11/12/12

Trong rừng nho (C9-10)

Chương 9

Ánh nắng êm dịu qua cửa sổ chiếu vào khuôn gương treo trên tường vôi, trong thư phòng đầy vẻ tưng bừng ấm áp.
Xuân Hương đứng trước giá gương, ngắm nghía bóng mình và những bông hoa đào trên lọ chiếu xuống, những cánh hoa đào, hết thảy tươi cười hớn hở, như sung sướng vì được đứng bên cạnh một trang giai nhân.
Bỗng nàng nghĩ đến hai câu cổ thi: "tích niên kim nhật thử môn trung, nhân diện đào hoa tương ánh hồng", lẩm bẩm nàng khen là thơ rất hay, rồi nàng tự nghĩ: "Tuy vậy. . . vẫn không ra dáng đàn ông, nếu gặp một người tinh mắt, họ cũng có thể nhận biết rằng mình cải trang, vì đôi má hồng và nước da trắng nõn vẫn cố hiện cái bản tướng của nó. Thình lình nhìn lên bộ ngực, đôi vú dậy thì vẫn cứ phồng phồng ra ngoài, tuy nàng đã mặc một lần áo kép. Nàng bụng bảo dạ: "lại còn cái của "mất dậy" này nữa, bây giờ làm thế nào mà dẹp được nó?" Tức thì nàng mở rương lấy thêm một tấm áo bông mặc phủ ra ngoài. Con Nụ vừa ở dưới chạy lên, thấy nàng, nó phát kinh ngạc mà hỏi:
- Thưa ông, ông ở đâu lại chơi có việc gì xin ông cho biết?
Nàng cố nín cười không được, tủm tỉm nàng nắm bàn tay chặn vào lỗ mũi để nói cho ra giọng người lạ:
- Tôi ở Thanh Hóa. . .
Mới nói được bấy nhiêu tiếng con Nụ đã nhận ra tiếng cô chủ, nó liền cười rũ cười rượi:
- Trời ơi ! Cô giả dạng khéo quá, con vẫn tưởng là ông khách nào. Những quần áo ấy cô lấy ở đâu ra thế?
Xuân Hương chưa trả lời, nó lại nói tiếp:
- À phải rồi! vẫn bộ cánh cô may độ trước để đánh lận xông vào trường thi, con tưởng cô đã đem cho ông Nguyễn Cao Đệ mất rồi, vẫn còn đấy ư?
Nhìn vào giá gương lần nữa, nàng lại mỉm cười và hỏi:
- Mày trông có giống đàn ông hay không?
- Giống lắm. Chẳng giống sao con lại lầm. Nếu cứ ăn mặc như thế mà đi ra ngoài, có lẽ khắp cả Hà Nội không ai nhận ra cô nữa.
Vui vẻ nàng dặn con Nụ ở nhà coi nhà, rồi nàng đi luôn xuống phường Đồng Xuân.
Lớp học buổi sáng đã tan, học trò đâu về đấy hết, trong trường cụ Nghè Hoàng lúc ấy đã thấy vắng teo.
Nàng đứng ngấp nghé ngoài cổng, chờ mãi mới thấy một cậu bé con tung tăng chơi ở giữa sân. Nàng gọi cậu đó ra cổng mà bảo:
- Nhờ cậu vào trình cụ Nghè: có người ở Thanh Hóa ra, muốn vào hầu cụ.

Cậu vui vẻ chạy vào, chừng nửa giờ sau mới thấy trở ra trả lời:
- Cụ bảo tên thầy là gì, thầy hãy nói cho cụ biết.
Nàng liền nói với cậu đó cho mượn cái bút có tẩm mực sẵn. Rồi nàng móc túi lấy mảnh hoa tiên trong túi, viết tấm danh thiếp như sau: "Vãn sinh, Thanh Hóa ngoại chấn sinh đồ Phạm Khắc Kính bái yết", rồi trao tấm danh thiếp cho cậu học trò, nàng dặn:
- Cậu cầm cái này vào trình cụ Nghè dùm tôi.
Mãi nửa giờ sau, cậu học trò ấy tất tả chạy ra và nói:
- Cụ bảo mời thầy vào chơi trong nhà!
Sửa lại nếp khăn và vuốt các tà áo cho thật ngay ngắn, nàng theo cậu bé cung kính vào trong nhà học.
Cụ Nghè ngất nghểu bắt chân chữ "ngũ" ngồi trên ghế ngựa quang dầu, chừng như mới ăn cơm xong, trong miệng hãy còn cái tăm đương ngậm. Thấy nàng cụ vẫn ngồi ỉm không hề nhúc nhích. Lễ phép, nàng bước vào trong bực cửa và chắp hai tay lại chào. Khi nàng vừa ngẩng đầu lên, thì vừa thấy cụ rút tăm đặt xuống án thư, chìa bàn tay phải chỉ vào dãy ghế bên cạnh và nói:
- Thầy ngồi!
"Lão này kiêu ngạo đến thế này, thật là quá quắt, thế mà thiên hạ cứ đổ xô vào học, không biết họ định học lấy cái gì".
Nghĩ vậy, nàng lại cố nén cơn tức, xin lỗi cụ rồi khúm núm ngồi vào chỗ ghế mà cụ đã chỉ.
Lâu lâu, thấy cụ lên giọng đạo mạo:
- Mày đâu, lấy nước thầy đồ xơi nước?
Một tiếng dạ rất nhịp nhàng từ phía sau nhà kéo dài đến tận cửa hậu, một cậu học trò vào khoảng mười hai, mười ba vội vàng đến trước án thư nghiêng ấm bình tích rót độ lưng chén rón rén đệ vào chỗ nàng ngồi:
- Mời ông xơi nước ạ?
Rồi cậu ấy lại rón rén đi ra đằng sau.
Mùi hoa sói lẫn mùi chè nụ theo khói đưa ra ngào ngạt. Nàng lại lễ phép đứng dậy:
- Cụ ban nước, chúng con xin bái lĩnh!
Cặp môi nhăn nheo sẽ mấp máy trong bộ râu bạc phất phơ và đưa ra hai tiếng vắn cộc:
- Không dám!
Rồi cụ lại bắt chân chữ ngũ ngồi im. Nàng đã uống cạn chén nước, cụ vẫn không nói không rằng.
Một lúc nữa, chòm râu bạc lại thấy rung rung. Cụ ngoảnh nhìn nàng và hỏi:
- Thầy ra thăm tôi có việc gì!
Nàng vội đứng dậy gãi tai và đáp:
- Dạ, bẩm cụ chúng tôi nghe tiếng...

Vừa nói đến đấy, ngoài cửa nghe tiếng người "lạy thầy" rất ròn rã làm cho nàng phải ngừng lại và đưa mắt trông ra. Đàm Thận Trung nhanh nhẩu bước vào với cái dáng bộ kính cẩn. Theo lệ mọi ngày, chàng ấy ngồi lại dãy ghế bên kia đối mặt với Xuân Hương.
Im lặng một lúc nữa, cụ lại quay mặt sang phía Xuân Hương và nhắc lại câu nói vừa rồi:
- Thầy vào thăm tôi có việc gì không?
Nàng cũng lễ phép nói nốt một câu đương nói dở:
- Dạ bẩm cụ, chúng con được nghe tiếng cụ là bậc đạo cao vọng trọng, cho nên chẳng quản đường xá xa xôi, nhất bái, để xỉn cụ chỉ giáo cho một vài điều về cách lập thân xử thế, chúng con lấy làm đội ơn.
Se sẽ giơ tay vuốt mấy sợi râu trắng xóa, cụ rung đùi ra cách tự đắc:
- Làm sao thầy biết tiếng ta?
Nàng đáp:
- Dạ, bẩm cụ, danh vọng của cụ ngày nay, thật chẳng khác gì núi Thái Sơn, sao Bắc Đẩu, trong cánh sĩ lâm ái cũng nói đến, chúng con nay mới được biết cũng là muộn lắm.
Cụ lại ngậm tăm xỉa răng, một hồi, rồi nói:
- Thầy muốn hỏi tôi về cách lập thân xử thế ?
- Dạ.
- Thầy biết nghĩ vậy thì cũng khá đấy! Năm nay thầy bao nhiêu tuổi?
- Dạ, bẩm cụ, chúng con đã hai nhăm tuổi.
- Ừ đương lúc niên thiếu lực cường. . . Thầy đỗ sinh đồ từ năm nào?
- Bẩm cụ, chúng con mới đậu khoa trước?
- Năm nay thầy không đi thi?
- Dạ, bẩm có. Nhưng chúng con hỏng ngay từ kỳ đệ nhị.
- Năm nay các đầu bài thi cũng nhẹ cả mà? Sao thầy lại hỏng đệ nhị? Chắc thầy kém về tứ lục!
- Dạ.
- Thế thì thầy phải cố công rèn tập để đến khoa sau lại thi.
- Dạ.
- Làm người học trò, ai ai cũng mong thi đỗ, nhưng theo ý ta, đỗ hay không đỗ, cái đó chưa quan hệ lắm. Cần nhất phải giữ cho phẩm hạnh đoan chính cái đã. Nếu như phẩm hạnh không ra gì, thì càng đỗ to bao nhiêu, lại càng làm hại dân nước bấy nhiêu, Vương Án Thạch, Lã Di Đản đều đỗ Trạng nguyên cả đấy, thế mà chỉ vì phẩm hạnh bất chính, làm càn làm bậy, muôn đời mang tiếng là kẻ gian thần, các thầy đọc sử, chắc cũng biết cả.
- Dạ bẩm, chúng con cũng nghĩ như thế nên phải tìm đến cửa cụ, mong cụ chỉ đường dẫn lối, cho con được rạng mặt thêm ra.
- Tôi không phải là thánh hiền gì đâu. Nhưng tôi học sách thánh hiền đã nhiều, biết theo ý của thánh hiền, từ một việc làm đến một câu nói, tôi không dám sai lời thánh hiền bao giờ...
- Bẩm cụ, đối với ngày nay, cụ thật là một cây cột đã đứng vững giữa dòng nước chảy?

Cụ lại vuốt râu mà cười ha hả:
- Thầy cũng biết như thế à? Được! Cho thầy ngồi.
Xuân Hương lại khiêm tốn ngồi vào chỗ cũ. Cụ Nghè ngảnh mặt sang phía Thận Trung và bảo:
- Anh Trung hãy sang bên này mà ngồi. Đó là thầy Phạm Khắc Kính, sinh đồ ở Thanh Hóa ngoài, thầy ấy với các anh cũng là chỗ thanh khí với nhau tất cả.
Thận Trung cố sức nhịn cho khỏi cười, rồi chàng đứng dậy rón rén đi sang bên này cúi chào Xuân Hương và ngồi vào cùng ghế nàng. Cụ Nghè lại trông Xuân Hương rồi nói:
- Thầy chắc không biết anh này là ai?
- Dạ bẩm không.
Đó là anh Đàm Thận Trung học khá nhất trường tôi, bài tập tứ lục trong mấy kỳ này của anh ấy tối đều phê "ưu" cho cả. Sau này nếu thầy muốn giỏi tứ lục, thì phải ở cùng với anh ta.
- Dạ, chúng con cũng ước ao được thế.
Cụ lại trông mặt Thận Trung và nói một cách thẻ thọt:
- Tứ lục của anh thì khá, nhưng tính nết của anh hãy còn chưa chín. Những chuyện bông phào lấc cấc, rất có hại cho sĩ hạnh, anh nên tự biết mà chừa dần đi, chớ để cho thầy mang tiếng.
Thận Trung vội dạ một tiếng rất lễ độ, cụ Nghè lại tiếp:
- Thầy đồ Thanh Hóa muốn hỏi ta về cách lập thân xử thế, ấy là thầy đã biết nghĩ, có thể dạy được. Tiện thể ta nói cả cho anh Trung cùng nghe: Trong sự tu thân, cốt nhất là phải chính tâm thành ý, ở sách lại học đã nói: "Muốn làm rõ rệt "đức sáng" của mình ra gầm trời, trước hết phải trị nước mình, muốn trị nước mình, trước hết phải tẩy nhà mình; muốn tẩy nhà mình, trước hết phải sửa thân mình; muốn sửa thân mình; trước hết phải chính lòng mình; muốn chính lòng mình, trước hết phải thật ý mình. Thật ý mình là gì? Nghĩa là lúc nào cũng vậy, ý nghĩ của mình cứ phải thật thà dù rằng trong lúc đêm khuya, trong nơi người vắng, không có ai biết, mình lại dối mình, các thầy nghe chưa?"?
Hai người cùng "dạ" ; cụ Nghè nhấp giọng một hớp nước nụ, thở một hơi dài, lâu lâu cụ ra mặt buồn rầu và thêm:
- Bây giờ thói đời mỗi ngày mỗi kém, lặng người không giống ngày xưa, thiên hạ chỉ đua nhau đi về đường điêu trá gian ngoan, không coi lễ, nghĩa, trung, tín là cái gì cả. Thấy vậy, ta rất lấy làm lo phiền.
Hai người cúi mặt im lặng, như có ý để tai nghe ngóng, cụ bỗng chép miệng một cái, rồi nói ra dáng tức giận:
- Nhất là cái thành Hà Nội lại càng tệ hại hơn các nơi khác. Bởi vì ở đây là đất phồn hoa đô hội, người ta chỉ biết vụ lợi, không biết trọng nghĩa, cho nên nhân tâm lại càng kiêu bạc.
Rồi cụ sai cậu học trò đánh đá lấy lửa, giắt mồi thuốc lào vào nõ điếu ống: cụ vít xe điếu hút sòng sọc mấy tiếng.
Giây lát, cụ nhìn Xuân Hương và hỏi:
- Thầy đồ Thanh Hóa có biết con Hồ Xuân Hương ở ngoài này không?
Xuân Hương vội làm ra vẻ nghiêm nghị:
- Dạ, bẩm cụ, chúng tôi có nghe thấy anh em nói chuyện, nhưng không biết rõ cô ta ra sao?
Nét mặt hằm hằm cụ nói:
- Nó là con yêu con quái giáng sinh, để làm nhơ bẩn sĩ phong đời nay. Cứ như người ta nói lại với ta, thì nó cũng có học ít nhiều, có biết làm thơ, thơ của nó toàn là thơ nôm, không có câu nào là không ngụ ý đĩ thõa. Thế mà trong đám sĩ lâm cũng có nhiều người truyền tụng, anh nọ đọc lại cho anh kia nghe. Như thế, thế đạo sĩ phông phổng còn ra trò gì nữa! Ta lo rằng chẳng bao lâu nữa, người đời sẽ hóa cầm thú hết cả.
Cụ đương nói dở, đằng sau bỗng có tiếng chân chạy thình thịch. Một tên nhà bếp tiến lại phía trước án thư với sắc mặt xám mét. Cụ Nghè ngạc nhiên và hỏi:
- Mày muốn nói gì?
- Bẩm cụ...
Nói được hai tiếng, đứa nhà bếp lại đứng thừ ra, đầu lưỡi ngập ngừng, dường như không dám nói nữa, cụ gặng:
- Cái gì, cứ nói!
Tên nhà bếp lại ngập ngừng cố nói hai tiếng "bẩm cụ", rồi hắn lại im, cụ phát cáu:
- Bẩm cụ cái gì mới được chứ? Làm sao hỏi mãi không nói?
- Bẩm cụ con mẹ hàng gà...
- Con mẹ hàng gà làm sao?
- Bẩm cụ, con mẹ hàng gà nó vẫn ngồi ở nhà dưới.
- Nó ngồi ở nhà dưới làm gì? Chúng bay có mua bán tằng tịu gì với nó không?
- Bẩm không.
- Thế thì đuổi cổ nó đi! Có việc thế cũng phải hốt hoảng, thôi xuống dưới ấy.
Tên nhà bếp lại nói bằng giọng ấp úng:
- Bẩm cụ con gà hôm nọ cụ sai con đem nhốt vào chuồng, bây giờ thả ra, nó nhận là gà của nó.
Cụ Nghè cau đôi lông mày trên bộ mặt đỏ bừng:
- Của nó là của thế nào? Bảo nó muốn sống về ngay, nếu còn nhận láo thì ông đánh cho dập xác ra.
- Bẩm cụ, con đã bảo thế nhưng mà con mụ ấy ghê gớm lắm, nó cứ nhất định bắt gà đem về, và nói rằng: Nếu không trả gà cho nó, thì nó sẽ đứng đấy coi gà để cho con nó đi trình ông Thiên Hộ.

Cụ Nghè đập tay xuống án thư:
- À láo? con mụ láng giềng này láo thật, dám đem thằng Thiên Hộ mà dọa người nhà ông à? Mày bảo nó nếu nó đi trình Thiên Hộ, thì ông bảo quan Tổng đốc bỏ cả Thiên Hộ vào ngục.
Tên nhà bếp dạ một tiếng lớn, rồi chạy thẳng xuống. Giây lát nó lại tất tả chạy lên:
- Bẩm cụ, con mụ bướng lắm. Con đuổi thế nào nó cũng không về, nó nói láo rằng: của nó nó nhận, quan Tổng đốc cũng đến "phải" thì thôi.
Cụ Nghè thở dài:
- Dân phong ngang ngạnh đến thế, có đáng ghét không?
Xuân Hương ngứa miệng, giả cách lễ phép đứng dậy và bảo tên nhà bếp:
- Anh không cần cãi vã với kẻ tiểu nhân vô lễ làm gì ; cứ bắt đem con gà ấy thả ra ngoài cổng, hễ nó chạy về nhà kia thì là gà của nhà kia, mà nếu nó lại chạy về nhà này, thì là gà của nhà này.
Cụ Nghè chưa kịp bảo sao, tên nhà bếp đã lật đật chạy xuống.
Mở quả trầu lấy trầu, cau và cái cối ngà đưa cho Thận Trung đem giã, cụ Nghè đương sắp tiếp theo câu chuyện đạo đức, thì tên nhà bếp lại hốt hoảng chạy lên, vừa thở vừa nói:
- Bẩm cụ, con mới đem thả con gà ra cổng, nó đã chạy tọt vào nhà con mụ hàng gà.

Chương 10

Phố phường Hà Nội đã hết vẻ nhộn nhịp của năm mới, xác pháo ngoài đường đều bị vùi dập dưới tầng đất lấm, câu đối xanh đỏ ở các đường ngõ đều phải hoen ố vì những giọt mưa xuân.
Những nhà buôn bán lần lượt mở cửa bán hàng.
Những bà, những cô phong lưu thi nhau thắng áo mới, sắm vàng hương, để đem đầu vào các đền các miếu.
Xuân Hương vò vọ ngồi trong thư phòng, nàng tự thấy mình như không chống nổi sự buồn bã của cảnh hiu quạnh. Rồi lòng xuân phơi phới giục nàng phải nhớ đến Đàm Thận Trung. Từ ngày hẹn nhau vào nhà cụ Nghè Hoàng, chàng thường lui tới nhà nàng luôn luôn. Trong lúc cùng nhau trò chuyện nàng vẫn để ý xem xét, và đã nhận chàng là kẻ khoáng đạt, hoà nhã không câu nệ, giả dối như các ông nho sĩ khác. Vì thế, tình ý hai bên mỗi ngày mỗi thêm thân mật, chàng coi nàng là bạn tâm đầu ý hợp, nàng cũng coi chàng là tri kỷ của mình.
Hồi cuối năm ngoái, không ngày nào chàng không đến chơi nhà nàng. Tuy giữa hai người chưa hề có chút bờm xờm lả lơi, nhưng sự ăn ở, đối đãi đã gần giống như người một nhà, có khi nàng đã lưu chàng ăn ngủ luôn ở nhà mình, mà không lấy làm e lệ. Vì năm hết, tết đến, theo tục, chàng phải về quê, trước khi từ biệt phường Khán Xuân, chàng đã hẹn nàng đoạn tết lại sang rồi cùng đi chơi các nơi hang động, núi rừng, để ngắm cảnh đẹp của trời đất. Vậy mà qua tết đã hơn mười ngày, vẫn chưa thấy chàng tới nơi, cho nên nàng nóng ruột. Phải, nàng không phải là loại gỗ đá, tất nhiên cũng có dục tình, trong bấy nhiêu ngày, lửa đã gần rơm, dù hai bên vẫn cố giữ cho nó không thể bùng lên, nhưng sự thực, ở trong lòng nàng, cũng như ở trong lòng chàng, lửa ấy vẫn cứ cháy ngấm cháy ngầm, vắng chàng lúc nào, ấy là nàng phải buồn tẻ lúc ấy.
Mấy cành bích đào trên lọ đã bắt đầu nẩy những lá non, cánh hoa tươi thắm lả tả rơi rụng khắp nhà, đầu cành trơ những quả non nhu nhú. Sự thay đổi của hoa cảnh nhắc lại cho nàng bài thơ "Tiếc xuân" của chàng Đỗ Mục ngày xưa.
Trong những thi nhân đời Đường, Đỗ Mục là người rất đa tình. Khi chàng ra chơi Hồ Châu, viên thứ sử ở đó là Ưng Quân Tố muốn chìu ý bạn, gọi hết con hát trong quận đến cho chàng coi, chàng không vừa ý một ả nào hết. Rồi chàng xin cho viên thứ sử mở hội, bày các trò vui dưới nước cho người trong quận đến coi, để chàng kén xem có người con gái nào đẹp hay không! Viên thứ sử cũng xin vâng lời. Đúng ngày mở hội, người ta đến coi chật cả hai bên bờ sông. Đỗ Mục đi ngắm khắp lượt, vẫn không có ai vừa ý. Thình lình có một mụ già dắt đứa con gái còn để hồng mao đi vào. Mục coi hồi lâu liền bảo với viên thứ sử, con bé ấy thực là một bậc quốc sắc, viên thứ sử tức thì cho đón vào thuyền. Mục ngỏ ý muốn hỏi làm vợ. Cả mụ già lẫn cô bé con nghe nói đều sợ không dám nhận lời. Mục nói ta không cưới ngay bây giờ, chỉ đính hẹn với mẹ con nàng mà thôi. Sau mười năm nữa, tất nhiên ta ra làm quan hạt này. Nếu mười năm nữa mà ta không ra, thì cho tùy nàng muốn đi lấy ai thì lấy. Khi ấy Mục đưa rất nhiều tiền cho mẹ con nàng để làm tiền cưới. Khi về triều, Mục vì quan thấp, chức nhỏ không dám xin ra Hồ Châu. Tới lúc được ra Hồ Châu, tính ra đã mười bốn năm. Lập tức cho đòi người con gái ấy thì nàng không đến, chỉ có mẹ nàng vào ra mắt Mục, nói rằng: Khi trước ông hẹn mười năm nhưng hết mười năm, không thấy ông ra, tôi gả chồng cho cháu đã ba năm nay, cháu đã sinh được ba đứa con rồi. Mục cúi đầu ngẫm nghĩ rồi bảo các bạn, lý của họ thắng, mình không nên cưỡng. Luôn đó, Mục tiễn bà lão ra cổng một cách kính trọng, nhưng Mục vẫn ngậm ngùi tiếc người con gái, mới ngâm một bài "Tiếc xuân".

Xuân Hương giở tập Đường Thi ra coi, nàng thấy ý tứ trong thơ rất hợp với tình cảnh mình, tức thì nàng lấy giấy bút dịch ra một bài quốc âm như sau:
Bởi tại tìm hoa quá chậm chân,
Há nên ngao ngán oán ngày xuân,
Gió đông bay hết màu tươi thắm,
Quả trái đầy cành, bóng rợp sân
Nàng ngó những cành hoa đào tan tác dưới sàn gác, nằm những quả đào non và lả đào xanh mơn mởn trên độc bình, rồi nàng lại ngâm đi ngâm lại hai câu:
Gió đông bay hết màu tươi thắm
Quả trái đầy cành, bóng rợp sân
Lúc ấy trong lòng càng thấy buồn bực, nàng liền nhớ lại những ngày còn để hồng mao mỗi khi gặp tiết đầu xuân, thường được theo mẹ đi chơi nhà các người họ hàng ở nhà quê, rồi những chị em bạn gái rủ nàng chui vào bờ bụi, tìm các thứ lá để đánh đố lá với nhau. Nàng vì ở đất thị thành, không thuộc được nhiều tên bằng họ, lần nào đố lá nàng cũng thua họ, bị họ dần rát cả lưng và vẹo cả sườn.
Thế mà ngoảnh đì, ngoảnh lại, bây giờ nàng đã ngoài hai chục tuổi, những bạn đố lá ngày trước, ai nấy đều đã con bồng con mang. Chỉ riêng nàng hãy còn lắng đắng: "Tuổi xuân chẳng qua cũng như những cám hoa đào, nó chỉ tươi thắm được trong một thì, hết thì tươi thắm ấy thì hết xuân, nghìn vàng không mua lại được". Nghĩ vậy, nàng liền đọc luôn đến câu phương dao:
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xồng xộc, nó thì theo sau.
Ngâm chưa dứt tiếng, dưới gác bỗng thấy có người gõ cửa. Nàng đẩy cửa sổ ngó ra, thì ra Đàm Thận Trung đã đến. Mừng quá, nàng không rụt rè e lệ gì cả. Tự mình chạy xuống mở cửa mời chàng lên gác.
Con Nụ biết ý, xách chiếc ấm siêu xuống bếp đun nước, để gian phòng gác mặc chủ và ông khách tự do.
Chàng vừa ngồi đoạn, nàng liền đem chuyện cụ Nghè Hoàng ra nói:
- Con gà hôm ấy đích là của mụ láng giềng không phải của cụ Nghè Hoàng.
- Thì chính thế, nếu là gà của cụ Nghè Hoàng sao khi thả ra, nó lại chạy tót về nhà mụ kia.
- Chắc cụ muốn ăn xuýt con gà của họ để cúng.
- Có lẽ thế.

Nàng cười sằng sặc:
- Gớm chửa, văn hay, học rộng, mở miệng nói toàn giọng đạo đức thánh hiền, thế mà dám ăn cắp gà của người ta đấy. Đáng chán chưa? Có lẽ những ông thâm nho toàn là hạng người đi ăn cắp gà tất cả.
Thận Trung sầm mặt:
- Mình không được phép nói hỗn thế. Nho cũng tùy người, không phải ai cũng như ai. Nếu mình muốn nhân việc ăn cắp gà của cụ Nghè Hoàng mà kết án chung mấy ông lên mặt đạo đức, thì phải nói thử thế này...
- Nói như thế nào?
- Nói rằng bao nhiêu cụ Nghè ngày nay toàn là người ăn cắp gà tất cả, thế mới đúng.
Hai người cùng cười rầm nhà.
Ngọn gió hiu hiu qua cửa sổ thổi vào án sách, một mảnh hoa tiêu trong đống sách phấp phới bay ra giữa nhà, Xuân Hương toan tính nhặt lấy dấu đi, nhưng chưa kịp nhặt, tờ giấy đã bị vào tay Thận Trung.
Chàng đưa lên nhìn, chính là bài thơ vô đề của nàng mới làm trong mấy bữa nay. Gật gù, chàng vừa cười vừa đọc:
- Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế, khuyết hay tròn
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Đọc đi đọc lại đến ba bốn lần, thấy trong thơ chứa chan tình hứng, làm cho chàng không thể nén được ngọn lửa trong buồng gan. Bỏ tờ hoa tiên xuống án, chàng đứng dậy, ôm nàng vào lòng và đặt trên đôi má hồng của nàng bốn, năm cái hôn nồng nàn. Nàng không cự nhưng hình như cũng sượng sùng, hai má đỏ bừng, vừa cười nàng vừa nói bằng giọng ỡm ờ:
- Ô hay! Làm gì thế? Làm cái gì thế?
Thang gác có tiếng thình thịch, hai người vội buông nhau ra, con Nụ vừa xách ấm nước sôi lên. Lấy đủ ấm chén pha nước đặt lên trên yên, nó lại lùi xuống dưới gác. Thận Trung không đợi Xuân Hương mời chào, chàng lại cầm ấm rót lấy mà uống. Một nụ cười nở trên cặp môi son, nàng nhìn Thận Trung và hỏi:
- Hôm nay ăn cơm chiều ở đây chứ?
- Chẳng ăn ở đây thì ăn ở đâu?
Nàng liền xuống gác đưa tiền cho con Nụ đi chợ mua đồ làm cơm.
Gần tối, đồ ăn làm xong, con Nụ bưng mâm lên, hai người cùng ngồi một mâm, vừa uống rượu, vừa xướng họa, đêm ấy Thận Trung cùng nàng ngủ chung một giường.
Sáng hôm sau, mặt trời lên khỏi ngọn cây, ánh nắng chiếu xuống Hồ Tây lóng lánh, hai người mới cùng trở dậy, ai nấy còn uổn vai, ngáp vặt nhìn nhau bằng cặp mắt sượng sùng.
Tan cuộc nước chè, Thận Trung vui vẻ bảo nàng:
- Trước kia nghe bài tự tình của mình đưa vào trong trường cụ Nghè, tôi vẫn không tin, ý tôi cho rằng trong lúc mình ở nhà lão Quyền Chưởng Vệ, cũng như mỡ để miệng mèo, tất nhiên lão ấy không để cho mình vân lành. Bây giờ mới biết là tôi đoán sai...
Xuân Hương không trả lời, nàng chỉ mỉm cười một cách chua chát. Hồi lâu, nàng bảo con Nụ mua đồ ăn sáng, để nàng sắp đi chơi xa. Muốn tránh sự bàn tán lôi thôi của những người ngứa miệng, nàng lại ăn mặc giả trai như hôm vào thăm cụ Nghè Hoàng.
Lần ấy là lần đầu nàng cùng người bạn trai đi chơi sơn thủy, chàng muốn vào thẳng Thanh Hóa ngoại trấn viếng chùa Non Nước, rồi xuống luôn huyện Gia Viễn thăm động Hoa Lư. Nhưng nàng không thích đi về hướng ấy, và nàng khuyên hãy lên coi qua rừng trên vùng Thái Nguyện. Ý chàng vốn không nhất định đi đâu vì đi đâu cũng là ải chơi, không có sự gì quan hệ, cho nên nàng định thế nào, chàng cũng theo thế ấy.
Hai người thuê hai chiếc cáng theo huyện Kim Anh đi lên, khi tới phố Mã thì trời vừa tối, phải vào ngủ trong nhà trọ.
Sáng mai mờ đất đã toan trở dậy lên đường, nhưng vì ở đó là nơi đồng rừng, hết giờ mão chưa tan sương mù, nên chàng khuyên nàng hãy nên thong thả.

Bỗng thấy ở nhà bên cạnh có tiếng trẻ học, nàng cười và bảo với chàng:
- Ai ngờ ở trong hang sâu cũng có tiếng chân ngưu mục đi . Ta thử vào chơi xem sao.
Rồi nàng gọi hỏi nhà trọ xem rằng thầy đồ dạy học bên ấy tên họ là gì, tính hạnh ra sao, người chủ trọ đáp:
- Chúng tôi chỉ thấy gọi là ông Cống Tuyên Quang, về đây bảo trẻ đã hai năm nay, tính hạnh rất thuần thục, và rất nghiêm nghị. Trong hai năm nay, ngoài nhà chú nuôi cơm, ông ấy chưa hề chơi bời với ai.
- Chúng tôi muốn sang thăm ông có tiện không nhỉ?
- Cái đó chúng tôi không biết. Nhưng ông cứ sang, nghe đâu bên ấy cũng có ông Nghè Hưng Hóa về chơi với ông Cống đã mấy bữa nay.
Nghe nói, nàng liền bảo chàng :
- Quái lạ! Hưng Hóa Tuyên Quang cũng có ông Nghè, ông Cống, văn học đường rừng cũng thịnh đấy chứ.
Rồi chàng và nàng cùng dắt nhau sang nhà láng giềng, nói là bọn lái buôn đi đường, nghe tin ở đây có ông Cống bảo trẻ, nên muốn vào thăm ông và xem cách thức học hành thế nào.
Thì ra cách nói đôi ấy rất trúng với ý ông Cống.
Từ trước đến giờ, ông Cống không thèm tiếp một người nào là khách hết, trừ ra ông Nghè Hưng Hóa là bạn chí thân của ngài. Nhưng nếu nói là lái buôn hoặc lý dịch chi đó, thì ngài rất vui lòng khoản đãi, có khi chè chén đến năm, bảy bữa, ngài cũng không hề phàn nàn.
Hai người tiến vào trong nhà, cung kính lạy chào ông Nghè, ông Cống, rồi theo lời mời của ông Cống hai người cùng ngồi vào dãy ghế của học trò ngồi.
Ông Cống giới thiệu cho hai người biết ông khách của ngài là một ông tiên sĩ ở đạo Hưng Hóa, rồi ngài lại tự giới thiệu cho ngài. Đúng như lời mụ chủ trọ đã nói, ngài tự xưng mình là ông Hương Cống ở đạo Tuyên Quang.
Hai người chỉ vâng vâng, dạ dạ, tỏ ý kính trọng.
Ngoài ngõ có tiếng chó sủa, một lớp ăn mày tiến vào với cái niêu đất và một tấm áo tơi xù.
Trong nhà, ông ra lệnh cho cậu học trò học rối học rít để che lấp tiếng lạy ông lạy bà của kẻ khốn khó.
Một cậu học trò chìa sách đến hỏi ông Cống:
- Thưa thầy chữ gì!
Vụt cây roi mây xuống phản, ông Cống thét thật lớn:
- Cảm dung là đất Cẩm Dương.
Cậu bé liền nghêu ngao học:
- Bái công binh chí Cẩm Dương, ông Bái Công quân đến đất Cẩm Dương.
Ông Nghê Hưng Hóa vội ngắt câu nói:
- Không phải Cẩm Dương, sao ông dạy càn con cái người ta thế?
Ông Cống trừng mắt:
- Chằng phải Cẩm Dương thì là chữ gì?
Ông Nghê dõng dạc:
- Ông dốt lắm, không trách ông đồ đại khoa. . . Ấy là Hàm Thang là đất Hàm Thang chứ gì.
Ông Cống gân cổ cãi lại:
- Tôi nhất định không chịu.
Rồi hai ông cãi nhau lộn bậy, một ông quyết là Cẩm Dương, một ông quyết là Hàm Thang. Ông nọ mắng ông kia ngu, ông kia lại bảo ông nọ dốt. Xuân Hương và Thận Trung bấm bụng ngồi im không dám cười. Ông lão ăn mày ngoài sân ngứa miệng nói vào:
- Thưa lạy hai ngài, cho tôi xin nói.
Ông Nghè, ông Cống cùng chạy xô ra thét hỏi:
- Lão ăn xin cũng biết chữ à!
- Dạ bẩm hai ngài, thuở nhỏ chúng tôi cũng có theo đòi nghiên bút, bây giờ còn nhớ ít nhiều, cái câu cậu bé đang học đó là câu ở sách Hán Cao Tổ phải không, thưa hai ngài !
Hai ông cùng nói:
- Phải đấy? Thế lão bảo trong hai chúng ta ai dốt, ai không dốt?
- Bẩm cả hai ngài cùng dốt. Không phải Hàm Thang, cũng không phải Cẩm Dương.
Hai ông cùng sấn sổ:
- Thế thì mày bảo nó là chữ gì?
- Bẩm hai ngài, nó là chữ Hàm Dương, hai ngài mỗi ngài trúng một chữ, nhưng mỗi ngài lầm một chữ.

Tức thì hai ông cùng nổi trận lôi đình, chạy lại túm lão ăn mày toan đánh, Xuân Hương, Thận Trung thương hại vội vàng chạy ra cố can. Hai ông chừng cũng nể mặt khách lạ, bèn tha tội cho lão ăn mày, không đánh nhưng họ bắt mất cái niêu đem đập vỡ tan. Lão ăn mày cám cảnh, ngồi ở trước cổng khóc ru khóc rưởi. Một lúc sau lão mới xù xì khoác chiếc áo tơi đi ra, để lại tường cổng mấy chữ thảo.
Xuân Hương và Thận Trung chán chuyện ông Nghè ông Cống đứng dậy cáo từ trở ra. Tới cổng thấy có mấy dòng chữ nét mực chưa ráo, lối chữ rất già và rất tươi. Hai người cùng đứng lại nhìn, té ra một bài tứ tuyệt.
Xuân Hương liền lầm rầm đọc:
- Ông Nghè Hưng Hóa, Cống Tuyên Quang
Chết dẫm, xưng chân cũng một tuồng.
Ma thiêng chẳng đánh hai thằng chết
Đập vỡ niêu tao đất Cẩm Thang.

Nguồn: truyenviet.com