười nhạt:
- Theo ý tôi, móc máy soi mói như thế cũng quá đáng.
- Sao vậy? Một người vợ vua, chồng chết đi phải lòng trai, lại đem cả nước của chồng cho trai, thế mà mình bảo không đáng soi mói thì thế nào nữa mới đáng soi mói?
- Phải, theo luân lý của nhà nho, Dương Hậu vẫn là có tội. Nhưng cái tội ấy, có thể tha thứ. Bởi vì, như tôi vẫn nói, trời sinh loài người ai ai cũng có nết dâm dục, nó bắt người ta phải bạo lực khó chịu trong khi bị thiếu thốn về đường tình, cũng như thiếu cơm thì thấy đói thiếu nước thì thấy khát vậy. Gái góa chồng không khác trai góa vợ, nếu còn trẻ tuổi, ai không vì đường tính thiếu thốn mà bạo lực khó chịu? Cớ sao trai chết vợ thì được lấy vợ, mà gái chết chồng lại bắt người ta phải suốt đời giữ cái phòng không? Đó là một điều vô lý. Thế thì Tiên Hoàng chết đi, Dương Hậu vẫn được phép đi phải lòng trai, việc ấy là việc rất cần của bà. Còn như chuyện đem nước của chồng cho trai lại càng không đáng trách bà. Lúc ấy con trai Tiên Hoàng đã không ra người, trong nước lại bị quân Tống kéo sang đánh phá, nếu không có Lê Hoàn chống lại thì nước của Tiên Hoàng cũng mất về Tống, chớ còn sao được? Vả lại, hồi ấy bao nhiêu binh quyền đều ở trong tay Lê Hoàn, Lê Hoàn cứ việc cướp lấy cũng không có ai cản nổi, thà cho ông ta còn được tiếng là người tri cơ. Hơn nữa, nước của Tiên Hoàng cũng là đất cát của trời sinh ra, Tiên Hoàng giỏi nghề binh đao, dành được của kẻ khác, có phải là nước của Tiên Hoàng đúc nặn ra đâu? "Nhất điện thiên vạn chừ", ruộng của nhà này có thể bán cho nhà khác.
Xuân Hương nói một thôi dài, làm cho Thận Trung không tìm được lẽ cãi lại, chờ nàng dứt câu, chàng liền tủm tỉm cười nụ mà rằng:
- Tư tưởng của mình kể cũng lạ đấy. Nhưng tôi nghe mình nói không khỏi phát phiền.
- Việc gì mà mình phải phiền?
- Giả sử tôi chết, chắc mình cũng phải lòng trai.
- Cái đó đã hẳn. Nếu có tiếc tôi thì mình đừng chết. Mà nếu như mình chẳng may phải chết, thì còn giữ tôi làm gì.

Hai người cùng cười ầm lên. Mặt trời tà, họ mới cùng xuống núi, ra sông, xuống thuyền ngược về phủ Trường An.
Ánh trăng vằng vặc chiếu xuống làn nước xanh lè, cảnh đêm trên sông cực kỳ xinh đẹp, chàng và nàng ngồi trên mạn thuyền ngắm nghía phong cảnh. Dưới những đám mây lơ lửng, núi non cao thấp chạy khắp bốn mặt, chẳng khác bốn bức họa đồ, càng nhìn càng không biết chán. Đêm khuya, hai cô lái đò chừng đã mỏi mệt buồn ngủ, thỉnh thoảng lại điểm một vài câu hát để làm nhịp cho đôi mái chèo. Giọng trong tiếng tốt khúc hát đầy những ý vị ngây thơ, khiến cho chàng và nàng càng thêm hứng thú.
Gần sáng, thuyền đến phủ lỵ Trường An, hai người nghỉ ngơi, rồi cùng thuê thuyền xuống thăm cảnh chùa Non Nước. Bước lên sườn núi, Thận Trung nhìn bài thơ của Trương Hán Siêu khắc trên tảng đá, chàng mới đọc được hai câu:
- Sơn sắc chính y
Y du nhân hồ bất qui.
Bỗng chàng rùng mình một cái, sắc mặt tái mét, phải ngồi phục xuống tảng đá, chân tay run như cầy sấy.
Sợ quá, Xuân Hương bảo lái thuyền vực chàng xuống thuyền đưa về nhà trọ. Thì ra bệnh sốt rét ngã nước ngày trước tuy khỏi nhưng chưa triệt nọc, khi ấy vì chàng đi đường vất vả, dầu dãi sương gió, lại thêm thức luôn mấy đêm không ngủ, cho nên nó lại phát ra.
Xuân Hương lại dùng phương thuốc hôm xưa vò cho chàng uống, nhưng lần này không thấy công hiệu, luôn bận năm ngày, chàng uống hết chừng bốn năm bát vẫn không cất cơn. Sợ ở nhà trọ nhiều điều bất tiện, nàng bèn thôi việc vào thăm quê hương, bảo phu cáng, cáng chàng và mình trở về Hà Nội.
Gió thu hiu hiu đưa khí lạnh từ nẻo rừng núi phía tây trở về, càng làm cho Thận Trung to thêm cơn bệnh.
Tuy rằng chàng vẫn nể nàng, không dám rền rẫm than thở, nhưng mỗi khi cơn bệnh nổi lên, sức chàng không hãm nối, thường thường rung chuyển cả võng.
Tới phủ Lý Nhân, nàng bảo phu cáng đỗ cáng để chàng vào quán nghỉ tạm. Mụ quán thấy chàng mặt mũi xanh xao, đoán là chàng sốt rét, mụ liền mách nàng lấy mấy viên thuốc của một thầy lang gần đó, và nói quyết rằng: "chỉ uống một lần là khỏi". Xuân Hương xưa nay không tin bọn lang vườn, nàng cho họ là đồ vô học, không biết nghề thuốc là gì, uống thuốc của họ không khỏi có sự nguy hiểm, nên nghe mụ nói, nàng chỉ cảm ơn không nhận lời. Thận Trung lại khác, chàng cũng không tin bọn lang vườn vô học, nhưng lại tin những thuốc gia truyền, chàng vẫn cho rằng: "những thuốc gia truyền đều là thứ thuốc đã quá nhiều lần kinh nghiệm mà tìm ra được, phần nhiều rất có công hiệu." Bởi vậy, chàng cứ giục nàng đi lấy mấy liều để chàng uống thử, dù không khỏi cũng không hại gì.
Chìu chàng, nàng bèn nhờ mụ hàng lấy giúp cho một liều. Uống thuốc xong, chàng lại lên cáng giục phu cáng đi. Xuân Hương luôn luôn cho cáng của mình đi kèm ở bên cạnh chàng, nàng chỉ canh cánh lo chàng lầm thuốc, chẳng ngờ thuốc ấy hay thật, hôm ấy Thận Trung không lên cơn, hôm sau cũng không thấy cơn lên, chàng được yên lành về đến Hà Nội.
Cố nhiên nàng lại đón chàng vào luôn nhà mình dưỡng bệnh, không dám để đi đâu.
Chàng vừa lên gác nằm nghỉ chưa đầy nửa giờ, ngoài cửa bỗng thấy có tiếng ầm ầm, rồi đến tiếng đập cửa thành thành, rồi đến tiếng gọi dữ dội:
- Thằng Đàm Thận Trung muốn sống xuống mà chịu tội! Mau mau!
Giật mình, chàng vội trở dậy hé cửa trông ra. Dưới cả một bọn chừng ba chục người toàn là học trò, kẻ cầm sào gậy, người thừng trạc ai nấy nét mặt hằm hằm ra bộ tức giận. Đi đầu bọn đó, lại có mấy ông cụ già đầu bạc phơ phơ: cụ Nghè Hoàng, cụ Nghè Đặng và ông Đồ Đàm bác ruột Thận Trung.
Chàng không hiểu vì sao hai cụ Nghè Hoàng và ông cụ Đồ bác mình lại đem học trò đến xỉ vả mình như thế, lúng túng chàng bảo Xuân Hương đừng mở cửa vội thử xem họ làm trò gì.
Thì ra trong khi chàng lên cáng đi với Xuân Hương, học trò cụ Nghè Hoàng có kẻ trông thấy, liền về mách luôn với thầy. Nghe tin ấy, cụ Nghè Hoàng lấy làm tức giận, và lại thẹn rằng: trong môn đồ có kẻ đi theo con đĩ , làm nhục thanh gia của mình. Lúc đầu, cụ định họp cả học trò tại trường để kể tội Thận Trung rồi xóa tên chàng trong số môn sinh, không nhận là học trò nữa. Sau vì cụ Nghè Đặng nói ra nói vào, cho rằng trị tội Thận Trung như thế còn là quá nhẹ. Theo ý cụ phải bắt Thận Trung đánh cho một trận nhừ tử, thì mới có thể răn được kẻ khác. Câu nói như thổi vào ruột cụ Nghè Hoàng, tức thì cụ viết thư mời ông Đồ Đàm đến nhà mình, kể hết tội trạng Thận Trung cho nghe. Ông đồ cũng xấu hổ vì có đứa cháu hư thân làm cho điếm nhục gia thanh, luôn hôm ấy ông nhờ cả học trò của hai ông Nghè đi rình Thận Trung xem chàng ở đâu, chẳng may cho chàng, vừa về đến Hà Nội, người ta báo ngay cho hai cụ Nghè và ông Đồ biết.
Khi ấy cả lũ học trò gọi mãi không thấy Thận Trung xuống gác, họ bèn bảo nhau cậy cửa kéo vào.
Thận Trung không còn đường nào chạy, chàng liền bị họ trói lại điệu xuống. Xuân Hương biết chừng không thể cứu nối, nàng bèn giả cách làm lơ, chờ cho bọn kìa dẫn chàng ra khỏi nhà mình, tức thì nàng đến nhà ông Chiêu Bảy nhờ ông nghĩ cách cứu cho chàng. Vừa may gặp ông Chiêu Tám cũng có ở đó, hai ông nghe nói Thận Trung, ai cũng thương hại và tức giận mấy cụ kia. Ngay lúc ấy, các ông dẫn nhau ra phường Đồng Xuân, đón đường mấy ông cụ ấy để xin giùm cho Thận Trung. Không những các cụ không nghe, lại mắng thêm cho hai ông Chiêu một trận tàn nhẫn.
Hai ông Chiêu cũng không chịu nhìn, cùng nhổ vào mặt hai cụ Nghè và mắng:
- Các anh chỉ làm cho nhục nhà Nho.

Nguồn: truyenviet.com