23/1/13

Chuyện xứ Lang Biang (Q4-C13-14)

Chương 13: RÈM CỬA SỔ

Sáng hôm sau, trên đường đi đến trường, bọn Kăply lại bắt gặp bầu không khí chộn rộn tụi nó đã từng nhìn thấy trong những ngày tên “mông tặc” chưa bị tóm cổ. Thông báo của Cục an ninh về sự xuất hiện của hữu hộ pháp phe Hắc Ám lập tức quét lên mặt cư dân Lang Biang các gam màu lạnh ngắt. Mặc dầu xưa nay rất ít kẻ nhìn thấy Balikem nhưng cái tên khét tiếng này vẫn khiến tóc gáy nhiều người dựng đứng.

Cách đây không lâu, lúc ba thằng Tam và các nạn nhân của sứ giả Basil bất ngờ trở về từ thung lũng Pleimo, mọi người như chìm đắm trong một cơn phấn khích theo Êmê là chưa từng có. Mặc dù ấm ức vì không được tiết lộ nguyên nhân thoát nạn theo yêu cầu của bọn trẻ, bọn người hồi hương và thân nhân của họ vẫn không ngăn được đôi chân mình nhảy múa và những nụ cười toét miệng. Những cuộc vui chơi ca hát diễn ra thâu đêm suốt sáng như trong kỳ lễ hội. Tiệm Cái Cốc Vàng bia chảy như suối. Công viên Các Thứ Kẹo đầy ắp khách dạo chơi. Thậm chí tiệm cầm đồ của lão Lomcom cũng trở nên chật ních, gần như không còn chỗ chứa vì người ta cần tiền để mở tiệc liên hoan chiêu đãi bạn bè.

Nhưng niềm hân hoan chẳng kéo dài được lâu. Sự lộng hành của tên “mông tặc” đã nhanh chóng nhốt tất cả các đôi chân ở trong nhà ban đêm.

Thủ phạm vừa bị bắt, mọi người chưa kịp thở phào đã xám mặt khi nghe tin dữ về sự xuất hiện của Balikem và Buriăk. Không ít người liên hệ thông báo của Cục an ninh với dòng chữ xuất hiện trên đầu ông Pirama cách đây mấy ngày: “NGÀY TẬN THẾ SẮP ĐẾN – NGÀI SẮP QUAY LẠI – TẤT CẢ CHỈ LÀ BẮT ĐẦU” và không cần thông thái lắm người ta cũng cảm nhận được mối đe dọa vô hình đang bắt đầu phủ xuống cuộc sống của mọi cư dân xứ Lang Biang như một tấm chăn khổng lồ.

Bọn Kăply nhớ là mới hôm qua đây thôi, Cửa hiệu thất tình của lão Seradion khách còn vô ra nườm nượp, bữa nay vắng tanh như đột nhiên không ai thiết tha gì chuyện yêu đương nữa. Trong tiếng nhạc xập xình yếu ớt, ban nhạc củ cải của lão chỉ nhai lại những bài cũ, có lẽ lão cũng đang sốt vó nên chẳng còn tâm trí đâu để soạn ca khúc mới.

Ở trường, thầy Haifai một lần nữa lại nhảy cóc: đang từ thần chú chiến đấu số 10 thầy vọt thẳng qua thần chú chiến đấu số 18.

Nhưng trước khi dạy thần chú mới, thầy không quên ưu ái đứa học trò cưng:

- Tam, trò cho ta biết thần chú chiến đấu số 13 có tên là gì?

Tam bật dậy như lò xo:

- Thưa thầy, đó là thần chú Khăn quàng cổ ạ.

- Quá xuất sắc! Trò ngồi xuống đi! – Thầy Haifai hể hả – Ta nghĩ là trò hoàn toàn xứng đáng với điểm 10 đầu tiên trong ngày hôm nay.

Bên dưới, Amara và Y Đê đồng loạt cựa mình, nhưng chẳng đứa nào lên tiếng, chỉ gườm gườm nhìn thầy Haifai như thầm mong quỷ vật thầy cho rồi.

Thầy Haifai nhìn thẳng vào mặt Amara như muốn nói đố trò làm gì được ta, rồi đập đập hai tay vào nhau theo thói quen, thầy cao giọng:

- Hôm nay các trò sẽ được học thần chú chiến đấu số 18 – thần chú Rèm cửa sổ. Đây là loại thần chú tương tự thần chú Khăn quàng cổ mà siêu học sinh Tam vừa nhắc đến.

- Trò Tam trở thành siêu học sinh từ lúc nào vậy thầy? – Lần này thì Amara không nhịn được, nó nhếch mép khinh khỉnh hỏi, không thèm đứng lên – Con không nghĩ trường Đămri có chủ trương hễ đứa nào là quái nhân đều được phong siêu học sinh hết ráo.

- Đồ ngu! Trò Tam chưa bao giờ là quái nhân, hiểu chưa? – Thầy Haifai rít lên và những đứa ngồi bàn đầu hấp tấp né người qua một bên để tránh bị nước bọt văng trúng mặt.

- Chưa hiểu. – Amara ngang ngạnh đáp – Chỉ có thầy là người đầu tiên nói thế thôi.

Bọn trẻ thấy rõ chiếc đầu lưa thưa tóc của thầy Haifai lắc lư dữ dội, đôi mắt sâu hoắm và tối om om của thầy lóe lên thứ ánh sáng rờn rợn của kẻ sắp sửa giết người. Ngay cả Amara khi chạm phải thứ ánh sáng đó cũng thấy ớn lạnh toàn thân.

Nhưng thầy Haifai chưa kịp làm gì hoặc nói gì thì cô Haifai đã cướp mất diễn đàn:

- Amara, con không nên hỗn láo như thế. – Giọng nói eo éo của cô Haifai từ dịu dàng đột ngột chuyển sang khe khắt – Còn ông, tôi nghĩ là ông giận quá mất khôn rồi. Ông ráng làm nguội cái đầu của ông lại đi, để nhớ ra ông vừa nói bậy bạ gì thế.

Thầy Haifai thở hổn hển, ngực áo phồng lên xẹp xuống gấp gáp, vẫn còn rất giận, nhưng không vì thế mà thầy không hiểu ý nghĩa trong câu nói của vợ.

Thầy quay mặt đi chỗ khác (vì thầy biết nếu cứ nhìn hoài thằng Amara mất dạy, người thầy chỉ chực nổ tung) và thở khò khè thêm một hồi trước khi cố ép mình quay lại với bài giảng:

- Các trò cũng biết rồi đó, thần chú số 13 là thần chú bảo vệ cổ, có mục đích đối phó với sự tấn công của ma cà rồng. Còn thần chú số 18 là thần chú bảo vệ tâm linh. Đây là một trong những câu thần chú siêu hạng, phức tạp và khó vận dụng hơn nhiều so với thần chú số 13, do đó các trò phải hết sức tập trung. Phải hoàn toàn tập trung!

Thình lình thầy dộng tay lên bảng đánh “rầm” một tiếng khiến cả lớp giật bắn:

- Các trò nghe rõ chưa?

- Dạ rõ. – Cả đống cái miệng thi nhau rống thật lớn, biết là thầy vẫn còn quạu thằng Amara nên không đứa nào dám tỏ ra lề mề.

- Tại sao thần chú này có tên là Rèm cửa sổ hở thầy? – Tam vọt miệng hỏi, cũng chỉ có nó là đứa duy nhất dám cho phép mình thắc mắc trong lúc này.

- Hay lắm, Tam! Một câu hỏi xuất sắc! – Thầy Haifai lập tức tóm lấy câu hỏi của Tam như tóm lấy một cái túi nilông có thể giúp thầy xả bớt bực bội. Thầy nói tiếp bằng giọng khiêu khích – Nói chung, trò luôn luôn xuất sắc. Với câu hỏi cực kỳ thông minh đó, lần thứ hai trong đời ta quyết cho trò tới hai điểm 10 để xem có thằng ngu nào dám phản đối không.

Như nòng súng sẵn sàng khạc đạn, hai hốc mắt âm u của thầy quét một vòng khắp lớp, dừng hơi lâu chỗ thằng Amara và không giấu vẻ hả hê khi thấy mặt thằng này tái đi từng phút một.

- Các trò nghe đây. – Thầy Haifai lừ lừ quay cái trán dồ theo chiều ngược lại – Đôi mắt của chúng ta chính là cửa sổ của tâm linh. Con mắt bên phải tương ứng với mặt trời, nhìn vào thời gian. Con mắt bên trái tương ứng với mặt trăng, hướng về cái vĩnh hằng. Nhưng có điều cà chớn là đôi mắt của chúng ta cũng là cửa ngõ của lòng ước muốn và sự thèm khát nên rất dễ bị nghệ thuật hắc ám lợi dụng để lung lạc và sai khiến.

Khi nói tiếp, thầy nhe gần đủ ba mươi hai cái răng lởm chởm như để gây ấn tượng:

- Các phù thủy hắc ám siêu đẳng có thể dùng một bông hoa hay quả táo là đủ để biến các trò thành nô lệ cho chúng suốt đời.

Ở bên dưới, Nguyên thì thầm vào tai Kăply:

- Thầy muốn dạy tụi mình cách đối phó với Balikem đó.

- Tao biết rồi.

Kăply kiêu hãnh đáp và vểnh tai nghe thầy Haifai nói tiếp:

- Dĩ nhiên chúng ta có nhiều cách để chống lại. Chúng ta có thể luyện bùa trừ tà bằng sừng, sắt móng ngựa, muối, phèn chua hay khói thơm. Nhưng cách tốt nhất và hiệu quả nhất là luyện thần chú Rèm cửa sổ…

- Con hiểu rồi, thưa thầy. – Hailibato đột nhiên reo lên – Khi gặp loại nghệ thuật hắc ám có tính chất giống như thôi miên, câu thần chú số 18 sẽ giúp tụi con không bị mê hoặc. Cửa sổ tâm linh lúc đó được bảo vệ chặt chẽ nên thần chú này có tên là Rèm cửa sổ phải không thầy?

Không hề giận dữ vì bị Hailibato ngắt lời, thầy Haifai chọc ngón tay màu mè về phía nó, giọng sung sướng:

- Hà hà, lại thêm một đứa thông minh. Thế mà trước giờ ta cứ tưởng trò chỉ biết ăn cho mập thây thôi chớ.

Thầy lại nện tay vô bảng đánh “rầm”, gầm lên:

- Ta cho trò 10 điểm, Hailibato.

Một lần nữa, Amara và Y Đê lại cựa quậy dữ dội trong chỗ ngồi. Một thằng Tam được thầy ưu ái đủ khiến hai đứa nó bầm gan, bây giờ lại nảy ra thêm thằng Hailibato nữa, biểu tụi nó làm ra vẻ tỉnh queo sao được. Nhưng chưa hết khiếp vía trước cái nhìn đe dọa của thầy vừa rồi, thằng Amara chỉ dám bày tỏ sự bất bình bằng cách nhúc nhích vai và hông, cả lớp đều thấy nó đập mông bình bịch vào hai thành ghế như muốn làm cái ghế vỡ tan ra cho rồi. Ngồi sau một dãy, thằng Y Đê là một bản sao thu nhỏ của Amara, nhưng chính vì nó nhỏ con hơn sư phụ nó nên sau khi đập mông vào thành ghế một hồi, nó thấy đau quá nên lại ngồi im và len lén đưa tay xoa hai bên be sườn chắc là bầm tím.

- Đừng giở trò hề ra nữa! – Thầy Haifai đột ngột quát – Hai đứa bay lên đây!

Amara nghênh mặt:

- Tụi con tội gì kia chứ?

- Hổng có tội con khỉ gì hết! – Thầy Haifai gầm gừ – Ta bảo lên thì tụi bay cứ lên!

Một phút sau, Amara và Y Đê đã đứng trước mặt thầy Haifai. Y Đê càng lúc càng giống y chang sư phụ nó: Hai đứa mặt câng câng, ngó thiệt là xấc láo.

Không thèm nhìn hai đứa học trò, thầy Haifai quay mặt xuống lớp:

- Các trò giở sách ra, trang 216, chương 18.

Đợi cả lớp lật tập xong, thầy bắt đầu giảng bài. Amara và Y Đê đứng một bên, nghệt mặt ra nghe.

Kăply chốc chốc lại liếc về phía hai đứa này, thấy rõ gương mặt Amara càng lúc càng lộ rõ vẻ tức tối. Trông tụi nó lúc này giống như hai cái giá mắc nón, thầy Haifai dường như đã quên bẵng tụi nó.

- Cô ơi, cô! – Amara bất thần tru tréo, có vẻ đã hết chịu nổi sự hành hạ của thầy Haifai.

Thầy Haifai lập tức ngưng giảng. Thầy quay sang hai đứa học trò, lúc lắc đầu cho hai cái khuyên tai đưa qua đưa lại và vỗ về bằng giọng nữ:

- Tụi con yên lặng nghe giảng bài đi. Ổng sắp kiểm tra tụi con đó.

- Ta kiểm tra ngay bây giờ đây. – Thầy Haifai nói nối theo bằng giọng nam, không thèm lấy hơi giữa hai giọng nói, vẻ gắt gỏng và đe dọa – Những phù thủy chân chính không bao giờ thèm tu luyện những gì thuộc về nghệ thuật hắc ám nên ta sẽ không dùng một thứ bùa nào tác động lên tâm linh mấy trò. Thay vào đó, ta sẽ sử dụng nghệ thuật thôi miên thông thường để kiểm tra xem mấy trò tiếp thu bài học được đến đâu.

Thầy gục gặc cái trán dồ, mắt bám cứng vào gương mặt của hai đứa học trò đang hoang mang nhìn lại thầy:

- Mấy trò chuẩn bị đi. Ta bắt đầu đây.

Trong một phút, Amara và Y Đê lo lắng nhận thấy đôi mắt thầy Haifai đột nhiên trở nên xanh biếc như hai vì sao lạnh. Hai đứa lật đật niệm chú, cố nhớ lại những gì thầy vừa giảng nhưng tụi nó biết ngay là tụi nó không thể nhớ bất cứ điều gì. Hai vì sao xanh bây giờ đã hóa thành hai con ong đang tìm cách chui vào tâm trí Amara và Y Đê, thậm chí hai đứa dường như nghe có tiếng kêu vo vo trong tai và rõ ràng điều đó khiến tụi nó không thể nào tập trung đầu óc được.

Phát hiện ra nguy hiểm, Amara và Y Đê cố quay mặt đi phía khác để tránh ánh mắt thầy Haifai nhưng ngay lập tức cả hai điếng hồn nhận ra tụi nó không thể làm chủ được hành vi của mình.

Đôi mắt thầy Haifai bắt đầu đong đưa và cả lớp đều nhận thấy cả Amara lẫn Y Đê có hiện tượng giống như vừa chích nọc con macorana, trông tụi nó có vẻ ngất ngây, mí mắt từ từ sụp xuống như sắp sửa rơi tõm vào giấc ngủ.

Trong khi tụi bạn chờ đợi Amara và Y Đê đổ gục ra sàn và cất tiếng ngáy khò khò thì hai đứa bỗng mở bừng mắt ra, đột ngột tỉnh hẳn. Giống như những kẻ đang mắc kẹt trong giấc mơ bỗng thoát ra được, Amara và Y Đê vươn vai ngáp một cái thật dài rồi lật đật nhìn quanh, ánh mắt sáng lấp lánh.

Rất nhanh, và không hề có dấu hiệu báo trước, Amara phóng lại chỗ thằng Lung ngồi và trước vẻ ngạc nhiên cùng cực của tụi bạn, nó giật lấy cuốn sách trên tay thằng này, đem lại đặt trên bục cửa sổ, xong rút một chiếc giày dưới chân đè lên cuốn sách. Rồi với một chân mang giày một chân không, Amara nhảy lò cò một vòng quanh lớp rồi leo lên bục cửa sổ ngồi cạnh cuốn sách, mặt ngây ra, đã trở lại dáng điệu của kẻ không còn thần trí.


Thằng Y Đê còn khùng hơn. Nó không chạy nhắng lên như thằng Amara, chỉ đứng giữa lớp, lắc người như điên. Y Đê lắc người mỗi lúc một nhanh, vừa lắc vừa la om sòm:

- Ta là chai bia, sao chưa sủi bọt? Ta là chai bia, sao chưa sủi bọt?



- Ta là chai bia, sao chưa sủi bọt?

Lúc bình thường, Y Đê không thể lắc lư lâu như thế. Mà cũng không đứa nào trong lớp có thể làm được điều phi thường đó. Nhưng Y Đê cứ lắc mãi. Dĩ nhiên động tác chậm dần và đến một lúc không còn là lắc nữa mà nó xiêu vẹo giống như người say rượu và tiếng la đã biến thành tiếng thều thào:

- Ta là… chai… bia…, sao… chưa… sủi bọt…?

Thiệt ra thì lúc này miệng thằng Y Đê đã sủi bọt nhưng chính nó không hề nhận thức được.

Tụi bạn quan sát Amara và Y Đê bị thôi miên, biết hành động quái gở của hai thằng này là do thầy Haifai sai khiến nhưng đứa nào đứa nấy vẫn thấy lưng nổi đầy gai ốc.

Thầy Haifai chấm dứt cuộc kiểm tra đầy ấn tượng bằng cách túm Amara và Y Đê mỗi đứa một tay và nhìn sâu vô mắt tụi nó, nghiêm giọng ra lệnh:

- Nhìn thẳng vô mắt ta!

Amara và Y Đê lập tức làm theo, miệng vẫn còn nở nụ cười ngờ nghệch.

Kăply chăm chú theo dõi cảnh tượng trước mặt, bụng run lên khi nghĩ tới ánh mắt của con chim đầu rìu hôm trước. Và như một đám mây đen, câu chuyện về thám tử Eakar bất chợt hiện ra lởn vởn trong đầu nó. Trong một thoáng, Kăply thấy tim mình như bị ai bóp chặt. Thầy Haifai chỉ dùng thuật thôi miên phổ thông mà hiệu quả đã ghê gớm đến thế, nếu nó và Nguyên trúng phải tà thuật của Balikem thì tai họa sẽ không biết đâu mà lường.

Lúc này, vẻ đờ đẫn trên mặt Amara và Y Đê đã biến mất. Vừa khôi phục lại thần trí, Amara đã vùng khỏi tay thầy Haifai. Nó nhích ra xa, nhìn thầy bằng ánh mắt ngờ vực:

- Thầy đã làm gì con?

- Ta chỉ biểu trò làm vài chuyện vặt vãnh thôi mà, Amara. – Thầy Haifai cười khục khục – Chẳng hạn như ta thì thầm với trò rằng mang một chiếc giày luôn luôn tốt hơn là mang hai chiếc giày và thiệt hên cho ta là trò đã ngu ngốc nghe theo.

Trong khi Amara cúi phắt xuống chân, tới lượt Y Đê réo lên bằng giọng của người mới ốm dậy:

- Còn con?

- Trò hả? – Thầy Haifai cười hề hề – Trò thì ta gieo vào đầu ý nghĩ rằng trò là một chai bia nhưng là một chai bia dỏm. Bia gì mà hổng biết sủi bọt. Thế là trò cố làm hết cách để chứng minh trò cũng có thể sủi bọt không kém bất cứ một chai bia xịn nào. Và nói chung là trò đã làm rất tốt, Y Đê à.

Nhìn thằng Y Đê đưa tay quẹt mép, thầy nhún vai, giọng đột nhiên cáu kỉnh:

- Trước khi tụi bay về chỗ, ta nói thiệt là tụi bay giống đồ cóc nhái hết sức. Ta giảng khô cả cổ mà tụi bay chẳng tiếp thu được cái con khỉ gì hết. Nếu tụi bay không chăm chỉ luyện tập, buổi học tới đây ta sẽ khiến tụi bay chạy ra giữa sân làm trò cười cho cả trường cho coi.

Nạn nhân kế tiếp của thầy Haifai là thằng Hailibato.

- Hailibato, trò phải thận trọng đó. – Thầy Haifai nhìn chăm chăm gương mặt tròn quay của thằng này khi hai thầy trò đứng đối diện nhau trước tấm bảng – Ta nói trước, ta sẽ bắt trò tự bạch. Đây là trò chơi ưa thích của đám phù thủy ở Cục an ninh khi tra khảo phạm nhân, có hiệu quả tương tự như bùa Chống nói dối. Trò ráng mà dùng thần chú Rèm cửa sổ để chống lại đi.

Ngay từ khi chứng kiến Amara và Y Đê bị thuật thôi miên sai khiến, Hailibato đã cẩn thận nhẩm đi nhẩm lại cách vận dụng thần chú Rèm cửa sổ đến sái quai hàm và nó nghĩ là nó sẽ không rơi vào trường hợp của hai đứa lên trước.

- Dạ, con sẽ cố, thưa thầy. – Nó gật đầu, đáp một cách tự tin, không thèm tránh ánh mắt của thầy Haifai.

Lần này, thầy Haifai hỏi lớn và cả lớp đều nghe rõ cuộc đối đáp:

- Trò Hailibato, trò học tại trường nào?

- Trường Đămri, thưa thầy.

- Tốt lắm, thế trò học lớp nào?

- Lớp Cao cấp 2, thưa thầy.

- Giáo viên dạy trò tên gì?

- Giáo sư Haifai, thưa thầy.

Tới đây, thuật thôi miên của thầy Haifai bắt đầu phát huy tác dụng và thằng Hailibato đã bắt đầu mơ màng. Nó không buồn lễ phép “thưa thầy” trong từng câu nữa.

- Môn thể thao ưa thích của trò?

- Ăn.

- Thế món ăn yêu thích của trò là gì?

- Tất cả các món.

- Con vật yêu thích của trò?

- Tất cả những con vật ăn được.

Ở dưới lớp bắt đầu vang lên những tiếng khúc khích.

Trên bảng, thầy Haifai vẫn đều đều:

- Nơi trò muốn đi du lịch?

- Nhà hàng ăn.

- Nghề mơ ước của trò?

- Chủ nhà hàng ăn.

- Thành thật lắm. Nhưng ta đã chán thói ham ăn của trò lắm rồi. – Thầy Haifai thở phì phì – Thế trò không có điều mong mỏi lớn lao nào trong cuộc đời à?

- Có chứ, thưa thầy.

- Điều gì? – Chỗ này, Kăply thấy rõ đôi mắt thầy Haifai lóe lên đầy hy vọng.

- Lúc nào cũng ăn, thưa thầy.

Hailibato lại “thưa thầy” nhưng rõ ràng là nó đã không còn kiểm soát được mình.

Thầy Haifai ngán ngẩm đến mức không buồn chửi um khi dưới lớp nổ ra những trận cười nghiêng ngả. Thầy nhìn Hailibato, giọng dò xét:

- Thế trong ngày lễ Tình nhân, trò cũng chỉ quan tâm đến ăn thôi à?

- Đúng thế, thưa thầy.

Hailibato ngập ngừng nói thêm:

- Nhưng trong ngày đó, con ao ước được đi ăn cùng Bolobala.

- Tại sao lại phải đi cùng Bolobala?

- Con thích bạn ấy, thưa thầy.

Những tràng cười vừa lắng xuống lại bùng lên khắp các dãy bàn. Kăply liếc sang chỗ Bolobala, thấy nó đang gục xuống bàn, giấu mặt giữa hai cánh tay và có vẻ sẽ không bao giờ ngẩng lên nữa. Thi sĩ Tam mặt đỏ phừng phừng, quai hàm bạnh ra và trông cái cách nó trợn mắt nhìn Hailibato, Kăply tin rằng nó đang cầu cho sét giáng xuống đầu thằng này quách cho rồi.

Trên cái nền âm thanh nhí nhố đó, giọng thầy Haifai vẫn vang lên rành rọt:

- Thế giữa ăn và Bolobala nếu phải chọn một thì trò chọn…

- Dạ, con chọn ăn ạ.

Lớp học bỗng chốc không còn là lớp học nữa. Có thứ gì đó giống như một cơn bão âm thanh tràn qua các dãy bàn. Bất chấp thầy Haifai là người sùng bái trật tự và sẵn sàng trừng phạt bất cứ đứa học trò nào phá vỡ điều đó, nhiều đứa vẫn giậm chân thình thịch lên nền nhà, nhiều đứa khác gõ bàn thùng thùng một cách phấn khích. Kăply nhìn quanh, thấy tụi bạn giống như một đàn bò điên.

Ngay cả thằng Tam lúc này cũng toét miệng cười hềnh hệch, chiếc mặt nạ màu gạch cua rơi đâu mất. Con nhỏ Bolobala đã nhấc đầu lên khỏi hai cánh tay, và vì không biết nên cười hay nên khóc, khuôn mặt bầu bĩnh của nó trông kỳ cục như một con mèo vừa được vớt lên từ dưới nước.

- Trò tuyệt lắm, Hailibato. – Thầy Haifai nói khi thằng này đã tỉnh trí và đang ngẩn ngơ nhìn quanh với vẻ hoang mang. Dĩ nhiên Hailibato không biết tụi bạn đang cười cợt chuyện gì, trông nó có vẻ lo âu như kẻ nghi mình quên cài nút quần khi ra đường.

- Trò rất kiên quyết trong sự chọn lựa của mình. – Thầy Haifai nói tiếp, không rõ khen ngợi hay chế giễu – Cuộc đời trò tóm lại chỉ có ba việc đáng làm đó là: ăn, ăn và ăn. Nhưng không sao, ta luôn tôn trọng lý tưởng sống của người khác. Chỉ tiếc là trò không thông minh như ta tưởng.

Thầy Haifai bắt đầu nhe nanh, giọng sít lại:

- Cũng như Amara và Y Đê, nếu trò không chú tâm rèn luyện câu thần chú quan trọng này, lần tới chắc chắn ta sẽ khiến trò dốc ra những ý nghĩ thầm kín và bá láp đến mức sau đó trò sẽ nghỉ học luôn cho coi.

Mặt xanh lè xanh lét, Hailibato lạch bạch lê khối thịt đồ sộ về chỗ, những tràng cười dai dẳng vẫn vây bọc từng bước đi của nó khiến nó trông càng nặng nề, thảm não.

Đứa bị kêu lên tiếp theo là Kăply.

oOo

Kăply kêu khổ thầm trong bụng khi không cần nhìn nó cũng thừa biết hàng đống cặp mắt đang tò mò dán vào nó, đang khoái trá chờ đợi ở nó một trò nhí nhố ngay khi nó vừa rời khỏi chỗ ngồi. Cái cảm giác sắp sửa làm điều ngu ngốc khiến Kăply đột nhiên thấy đôi chân như không còn hơi sức. Nó cố bước từng bước thật ngắn để trì hoãn giây phút đối diện với thầy Haifai, đau khổ khi bắt gặp mình đang run sợ. Nếu thầy kêu mình tự bạch như Hailibato, chắc chắn mình sẽ nói vung vít về Mua và không có gì bảo đảm là mình sẽ không nói những lời nhăng cuội. Kăply cảm thấy lo lắng, nhưng rồi một ý nghĩ khác làm nó càng lo lắng hơn, thậm chí còn hơn cả lo lắng – đó là sự hoảng hốt. Nếu thầy kêu mình tự bạch về gia đình, về nguồn gốc thì sao há? Chắc chắn mình sẽ kể lung tung về làng Ke, về ba mẹ mình, về ngôi trường dưới chân đồi Phù Thủy, về thầy Râu Bạc, thế là hỏng bét! Kăply chết điếng với viễn ảnh đáng sợ đó, trong một phút nó muốn rụng người xuống đất, mồ hôi tươm ướt cả lưng áo.

- Đừng sợ, K’Brết.

Kăply giật mình nghe tiếng thầy Haifai vang lên trong đầu. Hóa ra khi nãy thầy dùng phép thần giao cách cảm để sai khiến Amara và Y Đê. Kăply lẩm bẩm, cố quay đi nhưng cũng như mấy đứa kia, ánh mắt của nó không hiểu sao cứ mắc lại ở gương mặt quái dị của thầy Haifai, giống như cây kim bị hút chặt vào thỏi nam châm.

Kăply nơm nớp nhìn thầy Haifai, bụng giần giật từng cơn, thấy rõ sự bấn loạn của mình phản chiếu trong ánh mắt bắt đầu xanh biếc của thầy và khi thầy bảo nó đừng sợ, nó càng sợ hơn với cảm giác dường như thầy đọc được ý nghĩ trong đầu nó.

- Ta sắp kêu trò biểu diễn một màn vui nhộn đây. – Lần này, thầy Haifai nói lớn như muốn cho cả lớp nghe thấy, giọng khô khốc, không chút tình cảm – Trò ráng mà nhớ lại những gì ta đã giảng về cách vận dụng thần chú Rèm cửa sổ. Ta nói trước, nếu trò không biết cách bảo vệ tâm linh của mình thì dù trò có là thành viên của lâu đài K’Rahlan, ta cũng nhất định biến trò thành một tên hề. Trò nghe rõ chưa, K’Brêt?

- Dạ, rõ ạ.

Kăply lí nhí đáp, cố đừng ngã lăn ra trước lời dọa nạt của thầy Haifai. Đúng lúc đó, nó chợt nghe giọng nói của thầy thình lình vang lên trong đầu, như thể thầy đã cài đặt sẵn những mệnh lệnh ở chỗ nào đó trong bộ não của nó, chỉ đợi đến giờ là bật lên: “Trò đang lo lắng phải không? Trò hãy khóc thật to lên, những lo lắng sẽ tan biến ngay tức khắc, K’Brêt à”. Kăply ngạc nhiên nhận thấy giọng nói đang lăn tăn trong đầu nó lúc này là một giọng dịu dàng, gần như là thủ thỉ, hoàn toàn không giống chút gì với giọng nói hằng ngày của thầy Haifai. “Trò hãy khóc đi, K’Brêt!”, cái giọng ngọt ngào đó lại vang lên, êm ái, vỗ về, đầy ma lực.

Đột nhiên Kăply thấy lòng mình thổn thức. Và nó thấy ngoác miệng ra khóc lúc này là điều hoàn toàn tự nhiên. Ánh mắt của thầy Haifai càng lúc càng sâu thăm thẳm, nhìn nó nửa như sai khiến nửa như khuyến khích. Kăply thấy mình đã muốn nức nở lắm rồi. Khóe mắt nó đã bắt đầu ươn ướt. Nhưng Kăply cố gượng lại. Răng nghiến chặt, nó ép mình cố nhớ đến cách vận dụng câu thần chú số 18 vừa học nhưng ngay lập tức nó đau khổ nhận ra sự bất lực của mình khi ra lệnh cho đầu óc. Như một chiếc xe chết máy, bộ nhớ của nó hoàn toàn tê liệt.

Kăply rên rỉ trong tuyệt vọng: “Đừng khóc! Không được khóc! Dù thế nào cũng không được khóc!”. Nó biết những lời lảm nhảm đó không phải thần chú, nhưng nó cứ mấp máy môi như người mê sảng. Và kỳ lạ thay, Kăply mừng rỡ nhận thấy sự tỉnh táo dường như đang quay lại với nó. Nó thấy nó không còn xốn xang hay bứt rứt như lúc nãy nữa.

“Khóc đi, K’Brêt! Sẽ rất dễ chịu nếu trò òa ra khóc, K’Brêt à!”. Thầy Haifai vẫn tiếp tục rót vào tâm trí nó những lời đường mật nhưng lần này Kăply không để cho mình bị mê hoặc nữa. “Chẳng dễ chịu gì hết á”. Nó tự nhủ và mắt nó ráo hoảnh.

Cả lớp nín thở theo dõi cuộc kiểm tra trước mặt, kinh ngạc khi thấy Kăply có thể cầm cự được khá lâu trước thuật thôi miên của thầy Haifai.

Tụi nó háo hức chờ Kăply làm một trò hoạt kê gì đó để phá ra cười nhưng rốt cuộc chẳng thấy gì hết. Hai thầy trò vẫn đứng gườm gườm nhìn nhau, nín thinh và bất động, lâu thật lâu, bất phân thắng bại.

Ngay cả Nguyên cũng há hốc miệng. Nó không tin cục gạch trên cổ Kăply có thể thông thái hơn bọn Amara, Y Đê và Hailibato. Trước sau, Nguyên dứt cả thảy là tám sợi tóc, vẫn không biết thằng bạn mình làm cách nào để thực hành câu thần chú phức tạp kia ngon lành như vậy.

Thầy Haifai cũng sửng sốt không kém. Nhưng rồi thầy chợt hiểu thầy không thể khuất phục được đứa học trò đang đứng trước mặt. Thầy nhắm mắt lại và thở phì một tiếng, giống như tuyên bố đầu hàng:

- Giỏi lắm, K’Brêt! Trò về chỗ đi!

Như được giải thoát, Kăply vội vàng chạy về chỗ, sung sướng hứng lấy hàng tràng tiếng vỗ tay phấn khích và ngưỡng mộ của tụi bạn đang dộng ầm ầm vô tai nó.

Nhưng niềm vui vừa chớm trong lòng Kăply lập tức bị thầy Haifai tạt ngay một thùng nước lạnh. Trong đầu nó, tiếng thầy bất ngờ vang lên – lần này đúng là giọng thầy, lạnh lùng, gây gổ:

- Ta khen trò là để giữ thể diện cho trò thôi, chớ thiệt ra trò học ngu như heo, K’Brêt à. Sở dĩ trò không bị thuật thôi miên của ta tác động chẳng qua là nhờ trò ăn được quả táo vàng trên núi Lưng Chừng chớ còn câu thần chú Rèm cửa sổ, ta biết trò hổng nhớ cái con khỉ gì hết á!

Chương 14: AI VUI TA SẼ VUI CÙNG

Sáng hôm sau, chủ nhật, bọn trẻ lâu đài K’Rahlan được nghỉ học. Nhưng khác với thông lệ, bữa đó tụi nó buộc phải trải qua những khoảnh khắc mà theo cách nói quạu quọ của thằng K’Tub là ngấy tận cổ. Trong bữa ăn tối hôm trước, bà Êmô đã tuyên bố thẳng là ngày mai không đứa nào được bước chân ra khỏi nhà. Balikem và Buriăk trong mắt bà đích thị là hai con chồn, và bọn trẻ chẳng qua là những chú gà con ngốc nghếch, ngay cả khi hai chú gà trong bầy có là những chiến binh giữ đền đi chăng nữa.

- Các con phải nghe lời ta!

Bà Êmô kết thúc buổi giáo huấn, và lời nói cuối cùng vừa rời khỏi đôi môi bà lập tức gây nên một cơn bão bất bình nhưng trước khi bọn trẻ phản đối, ông K’Tul đã kịp gầm gừ từ đằng sau tô canh:

- Ta thấy cách ít ngu nhất là tụi con nên nghe lời dì Êmô.

Gần đây ông K’Tul và bà Êmô rất ít khi đứng về một phe nhưng một khi ý chí của họ đã nhập lại thành một thì bọn trẻ luôn bắt gặp cảm giác mình đang đối diện với một bức tường. Tụi nó đành xả ấm ức lên các loại chén dĩa trước mặt bằng cách tống hết vào họng những thức gì chứa trong đó. Thằng K’Tub còn tìm cách quẹt lung tung chiếc muỗng vào bất cứ thứ gì có thể phát ra những tiếng leng keng như muốn thông báo cho mọi người biết sự bất mãn của mình, bất chấp ba nó đang giương mắt ra trừng trừng nhìn nó.

Nhưng dù tối hôm qua K’Tub có làm ầm ĩ gấp mười lần hơn thì sáng nay tụi nó vẫn phải loanh quanh trong phòng, đại khái là không dám làm bất cứ một hành động gì cho thấy tụi nó là những đứa trẻ khó bảo.

Kăply bước ra khỏi phòng tắm, đứng chải tóc trước gương, miệng cười khì khì:

- Hổng biết thằng nhóc K’Tub tối hôm qua có ngủ được không há?

- Chắc là không. – Nguyên nói, vừa nhìn thằng Kăply phản chiếu trong gương – Không hiểu sao thằng nhóc đó lúc nào cũng giống như một quả mìn sắp nổ.

Kăply nhún vai:

- Tại sáng nay nó định rủ cả bọn đi chơi ở công viên Các Thứ Kẹo mà.

Nhớ đến chuyện này, mặt Kăply chợt xìu xuống:

- Tao cũng đang muốn quay trở lại đó để xem có thứ kẹo gì mới…

- Kăply… ly… ly… y… y…

Nguyên đột ngột hét lên, nghe rất giống tiếng còi xe lửa khi chuẩn bị chui ra khỏi đường hầm. Kăply giật bắn người, chiếc lược trên tay rơi bộp xuống sàn nhà.

- Chuyện… gì… vậy? – Kăply quay hẳn người ra sau, kinh ngạc lắp bắp.

Nhưng Nguyên không nhìn Kăply. Cặp mắt nó lúc này đang ngó chằm chằm tấm gương trên vách, mặt đờ ra, miệng lẩm bẩm như người mộng du:

- Tao hiểu rồi… tao hiểu rồi…

Kăply nhìn thằng bạn đại ca của mình, dè dặt như nhìn một con cá mắc cạn, sợ hãi thấy thằng này giống như đang ngáp ngáp. Nó sè sẹ giơ bàn tay lên trước mặt Nguyên huơ qua huơ lại, lo lắng hỏi:

- Mày thấy gì đây không?

- Bỏ tay xuống đi, Kăply. – Nguyên hừ mũi, mắt vẫn bám cứng tấm gương như thể nó bị tấm gương bắt mất hồn – Tao không điên, mặc dù tao đang rất muốn hóa điên đây.

Trước vẻ mặt ngơ ngác của Kăply, Nguyên đấm hai tay vào nhau, có vẻ muốn hét lên lần nữa nhưng cố nén nên giọng nó nghe như rặn từng tiếng:

- Mày nhớ hai câu thơ của ông K’Tul không?

- Nhớ. – Kăply thận trọng đáp, không hiểu sao tự dưng Nguyên lại nhắc đến chuyện này. Nó lẩm nhẩm vừa đủ nghe, mắt không ngừng dò xét bạn mình – “Ai vui ta sẽ vui cùng. Ai buồn ta sẽ buồn chung với người”, đúng không?

- Hoàn toàn chính xác. – Nguyên gật đầu – Thế mày có biết chữ “ai” trong câu thơ ám chỉ điều gì không?

- Mày cũng biết là tao không biết mà. – Kăply nhăn nhó, rồi ngay lập tức nó thấy cần phải chia đều cái sự kém cỏi đó cho mọi người – Mà cũng chẳng có ai trên đời này biết hết á.

- Tao biết. – Nguyên nghiêm nghị – Chữ “ai” là chỉ tấm gương.

- Tấm gương? – Kăply đưa tay véo môi, giọng ngờ vực – Làm sao lại là tấm gương được.

Kăply lại quay nhìn vô gương. Nó ngẩn ngơ ngắm khuôn mặt của nó một lúc, bỏ tay xuống, nặn ra một nụ cười ngây ngô, rồi tiếp tục quan sát nụ cười của mình với vẻ dò xét. Thình lình, nó ợ ra một tiếng, người bắn lên như nút chai sâm banh.

- A, đúng là tấm gương. – Kăply reo ầm – Khi mình vui thì nó vui, mình buồn nó cũng buồn theo. Ha… ha… ha…

Một bàn tay đột ngột bụm chặt lấy miệng Kăply, và tiếng Nguyên giận dữ rít lên bên tai:

- Đồ ngu! Bộ mày muốn ông K’Tul và bà Êmô nghe thấy hả?

Hai đứa hồi hộp liếc mắt ra ngoài cửa, im lặng một lúc. Nhưng sau một hồi nghe ngóng, tụi nó chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng dộng binh binh trong ngực.

- Tụi mình xem xét tấm gương đi! – Nguyên thì thầm nói và nhích tới một bước, sờ tay lên tấm gương.

Tấm gương đồng hình bầu dục ốp chặt vào vách phòng tắm, ngay bên trên chiếc bàn nhỏ để ấm chén và sách vở. Một đường viền chạm trổ vô số hình ngựa ở mọi tư thế chạy quanh tấm gương.

Suốt một lúc lâu, Nguyên mân mê các phù điêu bằng cả tay lẫn mắt, và trông vẻ mặt thất vọng của nó có thể biết là nó vẫn chưa khám phá được điều gì khác lạ.

- Hay bí mật nằm ở mặt sau tấm gương? – Kăply nhìn vẻ trầm ngâm của bạn, rụt rè lên tiếng, nó chợt nhớ đến tiệm Những Dấu Hỏi.

Nguyên đáp lời bạn bằng cách chĩa tay vô tấm gương, lầm rầm niệm chú. Tấm gương rời khỏi bức vách gần như ngay lập tức, và Kăply chực chờ sẵn nhanh tay đỡ lấy.

Nhưng mặt sau tấm gương phẳng lì, không có một dấu hiệu gì cho thấy đó là thứ tụi nó đang tìm kiếm.

Sau khi nhớ ra đủ loại thần chú và niệm đến sái quai hàm mà vẫn không đạt được kết quả gì, Nguyên và Kăply đưa mắt nhìn nhau và hai đôi môi mấp máy gần như cùng lúc:

- Kêu thằng Suku.

Khổ nỗi, muốn kêu thằng Suku thì phải nhờ tới cái ống Siêu cảm ứng của K’Tub.

Nguyên dứt mạnh một sợi tóc:

- Làm sao bây giờ? Hổng lẽ nói cho K’Tub biết vụ này? K’Tub biết thì Êmê cũng biết.

Kăply tặc lưỡi và thốt ra một câu theo nó là tốt nhất trong lúc này:

- Ờ há.

- “Ờ há” không phải là một ý kiến. – Nguyên nổi khùng.

Trán Kăply nhăn tít, nó đang cố tưởng tượng đầu mình không phải là một cục gạch:

- Theo tao…

Nguyên không nói gì, chỉ giương mắt ra nhìn bạn. Bắt gặp vẻ chờ đợi của Nguyên, Kăply biết mình không thể không nói một câu gì đó:

- Theo tao,… có lẽ tụi mình không thể giấu tụi nó chuyện này mãi được…

- Tại sao? – Nguyên hỏi lại, cụt lủn, mắt vẫn nhìn chòng chọc vào mặt Kăply.

Kăply đã rất muốn quay mặt đi nhưng một khúc cây đã nằm ngay ở chỗ đáng lẽ là cái cổ của nó. Nó đành phải nhìn trả lại Nguyên và liếm đôi môi khô rang, ấp úng:

- Vì tụi nó lúc nào cũng ở bên cạnh mình. Hơn nữa… hơn nữa…

- Sao?

- Hơn nữa… K’Tub và Êmê là những bạn tốt của mình. – Phải hết sức vất vả, Kăply mới có thể nói hết ý nghĩ trong đầu, bụng thấp thỏm sợ thằng Nguyên nổi cáu.

Và nó mừng rơn khi thấy Nguyên gật đầu:

- Tao cũng nghĩ vậy.

Nguyên nheo mắt nói thêm:

- Cục gạch phải ghen tị với mày rồi đó, Kăply.

Lâu lắm, Kăply mới lại được nghe Nguyên khen mình. Nó toét miệng cười hì hì, mặt nở ra. Nhưng rồi nó lập tức thu ngay nụ cười lại.

Nguyên đã kịp lấy vẻ nghiêm nghị:

- Nhưng tụi mình chỉ cho K’Tub và Êmê biết về sứ mạng của tụi mình thôi. Những gì liên quan đến ông K’Tul và bà Êmô, phải tuyệt đối giấu nhẹm, nhớ chưa?

oOo

Nguyên, Kăply, K’Tub, Êmê, Păng Ting và Suku, tất cả là sáu đứa ngồi quanh tấm gương vừa gỡ xuống trên vách phòng thằng K’Tub, chụm đầu nghiêng ngó, nhìn mặt cũng biết là tụi nó không tin sẽ phát hiện được điều gì đáng giá.

Khi nãy cả bọn gần như vật nhau với tấm gương trong phòng Êmê và kết quả là tụi nó chẳng tìm thấy gì hết. Lần này cũng vậy, thần chú Nổi lên hoàn toàn vô tác dụng: tấm gương trước mặt bọn trẻ cứ trơ ra như trêu ngươi.

- Hay chữ “ai” trong câu thơ của người khách đó không phải chỉ tấm gương? – K’Tub đưa mắt nhìn Nguyên, ngờ vực hỏi, không hề biết đó là câu đố trị giá 200.000 năpken của ba nó.

- Chính là tấm gương, K’Tub. – Suku đong đưa đôi mắt sáng, hắng giọng – Cách giải thích của anh K’Brăk theo tao là hoàn toàn hợp lý.

Nguyên nhìn Êmê:

- Trong lâu đài K’Rahlan còn chiếc gương nào nữa không, Êmê?

- Còn bốn chiếc nữa, anh K’Brăk. – Êmê quay chiếc mũi hếch về phía Nguyên, nhanh nhẩu đáp, trông cái cách nó lúc lắc mái tóc vàng một cách duyên dáng, có thể thấy nó rất sung sướng khi được Nguyên hỏi tới – Một chiếc trong phòng Đam Pao, một chiếc trong phòng Chơleng, một chiếc trong phòng cậu K’Tul và một chiếc trong phòng mẹ em.

K’Tub láu táu:

- Mình kéo xuống phòng Đam Pao và Chơleng đi!

- Không được, K’Tub. – Êmê trừng mắt nhìn thằng oắt – Anh K’Brăk đã nói rồi. Đây là nhiệm vụ bí mật của chiến binh giữ đền, không nên để bất kỳ một ai hay biết.

- Đúng đó, Êmê. – Nguyên nhìn Êmê bằng ánh mắt tán thưởng khiến trái tim cô nàng như tan ra – Chúng ta phải hành động hết sức kín đáo và thận trọng.

Bọn trẻ lại chụm đầu bàn bạc. Sau một hồi tranh cãi, cả bọn đồng ý rằng cách tốt nhất là Nguyên và K’Tub đem hai tấm gương trong phòng mình gạ đổi hai tấm gương của Đam Pao và Chơleng, dĩ nhiên để sự đổi chác này diễn ra thuận lợi và trông có vẻ tự nhiên tụi nó phải tìm cách gieo vào đầu hai đứa đầu bếp cái ý nghĩ rằng không có gì đáng chán cho bằng cứ phải xài hoài một tấm gương ngày này qua ngày khác. Còn tấm gương của Êmê, vốn giống y hệt tấm gương trong phòng mẹ nó thì nhân lúc bà Êmô xuống vườn ăn trưa, Êmê sẽ nấn ná trên này để chui vào phòng bà đánh tráo hai tấm gương với nhau.

Việc thương lượng với Đam Pao và Chơleng sau đó nói chung là diễn tiến suôn sẻ và trót lọt, hai đứa nhóc này thậm chí cũng chẳng buồn thắc mắc Nguyên và K’Tub mắc chứng gì mà khoái ba cái trò đổi chác vớ vẩn này, vì tấm gương suy cho cùng cũng chỉ là một tấm gương, chẳng khác nhau gì mấy vì vậy cuộc trao đổi này thiệt tình hổng có chút xíu ý nghĩa nào hết.

Chỉ có việc đánh tráo chiếc gương trong phòng bà Êmô là hơi trục trặc chút xíu. Giờ ăn trưa, bọn Kăply cứ đinh ninh Êmê chỉ xuống trễ chừng năm, mười phút là cùng (chuyện tráo hai chiếc gương xét cho cùng hổng đáng gọi là phức tạp), hổng ngờ cả nhà ngồi đợi gần nửa tiếng đồng hồ vẫn chẳng thấy tăm hơi nó đâu.

Thấy bà Êmô cứ chà tay lên vạt áo với vẻ sốt ruột, K’Tub chột dạ lên tiếng:

- Ăn đi, dì ơi! Chắc chị Êmê đang soạn tập vở cho ngày mai.

- Soạn tập vở á? – Bà Êmô nhìn K’Tub bằng ánh mắt như thể nó vừa va đầu vào gốc cây – Êmê còn cả một buổi chiều và một buổi tối dài dằng dặc nữa mà bây giờ đã soạn tập vở á?

K’Tub biết ngay mình bị hố. Nó nói, nhắm mắt lại để bà Êmô không thấy ánh mắt láo liên gian xảo của nó:

- Chị Êmê dạo này siêng học lắm, dì.

- Dì Êmô, dì lên xem con bé đang làm gì ở trển. – Ông K’Tul thò đầu ra khỏi tờ Tin nhanh N, S & D, giọng không giấu vẻ nghi hoặc. Trông ông như người lính thò đầu ra khỏi đài quan sát, liên tưởng đó làm Nguyên muốn ngừng thở.

- Để con đi cho!

K’Tub lật đật vọt miệng và nhanh nhẹn bật lên khỏi chỗ trước khi bà Êmô kịp đáp lời ba nó.

- Ngồi xuống, K’Tub! – Ông K’Tul quát lên, gườm gườm nhìn thằng con – Ta đâu có bảo con!

Trong khi thằng K’Tub chết sững trên đôi chân, Kăply đưa đôi mắt lo lắng nhìn Nguyên và cố tằng hắng một tiếng thật to, hy vọng làm vậy thì mình sẽ bớt sốc.

- Tờ báo của Ama Đliê bữa nay có tin gì mới không hở bố? – Nguyên cố lái ông K’Tul ra khỏi mối bận tâm về sự vắng mặt của Êmê, phải nói là chưa bao giờ nó hỏi về tờ Tin nhanh N, S & D bằng vẻ sốt sắng đến thế.

- Tin mới à? Có đấy! – Ánh mắt lấp lánh của ông K’Tul quét qua mặt Nguyên nóng bỏng. Ông nhếch mép, nói tiếp, khoái trá vì không bị mắc bẫy – Đợi dì con kêu Êmê xuống đây, ta sẽ nói luôn thể.

Nguyên rất muốn nhắm mắt lại để không nhìn thấy bà Êmô hấp tấp rời khỏi bàn ăn và bước về phía cầu thang xoắn. Nó không hiểu Êmê làm cái quái gì mà giờ này chưa xuống tới, bụng nó khẽ run lên khi hình dung ra cảnh bà Êmô bắt gặp Êmê đang lén lút trong phòng mình với tấm gương đáng ngờ trên tay.

Trái tim Nguyên, cả Kăply và K’Tub nữa, đang rơi xuống chỗ nào đó và có vẻ chuẩn bị rơi xuống nữa thì mái tóc vàng của Êmê bỗng ló ra chỗ đầu cầu thang.

Bà Êmô ngó lên, Êmê ngó xuống, hai chiếc mũi hếch chĩa vào nhau khiến Kăply nhớ đến cảnh trong phim Bắn chậm thì chết mà nó đã từng xem.

- Mẹ. – Êmê kêu lên, ngạc nhiên.

Bà Êmô mở to mắt:

- Con làm gì trên đó thế?

- Áo con bị dây nước. – Êmê nói dối, giọng thật như đếm – Con phải đợi cho khô.

Ở đằng bàn, ba cái miệng cùng sè sẹ thở ra. Còn cái miệng thứ tư bắt đầu khạc đạn:

- Nghe nè! Tin sốt dẻo đây! Theo như phóng viên Pôlôna cho biết thì hiện nay Cục an ninh vẫn chưa từ bỏ kế hoạch giám sát trường Đămri…

K’Tub ngao ngán nhìn ba nó:

- Lại chuyện cũ mèm đó! Chắc Cục an ninh lúc này hổng có việc gì làm hả ba?

Nguyên vội lên tiếng trước khi ông K’Tul kịp nổi điên lên với thằng con:

- Tên “mông tặc” bị bắt rồi mà, bố.

- Nhưng mối nguy hiểm vẫn còn tiềm ẩn ở chỗ lão N’Trang Long. – Mắt ông K’Tul lóe lên, hàng ria mép trên mặt ông rung rung như thể chính nó cũng cảm thấy nguy hiểm khi nghe nói tới cái tên này – Ta không hiểu tại sao Bộ giáo dục vẫn tiếp tục giữ lão trên chiếc ghế hiệu trưởng trong khi lão hết gây ra vụ rắc rối này lại dính đến vụ bê bối khác.

Mặt K’Tub sụp xuống, tối sầm như đột ngột phủ mây đen. Nhưng nó chưa kịp làm om sòm, Nguyên đã giật tay áo nó, hạ giọng vo ve:

- Ăn lẹ đi rồi lên nghiên cứu mấy tấm gương.

Suku và Păng Ting quay trở lại lâu đài K’Rahlan đúng vào lúc bọn Kăply đang xúm xít quanh ba tấm gương vừa đổi được.

- Gương mới hả, anh K’Brăk?

Suku hỏi, mặt tươi hơn hớn. Nhưng Nguyên đã nhanh chóng thổi tắt nụ cười trên môi nó:

- Gương mới. Nhưng vẫn vậy, Suku à. Chẳng tìm thấy gì hết.

Nguyên đáp giọng xuôi xị, vẫn đang săm soi mò mẫm mặt sau tấm gương vừa lấy được trong phòng bà Êmô. Nó đã dò xét tới tấm gương thứ ba rồi. Chen chúc chung quanh, bọn Êmê, Kăply, K’Tub hồi hộp cắm mắt vào hai bàn tay Nguyên, thất vọng khi không phát hiện ra điều gì để có thể nghĩ đó là một dấu hiệu đặc biệt.

- Còn một tấm gương nữa trong phòng ba em. – K’Tub buột miệng, nghe giọng điệu thì có vẻ như thằng oắt tin rằng nếu đáp án của câu thơ ám chỉ một tấm gương nào đó thì dứt khoát đó phải là tấm gương trong phòng ba nó.

Như một phản xạ, Nguyên quay nhìn Êmê, hoàn toàn không chủ ý.

Lần đầu tiên trong đời, Êmê lẩn tránh ánh mắt của Nguyên. Nó thở một hơi dài, và khẽ thốt lên bằng cái giọng của kẻ thấy cuộc đời chỉ toàn là phiền não:

- Anh K’Brăk. Không ai trên đời này có thể đặt được chân vào bí thất của cậu K’Tul.

Nguyên và Suku nắm tay nhau, nhón chân rón rén bước lên từng bậc thang. Lúc này hai đứa đang mặc áo tàng hình nhưng không vì vậy mà trái tim trong lồng ngực tụi nó không dộng binh binh, thứ âm thanh phỏng theo nhịp chày giã gạo. Phía cuối hành lang, khung cảnh tối nhờ nhờ. Cố đừng để răng va vào nhau, hai đứa mò mẫm nhích từng bước, ngực tức như chèn đá.

Sáng nay, Êmê và K’Tub đến trường trong khi Nguyên và Kăply được ở nhà vì không có giờ Thần chú chiến đấu của thầy Haifai. Vì vậy chiều hôm qua, Nguyên đã bí mật hẹn Suku sáng nay quay lại lâu đài để cùng Kăply và nó tìm cách lọt vào bí thất của pháp sư K’Tul. Nhưng đến phút chót, Nguyên quyết định chỉ có nó và Suku đi do thám đề phòng trường hợp ông K’Tul hoặc bà Êmô bất ngờ xộc vào phòng. Nếu không thấy đứa nào trong phòng, chắc chắn họ sẽ sinh nghi, mà một viễn ảnh như thế chắc chắn chẳng hứa hẹn một điều gì tốt đẹp.

Nguyên và Suku lặng lẽ đi bên nhau, không ai nhìn thấy ai, đứa này chỉ cảm nhận được đứa kia qua bàn tay đang run rẩy trong tay mình, mà thiệt tình thì hổng đứa nào biết là tay đứa nào đang run.

Nguyên đã từng lên tầng lầu này một lần. Lần này cảm giác của nó cũng không khác mấy so với trước đây: nó bắt gặp trong đầu mình cái ý nghĩ nó đang lạc vào một thế giới âm u, hoang lạnh và trùng trùng hiểm nguy, cái thế giới mà mỗi cử động của nó đều bị những cặp mắt trong bóng tối dòm ngó. Nguyên biết đó chỉ là ảo giác, nhưng tâm trí nó vẫn bị sự lo âu xâm chiếm mãnh liệt đến mức có lúc nó thấy đôi chân nó bỗng nhiên nặng như đeo chì, nhất là khi nó nhìn lên các ô cửa thông gió nằm dọc đầu tường, những ô cửa đen ngòm như giấu đằng sau nó bao nhiêu là cạm bẫy.

Trong nỗi sợ choáng ngợp, Nguyên vẫn nhận ra kho chứa đồ qua cánh cửa xỉn màu bên tay phải. Nó giật tay Suku, định chỉ cho thằng này căn phòng hôm trước nó và Kăply lẻn vào và tình cờ chứng kiến cuộc đối thoại giữa ông K’Tul và bà Êmô.

Nhưng Nguyên chưa kịp lên tiếng, nó đã giật bắn người khi những tiếng lộc cộc bất thần vang lên từ phía sau lưng. Âm thanh đó cho biết ông K’Tul đang kéo lê đôi guốc gỗ của mình trên nền đá hoa cương. Trong một thoáng, Nguyên cảm thấy ruột gan mình lạnh ngắt như đột ngột nhúng trong nước đá, nếu không nhớ ra mình đang mặc áo tàng hình, một đứa bạo dạn như nó rất có thể cũng khuỵu chân xuống lắm.

Suku phản ứng cực nhanh. Nó hấp tấp kéo tay Nguyên dạt về bên trái, hai đứa gần như nép mình sát tường, và chắc chắn là hoàn toàn ngừng thở. Cho đến lúc đó, Nguyên vẫn không dám quay đầu lại. Khi ông K’Tul đi ngang qua bên cạnh, Nguyên mới dám liếc thân hình cao lêu nghêu của ông qua khóe mắt, rùng mình thấy bộ đồ trắng ông mặc in lên vách đá đen không khác gì một bóng ma vất vưởng.

Trước ánh mắt hồi hộp của hai đứa trẻ, ông K’Tul dừng lại trước kho chứa đồ, đưa tay đẩy cánh cửa khép hờ và nhanh chóng biến mất vào bên trong.

Nguyên và Suku đứng lặng người đến một lúc, như nhường cho thời gian trôi qua. Rồi Suku khẽ thì thầm:

- Vào theo không, anh K’Brăk?

Nguyên không đáp nhưng nó trả lời thằng oắt bằng cách kéo tay thằng này, hai đứa đi trên những đầu ngón chân tiến về phía cánh cửa lúc này vẫn còn mở hé.

Cả hai nín thở ghé mắt qua khe hở, nhớn nhác nhìn quanh, không thấy ông K’Tul đâu hết. Có thể ông đã đi sâu vào bên trong, khuất đâu đó sau dãy tủ kệ hoặc sau những con ngựa bằng đồng to như ngựa thật kê nhan nhản khắp nơi. Nguyên nghĩ thầm, thận trọng tì vai vào cánh cửa, và bằng cách đó nó đẩy cánh cửa nhích từng chút một, cố không tưởng tượng đến cảnh ông K’Tul đang đứng ngay sau cửa với cây gậy to đùng trên tay.

“Ổng không nấp sau cánh cửa”, Nguyên thở phào khi lọt vào bên trong trót lọt, vô cùng sung sướng khi không bị một vật nhọn nào đánh vào đầu.

Vẫn không buông tay Suku, Nguyên đứng yên một lát rồi rụt rè lần vào bên trong, tim đập rộn, vừa láo liên mắt xem ông K’Tul ở đâu vừa cố không chạm vào vô số đồ đạc quái đản lỉnh kỉnh trong phòng.



Ông K’Tul đang kéo lê đôi guốc gỗ của mình.

Nhưng ông K’Tul giống như tan vào không khí, khi đi gần giáp vòng, hai đứa vẫn không thấy ông ta đâu. Hay ổng cũng đang tàng hình như mình? Ý nghĩ đó vừa lóe lên trong óc, Nguyên đã nghe lạnh toát sống lưng. Suýt chút nữa nó đã để rơi người xuống đất nếu ngay lúc đó, mắt nó không bắt gặp một cái gì giống như một đường hầm nằm khuất sau một con ngựa đồng to lớn đứng chắn ở góc phòng như một bức bình phong.

Nguyên bóp khẽ tay Suku và lập tức thấy Suku cũng bóp khẽ tay nó, cử chỉ cho biết thằng oắt cũng đã phát hiện ra cái mà nó vừa nhìn thấy.

Chắc chắn ông K’Tul đã vào trong này! Nguyên nhủ bụng, phân vân một lát rồi quyết định tiến vào. Bụng giật thon thót nhưng nó vững tin vào chiếc áo tàng hình trên người, hơn nữa nó rất yên tâm về đôi guốc gỗ của ông K’Tul: những tiếng động lộc cộc là một cảnh báo hết sức quý giá đối với tụi nó.

Đường hầm rộng và ngắn, nếu không bít bùng thì đó chính là một cái hành lang. Nguyên và Suku đi một đoạn, thấy đột ngột mở ra trước mắt một căn phòng lớn nhưng đồ đạc bày biện rất đơn sơ. Chỉ trơ trọi một bộ bàn ghế cũ, sát tường là một chiếc giường nệm lông chim, giống như mọi chiếc giường khác trong lâu đài K’Rahlan. Trên trần phòng, một thứ trái cây giống như quả táo, đã được phù phép, tỏa ra thứ ánh sáng nhàn nhạt và yếu ớt, nhuộm vẻ âm u buồn tẻ lên tất cả mọi thứ trong phòng. Bí thất của pháp sư K’Tul đây sao? Nguyên đảo mắt nhìn quanh, vô cùng thất vọng khi không thấy một tấm gương nào trong phòng, cũng không thấy hai chiếc ghế ngựa vằn đâu.

Ông K’Tul lúc này đang đứng ở cuối phòng, quay lưng lại phía bọn trẻ, trầm ngâm chống tay lên tường, vẻ như đang nghĩ ngợi điều gì đó. Nhưng chăm chú một lát, Nguyên chợt biết là không phải và lòng nó lại bùng lên hy vọng. Trước mặt ông K’Tul là một cánh cửa sơn đen, thoạt đầu nó không nhận ra vì cánh cửa bị thân hình lỏng khỏng của ông che khuất.

Nguyên chớp mắt hai, ba cái để nhìn cho rõ. Bây giờ thì nó nhận ra không phải ông K’Tul chống tay lên tường, mà ông đang áp tay lên cánh cửa. Còn ông áp tay lên đó làm gì thì bọn trẻ đã tức khắc nhận được lời giải đáp: Một tiếng “kịch” khẽ vang lên và cánh cửa chạy qua một bên, êm ru như trên một cái thanh trượt, rất giống với cách di động của chiếc tủ quái dị trong phòng thầy N’Trang Long.

Mọi chuyện tiếp theo diễn ra rất nhanh. Nguyên và Suku vừa chớp mắt một cái đã thấy cánh cửa chạy về vị trí cũ còn ông K’Tul thì không thấy đâu, cứ như thể ông vừa bị bức tường nuốt chửng.

Suku rất muốn bước lại chỗ cánh cửa để xem xét nhưng Nguyên đã giật tay nó. Như hai chiếc bóng câm nín, hai đứa lặng lẽ và thận trọng lùi dần ra khỏi phòng, xuyên qua đường hầm để trở ra kho chứa đồ.

Chưa bao giờ Nguyên và Suku hành động nhanh nhẹn đến thế: chỉ không tới năm phút, tụi nó đã ở ngoài hành lang. Mồ hôi ướt tóc, người nóng hầm hập nhưng không đứa nào dám cởi áo tàng hình ra cầm tay. Thiệt tình mà nói thì cho đến lúc này sự bình tĩnh vẫn chưa quay về với tụi nó.

Cũng như lúc đi lên, hai đứa nhón chân sè sẹ lần về phía cuối hành lang rồi rón rén lần mò từng bậc cầu thang tối tăm để đi trở xuống, trong đầu không nghĩ đến điều gì khác hơn là làm sao về đến phòng trước khi nghe tiếng guốc lịch kịch của ông K’Tul vang lên.

Kăply ngồi nhấp nhổm bên mép giường, hoảng hồn bật dậy khi thấy Nguyên và Suku thò đầu ra khỏi áo tàng hình và toét miệng cười với nó.

- Cởi luôn ra đi. – Kăply làu bàu – Ngó ghê quá!

Nó nheo mắt nhìn Nguyên:

- Đã lọt được vào bí thất của cậu K’Tul chưa?

- Chưa. – Nguyên đáp, vừa loay hoay xếp chiếc áo màu cánh gián trên tay – Nhưng tao và Suku đã biết bí thất của cậu K’Tul nằm ở đâu rồi.

- Ở đâu?

- Ngay trong kho chứa đồ.

Mặt Kăply xám đi, có thể thấy nó vẫn chưa hết sợ khi nghĩ đến tình cảnh hôm nọ trong nhà kho. Nó hỏi lại, môi run run:

- Chỗ hôm trước tao và mày…

- Đúng rồi. – Nguyên thản nhiên đáp, trông mặt thì cứ như thể vừa rồi bụng nó chưa hề thắt lại khi chui trở vô cái kho chứa đồ âm u đó – Khi nãy tụi tao phát hiện trong nhà kho có một hành lang dẫn đến bí thất.

- Sao tụi mày không vào? – Kăply liếm đôi môi tự nhiên khô rang.

- Cậu K’Tul đang ở trỏng.

Suku vọt miệng đáp, rồi nó hồi hộp thuật lại cho Kăply những gì vừa xảy ra ở tầng lầu trên. Kăply nghệt mặt ra nghe, tay này xoắn lấy tay kia, cảm thấy mừng là nó đã không có mặt ở đó.

- Thứ sáu này, tụi mình sẽ quay lại chỗ đó. – Suku kết thúc cuộc tường thuật bằng một câu nói giống như hò hẹn, nghe phấn khởi hết sức.

Mặt Kăply một lần nữa trông giống như vừa chui ra từ một đống tro. Nó ngẩn ngơ:

- Tụi mình á?

- Ừ, tụi mình. – Suku hồn nhiên, tiếp tục phơi ra bộ mặt phấn khích – Hôm đó em, anh K’Brăk và anh cùng đi.

- Yên tâm đi, K’Brêt. Thứ sáu cậu K’Tul lê la suốt ngày ngoài cửa tiệm của lão Luclac, sợ gì chứ!

Nguyên đập tay lên vai Kăply, hắng giọng trấn an, tin rằng nếu mình không lên tiếng chắc thằng này không ngại gì mà không tè bậy ra quần.

Nguồn: diendan.game.go.vn